Công đức trì chú Đại bi
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
- Tây Đô đạo sĩ
- Bát đẳng
- Bài viết: 7976
- Tham gia: 19:37, 19/10/10
- Đến từ: Tây Đô
TL: Re: Công đức trì chú Đại bi
"huyminh"
Cháu chào bác Tây Đô cháu có 1 thắc mắc là : Bộ Lương Hoàng Sám Pháp mới do hòa thượng Chí Công soạn cho vua Lương để siêu độ hoàng hậu ?
Còn ""Từ Bi Thủy Sám "" là do Ngộ Đạt Quốc Sư biên soạn dùng sám hối tội nỗi?
""Hồng Danh Sám Hối " cũng do chư Tổ soạn dùng cách lễ 89 danh hiệu Phật để sám hối.
Các Sám Pháp thì đều do chư vị Tổ sư biện soạn theo kinh văn dùng để sám hối .Gọi là " Kinh " theo lý thì không được . Vì Kinh phải do Đức Phật thuyết hoặc Đệ tử ngài thuyết nhưng được sự ấn chứng khả hứa của Đức Phật . Nhưng ngày nay khi in ấn cháu thấy các bản sám hối đều Thêm chữ '' KInh " vào tiêu đề . Chẳng biết như nào nữa???
Cháu thấy Lương Hoàng Sám hoặc Thủy Sám thường khi có Đại Đàn Sám Hối cầu bạt nghiệp cho dòng họ nào đó hoặc Đại Lễ Cầu Siêu , Trai Đàn Thủy Lục thì các Thầy mới trì tụng , còn tại gia hay dùng Thủy Sám tụng tiêu nghiệp cho bệnh nhân ốm lâu ngày không khỏi . Hai bộ Lương Hoàng Sám và Thủy Sám văn kinh rất dài ,khối lượng trì tụng lớn tất nhiên người tại gia ít khi theo được.
Phổ thông nhất là Sám Hối Hồng Danh được các đạo tràng hay tụng vào 23 âm lịch hàng tháng .
Cháu cũng hay trì chú Đại Bi , xin hỏi kinh nghiệm của bác phát tâm như nào để được tương ưng với bổn nguyện của Quán Âm Bồ Tát???
Cháu mong được sự chỉ bảo của bác.
Ý tôi nói các bộ sám ấy không phải kinh điển Phật giáo mà do các vị hòa thượng soạn ra cho từng việc cụ thể mà thôi (đúng là có sự nhầm lẫn về tác giả). Chẳng lẽ mình dùng bài văn dành cho người khác mà tụng cho mình chăng? Có chăng là dựa vào các bài ấy soạn riêng cho mình hoặc soạn thành bài phổ thông thì mới nên dùng.
Việc phát nguyện thế nào thì tùy mỗi người có tâm nguyện riêng. Như bản thân tôi thì phát nguyện hiện tại còn tại thế thì cố gắng đưa Phật pháp đến cho những người có duyên, hết báo thân này thì vãng sinh Cực lạc quốc.
Bạn cũng có thể phát nguyện tương tự như thế hoặc những ý nguyện khác. Thân mến.
Cháu chào bác Tây Đô cháu có 1 thắc mắc là : Bộ Lương Hoàng Sám Pháp mới do hòa thượng Chí Công soạn cho vua Lương để siêu độ hoàng hậu ?
Còn ""Từ Bi Thủy Sám "" là do Ngộ Đạt Quốc Sư biên soạn dùng sám hối tội nỗi?
""Hồng Danh Sám Hối " cũng do chư Tổ soạn dùng cách lễ 89 danh hiệu Phật để sám hối.
Các Sám Pháp thì đều do chư vị Tổ sư biện soạn theo kinh văn dùng để sám hối .Gọi là " Kinh " theo lý thì không được . Vì Kinh phải do Đức Phật thuyết hoặc Đệ tử ngài thuyết nhưng được sự ấn chứng khả hứa của Đức Phật . Nhưng ngày nay khi in ấn cháu thấy các bản sám hối đều Thêm chữ '' KInh " vào tiêu đề . Chẳng biết như nào nữa???
Cháu thấy Lương Hoàng Sám hoặc Thủy Sám thường khi có Đại Đàn Sám Hối cầu bạt nghiệp cho dòng họ nào đó hoặc Đại Lễ Cầu Siêu , Trai Đàn Thủy Lục thì các Thầy mới trì tụng , còn tại gia hay dùng Thủy Sám tụng tiêu nghiệp cho bệnh nhân ốm lâu ngày không khỏi . Hai bộ Lương Hoàng Sám và Thủy Sám văn kinh rất dài ,khối lượng trì tụng lớn tất nhiên người tại gia ít khi theo được.
