NGHIÊN CỨU “ĐỒ CỔ” CHO VUI !
Đã gửi: 09:14, 25/09/14
“Đồ cổ” ở đây là những cuốn sách nói về phong thủy Bát Trạch, trong đó có cuốn Kim Oanh Ký 2 của Cụ Thái Kim Oanh.
Trước đây khoảng 10 năm, cuốn sách này vẫn được xem là cuốn sách quý. Vì không được tái bản nên nhiều người đã photocoppy để làm tài liệu. Nội dung của nó đề cập phong thủy theo lý khí Bát Trạch.
Từ khi sách tiếng Việt nói về Huyền Không phổ biến trên thị trường, trên mạng… (phần lớn được dịch từ sách tiếng Hán, Trung) thì sách nói về Bát Trạch đã bị xếp xó, trở thành “đồ cổ”, vì các sách này bị giới nghiên cứu Huyền Không cho là ngụy thư mà chủ sự là Đường Nhất Hạnh. Thôi cứ chấp nhận như vậy đi! Thế nhưng các bạn nào đã một thời nghiên cứu và áp dụng lý khí Bát Trạch vào việc xây cất, bố trí nội thất – nhất là lấy nội dung của sách Kim Oanh Ký 2 để áp dụng- thì tôi xin phép được trao đổi một số điều trong sách này mà Cụ Thái Kim Oanh đã nêu.
1/ Bài Cửu Tinh Chế Phục có gì sai sót ?
Sách Kim Oanh Ký 2 của Cụ Thái Kim Oanh – trang 22 – viết rằng: Nguyên văn:
“Sanh Khí giáng Ngũ Quỷ
Thiên Y chế Tuyệt Mạng
Diên Niên yểm Lục Sát
Chế phục an bài định”
Ta thấy có ba sao tốt lá Sanh Khí, Thiên Y, Diên Niên chế ba sao xấu là Ngũ Quỷ, Tuyệt Mạng, Lục Sát; còn sao Phuc Vị có trừ được Họa Hại không? Tại sao không thấy Cụ nói năng gì? Có thể là sách in sót? Tôi khẳng định rằng không! Thế nhưng điều này được Tống Thiều Quang – tác giả cuốn sách: “Phong thủy đia lý toàn thư ” – trang 181 – cho rằng Phục Vị trừ được Họa Hại nhưng không có lời giải thích nào.Có thể ông ta cho rằng phái Bát Trạch có 4 sao tốt và 4 sao xấu,như trên đã nêu 3 sao tốt chế phục 3 sao xấu rồi thì còn lại sao Phục Vị hiển nhiên sẽ chế phục được sao Lộc Tồn. Tôi nghĩ rằng đây là lối võ đoán, không đúng! Tôi xin lý giải như sau:
Về Cửu tinh (9 sao) thì phái Bát trạch và phái Huyền Không đều có. Cụ thể:
- Phái Bát Trạch:
Sanh Khí thuộc sao Tham lang, dương Mộc
Thiên Y thuộc sao Cự Môn, dương Thổ
Diên Niên thuộc sao Vũ Khúc, dương Kim
Phục Vị thuộc Tả phụ+ Bồ Chúc, âm Thủy
Ngũ Quỷ thuộc sao Liêm Trinh, âm Hỏa
Tuyệt Mạng thuộc sao Phá Quân, âm Kim
Lục Sát thuộc sao Văn Khúc, dương Thủy
Họa Hại thuộc sao Lộc Tồn, âm Thổ
- Phái Huyền Không phi tinh:
+ Nhất Bạch thuộc sao Tham Lang, hành Thủy
+ Nhị Hắc thuộc sao Cự Môn, hành Thổ
+ Tam Bích thuộc sao Lộc Tồn, hành Mộc
+ Tứ Lục thuộc sao Văn Khúc, hành Mộc
+ Ngũ Huỳnh thuộc sao Liêm Trinh, hành Thổ
+ Lục Bạch thuộc sao Vũ Khúc, hành Kim
+ Thất Xích thuộc sao Phá Quân, hành Kim
+ Bát Bạch thuộc sao Tả Phụ, hành Thổ
+ Cửu Tử thuộc sao Hữu Bật, hành Hỏa
- Nhận xét:
+ Về Ngũ hành các sao giữa hai phái có khác nhau như ngũ hành sao Tham lang, sao Lộc Tồn, Văn khúc, sao Liêm Trinh, sao Tả Phụ, Bồ Chúc; chỉ có 3 sao là Cự Môn, Vũ Khúc, Phá Quân là giống nhau. Vậy thì ta tin thuyết của phái nào?
