Trang 1 trên 7

Trở thành cao thủ Tử Bình về luận Hành Vận trong 3 tháng ?

Đã gửi: 22:23, 25/08/17
gửi bởi VULONG
Trở thành cao thủ Tử Bình về luận Hành Vận trong 3 tháng ?

Nội dung chương trình này như sau :

Nội dung chính của chương trình này chủ yếu lấy trong cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“

Chương trình này gồm 5 phần :

Phần 1 - Là phần Đại Cương hay phần Nhập Môn chính là “Tuần Thứ Nhất“ trong cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“ của tôi (thời gian tự học khoảng 1 tháng, mỗi ngày chỉ cần học từ 1 đến 2 tiếng).

Mục đích chính của phần này là giới thiệu các khái niệm cơ bản của môn Tử Bình.

Yêu cầu của phần này là người học phải tự lập được Tứ Trụ cũng như xác định được các đại vận và tiểu vận cùng thời gian bắt đầu của chúng khi đã biết năm, tháng, ngày và giờ sinh của người đó.

Phần 2 - Là phần giới thiệu về Dụng Thần, Thân, … trong môn Tử Bình chính là “Tuần Thứ Hai“ trong cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“ (thời gian tự học khoảng 1 tháng, mỗi ngày chỉ cần học từ 1 đến 2 tiếng).

Mục đích chính của phần này là giới thiệu các khái niệm quan trọng nhất trong môn Tử Bình là Dụng thần và Thân vượng hay nhược và dùng Toán Học để xác định được chúng.

Yêu cầu của phần này là người học phải dùng Toán Học để xác định được Thân vượng hay nhược và Dụng Thần.

Phần 3 - Là phần giới thiệu về luận Hành Vận (thời gian tự học khoảng 1 tháng, mỗi ngày chỉ cần học từ 1 đến 2 tiếng).

Mục đích chính của phần này là hướng dẫn cách luận các vận trong môn Tử Bình để biết được các vận nào xấu và các vận nào đẹp. Phần này không có trong cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“, tôi sẽ hướng dẫn qua các ví dụ mẫu lấy trong các sách, trên các diễn đàn hay thực tế,…

Yêu cầu người đọc phải hiểu và luận được các ví dụ khác.

Phần 4 - Là phần giới thiệu về luận Vận Hạn (luận Lưu Niên – một năm bất kỳ) chính là “Tuần Thứ Ba“ trong cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“. Thời gian học tùy theo khả năng của từng người. Nó không khó vì chỉ phải tìm các quy tắc xuất hiện trong năm đó của Tứ Trụ đó rồi tra trong sách để tìm số điểm hạn của chúng, rồi cộng tất cả các điểm hạn này sẽ biết hạn nặng hay nhẹ. Cái khó ở đây là các quy tắc này quá nhiều (tới vài ba trăm) vì chủ yếu là các trường hợp riêng mà tôi chưa có đủ ví dụ mẫu để có thể có gộp chúng thành những quy tắc tổng quát.

Mục đích chính của phần này là hướng dẫn cách tính toán (luận) để xác định xem 1 năm bất kỳ có tai họa hay không, nếu có thì xác định nó nặng nhẹ như thế nào.

Yêu cầu người đọc phải hiểu và tính toán được các ví dụ khác.

Phần 5 - Là phần giới thiệu về các cách giải cứu (được giới thiệu trong các ví dụ mẫu).

Mục đích chính là giới thiệu các cách giải cứu mà tôi đã tìm ra.

Yêu cầu bạn đọc hiểu được các cách giải cứu này và tự suy luận để tìm ra thêm các cách giải cứu khác.

Thường mỗi ví dụ Mẫu tôi đưa ra ở đây có thể có đủ cả 5 phần này cho nên tùy theo bạn đọc đã tự học đến phần nào thì chỉ cần xem đến phần đó để hiểu là đạt yêu cầu.

Nhâm Thiết Tiều là một cao thủ Tử Bình mà chúng ta biết là người bình cuốn “Trích Thiên Tủy“ (một trong các cuốn sách hay nhất về Tử Bình hiện nay).

Sau 3 tháng tự học theo chương trình này (tức bạn đã tự học xong Phần 3 của chương trình này) bạn đọc sẽ dễ dàng phát hiện được những bài luận về Hành Vận của tác giả này qua các ví dụ mẫu trong cuốn “Trích Thiên Tủy“ là sai hay đúng.

Vậy thì bạn đọc có quyền tự hào rằng mình đã thành cao thủ Tử Bình về luận Hành Vận này hay chưa ?

Sau đây là các ví dụ mẫu trong chương trình này mà mỗi ví dụ này đều có thể phục vụ cho tất cả bạn đọc mới bắt đầu tự học từ phần 1 cho đến phần 5. Trong các ví dụ mẫu này tôi sẽ đánh dấu từng phần cho bạn đọc dễ tìm để tự học và nghiên cứu.

Cám ơn các bạn tự học chương trình này.

Berlin – ngày 8 tháng 8 năm 2017

VULONG

TL: Trở thành cao thủ Tử Bình về luận Hành Vận trong 3 tháng ?

Đã gửi: 22:26, 25/08/17
gửi bởi yesterday2016
Các bạn vào đây xem trước nhé:

hoi-tu-tru/nhung-sai-lam-tram-trong-tro ... 97765.html

TL: Trở thành cao thủ Tử Bình về luận Hành Vận trong 3 tháng ?

Đã gửi: 22:29, 25/08/17
gửi bởi taytrong
VULONG đã viết: 22:23, 25/08/17 Trở thành cao thủ Tử Bình về luận Hành Vận trong 3 tháng ?

Nội dung chương trình này như sau :

Nội dung chính của chương trình này chủ yếu lấy trong cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“ đã được đăng trong chủ đề “Giải Mã Tứ Trụ“ ở mục Tử Bình bên trang web tuvilyso.org (trang này phải có nick mới xem được hình vẽ) hay trong chủ đề “Lớp Học Tứ Trụ sơ cấp và trung cấp cho mọi người“ ở mục “Tử Bình – Bát Tự“ bên trang web “Diễn Đàn Lý Học Đông Phương“.

(Qua 2 đường link sau :
1 - Đường link hỏng.
2 - http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/c ... E1%BB%9Di/).

Chương trình này gồm 5 phần :

Phần 1 - Là phần Đại Cương hay phần Nhập Môn chính là “Tuần Thứ Nhất“ trong cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“ của tôi (thời gian tự học khoảng 1 tháng, mỗi ngày chỉ cần học từ 1 đến 2 tiếng).

Mục đích chính của phần này là giới thiệu các khái niệm cơ bản của môn Tử Bình.

Yêu cầu của phần này là người học phải tự lập được Tứ Trụ cũng như xác định được các đại vận và tiểu vận cùng thời gian bắt đầu của chúng khi đã biết năm, tháng, ngày và giờ sinh của người đó.

Phần 2 - Là phần giới thiệu về Dụng Thần, Thân, … trong môn Tử Bình chính là “Tuần Thứ Hai“ trong cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“ (thời gian tự học khoảng 1 tháng, mỗi ngày chỉ cần học từ 1 đến 2 tiếng).

Mục đích chính của phần này là giới thiệu các khái niệm quan trọng nhất trong môn Tử Bình là Dụng thần và Thân vượng hay nhược và dùng Toán Học để xác định được chúng.

Yêu cầu của phần này là người học phải dùng Toán Học để xác định được Thân vượng hay nhược và Dụng Thần.

Phần 3 - Là phần giới thiệu về luận Hành Vận (thời gian tự học khoảng 1 tháng, mỗi ngày chỉ cần học từ 1 đến 2 tiếng).

Mục đích chính của phần này là hướng dẫn cách luận các vận trong môn Tử Bình để biết được các vận nào xấu và các vận nào đẹp. Phần này không có trong cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“, tôi sẽ hướng dẫn qua các ví dụ mẫu lấy trong các sách, trên các diễn đàn hay thực tế,…

Yêu cầu người đọc phải hiểu và luận được các ví dụ khác.