Phổ thông nhất là Sám Hối Hồng Danh được các đạo tràng hay tụng vào 23 âm lịch hàng tháng .
Cháu cũng hay trì chú Đại Bi , xin hỏi kinh nghiệm của bác phát tâm như nào để được tương ưng với bổn nguyện của Quán Âm Bồ Tát???
Cháu mong được sự chỉ bảo của bác.
Ý tôi nói các bộ sám ấy không phải kinh điển Phật giáo mà do các vị hòa thượng soạn ra cho từng việc cụ thể mà thôi (đúng là có sự nhầm lẫn về tác giả). Chẳng lẽ mình dùng bài văn dành cho người khác mà tụng cho mình chăng? Có chăng là dựa vào các bài ấy soạn riêng cho mình hoặc soạn thành bài phổ thông thì mới nên dùng.
Việc phát nguyện thế nào thì tùy mỗi người có tâm nguyện riêng. Như bản thân tôi thì phát nguyện hiện tại còn tại thế thì cố gắng đưa Phật pháp đến cho những người có duyên, hết báo thân này thì vãng sinh Cực lạc quốc.
Bạn cũng có thể phát nguyện tương tự như thế hoặc những ý nguyện khác. Thân mến.
Được cảm ơn bởi: nhuhuong
TL: Re: Công đức trì chú Đại bi
Chào bạn huyminh, tôi cũng trì chú đại bi nên muốn chia sẻ với bạn, trì chú đại bi đều đặn mỗi ngày từ từ thân tâm của ta sẽ thanh tịnh, an lạc, tham sân si giảm, lòng từ bi tăng trưởng yêu thương mọi người nhiều hơn ... ta được như vậy thì là tương ứng với bổn nguyện của bồ tát Quán Thế Âm rồi đó.huyminh đã viết: Cháu cũng hay trì chú Đại Bi , xin hỏi kinh nghiệm của bác phát tâm như nào để được tương ưng với bổn nguyện của Quán Âm Bồ Tát???
.

Được cảm ơn bởi: Tây Đô đạo sĩ
- tigerstock68
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2135
- Tham gia: 14:12, 29/03/11
TL: Công đức trì chú Đại bi

[blockquote][highlight=#f3f3f3]
[/font][/color]
Phật A Di Đà
[/highlight][/font][/blockquote][/b]Cảm Nhận Về Tịnh Độ Tông
Tôi chỉ thực sự có ấn tượng sâu đậm với Tịnh Độ tông khi đọc cuốn Chu Dịch thiền giải của Trí Húc đại sư, đến lời chú giải hào thượng lục của quẻ Tuỳ : “Hào thượng lục âm nhu đắc chính, song cũng không có huệ lực, chỉ chuyên tu tập thiền duyệt để tự vui, nên đạo ắt phải khốn cùng vậy. Chỉ có dốc hết lòng tin tưởng hồi hướng Tây phương thì mới ‘vạn tu vạn nhân khứ’ được ” (1). “Vạn tu vạn nhân khứ ” là pháp môn tu tập để vãng sinh Tịnh độ bằng cách niệm hồng danh Phật A Di Đà. Vạn ngươi tu tập thì cả vạn người đều được vãng sinh, điều đó nói lên sự nhiệm màu của pháp môn này.
[/font]Chu Dịch thiền giải là tác phẩm của một bậc cao tăng thuộc hàng long tượng thuộc Thiên Thai tông thời Minh mạt, trong đó Trí Húc đại sư muốn dùng Thiền để xiển dương Dịch, và dùng Dịch để hiển bày Thiền, bằng rất nhiều kiến giải của Thiên Thai tông. Vậy mà đại sư lại nhấn mạnh đến sự mầu nhiệm của pháp môn Tịnh Độ thì đó là điều rất đáng lưu tâm. Quái từ của quẻ Tùy nói : “Tùy : Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh. Vô cửu” (Tùy -có nghĩa là đi theo- tượng trưng cho sự khởi đầu to lớn, sự hanh thông, thuận lợi và trinh bền. Không lỗi). “Nguyên hanh” cũng có thể hiểu “cực kỳ hanh thông”. Ý nghĩa của lời quẻ thật tốt đẹp, nên Trí Húc đại sư dùng pháp môn vãng sinh để chú giải cho ý nghĩa của quẻ Tùy quả là diệu bút. Vì Tùy là đi theo, mà đi theo ở đây có nghĩa là đi theo chư Phật về Tịnh độ.
