Đất Phật
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
- cloudstrife
- Lục đẳng
- Bài viết: 4206
- Tham gia: 20:34, 24/11/10
TL: Đất Phật
Dù ta có thể thanh lọc hoàn toàn mọi xấu ác và hủy diệt tiềm năng mang lại các hậu quả đáng sợ của nó xuyên qua cách vận dụng các lực lượng đối trị thích nghi nhưng chỉ cần đơn giản không phạm vào các ác nghiệp từ lúc đầu thì vẫn tốt hơn rất nhiều. Do vậy, tốt hơn hết là bạn không nên phạm vào và không bao giờ để cho nội tâm bị vây bẩn bởi những ác nghiệp như vậy. Ngài Tsong Kha pa nói rằng cũng tương tợ như một người bị gãy chân; sau đó, lành lại nhưng quả thật chiếc chân bị gãy khác xa so với chiếc chân chưa hề bị gãy bao giờ.
Có lẽ có người nghĩ rằng vì lý do trong một số kinh điển khác có đề cập đến sự phú quý và các quyền lợi của kiếp sống hiện nay trong vòng luân hồi như những đối tượng cần phải xả bỏ và khước từ, nên một hành giả nào đó còn có ý nguyện đạt được hình thức tồn tại lương hảo là điều không thích hợp. Đây là thái độ rất sai lầm. Tâm nguyện mà chúng ta vừa nói gồm có hai loại; chí nguyện tạm thời và chí nguyện cứu cánh. Chí nguyện tạm thời bao gồm sự truy cầu thân người quí giá trong kiếp tới. Dựa vào thân người quí giá như vậy bạn có thể liên lỉ tu hành Phật pháp để cuối cùng đạt thành chí nguyện cứu cánh, đó là sự thành tựu giác ngộ. cầu đạt được một sự tái sanh tốt đẹp trong đời vị lai, như có được một thân người chẳng hạn để vị ấy cóTuy rằng đối với một Đại thừa hành giả; mục đích cứu cánh là muốn nỗ lực đạt được Nhất Thiết Trí nhằm mưu cầu phúc lợi cho quần sanh. Nhưng cũng đồng thời rất cần thiết cho vị hành giả này nguyện thể tiếp tục tu hành. Ngài Tịch Thiên nói rằng: thân người quí giá cần được nhớ nghĩ như chiếc thuyền vượt ngang qua biển luân hồi. Để đạt đến mục đích cứu cánh thành tựu cảnh giới Nhất Thiết Trí, bạn phải có được thân người hiếm quí này trong rất nhiều kiếp. Đạt được hình thức tái sanh tốt đẹp như vậy, nguyên nhân cơ bản là do trì giới.
Đối với đa số nhiều người, quả thật khó khăn để bỏ hẳn thế gian sau khi họ phát nguyện tu hành. Người tu hành tốt nhất là xả bỏ mọi sinh hoạt thế gian, hy hiến cuộc đời còn lại của mình ở một nơi biệt lập đơn độc để tu hành. Điều này đáng khen ngợi và có nhiều đại lợi ích nhưng rất khó để tu như vây đối với đa số nhiều người trong chúng ta. Bạn phải lo nghĩ về chúng cuộc đời của mình, làm việc trong cộng đồng và phục vụ cho nhân quần nữa. Bạn không nên hoàn toàn bận lòng với mọi sinh hoạt thế tục mà hãy dùng nhiều năng lực và thời gian để tu hành ngõ hầu cải thiện đời sau. Bạn sẽ bắt đầu liễu ngộ rằng mọi hành sự trong hiện đời không đến nỗi quan trọng lắm so với vận mệnh tương lai.
Bạn có thể sẽ có được một cuộc chuyển sanh tốt đẹp ở đời vị lai do sự quy y và phụng hành giáo pháp theo luật tắc nghiệp báo; bằng nỗ lực từ bỏ các hành động xấu ác và tích tập những hành vi lương thiện. Tuy nhiên, vì vấn đề chuyển sanh thích hợp là một vấn đề còn nằm trong phạm vi luân hồi mà bản chất của luân hồi là “khổ” nên ta không nên lấy đó làm thỏa mãn. Trái lại, ta hãy bồi dưỡng sự nhận thức rằng mọi hình thức hiện hữu trong vòng luân hồi đều mang tính chất “khổ não”. Từ vô thỉ đến nay, ta từng quen thuộc với tâm chấp thủ đối với sự sung mãn của luân hồi mà chẳng hề liễu tri được rằng sự khoái lạc của luân hồi là: một sự khổ đau đích thực. Cho đến ngày nào mà các phạm nhân chưa hiểu rằng mình đang bị giam cầm và cũng chẳng tri nhận được rằng cuộc đời trong ngục thất rất khó và rất khổ để nhẫn chịu thì họ sẽ vẫn không phát khởi niềm ước mong chân thật để được thoát khỏi vòng lao ngục ấy. Luân hồi cũng vậy, cho đến khi nào mà bạn chưa nhận thức được các khiếm khuyết của đời sống trong vòng tuần hoàn hiện hữu này, thì bạn sẽ chẳng bao giờ chân chánh phát nguyện đạt được Niết Bàn tức là giải thoát khỏi luân hồi.