Phần 4 - Là phần giới thiệu về luận Vận Hạn (luận Lưu Niên – một năm bất kỳ) chính là “Tuần Thứ Ba“ trong cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“. Thời gian học tùy theo khả năng của từng người. Nó không khó vì chỉ phải tìm các quy tắc xuất hiện trong năm đó của Tứ Trụ đó rồi tra trong sách để tìm số điểm hạn của chúng, rồi cộng tất cả các điểm hạn này sẽ biết hạn nặng hay nhẹ. Cái khó ở đây là các quy tắc này quá nhiều (tới vài ba trăm) vì chủ yếu là các trường hợp riêng mà tôi chưa có đủ ví dụ mẫu để có thể có gộp chúng thành những quy tắc tổng quát.

Mục đích chính của phần này là hướng dẫn cách tính toán (luận) để xác định xem 1 năm bất kỳ có tai họa hay không, nếu có thì xác định nó nặng nhẹ như thế nào.

Yêu cầu người đọc phải hiểu và tính toán được các ví dụ khác.

Phần 5 - Là phần giới thiệu về các cách giải cứu (được giới thiệu trong các ví dụ mẫu).

Mục đích chính là giới thiệu các cách giải cứu mà tôi đã tìm ra.

Yêu cầu bạn đọc hiểu được các cách giải cứu này và tự suy luận để tìm ra thêm các cách giải cứu khác.

Thường mỗi ví dụ Mẫu tôi đưa ra ở đây có thể có đủ cả 5 phần này cho nên tùy theo bạn đọc đã tự học đến phần nào thì chỉ cần xem đến phần đó để hiểu là đạt yêu cầu.

Nhâm Thiết Tiều là một cao thủ Tử Bình mà chúng ta biết là người bình cuốn “Trích Thiên Tủy“ (một trong các cuốn sách hay nhất về Tử Bình hiện nay).

Sau 3 tháng tự học theo chương trình này (tức bạn đã tự học xong Phần 3 của chương trình này) bạn đọc sẽ dễ dàng phát hiện được những bài luận về Hành Vận của tác giả này qua các ví dụ mẫu trong cuốn “Trích Thiên Tủy“ là sai hay đúng.

Vậy thì bạn đọc có quyền tự hào rằng mình đã thành cao thủ Tử Bình về luận Hành Vận này hay chưa ?

Sau đây là các ví dụ mẫu trong chương trình này mà mỗi ví dụ này đều có thể phục vụ cho tất cả bạn đọc mới bắt đầu tự học từ phần 1 cho đến phần 5. Trong các ví dụ mẫu này tôi sẽ đánh dấu từng phần cho bạn đọc dễ tìm để tự học và nghiên cứu.

Cám ơn các bạn tự học chương trình này.

Berlin – ngày 8 tháng 8 năm 2017

VULONG
Con chào bác Vulong , lúc trước con nhờ hướng dẫn của bác , còn tìm được dụng thần của con là Kim , hỷ thần là hỏa , thổ ....

Thân con Vượng ( mộc ) 12.31

Con đang Nghiên cứu hành vận theo cách của bác mà chưa biết như nào .... Mong bác Xem qua cho con Hành Vận với ạ .

Hình ảnh

TL: Trở thành cao thủ Tử Bình về luận Hành Vận trong 3 tháng ?

Đã gửi: 22:38, 25/08/17
gửi bởi VULONG
Ví dụ mẫu 1 :

Sau đây là ví dụ số 1 (vua Càn Long) trong cuốn “Trích Thiên Tủy”:

“1 - Càn tạo: Tân Mão - Đinh Dậu - Canh Ngọ - Bính Tý

Bính thân/ ất mùi/ giáp ngọ/ quý tị/ nhâm thìn/ tân mão/ canh dần/ kỷ sửu/ mậu tý.

Thiên can canh tân bính đinh, chính phối hỏa luyện thu kim; địa chi tý ngọ mão dậu, cư ở bốn cung khảm ly chấn đoài. Cả bốn chi đều ở tứ chính, khí quán tám phương, nhưng ngũ hành thiếu thổ, tuy sinh vào mùa thu đương lệnh, chẳng luận vượng; rất cần tý ngọ gặp xung, thủy khắc hỏa, khiến cho ngọ hỏa chẳng khắc phá dậu kim, mà sinh phù nhật chủ;đổi lại mão dậu gặp xung, kim khắc mộc, tắc mão mộc không thể sinh trợ ngọ hỏa,chế phục đắc cách, sinh hóa hữu tình. Mão dậu tức chấn đoài chủ nhân nghĩa hơn người; tý ngọ tức khảm ly, là khí đứng đầu trong trời đất. Với lại khảm ly đắc nhật nguyệt chi chính thể, vô tiêu vô diệt, một tươi nhuận một ấm áp, tọa tại đoan môn, thủy hỏa ký tế. Cho nên tám phương qui phục, bốn biển cùng về, thiên hạ thái bình thịnh thế vậy (Thanh cao tông-càn long. Trích trong ái tân giác la mệnh phổ)“.


Đầu tiên chúng ta thử không để ý đến lai lịch của vị vua này và cũng không đọc bài luận của tác giả Nhâm Thiết Tiều mà chỉ ứng dụng các quy tắc tính điểm vượng của các can chi trong Tứ Trụ khi vào vùng tâm là bao nhiêu, sau đó sẽ xác định được Tứ Trụ này có Thân vượng hay nhược và dụng thần của nó là gì. Cuối cùng chúng ta luận Hành Vận theo dụng thần đã tìm được này xem nó có phù hợp với thực tế của vị vua này hay không ?

Mục đích chính nhằm kiểm tra xem tác giả Nhâm Thiết Tiều có luận đúng hay sai, từ đó mới có thể khẳng định được nội dung chương trình học này của tôi có đáng tin cậy hay không ?

Phần 1 : Tác giả đã xác định được Tứ Trụ này cùng các vận như sau :

Nam mạng : Tân Mão – Đinh Dậu – Canh Ngọ - Bính Tý

Các vận : Bính Thân/ Ất Mùi/ Giáp Ngọ/ Quý Tị/ Nhâm Thìn/ Tân Mão/ Canh Dần/ Kỷ Sửu/ Mậu Tý

Phần 2 :

Sau đây là sơ đồ dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần theo nội dung của chương trình học này :

Hình ảnh

Qua sơ đồ trên ta thấy Tân trụ năm và Canh trụ ngày đều bị khắc gần còn Dậu trụ tháng bị khắc trực tiếp bởi Đinh trụ tháng; còn Bính trụ giờ bị khắc trực tiếp và Ngọ trụ ngày bị khắc gần bởi Tý trụ giờ. Do vậy ta phải khoanh tròn 5 can chi bị khắc gần hay trực tiếp này để biết chúng không còn khả năng sinh hay khắc các can chi khác.

Ta thấy :
1 – Tân có 9đv bị Đinh khắc gần giảm 1/3đv và vào vùng tâm giảm thêm 2/5đv còn 9.2/3.3/5đv = 3,6đv.
2 – Đinh ở trong vùng tâm có 6đv bị Tý khắc cách 2 ngôi giảm 1/10đv còn 5,4đv.
3 – Canh ở trong vùng tâm có 10đv bị Đinh khắc gần giảm 1/3đv còn 10.2/3đv = 6,67đv.
4 – Bính ở trong vùng tâm có 3đv bị Tý khắc trực tiếp giảm 1/2đv còn 3.1/2đv = 1,5đv.
5 – Tý có 7đv không bị can chi nào khắc, vào vùng tâm giảm 2/5đv còn 7.3/5đv = 4,2đv.
6 – Ngọ ở trong vùng tâm có 3đv bị Tý khắc gần giảm 1/3đv còn 3.2/3đv = 2đv.
7 – Dậu có 9đv bị Đinh khắc trực tiếp giảm 1/2đv và vào vùng tâm giảm thêm 2/5đv còn 9.1/2. 3/5đv = 2,7đv.
8 – Mão có 3đv không bị can chi nào khắc, vào vùng tâm giảm 1/2đv còn 3.1/2đv = 1,5đv.

Khi cộng tất cả các điểm trong vùng tâm của từng hành ta có kết quả trong sơ đồ trên. Ta thấy Thân (Kim) có 12,97đv lớn hơn Thực Thương (Thủy), Tài (Mộc) và Quan Sát (Hỏa) trên 1đv nên Tứ Trụ này có Thân là vượng (theo lý thuyết của tôi).