[/font]Thông thường pháp môn tu học trong Phật giáo được chia ra làm hai loại : dễ và khó. Có những tông phái thuộc loại “khó” như Trung Quán, Thiên Thai, Hoa Nghiêm … vì đòi hỏi hành giả phải có một kiến thức nhất định thì mới hiểu được những thuật ngữ phức tạp của nó, hay Thiền, vì bên cạnh cơ duyên, nó còn đòi hỏi hành giả phải có ý chí kiên định và thiên tư thông tuệ để có thể cảm nhận được loại ngôn ngữ “bất lập văn tự” của các Thiền sư. Tịnh Độ tông được xem là pháp môn “dễ”, vì chỉ cần chuyên tâm niệm hồng danh của Đức Phật A Di Đà là có thể vãng sinh Tịnh Độ.
Đối với những Phật tử ham đọc kinh điển, thích tìm tòi, nghĩa là thiên về lý trí – và do đó, lý luận – thì việc niệm hồng danh của chư Phật để tìm được giải thoát thoạt nhìn tưởng chừng như là một pháp môn tiêu cực, không hấp dẫn bằng kiến trúc vũ trụ vĩ đại trong tư tưởng Hoa Nghiêm, hay thế giới siêu việt nhị biên trong hệ thống kinh Bát nhã; nhất là không thể sánh với những bộ ngữ lục Thiền tông đầy những cuộc vấn đáp siêu lý, cùng những hành trạng ngoại lý của các Thiền sư. Mọi vấn đề nan giải về tôn giáo hay nhân sinh, vốn làm các triết gia tốn hao biết bao tâm trí và giấy mực, đều được các thiền sư giải quyết một cách dứt khoát, và chớp nhoáng. Con mèo đứt đoạn dưới lưỡi đao của Nam Tuyền, những cái tát tai nảy lửa của Lâm Tế, những đòn gậy như trời giáng của Đức Sơn. Đó là đáp án cho mọi vấn đề triết học hay tôn giáo. Tông phong “Phùng Phật sát Phật, phùng Tổ sát Tổ” của Thiền tông nghe ra có vẻ giúp con người trở nên uy mãnh hơn, tự tại hơn, theo tinh thần “Trượng phu tự hữu xung thiên chí, Bất hướng Như Lai hành xứ hành” của các bậc cổ đức. Con đường của Đức Như Lai đã đi, kẻ trượng phu mang chí xung thiên còn không thèm đi qua, huống gì là niệm hồng danh của chư Phật để mong cầu giải thoát?
[/font]Ấy vậy mà tín ngưỡng Di Đà vẫn được coi là Tối thượng thừa trong tất cả các “thừa” đưa con người đến giải thoát. Cỗ xe Thiền với pháp môn “Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật” thường được coi là cỗ xe tối thượng - Tối thượng thừa thiền; vậy mà pháp môn niệm Phật vẫn được coi là Tối thượng thừa, thì điều đó có nghĩa là Tịnh Độ tông vẫn mang một ý nghĩa rất đỗi đặc thù. Thông thường, những người sơ cơ như chúng ta tiếp cận với thế giới “sự sự vô ngại” của Hoa Nghiêm tông, “bách giới thiên như” của Thiên Thai tông, “tứ trùng nhị đế” của Trung Quán tông hoặc cảnh giới “Niết Bàn sinh tử bình đẳng” của Thiền Tông chỉ bằng khái niệm. Trí giải thường mắc vào những sai lầm cực kỳ vi tế, mà chỉ có những bậc chân nhân đạt ngộ mới chỉ ra cho chúng ta thấy. Đôi khi chúng ta rơi vào trường hợp “kiến thắng vô huệ tự cứu” (kiến giải vượt trội mà không có trí huệ để tự cứu” (Kinh Lăng Nghiêm, q.9), thì dễ mắc vào đại ngã mạn. Huống gì nếu tu tập Thiền mà chỉ vui với Thiền lạc thì lại sa vào chỗ mà Trí Húc đại sư gọi là “chỉ chuyên tu tập thiền duyệt để tự vui, nên đạo ắt phải khốn cùng vậy.”