Bạn không nên có quan niệm sai lầm rằng Phật giáo là đạo bi quan yếm thế. Trái lại, Phật giáo rất lạc quan bởi vị mục đích mà mỗi cá nhân nhắm đến, đó là sự chứng ngộ viên mãn hầu có thể đạt được một niềm an lạc toàn bích và vĩnh cửu. Phật giáo gợi nhắc chúng ta rằng mỗi người đều có thể đạt thành mục đích tối thượng này. Những khoái lạc nhất thời của luân hồi dường như có vẻ vui thú, nhưng chúng không thể thỏa mãn chúng ta được, cho dù ta có được hưởng thụ lâu đến cách mấy đi nữa. Chúng chẳng bền vững vì chúng dễ biến hóa thay đổi. Trái lại, với cứu cánh thường hằng và vĩnh cữu của an lạc rốt ráo Niết Bàn thì những khoái lạc và an vui tạm bợ trong vòng luân hồi này đều trở thành vô nghĩa.
Theo Người Khăn Trắng - thegioivohinh
Có lẽ có người nghĩ rằng vì lý do trong một số kinh điển khác có đề cập đến sự phú quý và các quyền lợi của kiếp sống hiện nay trong vòng luân hồi như những đối tượng cần phải xả bỏ và khước từ, nên một hành giả nào đó còn có ý nguyện đạt được hình thức tồn tại lương hảo là điều không thích hợp. Đây là thái độ rất sai lầm. Tâm nguyện mà chúng ta vừa nói gồm có hai loại; chí nguyện tạm thời và chí nguyện cứu cánh. Chí nguyện tạm thời bao gồm sự truy cầu thân người quí giá trong kiếp tới. Dựa vào thân người quí giá như vậy bạn có thể liên lỉ tu hành Phật pháp để cuối cùng đạt thành chí nguyện cứu cánh, đó là sự thành tựu giác ngộ. cầu đạt được một sự tái sanh tốt đẹp trong đời vị lai, như có được một thân người chẳng hạn để vị ấy cóTuy rằng đối với một Đại thừa hành giả; mục đích cứu cánh là muốn nỗ lực đạt được Nhất Thiết Trí nhằm mưu cầu phúc lợi cho quần sanh. Nhưng cũng đồng thời rất cần thiết cho vị hành giả này nguyện thể tiếp tục tu hành. Ngài Tịch Thiên nói rằng: thân người quí giá cần được nhớ nghĩ như chiếc thuyền vượt ngang qua biển luân hồi. Để đạt đến mục đích cứu cánh thành tựu cảnh giới Nhất Thiết Trí, bạn phải có được thân người hiếm quí này trong rất nhiều kiếp. Đạt được hình thức tái sanh tốt đẹp như vậy, nguyên nhân cơ bản là do trì giới.
Đối với đa số nhiều người, quả thật khó khăn để bỏ hẳn thế gian sau khi họ phát nguyện tu hành. Người tu hành tốt nhất là xả bỏ mọi sinh hoạt thế gian, hy hiến cuộc đời còn lại của mình ở một nơi biệt lập đơn độc để tu hành. Điều này đáng khen ngợi và có nhiều đại lợi ích nhưng rất khó để tu như vây đối với đa số nhiều người trong chúng ta. Bạn phải lo nghĩ về chúng cuộc đời của mình, làm việc trong cộng đồng và phục vụ cho nhân quần nữa. Bạn không nên hoàn toàn bận lòng với mọi sinh hoạt thế tục mà hãy dùng nhiều năng lực và thời gian để tu hành ngõ hầu cải thiện đời sau. Bạn sẽ bắt đầu liễu ngộ rằng mọi hành sự trong hiện đời không đến nỗi quan trọng lắm so với vận mệnh tương lai.
Bạn có thể sẽ có được một cuộc chuyển sanh tốt đẹp ở đời vị lai do sự quy y và phụng hành giáo pháp theo luật tắc nghiệp báo; bằng nỗ lực từ bỏ các hành động xấu ác và tích tập những hành vi lương thiện. Tuy nhiên, vì vấn đề chuyển sanh thích hợp là một vấn đề còn nằm trong phạm vi luân hồi mà bản chất của luân hồi là “khổ” nên ta không nên lấy đó làm thỏa mãn. Trái lại, ta hãy bồi dưỡng sự nhận thức rằng mọi hình thức hiện hữu trong vòng luân hồi đều mang tính chất “khổ não”. Từ vô thỉ đến nay, ta từng quen thuộc với tâm chấp thủ đối với sự sung mãn của luân hồi mà chẳng hề liễu tri được rằng sự khoái lạc của luân hồi là: một sự khổ đau đích thực. Cho đến ngày nào mà các phạm nhân chưa hiểu rằng mình đang bị giam cầm và cũng chẳng tri nhận được rằng cuộc đời trong ngục thất rất khó và rất khổ để nhẫn chịu thì họ sẽ vẫn không phát khởi niềm ước mong chân thật để được thoát khỏi vòng lao ngục ấy. Luân hồi cũng vậy, cho đến khi nào mà bạn chưa nhận thức được các khiếm khuyết của đời sống trong vòng tuần hoàn hiện hữu này, thì bạn sẽ chẳng bao giờ chân chánh phát nguyện đạt được Niết Bàn tức là giải thoát khỏi luân hồi.