Thân vượng mà Kiêu Ấn (Thổ) ít (vì chỉ có can tàng phụ là Kỷ trong Ngọ trụ ngày) mà Thực Thương (Thủy) không nhiều (vì chỉ có 1 can chi là Tý). Do vậy dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát là Đinh ở trụ tháng (vì Đinh vượng hơn Bính), hỷ thần là Thủy và Mộc còn kỵ thần là Thổ và Kim (trên sơ đồ điểm vượng trong vùng tâm được ghi bên dưới 5 hành còn điểm hạn được ghi bên trên tương ứng với hành đó).

(Vì Thân có 3 can-chi còn nắm lệnh nên được thêm 1 can-chi thành 4 can-chi nhưng bị khắc gần và trực tiếp 3 can chi nên bị giảm mất 1 can-chi (bị khắc gần và trực tiếp 4 can-chi thì mới bị giảm 2 can-chi) còn lại 3 can-chi. Quan Sát có 3 can-chi bị khắc gần và trực tiếp 2 can-chi nên bị giảm mất 1 can-chi còn 2 can-chi (ở đây Thân không lớn hơn Quan Sát 5đv nên không được thêm 1 can-chi). Do vậy Quan Sát có 2 can-chi còn Thân có 3 can-chi nên dụng thần vẫn có thể lấy Quan Sát là Đinh (vì Đinh vượng hơn Bính), nếu ở đây Thân và Quan Sát có số can-chi bằng nhau thì dụng thần đầu tiên phải là Thực Thương (đây là lý thuyết mà tôi đã tìm ra để xác định dụng thần khi thế lực của Thân và Quan Sát tương đương với nhau)).

Phần 3 :

Chú ý : Theo lý thuyết của tôi thì hành của can đại vận mang hành là dụng thần thì được gọi là vận dụng thần, mang hành hỷ thần thì được gọi là vận hỷ thần còn mang hành kỵ thần thì được gọi là vận kỵ thần. Chi của đại vận chủ yếu chỉ để xác định độ vượng suy của các can chi trong Tứ Trụ và can chi đại vận trong đại vận đó, ngoài ra nếu nó hợp với chi trong Tứ Trụ hóa cục thì là đẹp nếu hóa cục đó mang hành hỷ dụng nhưng được coi là xấu nếu nó hóa thành hành kỵ thần.

Theo sơ đồ tính toán trên thì các hành hỷ dụng thần của Tứ Trụ này là Thủy, Mộc và Hỏa nên các vận :

- Bính Thân, Ất Mùi, Giáp Ngọ, Quý Tị và Nhâm Thìn đều có các Can (Bính, Ất, Giáp, Quý và Nhâm) là hỷ dụng thần còn chi đều theo phương hỷ dụng thần (chủ yếu là Mộc và Hỏa), do vậy các vận này đều đẹp, điều này quá phù hợp với thực tế của vua Can Long.
- Tân Mão và Canh Dần mặc dù là các vận kỵ thần (vì Canh và Tân mang hành kỵ thần) nhưng Canh và Tân không những tử tuyệt tại đại vận mà còn bị Bính trong Tứ Trụ vượng ở đại vận khắc và Đinh được lệnh trong Tứ Trụ khắc (nhất là vào các năm Đinh vượng ở lưu niên). Do vậy vận này không được xem là vận kỵ thần mà trở thành vận hỷ thần. Điều này cũng quá phù hợp với thực tế của vua Càn Long.
- Kỷ Sửu và Mậu Tý là các vận kỵ thần (vì Mậu và Kỷ mang hành kỵ thần) mặc dù Mậu và Kỷ không bị can nào trong Tứ Trụ khắc hay hợp nhưng may mắn là chúng đều tử tuyệt tại đại vận và không khắc can nào trong Tứ Trụ là hỷ dụng thần cả. Do vậy vận này được xem là vận bình thường, điều này quá là phù hợp với thực tế của vua Càn Long.

Đến đây ta có thể khẳng định chính xác dụng thần của Tứ Trụ này là Đinh (Quan tinh). Bởi vì rõ ràng dụng thần Đinh không những vượng mà còn không bị can chi nào trong Tứ Trụ khắc hay hợp (khắc xa không được tính), trong khi Canh, Tân và Dậu toàn là các kỵ thần đều bị khắc gần hay trực tiếp bởi chính Quan tinh Đinh, đẹp hơn nữa là Bính và Ngọ đều là Sát tinh và đất của Sát là “Quan Sát Hỗn Tạp“ nhưng may mắn được Tý trụ giờ là Thực Thương chế ngự, không còn “Quan Sát Hỗn Tạp“ nữa nên mệnh này đã đạt tới mệnh đại phú quý.

Bây giờ ta mới xem bài luận của Nhâm Thiết Tiều đúng hay sai ?

Ngay từ câu: “ngũ hành thiếu thổ, tuy sinh vào mùa thu đương lệnh, chẳng luận vượng” đã đủ cho chúng ta hiểu rằng tác giả đã kết luận Tứ Trụ này có Thân nhược là sai, chỉ vì tác giả cho rằng “ngũ hành thiếu Thổ” (tức không có Kiêu Ấn trong Tứ Trụ).

Đây là một kết luận cực kỳ sai lầm khi xét Thân vượng hay nhược.

Khi mà tác giả đã kết luận Tứ Trụ này Thân nhược thì dĩ nhiên hỷ dụng thần sẽ ngược lại với cách xác định và tính toán theo chương trình học của tôi vừa trình bầy ở trên thì mọi ý hay câu luận để phù hợp với thực tế của vua Càn Long của tác giả chỉ là “Gọt Đẽo“, tức sai mà thôi.

Vậy thì chỉ sau 3 tháng học chương trình này của tôi bạn đọc đã tự hào giỏi hơn tác giả Nhâm Thiết Tiều về luận Hành Vận hay chưa ?

Hy vọng các bạn học chương trình này tới hết Phần 3 một cách dễ dàng (mỗi ngày các bạn chỉ cần dành 1 tới 2 tiếng để học chương trình này thì sau khoảng 3 tháng chắc chắn sẽ thành công).

Chúc các bạn thành công.

Berlin ngày 10 tháng 8 năm 2017

VULONG

TL: Trở thành cao thủ Tử Bình về luận Hành Vận trong 3 tháng ?

Đã gửi: 22:40, 25/08/17
gửi bởi intheend123mc
Sao từ ngày 8 sang ngày 10 nhanh vậy em tưởng tây nó khác ai ngờ bác viết nhầm ngày rồi kìa.

TL: Trở thành cao thủ Tử Bình về luận Hành Vận trong 3 tháng ?

Đã gửi: 22:52, 25/08/17
gửi bởi Khúc Vũ
Cứ tra bảng này tìm dụng thần cố định cho nhanh...vào từng vận dụng thần thay đổi tra tiếp cũng theo bảng này này...chỉ cần 3 giờ là làm thầy được ngay!

3 với chả tháng.... :D

TL: Trở thành cao thủ Tử Bình về luận Hành Vận trong 3 tháng ?

Đã gửi: 22:55, 25/08/17
gửi bởi VULONG
Ví dụ mẫu 2 :

Ví dụ - Nam (hhn6789) sinh ngày 27/4/1993 lúc 7.01´. Theo như đương số cho biết thì vào tháng 9/2001 phải cấp cứu suýt chết và phải nằm viện điều trị vì sốt xuất huyết.

Nói là phải cần 3 tháng cho những ai chưa biết gì về môn Tử Bình chứ thực ra điều cốt tủy là chỉ cần nắm chắc 12 quy tắc sau đây của tôi là có thể “Tung Hoành Ngang Dọc” được rồi, còn các cái khác chỉ cần đọc để biết mà thôi. Sau đây là 12 quy tắc dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần :

Chỉ cần 12 quy tắc này các bạn có thừa khả năng để xác định được chính xác Thân vượng hay nhược và dụng thần (trừ ngoại cách) hơn bất cứ cao thủ Tử Bình nào trên mạng ảo.