Mục đích khởi đầu của phép niệm hồng danh Phật A Di Đà chính là chế ngự tâm. Mọi cái học tâm truyền phương Đông luôn bắt đầu bằng cách điều tâm. Có thể xem toàn bộ kinh Kim cương chỉ là lời giải đáp cho câu “Vân hà ưng trụ? Vân hà hàng phục kỳ tâm?” của đại trưởng lão Tu Bồ Đề. Mạnh Tử cho rằng “Học vấn chi đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ hỷ!” (Cái đạo học vấn không có chi khác, đó chỉ là tìm lại cái tâm đã buông sổng của mình mà thôi -Cáo Tử thượng). Nhìn dưới quan điểm Tinh Độ tông, ta cũng có thể nói : “Niệm Phật chi đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ hỷ”! Niệm Phật đến mức “nhất tâm bất loạn” thì đó là trạng thái định của Thiền, là chỉ trong phép tu chỉ quán. Phép niệm này có thể thực hiện có hoặc không có tranh tượng Phật A Di Đà. Hành giả có thể thực hiện các phép quán trong Vô Lượng Thọ Kinh, bằng cách quán tưởng linh ảnh hiện tiền của Phật A Di Đà và thế giới Cực Lạc. Nhưng cực đỉnh của Tịnh Độ tông này là xem mình chính là Phật A Di Đà, nghĩa là thể tính của ta và chư Phật không khác.
Khi ta đảnh lễ trước tượng Phật thì thực chất là ta đảnh lễ cái tâm ta, đảnh lễ cái Phật tính trong ta. Đức Phật đã dạy “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng; Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai” (Tất cả những gì mang hình tướng đều là hư vọng; nếu thấy được các hình tướng đều không có hình tướng tức là thấy được Như Lai). Tượng Phật xét cho cùng cũng chỉ là ngẫu tượng. Đó là một biểu tượng của Bi-Trí-Dũng mà thôi(2). Khi ta chí tâm đảnh lễ trước tượng Phật mà ta cảm nhận được sự uy nghiêm, thì sự uy nghiêm ấy được huân tập từ tâm ta mà sinh khởi. Chí tâm đảnh lễ hoặc chí tâm niệm Phật đều là phương tiện để làm sáng Phật tính nơi ta. Mục đích rốt ráo của việc niệm hồng danh Phật A Di Đà là để liễu ngộ rằng ta chính là Ngài, song khác ở một điểm là ta chỉ là một biểu hiện ở cấp độ thấp, một bản sao còn mờ nhạt của Ngài. Niệm Phật, do đó, cũng là phương tiện để hợp nhất ta với Đức Phật A Di Đà. Chỉ khi nào ta cảm nhận được Đức Phật A Di Đà ở trong ta thì ta mới cảm nhận được Tịnh Độ.
Khi đã tin tưởng tuyệt đối vào sự cứu rỗi của pháp môn niệm Phật, nghĩa là phó thác toàn bộ sinh mệnh ta cho bản nguyện của Đức Phật A Di Đà một cách ung dung tự tại thì xem như ta đã đạt cảnh giới vô ngã rồi. Trong niềm tin tuyệt đối đó hoàn toàn không còn một dấu vết nào của bản ngã, nên từ pháp môn tu tưởng chừng như hoàn toàn thụ động, vô hình trung ta tiến đến cảnh giới tuyệt đối tích cực, khi xóa bỏ hoàn toàn cái Tôi nhỏ bé của mình để hòa vào Ánh sáng vô lượng trong Đại Ý Chí của Phật A Di Đà, giống như từ cảnh giới Chân Không bước sang Diệu Hữu. Liệu pháp môn này có thể xem là “dễ” được như ta thường nghĩ chăng?
Kinh Na Tiên tỳ khoeo thuật lại thắc mắc của của vua Milinda cho rằng, làm sao những kẻ trọn đời làm ác nhưng đến khi lâm chung biết tưởng nghĩ đến Phật lại được sinh lên các cõi trời. Na Tiên trả lời rằng nếu ta nói thả một hòn sỏi xuống dòng sông, hòn sỏi sẽ chìm; nhưng nếu thả một tảng đá to xuống nước mà có bè đỡ thì tảng đá sẽ nỗi. Đó có lẽ là câu trả lời hay nhất trong kinh điển về đức tin. Dòng sông là cõi sinh tử luân hồi, hòn sỏi hay tảng đá là nghiệp lực của ta. Còn bè đỡ chính là đức tin vào Đại Ý Chí của Phật Di Đà. Nếu ta đặt trọn vẹn niềm tin vào Phật Di Đà thì niềm tin đó sẽ giúp chúng ta vượt qua được dòng sông luân hồi sinh tử, để có thể vãng sinh về Tịnh Độ.