+ Về sao tốt, sao xấu và mức độ tốt xấu của nó giữa 2 phái cũng có quan điểm khác nhau. Phái Bát Trạch phân định rạch ròi là Tham Lang, Cự Môn thượng kiết; Vũ Khúc, Tả Phụ, Bồ Chúc thứ kiết; Liêm Trinh, Phá Quân đại hung; Văn Khúc, Lộc Tồn thứ hung. Trong khi đó phái Huyền Không thì phân định ý nghĩa tốt xấu từng sao tùy theo vận. Đương vận thì tốt, thất vận thì xấu; sao đương vượng, sao tiến khí thì tốt, sao thoái khí, suy khí, tử khí thì xấu.
Trước bối cảnh này nếu ta lấy lý thuyết phái Huyền Không để biện bạch thì sẽ bị phái Bát Trạch “tự ái” . Vì đây là “chuyện riêng” của phái Bát Trạch. Như vậy ta phải dựa theo lý thuyết của Bát trạch để lý giải sẽ dễ được chấp thuận hơn.
Theo ngũ hành của Cửu tinh ở phái Bát Trạch xắp xếp ta thấy ngũ hành của ba sao tốt sinh ra ngũ hành của 3 sao xấu. Cụ thể là sao Sanh Khí Tham Lang dương Mộc sinh cho sao Ngũ Quỷ Liêm Trinh âm Hỏa; sao Thiên Y Cự Môn dương Thổ sinh cho sao Tuyệt Mạng Phá Quân âm Kim; Diên Niên Vũ Khúc dương Kim sinh cho sao Lục Sát Văn Khúc dương Thủy. Cách sắp xếp này cho ta một suy luận rằng: Một người nào đó day cửa phạm hướng xấu, sẽ bị những điều xấu đưa đến cho gia đình, nhưng khi quay miệng lò bếp theo hướng tốt theo bài “Cửu Tinh chế phục” thì sẽ sinh ra những điều tốt đẹp bù trừ được những điều xấu đã đề cập. Cũng có thể nhìn nhận tinh ý ở đoạn này là phạm hướng xấu hoặc được hướng tốt đều thông qua tuổi chủ nhà mà ra chứ không phải tự nhiên sao bay đến để chế ngự lẫn nhau. Táo vi nội, môn vi ngoại (Bếp ở trong nhà, cửa ở ngoài). Những hướng tốt của lò bếp sinh cho những hướng xấu của cửa, hàm ý là khí lực trong nhà mạnh hơn ở ngoài cho nên được tốt đẹp.
Riêng sao Phục Vị Tả Bồ âm Thủy không thể sinh ra sao Họa Hại Lộc Tồn âm Thổ mà ngược lại bị Lộc Tồn khắc chế. Vì vậy cho nên bài “Cửu tinh chế phục” nêu trên không đưa trường hợp của sao Phục Vị Tả Bồ và sao Họa Hại Lộc Tồn vào chứ không phải Cụ Thái Kim Oanh bỏ sót. Theo tôi, để giải sao Họa Hại Lộc Tồn âm Thổ thì dùng sanh khí Tham lang dương Mộc chắc chế vẫn tốt (Nghĩa là phải day miệng lò sang hướng Sanh Khí ). Cứ theo sách của Cụ Thái Kim Oanh tôi lý giải như thế, nếu quý bạn tìm được ở bộ sách nào khả tín ( ở phái Bát Trạch) có đề cập đến ngũ hành của sao Phục Vị Tả Bồ thuộc hành Hỏa thì tôi nhất trí rằng Phục Vị trừ đặng Họa Hại, còn không thì thôi.
(Tôi cũng có đọc sách Bát Trạch Minh Cảnh của Dương Quân Tùng trang 144 xác định Phục Vị Tả Phù thuộc Mộc. Sách “Thẩm Thị Huyền Không Học” của Thẩm Thúc Nhưng, trang 163, cũng nói Phục Vị có ngũ hành là Dương Mộc. Còn trong Tử vi Hàm Số của Nguyễn Phát Lộc, trang 346 thì ngũ hành cả hai sao Tả Phụ + Hữu Bật đều là Thổ. Riêng cái tên “Bồ Chúc” thì thuộc hành gì, nó là đại biểu của sao nào trong cửu tinh thì không thấy sách nào nhắc đến. Dù hai cuốn sách phong thủy nói trên xác định Phục Vị là hành Mộc nhưng tôi không tin tưởng vì nhóm hậu học không có những phiên bản gốc mà chỉ sao chép từ những sách đã bị sai, lâu ngày thành lệ.