1 – Sơ đồ Tứ Trụ được biểu diễn bởi hình chữ nhật - có 3 hình vuông liền nhau biểu diễn cho 4 trụ.
2 - Phương pháp này chỉ sử dụng tính khắc của Ngũ Hành bỏ qua tính chất Âm Dương (vì nếu sử dụng chúng ở lý thuyểt này sẽ sai).
3 – Các can hay chi bị khắc trực tiếp (cùng trụ) và khắc gần (ngay trụ bên cạnh) thì chúng không có khả năng sinh hay khắc các can chi khác.
4 – Can hay chi bị khắc trực tiếp (cùng trụ) giảm 1/2 điểm vượng của nó, bị khắc gần (trụ bên cạnh) giảm 1/3 đv của nó, bị khắc cách 1 ngôi giảm 1/5đv của nó, bị khắc cách 2 ngôi giảm 1/10đv của nó và bị khắc cách 3 ngôi giảm 1/20đv của nó.
5 – Can chi trong tổ hợp không sinh hay khắc được các can chi khác ở ngoài tổ hợp và ngược lại trừ khi chúng cùng trụ hoặc phải ở trong 2 tổ hợp đồng trụ (tức tất cả can hay chi của 2 tổ hợp này đều từng cặp cùng trụ với nhau).
6 – Can hay chi ngoài tổ hợp bị can hay chi trong tổ hợp khắc cùng trụ vẫn có khả năng sinh hay khắc với các can chi khác như bình thường. Ngược lại can hay chi trong tổ hợp bị can hay chi cùng trụ nhưng không ở trong hợp khắc vẫn khắc được các can chi khác trong cùng tổ hợp đó như bình thường.
7 – Khi vào vùng tâm nó bị giảm thêm 2/5đv của nó nếu nó ở vòng ngoài 1 (tức can năm, chi tháng và chi giờ) và giảm thêm 1/2đv của nó nếu nó ở vòng ngoài 2 (tức chi năm). Các can chi trong vùng tâm không bị giảm thêm (tức can tháng, can ngày, can giờ và chi ngày).
8 – Can và chi cùng trụ có thể sinh được cho nhau 1/2đv của nó nếu chi hay can chủ sinh có can hay chi bên cạnh nó mang hành sinh cho nó, và 1/3đv của nó khi can hay chi bên canh chủ sinh mang hành giống nó (khi 2 chi cùng trụ này không bị khắc trực tiếp hay bị khắc gần,….).
9 – 3 can hay 3 chi liền nhau trong Tứ Trụ tương sinh cho nhau mà không bị khắc trực tiếp, khắc gần hay bị hợp thì can chi chủ sinh ở giữa có thể sinh cho can chi mà nó sinh cho 1/6,5đv của nó, nhưng chỉ sinh được 1/12đv của nó khi can chi bên cạnh nó cùng hành với nó.
10 – Nhật can (can ngày) ở trạng thái Lâm Quan có thêm 4,05đv tại chi đó và 4,3đv tại chi nó ở trạng thái Đế vượng (trừ chi tháng). Điểm vượng Lâm quan (Lộc) và Đế vượng (Kình dương) này chỉ bị giảm như bình thường nếu nó bị khắc trực tiếp (bởi can hay chi cùng trụ) hay bởi ít nhất từ 2 lực khắc khác khi nó cùng hành với chi mà nó đóng (điểm Lộc hay Kình dương chính là điểm Đắc Địa của Nhật can tại chi đó).
11 – Trong Tứ Trụ mà một can bất kỳ có ít nhất 2 chi cùng hành mà nó ở trạng thái Lâm quan hay Đế vượng ở các chi này thì những can này có thêm điểm Lộc hay Kình dương tại chi cùng trụ với nó, trừ chi tháng (đây cũng là điểm Đắc Địa của các can không phải Nhật can).
(Tôi sẽ thêm các quy tắc mới vào đây sau, nếu sử dụng tới chúng - vì quên – hoặc chúng mới được tìm ra.)

12 – Điểm vượng các trạng thái của Can hay Chi trong Tứ Trụ mà tôi xác định được, đã được trình bầy trong bảng “Sinh Vượng Tử Tuyệt“ như sau :

Hình ảnh

Sau đây là ứng dụng 12 quy tắc này cho ví dụ cụ thể của hnn6789 :

Phần 1 và 2 :

Sơ đồ dùng 12 quy tắc Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần :
Hình ảnh

Qua sơ đồ trên ta thấy có lục hợp của Thìn trụ tháng với Dậu trụ năm không hóa nên ta phải khoanh tròn 2 chi này rồi nối với nhau như mô tả trong sơ đồ. Bính trụ tháng bị khắc gần bởi Quý trụ năm, còn Mậu trụ ngày bị khắc trực tiếp và Thìn trụ giờ bị khắc gần bởi Dần trụ ngày nên ta phải khoanh tròn Bính và Mậu và Thìn để biết chúng không có khả năng sinh hay khắc các can chi khác.

Ta thấy :
1 – Quý có 4,3đv được thêm 1,5đv của Dậu cùng trụ sinh cho (vì Dậu có Thìn bên cạnh mang hành sinh cho nó) thành 5,8đv nhưng vào vùng tâm bị giảm 2/5 còn 5,8.2/3đv = 3,48đv.
2 – Bính trụ tháng ở trong vùng tâm có 8đv bị Quý khắc gần giảm 1/3đv còn 5,33đv.
3 – Mậu ở trong vùng tâm có 8đv bị Dần cùng trụ khắc trực tiếp giảm 1/2đv còn 8.1/2đv = 4đv.
4 – Bính trụ giờ có 8đv ở trong vùng tâm bị Nhâm trụ năm khắc cách 2 ngôi giảm 1/10 còn 8.9/10đv = 7,2đv.
5 – Thìn trụ giờ có 8đv bị Dần khắc gần giảm 1/3đv và vào vùng tâm giảm thêm 2/5đv còn 8.2/3.3/5đv = 3,2đv.
6 – Dần ở trong vùng tâm có 5đv không bị can chi nào khắc cả.
7 – Thìn trụ tháng có 8đv không bị can chi nào khắc, vào vùng tâm giảm 2/5đv còn 8.3/5đv = 4,8đv.
8 – Dậu có 3đv không bị can chi nào khắc, vào vùng tâm giảm 1/2 đv còn 3.1/2đv = 1,5đv.

Khi cộng tất cả các điểm trong vùng tâm của từng hành ta có kết quả trong sơ đồ trên. Ta thấy Thân (Thổ) có 12đv lớn hơn Thực Thương (Kim), Tài (Thủy) và Quan tinh (Mộc) 1đv nên Tứ Trụ này có Thân là vượng (theo lý thuyết của tôi) mà Kiêu Ấn là nhiều (vì có tới 2 can trong vùng tâm được lệnh) nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh là Quý ở trụ năm, Kim là hỷ thần còn Mộc, Hỏa và Thổ đều là kỵ thần.

Phần 3 :

Ta xét các vận :

Ất Mão và Giáp Dần : Ta thấy can chi của 2 vận này đều là kỵ thần, Giáp và Ất đều cường vượng ở vận, chúng lại không bị chế ngự bởi can nào trong Tứ Trụ cả nên 2 vận này là xấu nhiều hơn tốt.

Quý Sửu và Nhâm Tý : Ta thấy các can chi này đều là dụng thần (Sửu thuộc phương bắc là Thủy) không những Quý và Nhâm cường vượng ở vận mà còn chế ngự 2 Bính là kỵ thần trong Tứ Trụ là cực đẹp. Đây là 2 vận dụng thần lên ngôi là 2vận huy hoành nhất của cuộc đời (mặc dù bị Mậu trong Tứ Trụ được lệnh nhưng nhược ở vận khắc).

Tân Hợi : Ta thấy vận Tân Hợi mặc dù Tân bị 2 Bính trong Tứ Trụ tranh hợp thật nên Tân vô dụng nhưng 2 Bính trong Tứ Trụ là kỵ thần cũng vô dụng còn tốt hơn là Tân vô dụng, thêm dụng thần Quý cường vượng ở vận Hợi là cực đẹp, còn đẹp hơn nữa khi lục hợp của Thìn với Dậu hóa Kim là hỷ thần thành công, vì vậy vận này có thể được xem là vận dụng thần.

