Đoản luận tinh vị, ngũ hành, và khắc chế
Đã gửi: 09:25, 08/05/14
Bài viết này lấy cảm hứng và ví dụ từ các đoạn trích được phổ biến trên mạng của Đông A Di Sự. Do bản thân mình rất hứng thú với việc cử hiền triệt ác dựa theo tử vi nhưng lại không mang họ Trần, không được đọc Đông A Di Sự nên đành tự suy luận dựa vào những gì có sẵn để phát triển thêm về lý thuyết chế hóa theo Tử Vi. Trình độ có hạn, sách vở thiếu thốn, nên những suy luận trình bày dưới đây chỉ có tính chất tham khảo.
1. Chính tinh
Từ vị trí an sao ta có các mối liên hệ tương quan sau đây:
a. Lục hại: Nhật <-> Sát (hỏa khắc kim); Tử<->Cự (thổ khắc thủy)
b. Xung: Phá >< Tướng (đều là thủy), Phủ >< Sát (thủy sinh kim)
c. Nhị hợp: Lương-Liêm (hỏa sinh mộc); Vũ-Âm (kim sinh thủy); Nhật-Phủ (hỏa sinh thổ) ; Đồng-Tham (thủy-?)
Nhận xét:
- Người mệnh Thái Dương (sáng) có thể “trị” được người Thất Sát. Theo Tử Vi Đông A, người Thất Sát + Thiên Hình tính cô độc nên phải dùng đến người Thái Dương. Nhật hỏa trị Sát kim không phải đơn thuần vì hỏa chế được kim (đây chỉ là tiền đề theo ngũ hành) mà vì bản tính của Nhật là khoan dung, nhân ái, thân thiện - có thể hiểu đây là hỏa ở dụng chứ không phải ở thể, tức là “Nhân mộc + Lễ hỏa” - nên có thể gần gũi được Sát. Trong khi đó, những sao có tính chất tương đồng về mặt này như Thiên Đồng (vui vẻ, hòa nhã), Thiên Lương (trợ giúp, khuyên nhủ, thiện lương), Xương Khúc Đào Hồng (nhu mì, nhạy cảm, dễ tạo cảm tình) cũng được nhắc đến trong ĐADS là có công năng như Thái Dương trong việc chế hóa Thất Sát. Do đó phải nhìn phần dụng hoặc tính chất biểu lộ ra bên ngoài chứ không phải nhìn thấy Nhật hỏa thiêu đốt Sát kim mà lầm tưởng Nhật vì hung bạo hơn cả Sát mà chế được Sát. Tính chất dụng này của Nhật còn có thể giúp giải được tính cô khắc của Vũ, Cô Quả, Thiên Lương. Tuy nhiên Nhật không hẳn trị được Liêm Sát, Tử Sát nhưng có thể suy luận cũng “trị” được Vũ Sát (có lẽ nếu được Dương Lương thì lực hóa giải sẽ mạnh hơn).
- Người mệnh Cự môn (đắc/hãm) có thể “trị” được người mệnh Tử Vi. Tử Vi quang minh chính đại, Cự Môn thì đại biểu miệng lưỡi thị phi và ám khí. Cũng như lý thuyết về Thái Dương, Cự Môn áp chế TV không phải vì lý ngũ hành vì nếu xét ngũ hành thì Cự Môn phải thua vì thổ khắc thủy. Khi Cự Môn hãm thì cái dụng của nó sẽ khác khi đắc. Cự Môn hãm đã ám càng thêm ám, lời nói ra sẽ là gây mất đoàn kết nội bộ, hô hào tạo phản, v.v. Thêm XK thì chỉ càng làm lời nói có thêm mị lực. Cự Môn hãm đánh vào hình tượng, thanh danh của TV. Cự Môn đắc thì là khẩu tài, thêm XK thì lời nói sẽ có sức thuyết phục nhưng đối tượng bị thuyết phục lại chính là Tử Vi chứ không phải là lực lượng ủng hộ TV. Theo suy luận này, giám đốc mạng TV tránh xa hoàn toàn người có Cự hãm, và nên xem xét kỹ lưỡng lời khuyên của trợ lý có mệnh Cự đắc.
