Cố vấn Ngô Đình Nhu mệnh Liêm Tướng ngộ triệt!
Đã gửi: 16:38, 30/04/14
Nhân dịp lễ kỹ niệm 30/4 ngày đất nước hoàn toàn giải phóng..chúng ta cùng bàn về ls của Cố Vấn Ngô Đình Nhu:

1/ Liêm tướng ngộ triệt có liên quan gì đến việc bị ám sát vào 2/11/1963 không?
2/ Thân cư tài gặp tuần..nhưng tiền bạc không bao giờ thiếu?
3/ Phụ mẩu gặp triệt nhưng cha mẹ rất danh giá?
...........
V..vv

Trích Wikpedia tiếng việt
Ngô Đình Nhu (chữ Hán: 吳廷柔; 1910-1963) là một nhà lưu trữ và một chính trị gia Việt Nam. Ông nổi tiếng với danh nghĩa là cố vấn chính trị cho anh mình là Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm; tuy nhiên, hầu hết các tài liệu lịch sử đều nhận định ông là kiến trúc sư của mọi chủ trương chính sách của nền Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam.[1] Ông còn được đánh giá là một nhà lưu trữ xuất sắc, từng làm việc tại Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương (từ năm 1938), từng giữ vai trò Chủ tọa Hội đồng Cứu nguy Châu bản và Cố vấn Kỹ thuật (1942-1944), Phó giám đốc Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương (1945), và Giám đốc Nha Lưu trữ Công văn và Thư viện toàn quốc (từ sau tháng 8 năm 1945).[2]
Giai đoạn trước năm 1945
Ông sinh ngày 7 tháng 10 năm 1910 (theo Tạp KHHB 5/10/1910) tại làng Phước Quả, tổng Cư Chánh, huyện Hương Thủy, phủ Thừa Thiên (nay thuộc phường Phước Vĩnh, thành phố Huế); quê quán ở làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Thân phụ ông là Ngô Đình Khả, Thượng thư Bộ Lễ dưới triều vua Thành Thái.[2] Chữ Nhu (柔) trong tên ông do thân phụ đặt với ý nghĩa "làm cho người nể phục".
Khác với hai người anh của mình là Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Diệm, vốn xuất thân Nho học và ra làm quan cho nhà Nguyễn, Ngô Đình Nhu lại theo Tây học. Năm 1938, ông tốt nghiệp ngành lưu trữ tài liệu cổ (archiviste paléographe) của Trường pháp điển quốc gia (École nationale des chartres) ở Paris, Pháp[3][4][5].
Năm 1938, ông về nước làm việc ở Văn khố Phủ toàn quyền Đông Dương (Hà Nội)[4]. Năm 1943, Ngô Đình Nhu chuyển sang làm giám đốc văn khố Tòa khâm sứ Huế. Về sau được văn phòng Nam triều mời giữ chức chủ tịch hội đồng chỉnh đốn châu bản và văn khố nhà Nguyễn [4]
Giai đoạn 1945-1954
Sau Cách mạng tháng Tám, Ngô Đình Nhu được Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cử làm Giám đốc Nha Lưu trữ công văn và Thư viện Quốc gia tại Hà Nội (Sắc lệnh số 21, ký ngày 8-9-1945 của Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp ký), nhưng khi quan hệ giữa Việt Minh và các đảng phái khác theo chủ nghĩa quốc gia xấu đi, hai người anh của ông là Ngô Đình Khôi bị Việt Minh thủ tiêu, Ngô Đình Diệm bị Việt Minh bắt giam còn ông cũng bị Việt Minh bắt giam sau đó được thả rồi lưu vong sang Lào.[cần dẫn nguồn]
Năm 1948, Ngô Đình Nhu về nước sống ẩn dật ở Đà Lạt và thỉnh thoảng xuống Sài Gòn móc nối thông tin.[6] Từ thập niên 1950, ông bắt đầu hoạt động chống Việt Minh bằng việc thành lập Liên đoàn Lao động Công giáo.
