Tây Thiên ký
Đã gửi: 23:23, 15/04/09
1. Trời Tây ở nước Nam
Trong sách Cao Biền Tấu thư địa lý kiểu tự , ngôi đất Thăng Long đựoc diễn ca rằng:
... Giao châu hữu chi địa -(đất Giao Châu có một ngôi đất)
Thăng long thành tối hùng -(thăng long tối hùng mạnh)
Tam hồng dẫn hậu mạch -(ba con sông lớn dẫn hậu mạch, tiếp khí cho mạch là sông Thao, sông Lô, sông Đà).
Song ngư trĩ tiền phương -(hai con cá dẫn đường, chính là bãi Phúc Xá ngoài sông Hồng)
Tản lĩnh trấn Kiền vị -(núi Tản Linh trấn tại phương Kiền – tây bắc)
Đảo sơn đương Cấn cung -(núi Tam Đảo giữ phương Cấn - Đông bắc)
Thiên phong hồi Bạch hổ -(nghìn ngọn núi quay về Bạch hổ)...
(ảnh)
Tam Đảo là một dẫy núi đá hình thành cách đây khoảng 230 triệu năm nằm trên địa bàn ba tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang. Gọi là Tam Đảo, vì ở đây có ba ngọn núi cao nhô lên trên biển mây, đó là Thạch Bàn, Thiên Thị và Máng Chỉ. Ngọn cao nhất có độ cao tuyệt dối là 1590 mét. Nói đến Tam đảo, ta nghĩ ngay đến Khu du lich thị trấn Tam đảo và hàng loạt danh thắng xung quanh. Về mặt văn hóa lịch sử, nơi đây hội tụ quần thể di tích văn hóa-lịch sử Tây Thiên; Ngoài ra có Thiền Viện Trúc Lâm là 1 trong 3 Thiền viện lớn nhất nước.
Trong khoảng chiều dài 11km, chiều ngang 1km, quần thể di tích Tây Thiên tập trung mật độ lớn các công trình văn hóa, dấu vết cũ các công trình văn hóa, các địa chỉ có giá trị nghiên cứu khảo cổ học. Đó là hệ thống đền, chùa, thảo am và phong cảnh tự nhiên được phân bố trên ngọn Thạch Bàn của dãy núi Tam Đảo. Mở đầu là đền Mẫu sinh, đền Mẫu hóa, đền Thõng, chùa Thiên Ân, đền Cậu, đền Cô, chùa Phù Nghì, chòi Ông Nhất, đền Tây Thiên, chùa Tây Thiên, Bàn cờ tiên, Bia đá chữ “Bát nhã tuyền”, chợ Giời, chùa Đồng Cổ, Ao Dứa, Đồng Ma. Ngoài ra những thắng cảnh của di tích Tây Thiên cũng thật phong phú và nên thơ: Suối Vàng, Thác Bạc, Khe Trường sinh, suối Giải Oan, suối Tối, Am Vân Tiêu, Am Lưỡng Phong, Rừng nguyên sinh, Cây Thông ngàn tuổi, Cây Đa 9 cội (ở đền Thõng)… Tại đền Thượng Tây Thiên ở độ cao 530m so với mặt nước biển là nơi thờ tự Quốc Mẫu Tây Thiên - Lăng Thị Tiêu. Cứ mỗi độ xuân về, vào dịp ngày giỗ Quốc Mẫu nhân dân trong vùng lại tổ chức mở hội gọi là Lễ hội Tây Thiên từ ngày 15, 16, 17 tháng 2 âm lịch.
