Trang 1 trên 10

Các Tuyệt Chiêu của Đoàn Kiến Nghiệp

Đã gửi: 08:35, 15/02/11
gửi bởi VULONG
Các Tuyệt Chiêu của Đoàn Kiến Nghiệp

Sau đây là các đoạn dịch cuốn "Bát Tự Trân bảo – tác giả Đoàn Kiến Nghiệp" của Phieu Dieu trong mục Tử Bình bên Huyền Không Lý Số.

Kỳ 5/1. Thương quan khứ quan cách

Ví dụ. Đại tham quan Hòa Thân.

Canh ngọ ất dậu canh tý nhâm ngọ

Đại vận: bính tuất/ đinh hợi/ mậu tý/ kỷ sửu/ canh dần

Mệnh này thương quan kiến quan, tài tinh cực nhược lại bị hợp, vì sao lại làm quan chức cực cao, lại tham đắc tài nhiều nhất? Mệnh này kim thủy thương quan, chứng tỏ thông minh tuyệt đỉnh, tài hoa hơn người, có quan tinh, tài tinh hỗn cục là bệnh thần, phùng thương quan khứ quan, tỉ kiếp khử tài. Gọi là khử kỵ thần thì đắc kỵ thần, là hỉ, cho nên có thể được làm quan lại đắc tài. Đến vận hợi tý sửu phương bắc thủy địa, thương quan khử quan, thăng làm trung đường. Đến vận canh dần, kỵ thần ngọ hỏa phùng trường sanh, kỵ thần tài lâm vượng. Mùa xuân năm kỷ mùi bị xử tử.

Kết cấu mệnh cục loại này nếu không thấy tài thì sẽ là quan thanh liêm, nếu không thấy quan tinh, sẽ có tài khí mà không làm quan, nếu tài thấu rõ ràng không hợp, lòng tham không đáy mà lại phung phí vô độ, nếu quan tinh cùng thương quan không kề sát, thì chức quan sẽ không lớn.”

Đoàn Kiến Nghiệp đã viết "Đến vận canh dần, kỵ thần ngọ hỏa phùng trường sanh, kỵ thần tài lâm vượng." nghĩa là ông ta đã khẳng định Tứ Trụ này có Thân nhược nên Tài (Mộc) và Quan (Hỏa) là kỵ thần mới dẫn đến tử vong.

Tôi sẽ chứng minh Tứ Trụ này Thân vượng bởi vì chỉ có Thân vượng mới có thể giải thích được cái chết này.

Sơ đồ mô tả tai họa năm Kỷ Mùi như sau:
Hình ảnh
Điểm hạn và điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm:
-1............-0,5.........0,5..............1............-0,5
Mộc..........Hỏa.........Thổ............Kim...........Thủy
1,38..........1,74.........#3............16,6...........14