Trong tác phẩm “Cốt tủy của đạo Phật” (4), đại sư Suzuki thuật lại hành trạng của Shôma, người được xem là một tín đồ Tịnh Độ tông thuần khiết nhất. Có lần Shôma viếng một ngôi chùa quê. Vừa vào chánh điện, anh thõng chân nằm dài trước tượng A Di Đà. Một người trách anh thất kính, anh trả lời : “Tôi vào đây là trở về nhà cha mẹ tôi, còn anh bắt bẻ tôi như vậy chẳng qua anh chỉ là con rể trong này này thôi“.
Có lần Shôma cùng các bạn đi trên một chiếc thuyền buồm, gặp lúc gió lớn sóng to, mọi người quên hết việc niệm Phật mà chỉ biết van vái thần biển thần sông. Trong khi ấy, Shôma nằm ngủ khò cho đến lúc người ta đập anh dậy, hỏi anh ta làm sao có thể ngủ ngon giữa một tình cảnh như vậy, Shôma dụi mắt hỏi : “Ta còn trong thế giới Ta bà này không?”
Có lần anh làm việc ngoài đồng, mệt bèn về nhà nghỉ. Gió mát khiến anh nhớ đến Phật A Di Đà. Anh liền mang tượng ra đặt bên cạnh nói : “Ông hóng mát chơi vậy nhé !”.
Một hôm giữa đường mắc bệnh, bạn bè mướn người võng anh về nhà, rồi dặn dò : “Nay anh đã về quê rồi, hãy nghỉ yên đi, và tạ ơn A Di Đà”, Shôma đáp :”Cám ơn, nhưng tôi bệnh ở đâu thì chỗ đó là Tịnh Độ, sát ngay bên cạnh tôi“.
Khi có người hỏi làm sao giữ tròn được cuộc sống sau khi chết, Shôma đáp : “Để A Di Đà lo liệu, đó không phải là phần việc của ta“.
Quả là tuyệt diệu! Thế giới của Shôma chính là cảnh giới vô sai biệt tuyệt đối của một người đã phó thác toàn bộ sinh mệnh vào Đại Ý Chí của Phật A Di Đà. Khi đã sống trong của trạng thái hòa nhập cùng Đại Ý Chí của Phật A Di Đà thành một Thể Nhất Như, như Shôma, thì ta sẽ hiểu rằng Sinh Tử là Niết Bàn, Ta Bà là Tịnh Độ, Luân Hồi là Vãng Sinh. Lúc đó Thiền tức là Tịnh mà Tịnh cũng chính là Thiền.
Được cảm ơn bởi: cocacola
-
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 1578
- Tham gia: 10:51, 10/05/10
TL: Công đức trì chú Đại bi
hihi dạo nì an lão sao rồi hỉ , vẫn an chứ nị hỉ , hữu sự ngộ dạo qua chỗ nị nhé , hihi , nị thấy ai khả sự khá chỉ ngộ nhé , dạo khắp mà người được người chưa , hihi
- Tây Đô đạo sĩ
- Bát đẳng
- Bài viết: 7976
- Tham gia: 19:37, 19/10/10
- Đến từ: Tây Đô
TL: Re: Công đức trì chú Đại bi
Thánh kìu, lão ÔKÊ, chưa sao cả. Vẫn còn nhiều việc phải làm nên còn tới lui nơi đây...he...he...nị tự kiếm nhé...mysterious đã viết:hihi dạo nì an lão sao rồi hỉ , vẫn an chứ nị hỉ , hữu sự ngộ dạo qua chỗ nị nhé , hihi , nị thấy ai khả sự khá chỉ ngộ nhé , dạo khắp mà người được người chưa , hihi
-
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 1578
- Tham gia: 10:51, 10/05/10
TL: Công đức trì chú Đại bi
hihi nị kể công phu nị ngộ nghe cho vui hỉ , thứ mà ít ai biết í , kiểu vu vơ í , xem thể trạng nị tráng kiệt như lào hỉ , TCT , ĐCT , liên đới hỉ nị , hehe ngộ tham khảo hehe
- Tây Đô đạo sĩ
- Bát đẳng
- Bài viết: 7976
- Tham gia: 19:37, 19/10/10
- Đến từ: Tây Đô
TL: Công đức trì chú Đại bi
GIẢI TRỪ VONG NHẬP
Bà Trần Thị Tuyết Hạnh, năm mươi bảy tuổi, bị lâm bệnh ngay khi vừa nhập trại tỵ nạn ở đảo Phi Luật Tân. Bác sĩ chiếu khám cho bà nhiều lần và đưa bà ra khỏi trại để chụp hình nữa mà vẫn không tìm ra căn nguyên bịnh lý. Bà Hạnh đau rất kỳ cục, bà không chịu ăn uống và không ngủ trên cả tháng mà sức vóc không hề hấn gì. Mặt bà đỏ gay, con mắt láo liên và về chiều thì mí mắt sụp xuống, buồn rầu khóc thảm, làm nhảm kể lể những chuyện đau buồn. Vì lý do mắc bệnh kỳ dị nên ban điều hành trại thương lượng co quan lo hồ sơ định cư cấp tốc cho gia đình bà Hạnh nhập cảnh Hoa Kỳ sớm để có thể đủ điều kiện thuốc thang trị liệu bệnh tình cho bà.