Theo sử liệu và khảo cổ, gần đây các nhà nghiên cứu đã xác minh rõ nguồn gốc và nơi phát tích của Phật giáo Việt Nam chính là từ Tây Thiên
Vào thế kỷ thứ III trước công nguyên, đoàn Phật giáo thứ 8 do ngài Sona, ngài Uttara và công chúa con vua A Dục (Ấn Độ) đi truyền giáo qua ở Miến Điện, Thái Lan và các nước Đông Dương. Đoàn đi theo đường biển vào cửa sông Hồng ngược lên nước Văn Lang. Thời Hùng Vương, nước Văn Lang chỉ bao gồm một số tỉnh trung du Bắc Bộ, địa thế núi non thấp, chỉ có dãy Tam Đảo núi cao liên hoàn (700m so với mặt nước biển) rừng thâm u rậm rạp, có suối chảy thác cao, cảnh trí u nhã thanh tịnh. Thấy nơi đây thích hợp cho người tu thiền hoặc sống nội tâm trau dồi Phật pháp. Đoàn nhà sư Ấn Độ quyết định chọn Tam Đảo để xây tháp lập chùa để tu hành và hóa độ chúng sinh, đặt tên là Tây Thiên (có nghĩa là trời Tây, chỉ nước Ấn Độ, nơi phát sinh ra đạo Phật cứu khổ nhân loại).
Vài dòng sơ lược để thấy được đất Tây thiên bao đời nay đã là Linh địa và Phật giáo đã đến nơi này từ rất sớm.
2. Tây thiên Ký sự
Khu Ba vì - Tây thiên vốn không xa lạ với bọn học trò vì là nơi lý tưởng để cắm trại. Có lẽ đến gần 20 năm tôi mới quay lại nơi này tuy đi qua cũng nhiều. Một sự tình cờ, một anh bạn bảo "Có đi Tây Thiên không?" trong đầu tôi thường nghĩ Tây thiên là những thác, suối, leo bậc thang lên chùa nên gật đầu ngay. Hôm ấy là ngày rằm tháng chạp âm lịch, rằm cuối cùng của năm con chuột và theo như lịch thì là ngày đẹp nhất trong năm.
Rốt cuộc thì hành trình khác hẳn với những gì chúng tôi tưởng tượng. Một xe ôtô 7 chỗ, 5 người và một đống hành lý bao gồm Lều trại, túi ngủ ấm, đèn pin đồ ăn uống nhiều vô kể và... trong lúc vội vàng quơ được cái gì thì quơ, có cả 1 cái la bàn. Dọc đường đi còn tranh thủ mua thêm 20 bắp ngô. Anh bạn tôi ngoài đồ dùng còn phải mang cả 1 chiếc chăn bông to sụ vợ bắt mang đi để... nhớ hơi.
(ảnh)
Điểm dừng chân đầu tiên là ngôi chùa nhỏ mang tên chùa Quan Âm ở chân núi. Khi chúng tôi đến đã gần trưa, nhà sư trụ trì và các vãi đang chuẩn bị lễ cúng cầu siêu. Chùa nhỏ nhưng khang trang, có cả chuông mới đúc. Điểm đặc biệt là hình Quan âm ở khắp nơi, dọc tường bao là các bát hương thờ Quan thế âm bồ tát tay cầm nhành dương liễu, dưới là rất nhiều chai nước khách thập phương mang đến cúng. Theo anh bạn tôi nói, nhà sư lấy nước trong cúng Đức Quan âm rồi phát cho mọi người, cho trẻ con đến uống lấy lộc. Lần này đi, chúng tôi cũng lấy nước đã cúng Đức Quan thế âm mang đi theo để uống, cầu cho thượng lộ bình an.
(ảnh xem chuông...)
Đúng 13h30, đoàn khởi hành lên núi. Trước khi lên, sư thầy chỉ cho ngọn núi chúng tôi sẽ lên đỉnh. Đứng từ chân núi thấy sao mà cao..
(ảnh đỉnh núi nhìn từ chùa Quan Âm)
Lên đến điểm dừng bắt đầu leo, nơi có cây đa trăm tuổi, đoàn có thêm một số thành viên mới. Sư thầy đã thuê gần hai chục người dân tộc để họ gùi hàng. Đoàn tranh thủ chụp ảnh lúc bắt đầu đi, trông mọi người vẫn tươi tỉnh lắm. Tôi hỏi sư thầy "Thưa thầy bao giờ đến nơi?" thầy bảo "Cứ đi rồi biết!". Sau này trong suốt quá trình đi, câu hỏi ấy luôn đuợc lặp lại và câu trả lời của Thầy cũng vẫn như vậy. Cô gái duy nhất trong đoàn đựoc giao cầm 1 cành đa có 3 quả mang đi rồi mang về... tại sao nhỉ?? không ai biết!