Các đại vận :
Bính Tuất/Đinh Hợi/Mậu Tý/Kỷ Sửu/Canh Dần/Tân Mão

Mùa Xuân năm Kỷ Mùi thuộc đại vận Canh Dần và tiểu vận Tân Mùi.
1 - Tứ Trụ này có Thân vượng, Kiêu Ấn ít mà Thực Thương nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Ất ở trụ tháng.
2 - Có Canh đại vận và 2 Canh trong tứ trụ cùng hợp với Ất trụ tháng.
Ta thấy lực hợp của Dần đại vận với mỗi Ngọ trong Tứ Trụ là 5.1/2 = 2,5 đv nhỏ hơn lực hợp của Mùi thái tuế với mỗi Ngọ là 8.1/2 = 4 đv. Do vậy Mùi hợp được với 2 Ngọ nhưng lực hợp của Mùi thái tuế với Ngọ trụ giờ bị phá vì có Tý xung gần (Tý, Ngọ, Mão, Dậu xung gần không cần phải tính lực xung) còn lực xung của Tý với Ngọ trụ năm là 5,05.2/3 = 3,37 đv (vì xung cách 1 ngôi) nhỏ hơn lực hợp của Mùi thái tuế với Ngọ trụ năm là 8.1/2 = 4 đv. Do vậy Ngọ trụ năm hợp với Mùi thái tuế hóa Thổ có 0,5 đv.
3 - Dụng thần Ất hợp với tuế vận có 1 đh và nhược ở lưu niên có 0 đh.
4 - Nhật can Canh vượng ở lưu niên có -1 đh.
5 - Canh đại vận vượng ở lưu niên có 1 đh can động và khắc Ất trụ tháng có 0,5 đh. Mỗi Canh trong tứ trụ khắc Ất trụ tháng có 0,5 đh (2 Canh này được lệnh và vượng ở lưu niên nên không có điểm hạn can động). Ất thất lệnh chỉ vượng ở đại vận có -0,5 đh can động nhưng nó chỉ còn -0,5.1/2.1/2.1/2 đh = -0,06 đh (vì bị khắc bởi 3 Canh).
Kỷ lưu niên vượng ở lưu niên có 0,5 đh can động và khắc Nhâm trụ giờ có 0,5 đh. Nhâm trụ giờ được lệnh nhưng nhược ở tế vận có -0,5 đh (điểm này không bị giảm khi bị khắc).
Tân tiểu vận có 1 cát thần có -0,13 đh. Dần đại vận có 3 cát thần có -3.0,25 đh.
6 - Lửa mặt trời lưu niên có Kỷ vượng ở lưu niên khắc gỗ liễu trụ giờ và đất trên tường trụ ngày có tổng cộng 1,5 đh (vì Kỷ đã sử dụng 1 điểm khắc để khắc Nhâm).
Tổng điểm hạn là 5,06. Số điểm này có thể chấp nhận được.
Nguyên nhân chính gây ra tai họa là Thân vượng có nhiều Tỉ Kiếp, Tài lại ít nên "vào vận Tỉ Kiếp nên án binh bất động" hay dễ bị "Tỉ Kiếp tranh đoạt Tài với Thân"... như sách của cụ Thiệu đã viết.

Còn nếu Thân nhược theo Đoàn gia thì dĩ nhiên Thân Kim nhược do Thủy vượng, vì vậy phải lấy Kiêu Ấn Thổ làm dụng thần. Vậy mà vào vận Canh, lưu niên Kỷ đều là hỷ dụng lại còn Thổ cục là cục dụng thần nữa có thấy kỵ thần Mộc, Hỏa ở đâu. 1 Ngọ đã hóa Thổ còn Dần đại vận làm được trò trống gì mà có thể gây ra tử vong ?

Thật đáng buồn cho Đoàn Kiến Nghiệp một cao thủ Tử Bình "lẫy lừng thiên hạ" mà không xác định được đúng Thân của Tứ Trụ này là vượng hay nhược. Nguyên nhân chính là ông ta không biết xác định khả năng tranh phá hợp của các địa chi (vì từ gốc ông ta đã sai căn bản cho rằng lực của lục hợp lớn hơn cả lực hợp của tam hợp, tam hội…. ấy mà).

TL: Các Tuyệt Chiêu của Đoàn Kiến Nghiệp

Đã gửi: 04:28, 16/02/11
gửi bởi VULONG
(Tiếp)
Sau đây là các đoạn dịch cuốn "Bát Tự Trân bảo – tác giả Đoàn Kiến Nghiệp" của Phieu Dieu trong mục Tử Bình bên Huyền Không Lý Số.

Kỳ 5. Thương quan khứ quan cách

Ví dụ (thứ 2). Càn tạo

Ất tị canh thìn tân mão nhâm thìn

Đại vận: kỷ mão/ mậu dần/ đinh sửu/ bính tý/ ất hợi

Mệnh này trong “Bặc văn mệnh học”, nguyên văn nói lấy thủy làm dụng thần, không nói vì sao? Thật ra mệnh này tỉ kiên nhược, nhâm thủy không phải là bát tự tú khí, không thành cách thương quan tiết tú, thành cách thương quan khứ quan. Đương nhiên mệnh này kết cấu thương quan cùng quan không kề sát, cho nên quan chức không lớn. Đến đại vận bính tý, quan tinh hư nhược thấu lộ cùng thương quan gặp nhau, thương quan khử quan mà làm quan. Liền thăng chức quan. Có thể đoán nhâm ngọ lại thăng 1 bậc, năm nhâm ngọ thương quan kiến quan thiên khắc địa xung, theo lý luận của Thiệu Vỹ Hoa ắt đại hung, nhưng Hác tiên sinh đoán năm nhâm ngọ sẽ thăng chức. Đến vận ất hợi, năm đinh hợi thăng chức đứng đầu 1 sở. Bước đầu tiên anh ta thăng chức phó là vào năm ất hợi. Không hiểu mệnh lý, nói xằng bậy không biết sẽ hại bao nhiêu người.“