- Thiên bàn bố cục thế nào thì cặp Nhật-Sát và Cự-Tử vẫn cứ lục hại nên người có mạng là 1 trong 4 sao này tự biết kẻ thù tự nhiên của mình là ai và ai sẽ luôn thắng thế. Thế còn nếu mệnh là các sao khác thì sao? Vẫn theo lý lục hại là kẻ thù của ta chứ không phải đối cung - cung di (vì như bảng liệt kê ở trên về các vị trí vĩnh viễn xung chiếu thì các sao xung luôn đồng hành hoặc tương sinh tức là có lực tương hỗ). Do đó cứ nhìn vào vị trí lục hại với cung mệnh của mình, sao nào ở đó thì người có mạng mang sao đó chính là kẻ thù/đối thủ tự nhiên của ta. Mình không chắc nếu cung lục hại là cung VCD thì nên đoán thế nào. Thế làm thế nào để biết địch mạnh hay yếu hơn ta? Trước hết, xem trung tinh trong mệnh cung và cung lục hại cung nhị hợp với mệnh. Nếu không có cung có ưu thế vượt trội (nhiều hơn/đủ bộ hơn đối với các sao sau: Binh Hình Tướng Ấn, Mã Khốc, Hóa Quyền, Tả Hữu, Khôi Việt), thì xem cung nhị hợp vì theo bảng liệt kê trên về các sao vĩnh viễn nhị hợp, sao nhị hợp luôn tương sinh cho sao mệnh cho nên khái quat hóa thành nguyên lý khán cung nhị hợp). Ở trên có nhắc đến cung xung chiếu cũng là lực tương hỗ nhưng ở đây ta không xét đến nó như là yếu tố quyết định vì (1) nhớ rằng cung xung luôn nhị hợp với cung lục hại, (2) cung nhị hợp luôn luôn ở gần và ảnh hưởng cung mệnh hơn là cung xung (tính khoản cách theo số cung trên thiên bàn), do đó dùng cung nhị hợp hợp lý hơn.
- Trước đây có tranh cãi về việc liệu sao Tham Lang là hành mộc hay thủy. Theo quan sát về ngũ hành của sao vĩnh viễn nhị hợp với nhau ở trên, ngũ hành của 2 sao vĩnh viễn nhị hợp luôn tương sinh. Vì Thiên Đồng luôn nhị hợp với Tham Lang và đã được định ngũ hành là thủy, Tham Lang phải mang hành kim hoặc mộc. Loại bỏ kim vì trước giờ chưa nghe sách nào nói Tham hành Kim cả, do đó Tham phải mang hành mộc, đúng như trình an số của diễn đàn hiện nay.
- Theo thiển ý cá nhân, ngoài dựa vào chính tinh thủ cung lục hại để biết được đâu là kẻ thù tự nhiên theo ý trời, ta cũng có thể xem xét tính chất của chính tinh và phụ tinh trong cung mệnh để biết được đâu là yếu huyệt của mệnh, người mang chính phụ tinh nào có thể hại đến mệnh của ta. Không chỉ ở cung cố định, các sao ở cung đại vận cũng có thể được dùng để chọn người cộng sự và tránh kẻ tử thù. Với vấn đề này mình cũng có một số suy luận và phán đoán cụ thể nhưng hiện tại chỉ đang bàn về chính tinh nên có thể xong phần phụ tinh ta sẽ kết hợp lại để bàn chung. Thật ra mình vẫn đang xem xét có thể sẽ không bàn vấn đề này vi sẽ có người lợi dụng kiến thức TV làm điều xằng bậy. Thong thả xem xét vậy.
1. Chính tinh
Từ vị trí an sao ta có các mối liên hệ tương quan sau đây:
a. Lục hại: Nhật <-> Sát (hỏa khắc kim); Tử<->Cự (thổ khắc thủy)
b. Xung: Phá >< Tướng (đều là thủy), Phủ >< Sát (thủy sinh kim)
c. Nhị hợp: Lương-Liêm (hỏa sinh mộc); Vũ-Âm (kim sinh thủy); Nhật-Phủ (hỏa sinh thổ) ; Đồng-Tham (thủy-?)
Nhận xét:
- Người mệnh Thái Dương (sáng) có thể “trị” được người Thất Sát. Theo Tử Vi Đông A, người Thất Sát + Thiên Hình tính cô độc nên phải dùng đến người Thái Dương. Nhật hỏa trị Sát kim không phải đơn thuần vì hỏa chế được kim (đây chỉ là tiền đề theo ngũ hành) mà vì bản tính của Nhật là khoan dung, nhân ái, thân thiện - có thể hiểu đây là hỏa ở dụng chứ không phải ở thể, tức là “Nhân mộc + Lễ hỏa” - nên có thể gần gũi được Sát. Trong khi đó, những sao có tính chất tương đồng về mặt này như Thiên Đồng (vui vẻ, hòa nhã), Thiên Lương (trợ giúp, khuyên nhủ, thiện lương), Xương Khúc Đào Hồng (nhu mì, nhạy cảm, dễ tạo cảm tình) cũng được nhắc đến trong ĐADS là có công năng như Thái Dương trong việc chế hóa Thất Sát. Do đó phải nhìn phần dụng hoặc tính chất biểu lộ ra bên ngoài chứ không phải nhìn thấy Nhật hỏa thiêu đốt Sát kim mà lầm tưởng Nhật vì hung bạo hơn cả Sát mà chế được Sát. Tính chất dụng này của Nhật còn có thể giúp giải được tính cô khắc của Vũ, Cô Quả, Thiên Lương. Tuy nhiên Nhật không hẳn trị được Liêm Sát, Tử Sát nhưng có thể suy luận cũng “trị” được Vũ Sát (có lẽ nếu được Dương Lương thì lực hóa giải sẽ mạnh hơn).