Canh Tuất : Ta thấy can chi đều là hỷ thần (vì Canh là hỷ thần còn Tuất theo phương hỷ thần Kim) nhưng đáng tiếc là đại vận Canh Tuất lại thiên khắc địa xung với cả trụ tháng và trụ giờ Bính Thìn, vì vậy vận này chỉ được xem là vận trung bình.

Kỷ Dậu và Mậu Thân : Ta thấy can là Kỷ là kỵ thần vượng ở đại vận khắc chết dụng thần Quý còn Mậu là kỵ thần nhược ở đại vận nhưng lại hợp chặt dụng thần Quý cho nên vận này xấu nhiều hơn tốt, mặc dù chi của chúng theo phương hỷ thần Kim.

Phần 4 : Thường phần này dùng để dự đoán vận hạn năm 2001 có tai họa hay không nhưng ở đây thì lại ngược lại là tính xem giờ Bính Thìn có gây ra tai họa nặng tới mức phải cấp cứu do bị sốt xuất huyết vào năm 2001 hay không ?

Sơ đồ dùng Toán Học để tính điểm hạn vào tháng 9 năm 2001, giờ Bính Thìn :
Hình ảnh

Tháng 9/2011 là năm Tân Tị, nó thuộc đại vận Ất Mão và tiểu vận Đinh Mùi (vì đã qua ngày sinh nhật 27/4).

Vào vận Ất Mão có có tam hội Dần Mão Thìn có 4 chi giữa Tứ Trụ với đại vận hóa Mộc thành công đã phá tan lục hợp của Thìn trụ tháng với Dậu trụ năm.

Tới năm Tân Tị có 2 Bính trong Tứ Trụ hợp với Tân lưu niên là tranh hợp thật nên 3 can này coi như không có, vì vậy mà bán hợp của Dậu ở trụ năm với thái tuế Tị không hóa.

1 – Tam hội Dần Mão Thìn có 4 chi mà 3 chi trong Tứ Trụ, 2 trong 3 chi này hóa cục khác hành của chúng nên phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm.

Mộc có 5đv được thêm 4,8đv của Thìn trụ tháng và 3,2đv của Thìn trụ giờ thành 13đv. Thổ có 12đv bị mất 8đv (vì 2 Thìn đã hóa Mộc) còn 4đv. Hỏa có 12,83đv bị mất hết do tranh hợp thật. Lúc này Thân từ vượng trở thành nhược mà Quan Sát là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn là Bính tàng trong Dần trụ ngày, Thổ là hỷ thần còn Kim, Thủy và Mộc đều là kỵ thần.

Vì Hỏa là kỵ 1 động nên ta phải tính thêm điểm vượng ở những can chi động ở tuế vận.
Mộc có 13đv được thêm 7,67đv của Mão đại vận và 7,67đv của Ất đại vận ( là điểm vượng trung bình của chúng ở lưu niên - Ất và Mão đều có 9đv tại đại vận Mão và 2 lần điểm vượng của chúng ở lưu niên là 2.7đv, vì vậy điểm vượng trung bình là (9 + 2.7).1/3đv = 7,67đv) thành 28,33đv.
Hỏa có 0đv được thêm 10 đv của Tị thái tuế thành 10đv (vì Tị ở trong hợp không hóa nên điểm vượng không được tăng gấp đôi nhưng tính lực xung khắc vẫn được tăng gấp đôi).
Các hành khác không thay đổi vì vậy Mộc là kỵ vượng.

1 – Tam hội Mộc có 4 chi có điểm hạn được tăng gấp đôi là 1.2đh (vì tam hội Mộc có 4 chi và là kỵ 1) và Mão đại vận có 0,5đh kỵ vượng.
2 – Dụng thần Bính tàng trong Dần có 1đh (vì Dần hợp với tuế vận hóa cục khác hành) và vượng ở lưu niên có -1đh.
2 Bính trong Tứ Trụ tranh hợp thật đều là dụng thần chính nên mỗi Bính có 1đh.
3 – Nhật can Mậu vượng ở lưu niên có -1đh.
4 - Ất đại vận vượng ở lưu niên có 0,5đh can động và khắc Mậu trụ ngày có 0,5đh (vì khắc trái dấu) và Ất có 0,5đh kỵ vượng (vì Mộc là kỵ vượng).
Mùi tiểu vận có 1 cát thần có -0,13đh.
5 – Đất trên thành trụ ngày có Mậu vượng ở lưu niên nên khắc nuớc Suối ở đại vận có 1đh.

Tổng số có 5,87đv nhưng được giảm 1,25đh do có tam hội 4 chi, trong đó có 2 chi trong Tứ Trụ khác nhau còn (5,87 – 1,25)đh = 4,62đv. Số điểm hạn này có thể chấp nhận được vì nó phù hợp với thực tế là nặng tới mức phải cấp cứu.

Điều chứng minh này quá đủ để khẳng định người này phải sinh vào giờ Bính Thìn.

Phần 5 :

Tôi không hiểu vì sao điểm hạn ở tiểu vận đầu là Mậu Thân (trước ngày sinh nhật 27/4) cao hơn nhiều tiểu vận Đinh Mùi (sau ngày sinh nhật 27/4) vì có thêm 1đh của lục hợp của Thân tiểu vận với Tị thái tuế hóa Thủy thành công (vì lực hợp của Thân với Tị có 5,37đv còn lực hợp của Dậu với Tị chỉ có 3,03.1/3đv do phải hợp thêm với 2 Thìn), vậy mà tai họa lại không xẩy ra ở các tháng Dần, Mão và Thìn.

Tại sao lại như vậy, những thông tin nào đã ngăn cản tai họa này xẩy ra (chả nhẽ Dậu không bị “Tranh Hợp Quên Xung” mà đã xung Mão đại vận phá tan tam hội này chăng) ?

TL: Trở thành cao thủ Tử Bình về luận Hành Vận trong 3 tháng ?

Đã gửi: 23:02, 25/08/17
gửi bởi VULONG
"Tại sao lại như vậy, những thông tin nào đã ngăn cản tai họa này xẩy ra (chả nhẽ Dậu không bị “Tranh Hợp Quên Xung” mà đã xung Mão đại vận phá tan tam hội này chăng) ?"

Theo lý thuyết của tôi thì Dậu trong Tứ Trụ xung Mão ở tuế vận không thể phá tan được tam hội có 4 chi ngoài Tứ Trụ. Cho nên chúng ta phải đi tìm theo các hướng khác để có thể giải đáp được cho câu hỏi này.

Qua sơ đồ dùng Toán Học để tính điểm hạn ở tiểu vận Đinh Mùi (sau ngày sinh nhật 27/4) ở trên đã cho ra kết quả ứng hợp với tai họa đã xẩy ra trong thực tế của đương số là vào tháng 9 bị sốt suất huyết nặng tới mức phải cấp cứu.

Bây giờ ta thử dùng Toán Học để tính điểm hạn ở tiểu vận Mậu Thân (tức trước ngày sinh nhật 27/4) xem sao.

Sơ đồ dùng Toán Học để tính điểm hạn ở tiểu vận Mậu Thân năm 2001, giờ Bính Thìn :

Hình ảnh

Qua sơ đồ tính toán trên ta thấy có những thay đổi sau :
1 – Lực hợp lục hợp của Thân tiểu vận với Tị thái tuế có (4,1 + 2.6).1/3đv = 5,37đv (là điểm vượng trung bình của 4,1đv ở Mão đại vận và 2 lần 6đv ở lưu niên) là lớn hơn lực hợp bán hợp của Dậu trụ tháng với Tị lưu niên chỉ có (3 + 3,1 +2.3).1/3.1/3đv = 3,03.1/3đv = 1,01đv (vì phải hợp với 2 Thìn trong Tứ Trụ). Do vậy lục hợp của Thân tiểu vận với Tị lưu niên hóa Thủy thành công.
2 – Sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận Tị lưu niên đã hóa Thủy nên Hỏa có 0đv. Thủy có 3,48đv được thêm 2.10đv của Tị lưu niên và 5,37đv của Thân tiểu vận thành 28,85đv. Mộc vẫn có 28,33đv. Còn Thổ có 4đv được thêm 4,8đv của Mậu tiểu vận thành 8,8đv.