Tôi tìm hết trong sách Kim Oanh Ký 2 để xem Cụ biên tập có sự sai lệch gì về ngũ hành của sao Phục Vị hay không nhưng rất ít thấy Cụ nhắc đến “Phục Vị ”. Tôi suy từ các đồ hình minh họa ở trang 41- 48 thấy Cụ đều xác nhận ngũ hành của sao Phục Vị là âm Thủy. Duy chỉ có ở trang 21, mục “Niên ngoạt kiết hung ứng” Cụ trích dẫn “Sanh Khí, Bồ Chúc, Hợi Mẹo Mùi, hai vị này ứng năm và tháng Hợi Mẹo Mùi”. Khi nhắc đến Hợi Mẹo Mùi tức thị nó là hành Mộc. Nhưng hành Mộc vẫn được Thủy tương sinh (Thủy sinh Mộc ), vẫn tương ứng với lý thuyết. Đến trang 53 ở dòng cuối cùng, Cụ trích dẫn “Hiệp Phục Vị Bồ Chúc Thủy tinh đặng tiểu phú, ngày ngày có tiểu tài tấn ích, phát giàu, ứng tại Hợi Mẹo Mùi niên ngoạt ” và trang 77 Cụ trích dẫn “chỉ luận táo khẩu hướng, 3 phương kiết vi nghiễm” (chỉ luận hướng miệng lò, 3 phương tốt là nghiêm túc). Như thế đã quá rõ ràng. Tôi nghĩ rằng đồ hình minh họa từ trang 41 đến trang 48 trong sách Kim Oanh ký 2 là từ sở học của Cụ mà ra, còn câu trích dẫn ở trang 21 là Cụ dựa vào sách cũ. Mà ta biết rằng trong sách cũ có lắm điều rắc rối. Hơn nữa Cụ đã tổng hợp 3 bộ Bát Trạch Minh Cảnh để viết nên bộ sách này,chắc chắn Cụ đã chỉnh lý. Xét về tuổi tác, sở học của Cụ và thời điểm lịch sử, tôi tin tưởng hình đồ minh họa của Cụ hơn, nghĩa là tôi xác nhận ngũ hành của sao Phục Vị Tả Bồ là âm Thủy chứ không phải nó là hành Mộc, Hỏa, Thổ gì cả).
Vậy bài “Cửu tinh chế phục” không có gì sai sót!
Trước đây khoảng 10 năm, cuốn sách này vẫn được xem là cuốn sách quý. Vì không được tái bản nên nhiều người đã photocoppy để làm tài liệu. Nội dung của nó đề cập phong thủy theo lý khí Bát Trạch.
Từ khi sách tiếng Việt nói về Huyền Không phổ biến trên thị trường, trên mạng… (phần lớn được dịch từ sách tiếng Hán, Trung) thì sách nói về Bát Trạch đã bị xếp xó, trở thành “đồ cổ”, vì các sách này bị giới nghiên cứu Huyền Không cho là ngụy thư mà chủ sự là Đường Nhất Hạnh. Thôi cứ chấp nhận như vậy đi! Thế nhưng các bạn nào đã một thời nghiên cứu và áp dụng lý khí Bát Trạch vào việc xây cất, bố trí nội thất – nhất là lấy nội dung của sách Kim Oanh Ký 2 để áp dụng- thì tôi xin phép được trao đổi một số điều trong sách này mà Cụ Thái Kim Oanh đã nêu.
1/ Bài Cửu Tinh Chế Phục có gì sai sót ?