1 - Đoàn Kiến Nghiệp viết "...nguyên văn nói lấy thủy làm dụng thần, không nói vì sao?" điều này chứng tỏ ông ta không hiểu tại sao họ lại lấy Thủy là Thương quan làm dụng thần. Chính vì không hiểu và ông ta cho rằng Tứ Trụ này Thân phải nhược, vì vậy ông ta đã khẳng định Thân nhược thì "...nhâm thủy không phải là bát tự tú khí, không thành cách thương quan tiết tú..." "thành cách thương quan khứ quan.". Nghĩa là Thân nhược có Thủy Thương quan khử Quan (như Thương quan thương tận - theo tôi hiểu) thì mới được làm Quan. Cho nên ông ta viết "...Đến đại vận bính tý, quan tinh hư nhược thấu lộ cùng thương quan gặp nhau, thương quan khử quan mà làm quan." điều này đã khẳng định điều tôi nói trên là đúng.

2 - Ông ta cho rằng "...năm nhâm ngọ thương quan kiến quan thiên khắc địa xung, theo lý luận của Thiệu Vỹ Hoa ắt đại hung,..."

3 - Cuối cùng ông ta kết luận "...Không hiểu mệnh lý, nói xằng bậy không biết sẽ hại bao nhiêu người.".

Tôi sẽ lần lượt phản biện 3 điều trên xem Đoàn Kiến Nghiệp đúng hay là sai.

Sau đây là sơ đồ mô tả năm Nhâm Ngọ.
Hình ảnh
Điểm hạn và điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm:
-0,5………...-0,5………...1………......-0,5……….....-1
Mộc...........Hỏa……….Thổ............Ki m...........Thủy
7,2............2,55........9,6...........10,9….. ......1,35

Các đại vận :
Kỷ Mão/ Mậu Dần/ Đinh Sửu/ Bính Tý/ Ất Hợi...

Năm Nhâm Ngọ thuộc đại vận Bính Tý, tiểu vận Ất Mão và Giáp Dần.
1 - Tứ trụ này có Thân vượng mà Kiêu Ấn đủ nên dụng thần đầu tiên phải là Thực Thương/ Quý tàng trong Thìn trụ tháng (điều này Đoàn Kiến Nghiệp không hề biết nên đã phải viết "...nguyên văn nói lấy thủy làm dụng thần, không nói vì sao?").
2 - Trong Tứ Trụ có Ất hợp với Canh không hóa.
Vào đại vận Bính Tý và năm Nhâm Ngọ có:
Bính đại vận hợp với Tân trụ ngày hóa Thủy có -1 đh (vì có Tý đại vận dẫn hóa).
2 Thìn trong Tứ Trụ hợp với Tý đại vận là tranh hợp thật nên chúng không hóa được Thủy.
Lưu niên Nhâm Ngọ và trụ giờ Nhâm Thìn thiên khắc địa xung với đại vận Bính Tý, vì vậy tổ hợp của 2 Thìn với Tý bị phá.
Lưu niên thiên khắc địa xung với đại vận có 0,38 đh (vì Nhâm chỉ vượng ở đại vận).
Trụ giờ thiên khắc địa khắc với đại vận có 0,5 đh (vì Nhâm chỉ vượng ở đại vận và chi của nó là Thìn và Tý).
Đại vận Bính Tý không thể thiên khắc địa xung với trụ tháng Canh Thìn (vì Bính là can chủ khắc đã hóa cục).
Chỉ có 3 trụ thiên khắc địa xung với nhau nên có thêm 0,1 đh.
3 - Dụng thần Quý tử tuyệt ở lưu niên nên có 1 đh.
4 - Nhật can Tân nhược ở lưu niên có 0 đh.
5 - Tý đại vận xung Ngọ thái tuế có 1,3 đh.
6 - Tý đại vận hình Mão trụ ngày có 1 đh và hình Mão tiểu vận có 0,25 đh (vì là lực thứ 3 - 2 lực hợp với 2 Thìn coi như là 1 lực)
Tổng số điểm hạn chỉ là 3,53 . Số điểm này quá thấp không thể gây ra tai họa.