Vì sau khi tính thêm điểm vượng ở tuế vận Thủy không lớn hơn kỵ 1 là Hỏa 5đv nên Hỏa nghiễm nhiên vẫn là kỵ 1 và là kỵ vượng (theo lý thuyết của tôi). Do vậy dụng thần không thay đổi vẫn là Bính tàng trong Dần trụ ngày.
3 - Thủy cục có 1đh và sinh cho Mộc cục có 2.0,6đh (vì hành Mộc có 1đh).
4 - Ất đại vận vượng ở lưu niên khắc Mậu trụ ngày và Mậu tiểu vận mỗc lực có 0,7.1/2đh = 0,35đh (vì khắc trái dấu) riêng lực khắc Mậu tiểu vận giảm thêm 50% còn 0,18đh. Ất có 0,5đh can động và 0,5đh kỵ vượng.
Mậu tiểu vận có 1 cát thần có -0,13đh nhưng bị giảm 18% do bị Ất khắc còn -0,11đh.

Tổng số có 7,52đh được giảm 1,25đh còn 6,27đh. Số điểm này là quá cao nó thừa sức gây ra tử vong nên không thể chấp nhận được theo lý thuyết của tôi. Nhưng thực tế có tới 6 đến 7 nghìn nam giới trong tổng số 7 tỷ người hiện nay có cùng Tứ Trụ này thì một điều không thể chối cãi được là không thể cùng chết ở tiểu vận này như vậy.

Vậy thì tại sao trong 6 đến 7 nghìn người này lại có người chết, có người lại không chết như đương số này ?

Giả sử như phương pháp của tôi và các quy tắc được sử dụng ở đây là hoàn toàn chính xác cũng như không thể thêm bất kỳ một quy tắc mới nào vào trong trường hợp này thì dĩ nhiên để có thể giải thích được trường hợp này thì không còn cách nào khác phải thừa nhận có những yếu tố từ bên ngoài đã tác động vào Mệnh này mới có thể giúp đương số không những thoát chết mà còn chả có tai họa nặng nào cả.

Vậy thì những yếu tố bên ngoài là gì mà lại có một sức mạnh kỳ diệu đến như vậy ?

Yếu tố đầu tiên phải kể đến là các vị Thần Linh sau mới đến những người thân đã mất (thường được gọi là Gia Tiên) của đương số linh thiêng đã phù hộ cho đương số tai qua nạn khỏi.

Đương số đã viết :

“Từ ngày ông tinh thông bùa ngãi, thuật số, và các phương pháp chữa các bệnh khoa học bó tay thì đã làm phúc giúp người không lấy tiền vô số kể, còn cho người ta ở lại dưỡng bệnh. Nhưng bản thân em đoán là ông tích đức nhưng bù lại số mệnh ông phải trả giá, nhiều lần muốn lấy đi mạng ông, nhưng ông mạng lớn, mạng rất đặc biệt mà em không tiện nói ra, nhưng lấy không được quay sang lấy mạng của vợ ông, rồi lần lượt những đứa con ông nhưng vẫn không được vì có sự giúp sức, em cũng không tiện nói.
Sau đó số phận lấy đi gia tài của ông. ông nghèo khổ, con cái thất học, nhưng vẫn giúp người ở xa mới đến nuôi họ ăn ở cho đến khi có việc làm, rồi giúp họ đánh cá ghe thuyền, họ giựt ghe, giựt của cải của ông đến mức đường cùng nhưng ông vẫn cười và sống tốt. cuộc đời ông chưa bao giờ một lần ngừng lại việc giúp người dù biết chắc chắn rằng người ta sẽ quay sang đâm mình. Ông em đi sớm với tuổi già bệnh tật lở loét. Con cái ông người nào số mệnh bình thường thì khá giả ấm êm hạnh phúc, người nào số tận thì có cuộc sống bình thường nhưng ấm êm”.


Qua câu :

“…nhiều lần muốn lấy đi mạng ông, nhưng ông mạng lớn, mạng rất đặc biệt mà em không tiện nói ra, nhưng lấy không được quay sang lấy mạng của vợ ông, rồi lần lượt những đứa con ông nhưng vẫn không được vì có sự giúp sức, em cũng không tiện nói…”.

Đủ cho chúng ta hiểu một cách hợp lý, có logic là ông ngoại của hhn6789 chắc chắn có Thần Linh phù hộ cho ông ta cùng những đứa con của mình thoát chết nhưng lại không phù hộ cho vợ ông ta. Đúng như tôi đã nói đi xin các vị Thần Linh giúp nhưng chưa chắc được các vị Thần Linh này đồng ý giúp.

Bây giờ có thể giải thích vì sao ở tiểu vận Mậu Thân, hhn6789 không chết mà cũng chả bị tai họa nào nặng cả là do chính các vị Thần Linh hoặc chính ông ngoại của hhn6789 phù hộ, giúp đỡ mà tai qua nạn khỏi nhưng chắc chắn có nhiều người cùng Tứ Trụ với hhn6789 không gặp được may mắn như vậy.

Bây giờ chúng ta lật ngược lại vấn đề là một người khác cùng Tứ Trụ với hhn6789 nhưng không hề có các vị Thần Linh hay Gia Tiên của mình phù hộ, giúp đỡ…mà cũng không chết lẫn chả gặp một tai họa nặng nào cả thì phải giải thích như thế nào ?

Tất nhiên cái đầu tiên vẫn phải thừa nhận lý thuyết và các quy tắc mà tôi đã áp dụng cho ví dụ này hoàn toàn đúng, chính xác… mà muốn giải thích được điều này thì rõ ràng lý thuyết của tôi còn thiếu ít nhất 1 quy tắc nào đó có thể giải thích được trường hợp này một cách hợp lý, có logic...

Vậy thì quy tắc đó có nội dung như thế nào ?

Quy tắc đó có thể có nội dung như sau :

“Riêng tôi có thêm ý tưởng là hàng năm thì khoảng thời gian sinh trước ngày sinh nhật sẽ ứng hợp theo lá số có giờ sinh trước giờ khe, còn khoảng thời gian sau ngày sinh nhật của năm đó sẽ ứng hợp với lá số sau giờ khe”.

Nếu áp dụng quy tắc này thì tổng điểm hạn sẽ được giảm 50% vì trong Tứ Trụ có tam hội Dần Mão Thìn có 3 chi liền nhau (vì sinh giờ Mão) nên cho dù tổng số có tới 6,27đh hay tới 8,7đh (thực chất nếu hhn6789 sinh vào giờ Mão là giờ trước giờ khe sẽ có tổng số chỉ khoảng 5 đến 5,5đh) thì khi được giảm 50% chỉ còn 6,27.50%đh = 3,14đh hay 8,7.50%đh = 4,35đh. Số điểm hạn này là thấp nó không thể gây ra bất kỳ 1 tai họa nặng nào cả (vì theo lý thuyết của tôi phải có 4,4đh mới có thể phải đến bệnh viện để nằm điều trị).

Đây chỉ là một giả thiết về một quy tắc có thể xẩy ra với Tứ Trụ này có giờ sinh lúc 6.57´ nó quá gần với giờ khe là 6.59´.99´- 7.00´.00´.

Nên nhớ rằng đây chỉ là 1 giả thiết nên nó cần có nhiều ví dụ tương tự để kiểm tra mới có thể kết luận được tính đúng hay sai của nó. Tất cả các quy tắc mà tôi đã tìm ra để viết lên cuốn “Giải Mã Tứ Trụ” đều được tìm ra từ các ví dụ trong thực tế như vậy.

TL: Trở thành cao thủ Tử Bình về luận Hành Vận trong 3 tháng ?

Đã gửi: 23:15, 25/08/17
gửi bởi VULONG
Ví dụ mẫu 3 :

Sau đây là ví dụ số 50 trong cuốn “Trích Thiên Tủy” :

"50 - Nhâm Thân - Bính Ngọ - Canh Ngọ - Canh Thìn

Ðinh mùi/ mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý

Trụ này bính hỏa sát tinh tuy vượng, nhâm thủy có căn gốc ở thân kim, nhật chủ được canh kim tương trợ, được chi thìn thổ tương sinh. Dụng nhâm thủy chế sát, thiên can đồng thuận; địa chi đồng thuận, nhất chế nhất hóa, thật là hữu tình. Vận kim thủy thật đẹp, quan lộ hiển hách, làm quan đến chức tổng đốc".