Khi đến vùng San Francisco, người nhà cấp đưa bà Hạnh đến nhà thương trị liệu, song các bác sĩ giỏi đều bó tay chứng bệnh “không chịu ăn, không chịu uống”, mà vẫn sống như thường của bà Hạnh. Hai tháng trôi qua, bệnh tình không thuyên giảm, người nhà vẫn tiếp tục đưa bà Hạnh đi khám bác sỉ cho có lệ và để ai nấy yên lòng.
Một hôm có cụ Lành đưa đường, chồng bà Hạnh đem vợ đến chùa Từ Quang gặp tôi để nhờ giúp đỡ. Mới nhìn qua nét mặt, khí sắc của bà Hạnh là tôi biết ngay bà bị âm khí ám nhập. Tôi đưa ngay bà lên chánh điện để “tra vấn” cái vong linh đang nhập trong người bà. Bà Hạnh nhìn tôi với vẻ sợ hãi và run cầm cập như đang ở giữa băng tuyết. Bà cúi đầu khóc thút thít, nghẹn ngào và biểu lộ sự tức tối, uất ức. Tôi gạn hỏi hoài mà vong nhập kia không chịu “khai báo” một chút tung tích gì. Tôi bèn gọi các chú trong chùa trợ niệm và lấy chiếc mõ nhỏ đặt ngay trên đầu bà Hạnh tụng chú Ðại Bi thì bà Hạnh nhắm nghiền hai mắt, tóc trên đầu bà bay ngược như một cơn bão thổi mạnh, hai tay bà chấp lại như một búp sen và miệng the thé nói một giọng con gái độ mười chin, hai mươi tuổi.
Tiếng người con gái này nói mình đã chết trên biển cùng mẹ ruột và nhiều người vì gặp bão, nên tàu chìm. Tôi hỏi các chi tiết khác thì vong linh nói mà phát âm không rõ, chỉ thốt lên the thé kêu đói, than lạnh rồi vật lăn giữa điện Phật bất tỉnh. Tôi và những người có mặt thấy thế xúc động quá, liền khai kinh Phổ Môn tụng cầu an cho bà Hạnh và liên tục niệm danh hiệu Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát; đồng lúc tụng niệm tôi lấy nước thờ trên bàn Phật và đọc thần chú Quán Âm, Tâm Kinh Bát Nhã rồi đem cho bà Hạnh uống. Khi bà Hạnh vừa uống xong ly nước thì liền tỉnh dậy và bà vội vàng nhảy tới bàn thờ vong, đưa tay bốc thức ăn bỏ vào miệng ngồm ngoàm như kẻ bị đói lâu ngày. Ăn đã đời, bà quơ tất cả đồ cúng nào là chuối, bánh, trái cây, khoai, bắp… trên bàn thờ cô hồn bỏ vào trong túi áo, lận trong lưng quần và trải tà áo tràng mà bà đang mặc gói tất cả thức ăn, chui vào trong góc bàn thờ linh và tiếp tục ăn như ma quỷ. Bà còn khóc và la lên là có nhiều người đang dành ăn và đánh tháo bà.
Thấy hình ảnh kỳ quái của bà Hạnh, ai cũng sợ và nhiều người bỏ chạy xuống lầu. Tôi bình tĩnh niệm chú Chuẩn Ðề và dùng lời nhỏ nhẹ, ngọt ngào kêu bà Hạnh ra ngoài và quỳ giữa chánh điện. Tôi lại tiếp tục “vấn cung” vong linh đang nhập vào trong bà Hạnh một lần nữa. Lúc này, vong linh mới nói rõ tên tuổi, ngày chết là nhu cầu muốn được nghe kinh siêu độ. Tôi liền viết bài vị thờ ngay lúc ấy, kêu các vị dưới bếp nấu cơm chay cúng vong và tôi khai kinh Di Ðà cầu siêu hôm đó, có gần một trăm Tăng Ni và Phật tử, vì hôm đó là nhằm lễ sám hối Bố tát gần đến mùa Vu Ln Rằm tháng bảy.