1 - Qua đây ta thấy Đoàn Kiến Nghiệp không hề biết Bính đại vận là Quan đã hợp với Tân hóa thủy là dụng thần (có -1 đh) thì làm sao 2 Nhâm là Thương quan có thể gặp được Quan nữa để "...Đến đại vận bính tý, quan tinh hư nhược thấu lộ cùng thương quan gặp nhau" để "thương quan khử quan mà làm quan.". Điều này khẳng định ông ta chả biết gì với cái khái niệm NGŨ HỢP CỦA THIÊN CAN là cái cóc khô gì cả (chưa cần nói đến Bính là Quan vào năm Ngọ mà ông ta lại cho Quan là hư nhược).

2 - Tôi mới biết Tử Bình từ năm 2004 qua cuốn "Dự Đoán theo Tứ Trụ" của thầy trò cụ Thiệu mà đã thừa sức chứng minh năm Nhâm Ngọ người này không có tai họa mặc dù "năm Nhâm Ngọ là năm thiên khắc địa xung" với đại vận...và còn là vận hình hại... Vậy cụ Thiệu được thừa hưởng sách gia truyền từ 29 đời (từ cụ Thiệu Khang Tiết) thì kém tôi chắc ?

3 - Vậy thì ai là người "...Không hiểu mệnh lý, nói xằng bậy không biết sẽ hại bao nhiêu người.", xin nhường lại cho bạn đọc tự trả lời

TL: Các Tuyệt Chiêu của Đoàn Kiến Nghiệp

Đã gửi: 20:36, 17/02/11
gửi bởi VULONG
Sau đây là đoạn dịch cuốn "Bát Tự Trân bảo – tác giả Đoàn Kiến Nghiệp" của Phieu Dieu trong mục Tử Bình bên Huyền Không Lý Số.

Kỳ 6 (ví dụ 3): Luận về “chủ, khách” trong bát tự.

Ví dụ. Càn tạo

Canh tý canh thìn canh ngọ ất dậu

Mệnh này tỉ kiên trùng trùng, thiên tài là cha, nhưng mệnh cục không có thiên tài nên không khắc cha. Đến vận giáp thân, thiên tài hư nhược thấu xuất gặp khắc, có thể đoán cha mất. Năm mậu dần thái tuế thông lộc, phản khách làm chủ, bị thân kim bị xung phá, năm này cha mất. Giả sử không gặp vận giáp thân, đổi lại là vận mậu thân hoặc canh thân, thì năm mậu dần không dám đoán là cha mất, nguyên nhân thái tuế là khách, không có giáp xuất hiện, không đủ điều kiện phản khách làm chủ“.

Qua ví dụ này chứng tỏ Đoàn Kiến Nghiệp không nắm được vấn đề then chốt để xét khả năng khắc cha, mẹ hay khắc người phối hôn.

Những vấn đề then chốt đó là :

1 - Với khắc cha, phải thay dụng thần thành Sao cha và Nhật can thành can năm.
2 - Với khắc mẹ, phải thay dụng thần thành Sao mẹ và Nhật can thành chi năm.
3 - Với khắc chồng, phải thay dụng thần thành Phu tinh và Nhật can thành chi ngày.
4 - Với khắc vợ, phải thay dụng thần thành Thê tinh và Nhật can thành chi ngày

Ngoài ra các điểm hình, xung, khắc, hại, thiên khắc địa xung, nạp âm ....bị hạn chế đi rất nhiều như với khắc người phối hôn thì chỉ có nạp âm của trụ ngày và lưu niên bị khắc hay 2 trụ này bị thiên khắc địa xung.... mới có điểm hạn. Còn với khắc cha mẹ thì chỉ có nạp âm trụ năm và lưu niên ....mới có điểm hạn...

Sau đây là lời giải chi tiết ví trụ trên như sau:

Sơ đồ mô tả khắc cha năm Mậu Dần (1998) như sau:
Hình ảnh
Điểm hạn và điểm vượng của ngũ hành theo sao cha trong vùng tâm (chú ý điểm hạn của ngũ hành theo sao cha, mẹ hay theo sao phu, thê không phụ thuộc vào điểm vượng trong vùng tâm của ngũ hành, tức chúng luôn luôn cố định):
0,5……….......1………......-0,5………...-1……….....0,5
Thổ............Kim...........Thủy……… Mộc...........Hỏa
4,32.........10,93............1...........3,4..... ........8