Sách Kim Oanh Ký 2 của Cụ Thái Kim Oanh – trang 22 – viết rằng: Nguyên văn:
“Sanh Khí giáng Ngũ Quỷ
Thiên Y chế Tuyệt Mạng
Diên Niên yểm Lục Sát
Chế phục an bài định”
Ta thấy có ba sao tốt lá Sanh Khí, Thiên Y, Diên Niên chế ba sao xấu là Ngũ Quỷ, Tuyệt Mạng, Lục Sát; còn sao Phuc Vị có trừ được Họa Hại không? Tại sao không thấy Cụ nói năng gì? Có thể là sách in sót? Tôi khẳng định rằng không! Thế nhưng điều này được Tống Thiều Quang – tác giả cuốn sách: “Phong thủy đia lý toàn thư ” – trang 181 – cho rằng Phục Vị trừ được Họa Hại nhưng không có lời giải thích nào.Có thể ông ta cho rằng phái Bát Trạch có 4 sao tốt và 4 sao xấu,như trên đã nêu 3 sao tốt chế phục 3 sao xấu rồi thì còn lại sao Phục Vị hiển nhiên sẽ chế phục được sao Lộc Tồn. Tôi nghĩ rằng đây là lối võ đoán, không đúng! Tôi xin lý giải như sau:
Về Cửu tinh (9 sao) thì phái Bát trạch và phái Huyền Không đều có. Cụ thể:
- Phái Bát Trạch:
Sanh Khí thuộc sao Tham lang, dương Mộc
Thiên Y thuộc sao Cự Môn, dương Thổ
Diên Niên thuộc sao Vũ Khúc, dương Kim
Phục Vị thuộc Tả phụ+ Bồ Chúc, âm Thủy
Ngũ Quỷ thuộc sao Liêm Trinh, âm Hỏa
Tuyệt Mạng thuộc sao Phá Quân, âm Kim
Lục Sát thuộc sao Văn Khúc, dương Thủy
Họa Hại thuộc sao Lộc Tồn, âm Thổ
- Phái Huyền Không phi tinh:
+ Nhất Bạch thuộc sao Tham Lang, hành Thủy
+ Nhị Hắc thuộc sao Cự Môn, hành Thổ
+ Tam Bích thuộc sao Lộc Tồn, hành Mộc
+ Tứ Lục thuộc sao Văn Khúc, hành Mộc
+ Ngũ Huỳnh thuộc sao Liêm Trinh, hành Thổ
+ Lục Bạch thuộc sao Vũ Khúc, hành Kim
+ Thất Xích thuộc sao Phá Quân, hành Kim
+ Bát Bạch thuộc sao Tả Phụ, hành Thổ
+ Cửu Tử thuộc sao Hữu Bật, hành Hỏa
- Nhận xét:
+ Về Ngũ hành các sao giữa hai phái có khác nhau như ngũ hành sao Tham lang, sao Lộc Tồn, Văn khúc, sao Liêm Trinh, sao Tả Phụ, Bồ Chúc; chỉ có 3 sao là Cự Môn, Vũ Khúc, Phá Quân là giống nhau. Vậy thì ta tin thuyết của phái nào?
+ Về sao tốt, sao xấu và mức độ tốt xấu của nó giữa 2 phái cũng có quan điểm khác nhau. Phái Bát Trạch phân định rạch ròi là Tham Lang, Cự Môn thượng kiết; Vũ Khúc, Tả Phụ, Bồ Chúc thứ kiết; Liêm Trinh, Phá Quân đại hung; Văn Khúc, Lộc Tồn thứ hung. Trong khi đó phái Huyền Không thì phân định ý nghĩa tốt xấu từng sao tùy theo vận. Đương vận thì tốt, thất vận thì xấu; sao đương vượng, sao tiến khí thì tốt, sao thoái khí, suy khí, tử khí thì xấu.
Trước bối cảnh này nếu ta lấy lý thuyết phái Huyền Không để biện bạch thì sẽ bị phái Bát Trạch “tự ái” . Vì đây là “chuyện riêng” của phái Bát Trạch. Như vậy ta phải dựa theo lý thuyết của Bát trạch để lý giải sẽ dễ được chấp thuận hơn.
Theo ngũ hành của Cửu tinh ở phái Bát Trạch xắp xếp ta thấy ngũ hành của ba sao tốt sinh ra ngũ hành của 3 sao xấu. Cụ thể là sao Sanh Khí Tham Lang dương Mộc sinh cho sao Ngũ Quỷ Liêm Trinh âm Hỏa; sao Thiên Y Cự Môn dương Thổ sinh cho sao Tuyệt Mạng Phá Quân âm Kim; Diên Niên Vũ Khúc dương Kim sinh cho sao Lục Sát Văn Khúc dương Thủy. Cách sắp xếp này cho ta một suy luận rằng: Một người nào đó day cửa phạm hướng xấu, sẽ bị những điều xấu đưa đến cho gia đình, nhưng khi quay miệng lò bếp theo hướng tốt theo bài “Cửu Tinh chế phục” thì sẽ sinh ra những điều tốt đẹp bù trừ được những điều xấu đã đề cập. Cũng có thể nhìn nhận tinh ý ở đoạn này là phạm hướng xấu hoặc được hướng tốt đều thông qua tuổi chủ nhà mà ra chứ không phải tự nhiên sao bay đến để chế ngự lẫn nhau. Táo vi nội, môn vi ngoại (Bếp ở trong nhà, cửa ở ngoài). Những hướng tốt của lò bếp sinh cho những hướng xấu của cửa, hàm ý là khí lực trong nhà mạnh hơn ở ngoài cho nên được tốt đẹp.