(ảnh chân núi)
Trong sách Cao Biền Tấu thư địa lý kiểu tự , ngôi đất Thăng Long đựoc diễn ca rằng:
... Giao châu hữu chi địa -(đất Giao Châu có một ngôi đất)
Thăng long thành tối hùng -(thăng long tối hùng mạnh)
Tam hồng dẫn hậu mạch -(ba con sông lớn dẫn hậu mạch, tiếp khí cho mạch là sông Thao, sông Lô, sông Đà).
Song ngư trĩ tiền phương -(hai con cá dẫn đường, chính là bãi Phúc Xá ngoài sông Hồng)
Tản lĩnh trấn Kiền vị -(núi Tản Linh trấn tại phương Kiền – tây bắc)
Đảo sơn đương Cấn cung -(núi Tam Đảo giữ phương Cấn - Đông bắc)
Thiên phong hồi Bạch hổ -(nghìn ngọn núi quay về Bạch hổ)...
(ảnh)
Tam Đảo là một dẫy núi đá hình thành cách đây khoảng 230 triệu năm nằm trên địa bàn ba tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang. Gọi là Tam Đảo, vì ở đây có ba ngọn núi cao nhô lên trên biển mây, đó là Thạch Bàn, Thiên Thị và Máng Chỉ. Ngọn cao nhất có độ cao tuyệt dối là 1590 mét. Nói đến Tam đảo, ta nghĩ ngay đến Khu du lich thị trấn Tam đảo và hàng loạt danh thắng xung quanh. Về mặt văn hóa lịch sử, nơi đây hội tụ quần thể di tích văn hóa-lịch sử Tây Thiên; Ngoài ra có Thiền Viện Trúc Lâm là 1 trong 3 Thiền viện lớn nhất nước.
Trong khoảng chiều dài 11km, chiều ngang 1km, quần thể di tích Tây Thiên tập trung mật độ lớn các công trình văn hóa, dấu vết cũ các công trình văn hóa, các địa chỉ có giá trị nghiên cứu khảo cổ học. Đó là hệ thống đền, chùa, thảo am và phong cảnh tự nhiên được phân bố trên ngọn Thạch Bàn của dãy núi Tam Đảo. Mở đầu là đền Mẫu sinh, đền Mẫu hóa, đền Thõng, chùa Thiên Ân, đền Cậu, đền Cô, chùa Phù Nghì, chòi Ông Nhất, đền Tây Thiên, chùa Tây Thiên, Bàn cờ tiên, Bia đá chữ “Bát nhã tuyền”, chợ Giời, chùa Đồng Cổ, Ao Dứa, Đồng Ma. Ngoài ra những thắng cảnh của di tích Tây Thiên cũng thật phong phú và nên thơ: Suối Vàng, Thác Bạc, Khe Trường sinh, suối Giải Oan, suối Tối, Am Vân Tiêu, Am Lưỡng Phong, Rừng nguyên sinh, Cây Thông ngàn tuổi, Cây Đa 9 cội (ở đền Thõng)… Tại đền Thượng Tây Thiên ở độ cao 530m so với mặt nước biển là nơi thờ tự Quốc Mẫu Tây Thiên - Lăng Thị Tiêu. Cứ mỗi độ xuân về, vào dịp ngày giỗ Quốc Mẫu nhân dân trong vùng lại tổ chức mở hội gọi là Lễ hội Tây Thiên từ ngày 15, 16, 17 tháng 2 âm lịch.
Theo sử liệu và khảo cổ, gần đây các nhà nghiên cứu đã xác minh rõ nguồn gốc và nơi phát tích của Phật giáo Việt Nam chính là từ Tây Thiên
Vào thế kỷ thứ III trước công nguyên, đoàn Phật giáo thứ 8 do ngài Sona, ngài Uttara và công chúa con vua A Dục (Ấn Độ) đi truyền giáo qua ở Miến Điện, Thái Lan và các nước Đông Dương. Đoàn đi theo đường biển vào cửa sông Hồng ngược lên nước Văn Lang. Thời Hùng Vương, nước Văn Lang chỉ bao gồm một số tỉnh trung du Bắc Bộ, địa thế núi non thấp, chỉ có dãy Tam Đảo núi cao liên hoàn (700m so với mặt nước biển) rừng thâm u rậm rạp, có suối chảy thác cao, cảnh trí u nhã thanh tịnh. Thấy nơi đây thích hợp cho người tu thiền hoặc sống nội tâm trau dồi Phật pháp. Đoàn nhà sư Ấn Độ quyết định chọn Tam Đảo để xây tháp lập chùa để tu hành và hóa độ chúng sinh, đặt tên là Tây Thiên (có nghĩa là trời Tây, chỉ nước Ấn Độ, nơi phát sinh ra đạo Phật cứu khổ nhân loại).