Các đại vận :
Tân Tị / Nhâm Ngọ/ Quý Mùi/ Giáp Thân/ Ất Dậu

Năm Mậu Dần thuộc đại vận Giáp Thân, tiểu vận Quý Hợi và Giáp Tý.
1 - Trong Tứ trụ có Canh trụ ngày hợp với Ất trụ giờ không hóa và Thìn trụ tháng hợp được với Tý trụ năm không hóa vì lực hợp của nó có 8.1/2 = 4 đv (vì Thìn phải hợp với Dậu trụ giờ) là lớn hơn lực xung của Ngọ trụ ngày với Tý có 8.2/3 (vì cách một ngôi) .1/3 (vì Ngọ phải sinh cho Thìn gần) đv = 1,78 đv .
2 - Tới năm Mậu Dần và tiểu vận Quý Hợi có :
Mậu lưu niên hợp với Quý tiểu vận không hóa.
Ngọ trụ ngày hợp được với Dần thái tuế không hóa (vì lực hợp của nó (6,2 đv) lớn hơn lực hợp của Hợi tiểu vận với Dần (5,67 đv) nhưng bị phá vì Đại vận thiên khắc địa xung với lưu niên.
Có tam hợp cục Thân Tý Thìn không hóa (tam hợp chỉ bị phá bới Tý Ngọ Mão Dậu xung gần trong tứ trụ hay có ít nhất 2 trụ thiên khắc địa xung với 2 trụ của nó...).
3 - Đại vận thiên khắc địa xung với lưu niên có 1 đh (với điểm hạn khắc cha thì chỉ có trụ năm, trụ tháng và lưu niên bị thiên khắc địa xung mới có điểm hạn).
4 - Sao cha (Thiên tài) Giáp không xuất hiện trong tứ trụ có 1 đh. Sao cha Giáp vượng ở lưu niên có -1 đh.
5 - Can năm Canh tử tuyệt ở lưu niên có 1 đh.
6 - Canh trụ năm và trụ tháng thất lệnh chỉ vượng ở lưu niên nên mỗi Canh có 0,5 đh can động và khắc Sao cha Giáp ở đại vận mỗi lực có 0,5 đh (với khắc cha thì tất cả sao cha xuất hiện trong tứ trụ hay ở tuế vận, tiểu vận khi bị khắc điểm hạn vẫn được tính như bình thường).
Sao cha Giáp ở đại vận vượng ở lưu niên có -1 đh nhưng chỉ còn -1.1/2.1/2 đh = -0,25 đh (vì bị khắc bởi 2 Canh).
Mậu lưu niên hợp và khắc Quý tiểu vận nên có 0,5 đh can động.
7 - Nước biển tiểu vận có Quý vượng ở lưu niên nên khắc Đất trên thành lưu niên có 1 đh (với điểm hạn khắc cha thì chỉ có nạp âm của trụ năm và lưu niên bị khắc mới có điểm hạn).

Tổng điểm hạn là 5,25. Số điểm này không thể chấp nhận được (vì với điểm hạn khắc người phối hôn hay con cái khắc cha mẹ phải có ít nhất 6 đh mới có thể gây ra tử vong).

Nếu như quả thực cha của người có Tứ Trụ này đã tử vong vào năm Mậu dần thì tương tự như 350 giả thiết và 216 ví dụ mẫu đã có trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ" của tôi thì tôi phải viết như sau:

Để phù hợp với thực tế của ví dụ này chúng ta phải đưa ra và ứng dụng giả thiết số 351/217 (nếu ví dụ này được đánh dấu là ví dụ số 217) .

1 - "Lộc của sao cha ở tuế vận bị thiên khắc địa xung có 1 đh" thì tổng số là 6,25 đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được. Giả thiết này đưa ra dựa trên ý của Đoàn gia là "Năm mậu dần thái tuế thông lộc,...bị thân kim bị xung phá,...". Nhưng điều này không hợp lý bởi vì nếu Lộc của sao cha ở trong tứ trụ bị xung thì còn có lý (vì cha đã có Lộc nhưng vào năm X mới bị xung mất) còn Lộc ở tuế vận là Lộc của trời, không phải ở trong tứ trụ nên có thì tốt còn không có thì cũng chả sao (vì đã là của cha người này đâu mà sợ mất).