Ông là cha đẻ của Đảng Cần Lao, dựa vào thuyết Nhân Vị (personnalisme) đúc kết xu hướng của hai triết gia công giáo Emmanuel Mounier và Jacques Maritain.
Giai đoạn 1954-1963
Năm 1954, khi Ngô Đình Diệm lên cầm quyền, ông thành lập Đảng Cần lao Nhân vị, dựa vào một chủ thuyết do ông khởi xướng là học thuyết Cần lao - Nhân vị để hỗ trợ chính quyền của anh ông. Dưới sự giúp đỡ của người Mỹ, Đảng Cần lao Nhân vị phát triển lên nhanh chóng, thâm nhập vào hàng ngũ quân đội, công chức, trí thức và cả giới kinh doanh và trở thành chính đảng lớn nhất thời bấy giờ. Đồng thời, ông cũng cho thành lập một tổ chức có tên là "Thanh niên Cộng hòa", theo mô hình đảng sơ-mi nâu của Adolf Hitler, do ông làm Tổng thủ lãnh. Một tổ chức khác dành cho phụ nữ có tên là "Phụ nữ liên đới" cũng được thành lập và do vợ ông làm Tổng thủ lãnh. Ông là Chủ tịch Ủy ban Liên bộ đặc trách Ấp chiến lược, tổ chức thực hiện kế hoạch quốc phòng Ấp chiến lược từng gây khó khăn cho những người cộng sản miền Nam.
Về danh nghĩa, ông chỉ là một cố vấn chính trị, nhưng hầu hết các tài liệu đều ghi nhận ông là kiến trúc sư của chế độ, là người khởi xướng mọi chủ trương chính sách của nền Đệ nhất cộng hòa.[1] Ông cũng cho lập và trực tiếp khống chế nhiều cơ quan tình báo và mật vụ (lúc cao trào có tới 13 cơ quan) với những quyền lực to lớn như được quyền bắt giam người không cần xét xử.
Từ năm 1958, Ngô Đình Nhu bắt đầu tổ chức vận chuyển thuốc phiện từ Lào về Sài Gòn để tiêu thụ một phần tại đây, phần còn lại được vận chuyển sang Marseille, Pháp để có tiền duy trì hoạt động của các cơ quan tình báo và mật vụ dưới quyền ông.[7]
Tuy nhiên, do tính chất độc tài gia đình trị, cộng với những biện pháp tàn bạo đối với những người bất đồng chính kiến[cần dẫn nguồn] dẫn đến việc ông bị xem là có trách nhiệm cho sự sụp đổ của nền Đệ nhất cộng hòa. Đặc biệt là việc trấn áp Phật giáo trong biến cố Phật giáo, 1963 khiến chính phủ Việt Nam Cộng hòa mất uy tín và bị phân hóa. Ngày 1 tháng 11 năm 1963, các tướng lĩnh đã thực hiện cuộc đảo chính quân sự lật đổ tổng thống Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Nhu và người anh phải chạy trốn vào nhà thờ Cha Tam. Ngày 2 tháng 11 năm 1963, người ta thấy một đoàn xe quân sự đến đón hai anh em ông về Bộ Tổng tham mưu. Khi chiếc thiết giáp M 113 chở hai anh em ông về đến nơi thì phát hiện thi thể của hai anh em ông với nhiều vết dao và dấu đạn trên người.
Ông là người có công lao lưu giữ Mộc bản triều Nguyễn. Số mộc bản này hiện đang bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV - Đà Lạt, Lâm Đồng (xưa và nay vẫn là Biệt điện Trần Lệ Xuân [8] - Khu Di tích của TP. Đà Lạt).
Chúng ta cùng bàn xem;1/ Liêm tướng ngộ triệt có liên quan gì đến việc bị ám sát vào 2/11/1963 không?
2/ Thân cư tài gặp tuần..nhưng tiền bạc không bao giờ thiếu?
3/ Phụ mẩu gặp triệt nhưng cha mẹ rất danh giá?
...........
V..vv