Vài dòng sơ lược để thấy được đất Tây thiên bao đời nay đã là Linh địa và Phật giáo đã đến nơi này từ rất sớm.
2. Tây thiên Ký sự
Khu Ba vì - Tây thiên vốn không xa lạ với bọn học trò vì là nơi lý tưởng để cắm trại. Có lẽ đến gần 20 năm tôi mới quay lại nơi này tuy đi qua cũng nhiều. Một sự tình cờ, một anh bạn bảo "Có đi Tây Thiên không?" trong đầu tôi thường nghĩ Tây thiên là những thác, suối, leo bậc thang lên chùa nên gật đầu ngay. Hôm ấy là ngày rằm tháng chạp âm lịch, rằm cuối cùng của năm con chuột và theo như lịch thì là ngày đẹp nhất trong năm.
Rốt cuộc thì hành trình khác hẳn với những gì chúng tôi tưởng tượng. Một xe ôtô 7 chỗ, 5 người và một đống hành lý bao gồm Lều trại, túi ngủ ấm, đèn pin đồ ăn uống nhiều vô kể và... trong lúc vội vàng quơ được cái gì thì quơ, có cả 1 cái la bàn. Dọc đường đi còn tranh thủ mua thêm 20 bắp ngô. Anh bạn tôi ngoài đồ dùng còn phải mang cả 1 chiếc chăn bông to sụ vợ bắt mang đi để... nhớ hơi.
(ảnh)
Điểm dừng chân đầu tiên là ngôi chùa nhỏ mang tên chùa Quan Âm ở chân núi. Khi chúng tôi đến đã gần trưa, nhà sư trụ trì và các vãi đang chuẩn bị lễ cúng cầu siêu. Chùa nhỏ nhưng khang trang, có cả chuông mới đúc. Điểm đặc biệt là hình Quan âm ở khắp nơi, dọc tường bao là các bát hương thờ Quan thế âm bồ tát tay cầm nhành dương liễu, dưới là rất nhiều chai nước khách thập phương mang đến cúng. Theo anh bạn tôi nói, nhà sư lấy nước trong cúng Đức Quan âm rồi phát cho mọi người, cho trẻ con đến uống lấy lộc. Lần này đi, chúng tôi cũng lấy nước đã cúng Đức Quan thế âm mang đi theo để uống, cầu cho thượng lộ bình an.
(ảnh xem chuông...)
Đúng 13h30, đoàn khởi hành lên núi. Trước khi lên, sư thầy chỉ cho ngọn núi chúng tôi sẽ lên đỉnh. Đứng từ chân núi thấy sao mà cao..
(ảnh đỉnh núi nhìn từ chùa Quan Âm)
Lên đến điểm dừng bắt đầu leo, nơi có cây đa trăm tuổi, đoàn có thêm một số thành viên mới. Sư thầy đã thuê gần hai chục người dân tộc để họ gùi hàng. Đoàn tranh thủ chụp ảnh lúc bắt đầu đi, trông mọi người vẫn tươi tỉnh lắm. Tôi hỏi sư thầy "Thưa thầy bao giờ đến nơi?" thầy bảo "Cứ đi rồi biết!". Sau này trong suốt quá trình đi, câu hỏi ấy luôn đuợc lặp lại và câu trả lời của Thầy cũng vẫn như vậy. Cô gái duy nhất trong đoàn đựoc giao cầm 1 cành đa có 3 quả mang đi rồi mang về... tại sao nhỉ?? không ai biết!
(ảnh chân núi)