2 - "Tam hợp hay tam hội bị phá nếu lực xung lớn hơn lực hợp". Nếu sử dụng giả thiết này thì lực của Dần thái tuế (vì Dần không bị hợp) xung Thân đại vận có 9.1/2 đv = 4,5 đv (vì Dần phải hợp với Ngọ trụ ngày) là lớn hơn lực hợp của Tý trụ năm (4,65.1/2 đv = 2,33 đv - vì phải hợp với Thìn) và Thìn trụ tháng (6,2.1/3 đv = 2,07 đv) với Thân đại vận là 2,33 đv + 2,07 đv = 4,4 đv. Do vậy Thân đại vận (không bị hợp) xung Dần thái tuế có 1 đh và hình có 1 đh. Tổng số là 7,25 đh. Số điểm này có thể chấp nhận được. Giả thiết này có logic và hợp lý hơn giả thiết trên.

Đây chính là con đường mà tôi đã tìm ra 350 giả thiết (tôi chưa thể gọi chúng là 350 quy tắc bởi vì tôi chưa có đủ các ví dụ để kiểm tra chúng - như giả thiết 351 mới này) cũng như các phát hiện mới về Tử Bình (như phương pháp xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần...) để viết lên cuốn sách này.

(Xin mời mọi người quan tâm tới Tử Bình sang bên Huyền Không Lý Số trong mục Tử Bình để đọc và thảo luận bởi vì ... tôi không chuyển các bài viết của tôi ở bên đó sang đây nữa).

TL: Các Tuyệt Chiêu của Đoàn Kiến Nghiệp

Đã gửi: 10:40, 03/03/11
gửi bởi brightfuture101281
VULONG đã viết:(Tiếp)


Sau đây là sơ đồ mô tả năm Nhâm Ngọ.
Hình ảnh
Chào bác , mình rất thích cái cách bác xác định bằng sơ đồ thế này để tính độ vượng suy của Tứ trụ,
4T của mình như sau
Tân dậu Canh tý Nhâm Tuất Quý Mão

Bản thân mình cũng tự xác định Thân Vương hay Suy theo cách của cụ Thiệu thế này:
Nhâm thủy sinh tháng tý nên được lệnh.
Can ngày Nhâm được Ấn thụ sinh cho: nên được sinh.
Can ngày Nhâm được Kiếp trợ giúp.
Tổng kết lại là Thân rất vượng
Nhâm gặp tý thì còn gọi là Kình Dương Cách
Vậy xác định dụng thần là Tài hay thương hay Sát , nếu chọn Tài thì đsung nhất nhưng Tài lại quá yếu không đủ sức làm Thân hao tổn, mà chọn Thương hay Sát cũng thế vì đều nằm ở bại địa.
Vậy mong bác VULONG dùng sơ đồ như trên xác định giúp Dụng thần cho mình học hỏi thêm
Trân trọng

TL: Các Tuyệt Chiêu của Đoàn Kiến Nghiệp

Đã gửi: 18:19, 03/03/11
gửi bởi VULONG
brightfuture101281 đã viết:
Chào bác , mình rất thích cái cách bác xác định bằng sơ đồ thế này để tính độ vượng suy của Tứ trụ,
4T của mình như sau
Tân dậu Canh tý Nhâm Tuất Quý Mão

Bản thân mình cũng tự xác định Thân Vương hay Suy theo cách của cụ Thiệu thế này:
Nhâm thủy sinh tháng tý nên được lệnh.
Can ngày Nhâm được Ấn thụ sinh cho: nên được sinh.
Can ngày Nhâm được Kiếp trợ giúp.
Tổng kết lại là Thân rất vượng
Nhâm gặp tý thì còn gọi là Kình Dương Cách
Vậy xác định dụng thần là Tài hay thương hay Sát , nếu chọn Tài thì đsung nhất nhưng Tài lại quá yếu không đủ sức làm Thân hao tổn, mà chọn Thương hay Sát cũng thế vì đều nằm ở bại địa.
Vậy mong bác VULONG dùng sơ đồ như trên xác định giúp Dụng thần cho mình học hỏi thêm
Trân trọng
Sơ đồ tính điểm vượng như sau:
Hình ảnh
Điểm hạn và điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm:
-1..........0,5.............0,5.............1..............-0,5
Hỏa........Thổ............Kim...........Thủy............Mộc
#4,2.......2,73...........9,6...........25,6............4,68

Thân quá cường vượng mà Kiêu Ấn nhiều (có 3 can-chi) vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh Đinh tàng trong Tuất trụ ngày.

Bạn tự xem lại lý thuyết để kiểm tra từng số liệu ghi trên sơ đồ xem có chính xác không ?