- Người mệnh Cự môn (đắc/hãm) có thể “trị” được người mệnh Tử Vi. Tử Vi quang minh chính đại, Cự Môn thì đại biểu miệng lưỡi thị phi và ám khí. Cũng như lý thuyết về Thái Dương, Cự Môn áp chế TV không phải vì lý ngũ hành vì nếu xét ngũ hành thì Cự Môn phải thua vì thổ khắc thủy. Khi Cự Môn hãm thì cái dụng của nó sẽ khác khi đắc. Cự Môn hãm đã ám càng thêm ám, lời nói ra sẽ là gây mất đoàn kết nội bộ, hô hào tạo phản, v.v. Thêm XK thì chỉ càng làm lời nói có thêm mị lực. Cự Môn hãm đánh vào hình tượng, thanh danh của TV. Cự Môn đắc thì là khẩu tài, thêm XK thì lời nói sẽ có sức thuyết phục nhưng đối tượng bị thuyết phục lại chính là Tử Vi chứ không phải là lực lượng ủng hộ TV. Theo suy luận này, giám đốc mạng TV tránh xa hoàn toàn người có Cự hãm, và nên xem xét kỹ lưỡng lời khuyên của trợ lý có mệnh Cự đắc.
- Thiên bàn bố cục thế nào thì cặp Nhật-Sát và Cự-Tử vẫn cứ lục hại nên người có mạng là 1 trong 4 sao này tự biết kẻ thù tự nhiên của mình là ai và ai sẽ luôn thắng thế. Thế còn nếu mệnh là các sao khác thì sao? Vẫn theo lý lục hại là kẻ thù của ta chứ không phải đối cung - cung di (vì như bảng liệt kê ở trên về các vị trí vĩnh viễn xung chiếu thì các sao xung luôn đồng hành hoặc tương sinh tức là có lực tương hỗ). Do đó cứ nhìn vào vị trí lục hại với cung mệnh của mình, sao nào ở đó thì người có mạng mang sao đó chính là kẻ thù/đối thủ tự nhiên của ta. Mình không chắc nếu cung lục hại là cung VCD thì nên đoán thế nào. Thế làm thế nào để biết địch mạnh hay yếu hơn ta? Trước hết, xem trung tinh trong mệnh cung và cung lục hại cung nhị hợp với mệnh. Nếu không có cung có ưu thế vượt trội (nhiều hơn/đủ bộ hơn đối với các sao sau: Binh Hình Tướng Ấn, Mã Khốc, Hóa Quyền, Tả Hữu, Khôi Việt), thì xem cung nhị hợp vì theo bảng liệt kê trên về các sao vĩnh viễn nhị hợp, sao nhị hợp luôn tương sinh cho sao mệnh cho nên khái quat hóa thành nguyên lý khán cung nhị hợp). Ở trên có nhắc đến cung xung chiếu cũng là lực tương hỗ nhưng ở đây ta không xét đến nó như là yếu tố quyết định vì (1) nhớ rằng cung xung luôn nhị hợp với cung lục hại, (2) cung nhị hợp luôn luôn ở gần và ảnh hưởng cung mệnh hơn là cung xung (tính khoản cách theo số cung trên thiên bàn), do đó dùng cung nhị hợp hợp lý hơn.
- Trước đây có tranh cãi về việc liệu sao Tham Lang là hành mộc hay thủy. Theo quan sát về ngũ hành của sao vĩnh viễn nhị hợp với nhau ở trên, ngũ hành của 2 sao vĩnh viễn nhị hợp luôn tương sinh. Vì Thiên Đồng luôn nhị hợp với Tham Lang và đã được định ngũ hành là thủy, Tham Lang phải mang hành kim hoặc mộc. Loại bỏ kim vì trước giờ chưa nghe sách nào nói Tham hành Kim cả, do đó Tham phải mang hành mộc, đúng như trình an số của diễn đàn hiện nay.
- Theo thiển ý cá nhân, ngoài dựa vào chính tinh thủ cung lục hại để biết được đâu là kẻ thù tự nhiên theo ý trời, ta cũng có thể xem xét tính chất của chính tinh và phụ tinh trong cung mệnh để biết được đâu là yếu huyệt của mệnh, người mang chính phụ tinh nào có thể hại đến mệnh của ta. Không chỉ ở cung cố định, các sao ở cung đại vận cũng có thể được dùng để chọn người cộng sự và tránh kẻ tử thù. Với vấn đề này mình cũng có một số suy luận và phán đoán cụ thể nhưng hiện tại chỉ đang bàn về chính tinh nên có thể xong phần phụ tinh ta sẽ kết hợp lại để bàn chung. Thật ra mình vẫn đang xem xét có thể sẽ không bàn vấn đề này vi sẽ có người lợi dụng kiến thức TV làm điều xằng bậy. Thong thả xem xét vậy.