Thánh nhân nam diện Tả văn Hữu võ
Tả-phụ là dương thổ Bắc đẩu tinh
Hữu-bật thuộc âm thổ Nam đẩu tinh.
- Đối với đẩu-số hai sao này rất cần thiết ví như 2 hàng văn võ của một ông vua.
- Tả-phụ thuộc hàng văn, bàn tính mưu cơ chiến thuật, nên chữ Hán viết chữ phụ có chữ xa (là xe) tức là ngồi cùng một xe với ông vua để giúp về kế hoạch, ông vua cũng chỉ có thể ở chung với quan văn mà thôi,nên sao Tả-phụ đồng cung với Tử-vi là tốt.
- Sao Tả-phụ đồng cung với Thiên-phủ ở Tuất, là tả-phủ-cách, thượng cách vì Thiên phủ miếu ở Tuất mà Tả-phụ cũng miếu ở Tuất.
- Sao Hữu-bật thuộc hàng võ quan, nên chữ Hán viết chữ bật có bộ cung, tức là cung tên (một thứ võ khí). Đã là võ tất phải đi bên ngoài mà đánh đông dẹp bắc, không nên ở cung một cung (ví như 1 nhà) với ông vua được, vì hàng võ bao giờ tính nết cũng cương cường, có thể đoạt ngôi giết chúa, thường lộn xộn không thâm trầm như các quan văn.
Khi thiết triều thì văn tả, võ hữu, khi hành sự thì văn nội võ ngoại, trái đi là không hợp cách.
Luận đoán tinh đẩu cần xét xem Phụ Bật có cư đúng vị trí không.
Xét xem Tả Hữu có hợp phương vị không, nếu trái lại là không hợp sẽ gặp rất nhiều sự xáo trộn trong cuộc sống. Trịnh Công Sơn mệnh ôm Tả Hữu, chung thân bôn tẩu, đến cuối đời vẫn hát mãi bài ca Một cõi đi về.
"Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về
(Tả Hữu tòng cát phù, Tả Hữu tòng hung diệt)
nên xem ngay trong cung có sao cát tinh miếu vượng, hay ác sát không vong mà phân định hung cát của Tả Hữu. Thí dụ như trong cung có sao Địa-kiếp Thiên không hãm thì sao Tả Hữu sẽ nhập đảng ngay với bọn hung tinh này, mà tác hại khủng khiếp ngay, ví như Địa-kiếp là tương cướp lại thêm hai ông tướng Tả Hữu nhập bọn nữa, thì ảnh hưởng tai hại hung hãn thật trở tay không kịp, là cách tống hung diệt.