(Theo phương pháp này thì dụng thần không liên quan tới nó ở trạng thái Tử Tuyệt hay Suy, Vượng gì cả.)

TL: Các Tuyệt Chiêu của Đoàn Kiến Nghiệp

Đã gửi: 11:29, 04/03/11
gửi bởi brightfuture101281
VULONG đã viết:
brightfuture101281 đã viết:
Sơ đồ tính điểm vượng như sau:
Hình ảnh
Điểm hạn và điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm:
-1..........0,5.............0,5.............1..............-0,5
Hỏa........Thổ............Kim...........Thủy............Mộc
#4,2.......2,73...........9,6...........25,6............4,68

Thân quá cường vượng mà Kiêu Ấn nhiều (có 3 can-chi) vì vậy dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh Đinh tàng trong Tuất trụ ngày.

Bạn tự xem lại lý thuyết để kiểm tra từng số liệu ghi trên sơ đồ xem có chính xác không ?

(Theo phương pháp này thì dụng thần không liên quan tới nó ở trạng thái Tử Tuyệt hay Suy, Vượng gì cả.)
Bác VULONG nói xem lại lý thuyết là xem ở đâu , em có sách của bác đâu mà xem, buồn quá.
Phương pháp của bác không liên quan đến Tử Tuyệt hay Suy Cường, vậy khi vào đại vận mình cũng dùng sơ đồ phải không bác???
Và cũng lý luuận tương tự như vậy với lưu niên ., mong bác giải đáp.
Vì em thấy đại vận của em năm nay là Bính Thân , vậy là vận của DT rồi, có phải từ 31-41 sẽ khá nhất trong các đại vận.
nếu xét ra Bính Tân hợp hoá thành thuỷ thì lại là khắc với DT , như vậy la kị vận , sao mà rối bời quá bác VULONG.
Nếu được mong bác cho em bảng chi tiết tính điểm , để trau dồi thêm kiến thức .Cám ơn bác.
Trân trọng

TL: Các Tuyệt Chiêu của Đoàn Kiến Nghiệp

Đã gửi: 21:53, 04/03/11
gửi bởi VULONG
Trời đất ơi!

Thế ông bạn thân mến ơi, ông bạn không đọc phần lý thuyết "Phương Pháp xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần" trong chủ đề "Tuvilyso.net sợ các "Tuyệt Chiêu nổi tiếng trong Tử Bình"" ở tại mục "Trao Đổi Về Tứ Trụ" ở đây hay sao ?

Tôi còn đăng lý thuyết này ở bên mục Tử Bình của Huyền Không Lý Số và mục Tử Bình - Tứ Trụ bên Lý Học Đông Phương nữa đấy.

Ông bạn cứ thử vào các trang web đó xem tôi nói có đúng không ?

TL: Các Tuyệt Chiêu của Đoàn Kiến Nghiệp

Đã gửi: 22:09, 04/03/11
gửi bởi Trần Tiến Nam
Bác VuLong ơi !!!

E hy sinh lấy lá số của e ra làm thí nghiệm cho những phát kiến đầy sáng tạo của bác về môn tử bình !!! E hy vọng sẽ đóng góp 1 phần nhỏ nhỏ cho nhân loại ạ !!!

Em có gặp mấy cao nhân và mấy abc1 cũng hay nói với em là đừng nên nghiên cứu bói toán bằng cái kiểu onl như thế này...sẽ có ngày bị tẩu lúc nào không biết nữa !!! :| E nghe thế em sợ quá bác à !!!

Nhờ bác xem giúp cho e !!!

Hình ảnh

TL: Các Tuyệt Chiêu của Đoàn Kiến Nghiệp

Đã gửi: 00:17, 06/03/11
gửi bởi VULONG
Trần Tiến Nam đã viết:Bác VuLong ơi !!!

E hy sinh lấy lá số của e ra làm thí nghiệm cho những phát kiến đầy sáng tạo của bác về môn tử bình !!! E hy vọng sẽ đóng góp 1 phần nhỏ nhỏ cho nhân loại ạ !!!

Em có gặp mấy cao nhân và mấy abc1 cũng hay nói với em là đừng nên nghiên cứu bói toán bằng cái kiểu onl như thế này...sẽ có ngày bị tẩu lúc nào không biết nữa !!! :| E nghe thế em sợ quá bác à !!!