Riêng sao Phục Vị Tả Bồ âm Thủy không thể sinh ra sao Họa Hại Lộc Tồn âm Thổ mà ngược lại bị Lộc Tồn khắc chế. Vì vậy cho nên bài “Cửu tinh chế phục” nêu trên không đưa trường hợp của sao Phục Vị Tả Bồ và sao Họa Hại Lộc Tồn vào chứ không phải Cụ Thái Kim Oanh bỏ sót. Theo tôi, để giải sao Họa Hại Lộc Tồn âm Thổ thì dùng sanh khí Tham lang dương Mộc chắc chế vẫn tốt (Nghĩa là phải day miệng lò sang hướng Sanh Khí ). Cứ theo sách của Cụ Thái Kim Oanh tôi lý giải như thế, nếu quý bạn tìm được ở bộ sách nào khả tín ( ở phái Bát Trạch) có đề cập đến ngũ hành của sao Phục Vị Tả Bồ thuộc hành Hỏa thì tôi nhất trí rằng Phục Vị trừ đặng Họa Hại, còn không thì thôi.
(Tôi cũng có đọc sách Bát Trạch Minh Cảnh của Dương Quân Tùng trang 144 xác định Phục Vị Tả Phù thuộc Mộc. Sách “Thẩm Thị Huyền Không Học” của Thẩm Thúc Nhưng, trang 163, cũng nói Phục Vị có ngũ hành là Dương Mộc. Còn trong Tử vi Hàm Số của Nguyễn Phát Lộc, trang 346 thì ngũ hành cả hai sao Tả Phụ + Hữu Bật đều là Thổ. Riêng cái tên “Bồ Chúc” thì thuộc hành gì, nó là đại biểu của sao nào trong cửu tinh thì không thấy sách nào nhắc đến. Dù hai cuốn sách phong thủy nói trên xác định Phục Vị là hành Mộc nhưng tôi không tin tưởng vì nhóm hậu học không có những phiên bản gốc mà chỉ sao chép từ những sách đã bị sai, lâu ngày thành lệ.
Tôi tìm hết trong sách Kim Oanh Ký 2 để xem Cụ biên tập có sự sai lệch gì về ngũ hành của sao Phục Vị hay không nhưng rất ít thấy Cụ nhắc đến “Phục Vị ”. Tôi suy từ các đồ hình minh họa ở trang 41- 48 thấy Cụ đều xác nhận ngũ hành của sao Phục Vị là âm Thủy. Duy chỉ có ở trang 21, mục “Niên ngoạt kiết hung ứng” Cụ trích dẫn “Sanh Khí, Bồ Chúc, Hợi Mẹo Mùi, hai vị này ứng năm và tháng Hợi Mẹo Mùi”. Khi nhắc đến Hợi Mẹo Mùi tức thị nó là hành Mộc. Nhưng hành Mộc vẫn được Thủy tương sinh (Thủy sinh Mộc ), vẫn tương ứng với lý thuyết. Đến trang 53 ở dòng cuối cùng, Cụ trích dẫn “Hiệp Phục Vị Bồ Chúc Thủy tinh đặng tiểu phú, ngày ngày có tiểu tài tấn ích, phát giàu, ứng tại Hợi Mẹo Mùi niên ngoạt ” và trang 77 Cụ trích dẫn “chỉ luận táo khẩu hướng, 3 phương kiết vi nghiễm” (chỉ luận hướng miệng lò, 3 phương tốt là nghiêm túc). Như thế đã quá rõ ràng. Tôi nghĩ rằng đồ hình minh họa từ trang 41 đến trang 48 trong sách Kim Oanh ký 2 là từ sở học của Cụ mà ra, còn câu trích dẫn ở trang 21 là Cụ dựa vào sách cũ. Mà ta biết rằng trong sách cũ có lắm điều rắc rối. Hơn nữa Cụ đã tổng hợp 3 bộ Bát Trạch Minh Cảnh để viết nên bộ sách này,chắc chắn Cụ đã chỉnh lý. Xét về tuổi tác, sở học của Cụ và thời điểm lịch sử, tôi tin tưởng hình đồ minh họa của Cụ hơn, nghĩa là tôi xác nhận ngũ hành của sao Phục Vị Tả Bồ là âm Thủy chứ không phải nó là hành Mộc, Hỏa, Thổ gì cả).
Vậy bài “Cửu tinh chế phục” không có gì sai sót!