Sau khi tụng kinh Di Ðà, niệm danh hiệu Phật, đến chổ quy y linh ký tự, thì bà Hạnh ngã xuống đất bất tỉnh. Ðộ chừng mười phút sau, bà Hạnh tỉnh dậy và trở lại người bình thường như mình đã ngủ một giấc thật dài. Gia đình bà Hạnh và mọi người hôm đó đều cảm kích và vô cùng mừng rỡ khi thấy bà Hạnh bình phục. Tôi bảo cụ Ðức Hạnh, cô Thanh Tịnh nấu cháo trắng để bà Hạnh ăn kẻo nhịn đói lâu ngày ăn cơm vào nặng bao tử, và đưa bà vào phòng nghỉ. Ngay tối hôm đó, bà Hạnh đòi về nhà vì thấy đã khỏe hoàn toàn. Sáng hôm sau, tự bà Hạnh và cả nhà đến chùa lễ tạ và xin quy y.
Nguồn:Linh Ứng Quán Thế Âm
Bà Trần Thị Tuyết Hạnh, năm mươi bảy tuổi, bị lâm bệnh ngay khi vừa nhập trại tỵ nạn ở đảo Phi Luật Tân. Bác sĩ chiếu khám cho bà nhiều lần và đưa bà ra khỏi trại để chụp hình nữa mà vẫn không tìm ra căn nguyên bịnh lý. Bà Hạnh đau rất kỳ cục, bà không chịu ăn uống và không ngủ trên cả tháng mà sức vóc không hề hấn gì. Mặt bà đỏ gay, con mắt láo liên và về chiều thì mí mắt sụp xuống, buồn rầu khóc thảm, làm nhảm kể lể những chuyện đau buồn. Vì lý do mắc bệnh kỳ dị nên ban điều hành trại thương lượng co quan lo hồ sơ định cư cấp tốc cho gia đình bà Hạnh nhập cảnh Hoa Kỳ sớm để có thể đủ điều kiện thuốc thang trị liệu bệnh tình cho bà.
Khi đến vùng San Francisco, người nhà cấp đưa bà Hạnh đến nhà thương trị liệu, song các bác sĩ giỏi đều bó tay chứng bệnh “không chịu ăn, không chịu uống”, mà vẫn sống như thường của bà Hạnh. Hai tháng trôi qua, bệnh tình không thuyên giảm, người nhà vẫn tiếp tục đưa bà Hạnh đi khám bác sỉ cho có lệ và để ai nấy yên lòng.
Một hôm có cụ Lành đưa đường, chồng bà Hạnh đem vợ đến chùa Từ Quang gặp tôi để nhờ giúp đỡ. Mới nhìn qua nét mặt, khí sắc của bà Hạnh là tôi biết ngay bà bị âm khí ám nhập. Tôi đưa ngay bà lên chánh điện để “tra vấn” cái vong linh đang nhập trong người bà. Bà Hạnh nhìn tôi với vẻ sợ hãi và run cầm cập như đang ở giữa băng tuyết. Bà cúi đầu khóc thút thít, nghẹn ngào và biểu lộ sự tức tối, uất ức. Tôi gạn hỏi hoài mà vong nhập kia không chịu “khai báo” một chút tung tích gì. Tôi bèn gọi các chú trong chùa trợ niệm và lấy chiếc mõ nhỏ đặt ngay trên đầu bà Hạnh tụng chú Ðại Bi thì bà Hạnh nhắm nghiền hai mắt, tóc trên đầu bà bay ngược như một cơn bão thổi mạnh, hai tay bà chấp lại như một búp sen và miệng the thé nói một giọng con gái độ mười chin, hai mươi tuổi.
Tiếng người con gái này nói mình đã chết trên biển cùng mẹ ruột và nhiều người vì gặp bão, nên tàu chìm. Tôi hỏi các chi tiết khác thì vong linh nói mà phát âm không rõ, chỉ thốt lên the thé kêu đói, than lạnh rồi vật lăn giữa điện Phật bất tỉnh. Tôi và những người có mặt thấy thế xúc động quá, liền khai kinh Phổ Môn tụng cầu an cho bà Hạnh và liên tục niệm danh hiệu Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát; đồng lúc tụng niệm tôi lấy nước thờ trên bàn Phật và đọc thần chú Quán Âm, Tâm Kinh Bát Nhã rồi đem cho bà Hạnh uống. Khi bà Hạnh vừa uống xong ly nước thì liền tỉnh dậy và bà vội vàng nhảy tới bàn thờ vong, đưa tay bốc thức ăn bỏ vào miệng ngồm ngoàm như kẻ bị đói lâu ngày. Ăn đã đời, bà quơ tất cả đồ cúng nào là chuối, bánh, trái cây, khoai, bắp… trên bàn thờ cô hồn bỏ vào trong túi áo, lận trong lưng quần và trải tà áo tràng mà bà đang mặc gói tất cả thức ăn, chui vào trong góc bàn thờ linh và tiếp tục ăn như ma quỷ. Bà còn khóc và la lên là có nhiều người đang dành ăn và đánh tháo bà.