Giống như ví dụ Mẫu 1 (vua Càn Long) đầu tiên ta không cần quan tâm tới bài luận của tác giả mà chỉ ứng dụng “12 quy tắc Toán học để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần” xem sao ?

Phần 1 và 2 : (Phần 1 tác giả đã xác định được Tứ Trụ và các đại vận)

Sơ đồ dùng 12 quy tắc Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần :

Hình ảnh

Qua sơ đồ mô tả trên ta thấy Bính trụ tháng bị Nhâm trụ năm khắc gần, Thân trụ năm bị Ngọ trụ tháng khắc gần và Canh trụ ngày bị Ngọ trụ ngày khắc trực tiếp (vì cùng trụ). Do vậy ta phải khoanh tròn Bính, Thân và Canh (trụ ngày) này lại để biết chúng không còn khả năng sinh hay khắc các can chi khác.

Ta thấy :

1 – Nhâm trụ năm có 4,1đv bị Thìn trụ giờ khắc cách 3 ngôi giảm 1/20 và vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 4,1.19/20.3/5đv = 2,34đv.
2 – Bính trụ tháng ở trong vùng tâm có 10đv bị Nhâm trụ năm khắc gần giảm 1/3 còn 6,67đv.
3 – Canh trụ ngày có 7đv bị Ngọ trụ ngày khắc trực tiếp giảm 1/2 và Ngọ trụ tháng khắc cách 1 ngôi giảm thêm 1/5 còn 10.1/2.4/5đv = 2,8đv.
4 – Thân trụ năm có 7đv được thêm 4,05đv (vì là trạng thái Lộc của Nhật can) thành 11,05đv nhưng bị Ngọ trụ tháng khắc gần giảm 1/3, còn bị Ngọ trụ ngày khắc cách 1 ngôi giảm thêm 1/5 và vào vùng tâm giảm tiếp ½ còn 2,95đv.
5 – Ngọ trụ tháng có 10đv bị Nhâm trụ năm khắc cách 1 ngôi giảm 1/5 và vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 4,8đv.
6 – Ngọ trụ ngày ở trong vùng tâm có 10đv bị Nhâm trụ năm khắc cách 2 ngôi giảm 1/10 còn 9đv.
7 - Thìn trụ giờ có 10đv được Ngọ trụ ngày sinh cho 1/12đv của nó là 9.1/12đv = 0,75đv thành 10,75đv nhưng vào vùng tâm hỉam 2/5 còn 6,45đv.
8 - Canh trụ giờ ở trong vùng tâm có 7đv được Thìn cùng trụ sinh cho 1/2đv của nó là (10 + 0,75).1/2đv = 5,38đv thành (7 + 5,38)đv = 12,38đv (vì Thìn có Ngọ bên cạnh mang hành sinh cho nó) nhưng bị Ngọ trụ ngày khắc cách 1 ngôi giảm 1/5 và Ngọ trụ tháng khắc cách 2 ngôi giảm thêm 1/10 còn 12,38.4/5.1/10đv = 8,91đv.

Khi cộng tất cả các điểm trong vùng tâm của từng hành ta có kết quả trong sơ đồ trên. Ta thấy Thân (Kim) có 14,66đv nhỏ hơn Quan Sát nên Thân của Tứ Trụ này là nhược nhưng Thân nhận được 50%đv của Kiêu Ấn sinh cho (vì Kiêu Ấn lớn hơn Thực Thương và Tài tinh thêm Nhật can được lệnh) thành 6,45.1/2đv + 14,66đv = 17,89đv. Ta thấy Thân vẫn nhỏ hơn Quan Sát nên Tứ Trụ này có Thân nhược (theo lý thuyết của tôi). Thân nhược mà Quan Sát là kỵ 1 (hành kỵ thần có điểm vượng cao nhất trong các hành là kỵ thần) do vậy dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn (Thổ) là Mậu tàng trong Thìn trụ giờ, hỷ thần là Kim, còn Thủy, Mộc và Hỏa đều là kỵ thần.

Phần 3 : Luận Hành Vận

Ta thấy trong Tứ Trụ xuất hiện Thực Thần là Nhâm ở trụ năm chế ngự Sát là Bính ở trụ tháng cho biết “Thực thần chế Sát áp đảo hàng vạn người”. Đây là một thông tin cho biết người này có thể làm tướng soái nắm binh quyền. Nhưng muốn biết thông tin này có thể trở thành hiện thực hay không thì không những tổ hợp trong Tứ Trụ phải đẹp mà còn phải gặp các vận đẹp nữa thì mới có thể ứng nghiệm.

Dầu tiên ta phải xét đến các yếu tố trong Tứ Trụ. Ta thấy Tứ Trụ này có những thông tin đẹp như mặc dù có Thân nhược nhưng Thân có lực lại được Tỷ Kiếp trợ giúp, còn được Ấn sinh, thêm dụng thần Mậu vượng tướng lại không bị thương tổn, trong khi kỵ thần là Bính bị chế ngự.

Thứ hai ta xét đến các vận như Mậu Thân, Kỷ Dậu và Canh Tuất có can chi đều là hỷ dụng thần (trong khoảng thời gian từ 20 đến 50 tuổi). Kết hợp với Mệnh đẹp nay thêm các Vận đẹp thì hầu như chắc chắn người này sẽ làm tới Tướng Soái đúng với câu “Thực thần chế Sát áp đảo hàng vạn người”.

Ta xét tiếp đại vận Tân Hợi : Ta thấy có Bính trụ tháng hợp với Tân đại vận cho biết “Bính hợp Tân sinh là tướng nắm binh quyền”. Điều này cho biết người này vẫn còn nắm quyền bính và còn có thể được thăng chức cao hơn nữa.

Bây giờ ta thử xét xem bài luận của Nhâm Thiết Tiều đúng sai ra sao ?

Nhâm Thiết Tiều luận : “Dụng nhâm thủy chế sát” điều này cho biết Nhâm Thiết Tiều đã xác định Tứ Trụ này có Thân vượng nên mới xác định lấy Thực Thương là Nhâm ở trụ năm làm dụng thần (nhiều người cho rằng tác giả lấy dụng thần theo “Cách Cục Pháp”, điều này vô lý đùng đùng vì tất cả ví dụ mẫu của cuốn "Trích Thiên Tủy" đều lấy dụng thần theo vượng suy). Nếu Thân vượng thì dĩ nhiên các vận Mậu Thân, Kỷ Dậu và Canh Tuất làm sao mà đẹp được khi can chi của chúng đều là kỵ thần, hơn nữa tác giả luận “Vận kim thủy thật đẹp” là một sai lầm trầm trọng vì thường làm gì có chuyện Thân và Thực Thương lại cùng là hỷ dụng thần (trừ trường hợp đặc biệt khi Thân nhược mà không có Tài, Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp còn Quan Sát cực vượng thì mới có thể phải lấy Thực Thương làm hỷ hay dụng thần) như vậy được ?

Ví dụ 50 này giống ví dụ số 1 (vua Càn Long) tác giả Nhâm Thiết Tiều đều xác định Thân vượng hay nhược sai nên dụng thần cũng xác định sai luôn, vì vậy tác giả bắt buộc phải Đẽo Gọt cho nó phù hợp với thực tế của đương số là chuyện tất nhiên.

Vậy thì thử hỏi cho đến nay có cao thủ Tử Bình nào trên mạng ảo đã chứng minh được Nhâm Thiết Tiều luận sai dù chỉ là một câu trong các ví dụ của cuốn “Trích Thiên Tủy” hay không ?

TL: Trở thành cao thủ Tử Bình về luận Hành Vận trong 3 tháng ?