Nhờ bác xem giúp cho e !!!
Chào Trần Tiến Nam!

Nói chung mọi điều dự đoán cho dù chính xác 100% (chỉ dựa theo các thông tin trong Tứ Trụ, tuế vận và tiểu vận) thì do sự tác động của môi trường sống nên sự chính xác 100% này sẽ bị biến đổi chỉ còn cỡ 60% mà thôi. Vì vậy khi đã biết trước được ưu khuyết nhược điểm Tứ Trụ của mình thì có thể thay đổi môi trường sống của mình (di chuyển chỗ ở , lấy chồng hay vợ, làm nghề....) sao cho có lợi nhất để ngũ hành bên ngoài tác động vào ngũ hành trong Tứ Trụ, Tuế Vận và Tiểu Vận tại thời điểm nguy hiểm đó sao cho có lợi nhất cho sự cân bằng ngũ hành trong Tứ Trụ, khi đó chắc chắn mức độ tai hoạ sẽ giảm đi rất nhiều.

Ví dụ như nếu tại một năm nào đó thấy có sự hình hại giữa Tứ Trụ với Tuế Vận và Tiểu vận quá nặng thì tốt nhất tránh xa với xã hội loài người (sống ẩn dật) bởi vì Hình Hại chủ yếu là do người khác làm hại mình, riêng Tự Hình thì thường do chính mình gây lên (thì nên có người khác luôn bên cạnh trong thời gian nguy hiểm để có thể kịp thời ngăn chặn các hành động bột phát ngoài ý nghĩ (như tự tử, giết người...)). Nếu tại một năm nào đó giả sử hành Hoả quá vượng khắc Kim thì tốt nhất lên sống ở phương bắc so với nơi sinh của mình và muốn có tác dụng giải cứu cao hơn thì trong thời gian đó nên sống dưới thuyền như dân sông nước.....
Đại loại tác dụng giải cứu của Lý Học Đông Phương là như vậy.

Sau đây là sơ đồ tính điểm vượng của Tứ Trụ này như sau:
Hình ảnh
Tứ trụ này có thân vượng mà Kiêu Ấn cực kỳ cường vượng nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh Thổ/ Mậu ở trụ giờ.
Các đại vận xấu và tốt có thể dự đoán như sau:
1 - Các đại vận từ Nhâm Tuất (bắt đầu từ tháng 12/1991) đến Canh Thân là kỵ thần nên cuộc đời không hề thuận lợi, thất bại nhiều hơn thành công.
2 - Đại vận Kỷ Mùi (bắt đầu từ tháng 12/2011) và Mậu Ngọ là 20 năm huy hoàng nhất của người này, chắc tiền bạc không ít. Nói chung mọi điều có thể theo như ý muốn.
3 - Đại vận Đinh Tị và Bính Thìn thì bình thường vì Thân không vượng nắm mà phải xì hơi mạnh bởi Hoả khá vượng dễ dẫn đến Thân nhược là điều xấu hay Thuỷ quá vượng mà không có Thổ chế ngự thì tác dụng của Hoả cũng không cao cho dù Hoả cũng khá mạnh ở đại vận Đinh Tị.
4 - Đại vận Ất Mão và Giáp Dần thì tôi chịu không biết xấu hay tốt. Có thể cái tốt nhiều hơn so với cái xấu bởi vì Kiêu Ấn quá cường vượng nên Thân cũng cần được mạnh hơn thì phải để tránh bị cuốn trôi chăng ?

Nếu các đại vận đã qua (Nhâm Tuất, Tân Dậu và Canh Thân) mà người này mọi điều tốt đẹp thì dĩ nhiên tôi phải nghiên cứu lại vì sao lại như vậy. Mong Trần Tiến Nam hồi đáp.

Thân chào.

(Tôi đang nghiên cứu Tài Quan Ấn nên cứ là phang đại ra sai đúng ra sao sẽ nghiên cứu tiếp).

TL: Các Tuyệt Chiêu của Đoàn Kiến Nghiệp

Đã gửi: 09:07, 06/03/11
gửi bởi Trần Tiến Nam
Bác nói đúng các đại vận ở quá khứ và hiện tại rồi đó !!!

Vậy là cách tính điểm vượng của bác có thể dùng được nhưng Nam thấy phương pháp này của bác vẫn chưa hoàn thiện lắm !!!
Chổ chưa hoàn thiện thì Nam ko chỉ ra được hihihi !!!