Thấy hình ảnh kỳ quái của bà Hạnh, ai cũng sợ và nhiều người bỏ chạy xuống lầu. Tôi bình tĩnh niệm chú Chuẩn Ðề và dùng lời nhỏ nhẹ, ngọt ngào kêu bà Hạnh ra ngoài và quỳ giữa chánh điện. Tôi lại tiếp tục “vấn cung” vong linh đang nhập vào trong bà Hạnh một lần nữa. Lúc này, vong linh mới nói rõ tên tuổi, ngày chết là nhu cầu muốn được nghe kinh siêu độ. Tôi liền viết bài vị thờ ngay lúc ấy, kêu các vị dưới bếp nấu cơm chay cúng vong và tôi khai kinh Di Ðà cầu siêu hôm đó, có gần một trăm Tăng Ni và Phật tử, vì hôm đó là nhằm lễ sám hối Bố tát gần đến mùa Vu Ln Rằm tháng bảy.
Sau khi tụng kinh Di Ðà, niệm danh hiệu Phật, đến chổ quy y linh ký tự, thì bà Hạnh ngã xuống đất bất tỉnh. Ðộ chừng mười phút sau, bà Hạnh tỉnh dậy và trở lại người bình thường như mình đã ngủ một giấc thật dài. Gia đình bà Hạnh và mọi người hôm đó đều cảm kích và vô cùng mừng rỡ khi thấy bà Hạnh bình phục. Tôi bảo cụ Ðức Hạnh, cô Thanh Tịnh nấu cháo trắng để bà Hạnh ăn kẻo nhịn đói lâu ngày ăn cơm vào nặng bao tử, và đưa bà vào phòng nghỉ. Ngay tối hôm đó, bà Hạnh đòi về nhà vì thấy đã khỏe hoàn toàn. Sáng hôm sau, tự bà Hạnh và cả nhà đến chùa lễ tạ và xin quy y.
Nguồn:Linh Ứng Quán Thế Âm
Được cảm ơn bởi: teamoon, babydethuong, HoaSenTuoiSang
- Tây Đô đạo sĩ
- Bát đẳng
- Bài viết: 7976
- Tham gia: 19:37, 19/10/10
- Đến từ: Tây Đô
TL: Re: Công đức trì chú Đại bi
Đi đứng nằm ngồi chăn trâu, không cho nó chạy rông ăn lúa người ta. Thế thôi.mysterious đã viết:hihi nị kể công phu nị ngộ nghe cho vui hỉ , thứ mà ít ai biết í , kiểu vu vơ í , xem thể trạng nị tráng kiệt như lào hỉ , TCT , ĐCT , liên đới hỉ nị , hehe ngộ tham khảo hehe
-
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 1578
- Tham gia: 10:51, 10/05/10
TL: Công đức trì chú Đại bi
cái ý hok nói , hỏi công phu dưỡng khí kìa , giúp cơ địa được thanh thoát , tinh thần sảng khoái , nhanh nhẹn ý mà hihihi
nị có phương pháp giản trạch nào chỉ nhập đại định được hum hic hic , dạng như nhịp tim ngừng đập
nị có phương pháp giản trạch nào chỉ nhập đại định được hum hic hic , dạng như nhịp tim ngừng đập
- Tây Đô đạo sĩ
- Bát đẳng
- Bài viết: 7976
- Tham gia: 19:37, 19/10/10
- Đến từ: Tây Đô
TL: Re: Công đức trì chú Đại bi
Xo ri, ai dôn know >:D< >:D< >:D<mysterious đã viết:cái ý hok nói , hỏi công phu dưỡng khí kìa , giúp cơ địa được thanh thoát , tinh thần sảng khoái , nhanh nhẹn ý mà hihihi
nị có phương pháp giản trạch nào chỉ nhập đại định được hum hic hic , dạng như nhịp tim ngừng đập