Đã gửi: 23:41, 25/08/17
gửi bởi taytrong
VULONG đã viết: 23:15, 25/08/17 Ví dụ mẫu 3 :

Sau đây là ví dụ số 50 trong cuốn “Trích Thiên Tủy” :

"50 - Nhâm Thân - Bính Ngọ - Canh Ngọ - Canh Thìn

Ðinh mùi/ mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý

Trụ này bính hỏa sát tinh tuy vượng, nhâm thủy có căn gốc ở thân kim, nhật chủ được canh kim tương trợ, được chi thìn thổ tương sinh. Dụng nhâm thủy chế sát, thiên can đồng thuận; địa chi đồng thuận, nhất chế nhất hóa, thật là hữu tình. Vận kim thủy thật đẹp, quan lộ hiển hách, làm quan đến chức tổng đốc".


Giống như ví dụ Mẫu 1 (vua Càn Long) đầu tiên ta không cần quan tâm tới bài luận của tác giả mà chỉ ứng dụng “12 quy tắc Toán học để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần” xem sao ?

Phần 1 và 2 : (Phần 1 tác giả đã xác định được Tứ Trụ và các đại vận)

Sơ đồ dùng 12 quy tắc Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần :

Hình ảnh

Qua sơ đồ mô tả trên ta thấy Bính trụ tháng bị Nhâm trụ năm khắc gần, Thân trụ năm bị Ngọ trụ tháng khắc gần và Canh trụ ngày bị Ngọ trụ ngày khắc trực tiếp (vì cùng trụ). Do vậy ta phải khoanh tròn Bính, Thân và Canh (trụ ngày) này lại để biết chúng không còn khả năng sinh hay khắc các can chi khác.

Ta thấy :

1 – Nhâm trụ năm có 4,1đv bị Thìn trụ giờ khắc cách 3 ngôi giảm 1/20 và vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 4,1.19/20.3/5đv = 2,34đv.
2 – Bính trụ tháng ở trong vùng tâm có 10đv bị Nhâm trụ năm khắc gần giảm 1/3 còn 6,67đv.
3 – Canh trụ ngày có 7đv bị Ngọ trụ ngày khắc trực tiếp giảm 1/2 và Ngọ trụ tháng khắc cách 1 ngôi giảm thêm 1/5 còn 10.1/2.4/5đv = 2,8đv.
4 – Thân trụ năm có 7đv được thêm 4,05đv (vì là trạng thái Lộc của Nhật can) thành 11,05đv nhưng bị Ngọ trụ tháng khắc gần giảm 1/3, còn bị Ngọ trụ ngày khắc cách 1 ngôi giảm thêm 1/5 và vào vùng tâm giảm tiếp ½ còn 2,95đv.
5 – Ngọ trụ tháng có 10đv bị Nhâm trụ năm khắc cách 1 ngôi giảm 1/5 và vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 4,8đv.
6 – Ngọ trụ ngày ở trong vùng tâm có 10đv bị Nhâm trụ năm khắc cách 2 ngôi giảm 1/10 còn 9đv.
7 - Thìn trụ giờ có 10đv được Ngọ trụ ngày sinh cho 1/12đv của nó là 9.1/12đv = 0,75đv thành 10,75đv nhưng vào vùng tâm hỉam 2/5 còn 6,45đv.
8 - Canh trụ giờ ở trong vùng tâm có 7đv được Thìn cùng trụ sinh cho 1/2đv của nó là (10 + 0,75).1/2đv = 5,38đv thành (7 + 5,38)đv = 12,38đv (vì Thìn có Ngọ bên cạnh mang hành sinh cho nó) nhưng bị Ngọ trụ ngày khắc cách 1 ngôi giảm 1/5 và Ngọ trụ tháng khắc cách 2 ngôi giảm thêm 1/10 còn 12,38.4/5.1/10đv = 8,91đv.

Khi cộng tất cả các điểm trong vùng tâm của từng hành ta có kết quả trong sơ đồ trên. Ta thấy Thân (Kim) có 14,66đv nhỏ hơn Quan Sát nên Thân của Tứ Trụ này là nhược nhưng Thân nhận được 50%đv của Kiêu Ấn sinh cho (vì Kiêu Ấn lớn hơn Thực Thương và Tài tinh thêm Nhật can được lệnh) thành 6,45.1/2đv + 14,66đv = 17,89đv. Ta thấy Thân vẫn nhỏ hơn Quan Sát nên Tứ Trụ này có Thân nhược (theo lý thuyết của tôi). Thân nhược mà Quan Sát là kỵ 1 (hành kỵ thần có điểm vượng cao nhất trong các hành là kỵ thần) do vậy dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn (Thổ) là Mậu tàng trong Thìn trụ giờ, hỷ thần là Kim, còn Thủy, Mộc và Hỏa đều là kỵ thần.

Phần 3 : Luận Hành Vận

Ta thấy trong Tứ Trụ xuất hiện Thực Thần là Nhâm ở trụ năm chế ngự Sát là Bính ở trụ tháng cho biết “Thực thần chế Sát áp đảo hàng vạn người”. Đây là một thông tin cho biết người này có thể làm tướng soái nắm binh quyền. Nhưng muốn biết thông tin này có thể trở thành hiện thực hay không thì không những tổ hợp trong Tứ Trụ phải đẹp mà còn phải gặp các vận đẹp nữa thì mới có thể ứng nghiệm.

Dầu tiên ta phải xét đến các yếu tố trong Tứ Trụ. Ta thấy Tứ Trụ này có những thông tin đẹp như mặc dù có Thân nhược nhưng Thân có lực lại được Tỷ Kiếp trợ giúp, còn được Ấn sinh, thêm dụng thần Mậu vượng tướng lại không bị thương tổn, trong khi kỵ thần là Bính bị chế ngự.

Thứ hai ta xét đến các vận như Mậu Thân, Kỷ Dậu và Canh Tuất có can chi đều là hỷ dụng thần (trong khoảng thời gian từ 20 đến 50 tuổi). Kết hợp với Mệnh đẹp nay thêm các Vận đẹp thì hầu như chắc chắn người này sẽ làm tới Tướng Soái đúng với câu “Thực thần chế Sát áp đảo hàng vạn người”.

Ta xét tiếp đại vận Tân Hợi : Ta thấy có Bính trụ tháng hợp với Tân đại vận cho biết “Bính hợp Tân sinh là tướng nắm binh quyền”. Điều này cho biết người này vẫn còn nắm quyền bính và còn có thể được thăng chức cao hơn nữa.

Bây giờ ta thử xét xem bài luận của Nhâm Thiết Tiều đúng sai ra sao ?

Nhâm Thiết Tiều luận : “Dụng nhâm thủy chế sát” điều này cho biết Nhâm Thiết Tiều đã xác định Tứ Trụ này có Thân vượng nên mới xác định lấy Thực Thương là Nhâm ở trụ năm làm dụng thần (nhiều người cho rằng tác giả lấy dụng thần theo “Cách Cục Pháp”, điều này vô lý đùng đùng vì tất cả ví dụ mẫu của cuốn "Trích Thiên Tủy" đều lấy dụng thần theo vượng suy). Nếu Thân vượng thì dĩ nhiên các vận Mậu Thân, Kỷ Dậu và Canh Tuất làm sao mà đẹp được khi can chi của chúng đều là kỵ thần, hơn nữa tác giả luận “Vận kim thủy thật đẹp” là một sai lầm trầm trọng vì thường làm gì có chuyện Thân và Thực Thương lại cùng là hỷ dụng thần (trừ trường hợp đặc biệt khi Thân nhược mà không có Tài, Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp còn Quan Sát cực vượng thì mới có thể phải lấy Thực Thương làm hỷ hay dụng thần) như vậy được ?

Ví dụ 50 này giống ví dụ số 1 (vua Càn Long) tác giả Nhâm Thiết Tiều đều xác định Thân vượng hay nhược sai nên dụng thần cũng xác định sai luôn, vì vậy tác giả bắt buộc phải Đẽo Gọt cho nó phù hợp với thực tế của đương số là chuyện tất nhiên.

Vậy thì thử hỏi cho đến nay có cao thủ Tử Bình nào trên mạng ảo đã chứng minh được Nhâm Thiết Tiều luận sai dù chỉ là một câu trong các ví dụ của cuốn “Trích Thiên Tủy” hay không ?
Bác Vulong ơi !! bác nhớ con không , lúc trước bác hướng dẫn con tìm dụng thần theo cách của bác đó !
Bác LUận tiếp cho Con Phần 3 với ạ

Hình ảnh