Về an sao đào hoa, ta có phép an như sau:
- Tuổi Thân Tý Thìn, Đào hoa cư Dậu.
- Tuổi Tỵ Dậu Sửu, Đào hoa cư Ngọ.
- Tuổi Hợi Mão Mùi, Đào hoa cư Tý.
- Tuổi Dần Ngọ Tuất, Đào hoa cư Mão.
Nguyên tắc của phép an này, dựa vào vòng tướng tinh. Tức là vòng xuất phát từ 4 cung tứ sinh, đi theo chiều thuận, lấy vị trí tứ sinh làm vị trí trường sinh. Ví dụ, tuổi Dần Ngọ Tuất, thì lấy cung Dần là vị trí trường sinh. Theo chiều thuận ta an sao ở các vị trí:
- Vị trí Mộc Dục, an sao Đào Hoa.
- Vị trí Bệnh, an sao Thiên Mã.
- Vị trí Mộ, an sao Hoa Cái.
- Vị trí Tuyệt, an sao Kiếp Sát.
Như vậy, sao Đào Hoa thực chất là vị trí Mộc Dục của vòng tướng tinh. Nó cũng có nhiều nét tương đồng với Mộc Dục.
Trong tử vi Trung Quốc, người ta gọi sao này là Hàm Trì. Trì (trong Hàm Trì) vốn có nghĩa là cái ao, hồ, nơi tắm gội (mộc dục), là cái hào bao xung quanh thành quách; lại có nghĩa là cái sân (khâu), bãi đất phẳng phiu để các cô đào ca múa....
Nghĩa gốc của nó kể ra không có gì nổi bật.
Tuy nhiên, sao Đào Hoa có liên hệ mật thiết với sao Hồng Loan, Thiên Không, cô thần quả tú.
Vì vậy cần phân theo nhóm tuổi:
Trích dẫn từ sách của bác Đằng Sơn:
Tuổi Tứ đào hoa: Tý Ngọ Mão Dậu:
Thiên Không độc thủ Thìn Tuất Sửu Mùi. Tuổi Dương Đào Hỉ đồng cung, đắc tam minh tam đức; tuổi âm hợp đào hồng cùng cung, đắc tam minh tam đức.
Diễn giải: Bản năng (thiên không đào hồng hỉ sát) lấn át thánh tính (thiếu dương tứ đức) nên vị trí này của Thiên Không/Thiếu Dương thường ứng với sự không chân thật. Nhẹ thì thiếu chủ trương; nặng thì thủ đoạn, đạo đức giả. Đào hoa ở vị trí đắc tam Minh, tam Đức nên uy lực rất mạnh. Cả 2 vị trí Hồng và Hỉ đều hội tam minh, tức là có ý nghĩa nhân duyên (hoặc nghiệp chướng)
Kết quả: Trung bình thì tuổi tứ đào hoa lắm duyên và lắm nợ hơn các tuổi khác.
Tuổi Tứ Mộ: Thìn Tuất Sửu Mùi
Thiên Không/Thiếu Dương ở Dần Thân Tỵ Hợi, cùng cung Kiếp Sát Cô Thần; tuổi dương thêm Hỉ chính cung Hồng chiếu; tuổi Âm ngược lại. Đặc biệt Thiên Không/Thiếu Dương cũng chính là vị trí hội họp đủ tam Minh, tam Đức; Đào Hoa (tam hợp Thiên Không) thì cùng cung với Nguyệt Đức, ứng với dục vọng đã được hóa giải. Sao lạc lõng (hồng năm dương, hỉ năm âm) thì cùng cung với Long Đức, nên việc tu tâm dưỡng tính dễ thành.
Diễn giải: Đây là hoàn cảnh duy nhất mà các sao dính líu đến duyên nghiệp (Đào Hồng Hỷ Sát) chế hóa lẫn nhau; tạo cơ hội cho Tứ Đức tiếp tay với Thiếu Dương, lấn át Thiên Không. Nhờ vậy vị trí Thiên Không (lẽ ra trong trường hợp này phải gọi là Thiếu Dương) ứng với sự bao dung, hòa nhã. Đây ví như khung cảnh 1 nhà chùa, rất thích hợp cho sự tu tâm dưỡng tĩnh. Còn người tu có thành tựu hay không thì còn lệ thuộc nhiều yếu tố khác.
Kết quả: Tính trung bình thì tuổi tứ mộ dễ có cơ hội tu tâm dưỡng tính hơn các tuổi khác.
Tuổi tứ mã: Tức sinh các năm Dần Thân Tỵ Hợi.
Thiên Không cùng cung với Đào Hoa ở Tý Ngọ Mão Dậu. Sức mạnh của Đào Hoa phụ vào với Thiên Không, khiến Thiếu Dương chìm mất hút. Thiên Không – Đào Hoa thành lực áp đảo. Thiên Không ví như trai tứ chiếng, Đào Hoa ví như gái giang hồ; ở cùng 1 chỗ dễ có chuyện mèo mả gà đồng hơn là nhân duyên tốt đẹp. Năm Dương (dần thân) thì Hồng Loan gặp cô quả là bất hạnh, năm âm sự bất hạnh ấy về tay Thiên Hỉ.
Diễn giải: Sức mạnh của dục vọng (Đào Hoa) khiến bản năng (Thiên Không) thắng thánh tính (thiếu dương, tứ đức). Cung có thiên không hết sức xung động, xấu nhiều tốt hiếm. Vị trí thua thiệt (Hồng năm dương, Hỉ năm âm) gặp Cô Quả càng thua thiệt hơn nữa.
Kết quả: Hoặc ham hố đam mê quá độ (Đào Không) hoặc tịch mịch cô đơn (Hồng hoặc Hỉ gặp Cô Quả) đều là những cảnh cực đoan. Nên tính trung bình thì tuổi tứ mã dễ gặp nhiều xung động hơn các tuổi khác.
Về đào hồng, có 3 phân cách:
1. Đào Hồng đi với Không Kiếp thường chủ về tai họa hơn là sắc dục, có thể hiểu trường hợp này do Kiếp Sát nên ngôi. (Trúc La hạn là một ám tàng sát cách của Đào Hồng).
2. Đào Hồng đi với Hỏa Linh chủ về huyền thuật, tín ngưỡng, đồng cốt hơn là sắc dục, có thể hiểu trường hợp này Thiên Không lên ngôi.
3. Đào Hồng đi với Kình Đà mới là chính hiệu con cá sấu vàng dâm dê, chủ sắc dục kinh hoàng. Có một lưu ý nhỏ là đôi khi Kình Đà được nhắc đến qua song Hao.
Thì cách thứ 3 mới chủ về sắc đẹp, dâm dê. Còn 2 cách 1 và 2 thường kém sắc hơn. Đặc biệt cách thứ 2, rất nhiều người xấu.