Bạn không nên có quan niệm sai lầm rằng Phật giáo là đạo bi quan yếm thế. Trái lại, Phật giáo rất lạc quan bởi vị mục đích mà mỗi cá nhân nhắm đến, đó là sự chứng ngộ viên mãn hầu có thể đạt được một niềm an lạc toàn bích và vĩnh cửu. Phật giáo gợi nhắc chúng ta rằng mỗi người đều có thể đạt thành mục đích tối thượng này. Những khoái lạc nhất thời của luân hồi dường như có vẻ vui thú, nhưng chúng không thể thỏa mãn chúng ta được, cho dù ta có được hưởng thụ lâu đến cách mấy đi nữa. Chúng chẳng bền vững vì chúng dễ biến hóa thay đổi. Trái lại, với cứu cánh thường hằng và vĩnh cữu của an lạc rốt ráo Niết Bàn thì những khoái lạc và an vui tạm bợ trong vòng luân hồi này đều trở thành vô nghĩa.
Theo Người Khăn Trắng - thegioivohinh
Được cảm ơn bởi: hey
TL: Đất Phật

cloudstrife đã viết:hey đã viết:
Thường thì em kiềm chế bằng cách nào? lúc đó có nặng nề không? em kiềm chế cho êm chuyện hay là hiểu nghiệp rồi hoan hỷ đón nhận và bỏ qua?![]()
Em và bạn đi chùa Hoằng Pháp có khi gặp chị Hey
Em kiềm chế bằng cách lảng đi chỗ khác chị à , không gặp , không thấy thì không bực mình nữa ( cái này có thể gọi là : Vô vô minh diệc vô vô minh tận không nhỉ ^^ ..... Lúc đó dĩ nhiên là nặng nề lắm chứ chị ..... bình thường thì biết nhân quả , hiểu rằng mình gặp điều không phải tức là do nghiệp của mình , nhưng khi đụng chuyện thì tự nhiên máu nóng nổi lên , rất khó lòng kiềm chế chị ...... tốt nhất là em tránh đi chỗ khác ...... nên thằng bạn em mới rủ em đi chùa , rồi tập Yoga ...... mà em thấy Yoga tập mấy động tác đưa chân lên sau gáy này nọ , không biết có khó không ta..... còn thiền thì chắc trình độ của em chưa nổi chị ơi ...... vì khi tu tập thiền định , tâm phải lặng.... thằng bạn em cũng tập thiền 1 năm mấy nay , mà nó nói tâm không thể nào lặng nổi , ngối 1 chút là vọng niệm nổi lên liền..... em nghĩ chắc là do tụi em còn trẻ, còn nhiều tạp niệm quá ..... lúc thiền em nghĩ chắc là mình phải lặng tâm , nhưng là để suy nghĩ , khám phá những câu hỏi về vũ trụ, nhân sinh qua , đại loại như tìm câu hỏi : ta là ai , từ đâu tới ....... giống như lúc Phật ngồi dưới cội bồ đề đó chị ......
Em thấy môi trường tác động cực kì lớn đến việc tu tập ..... Mình sống ở 1 TP hiện đại , xa hoa đầy cám dỗ , nên muốn tịnh tâm là 1 việc cực kì khó ...... vừa mới trì xong Bát nhã , đọc " sắc tức thị không , không tức thị sắc , sắc bất dị không , không bất dị sắc " xong , ra đường thấy người ta đi xe đẹp , xài đồ xịn , là lập tức tâm mình khởi lên ý niệm ham thích liền ..... rồi từ ham thích , dẫn ra nhiều thứ khác nữa .... Ngày xưa vào thời Phật , 1 phần người ta tu 10 thành 7,8 , là vì thời đó , ai ai cũng đều phát tâm tu tập , với lại được sự hướng dẫn trực tiếp của chính Đức Phật , nên dễ thành tựu là điều dễ hiểu ...... Ngày nay , Phật thì không còn , Pháp tuy có , nhưng ít ai chịu bỏ công phu và đủ kiên trì vài chục năm để tìm hiểu , Tăng thì không biết ai mới chính là Thiện tri thức để theo...... quả thực thời Mạt pháp này , khó ai có thể thành tựu nổi ...... em biết muốn thành Phật thì phải tu tập thiền định , nhưng thời này ngoại cảnh tác động quá nhiều , nếu muốn thiền được thì ít nhất cũng phải lớn tuổi 1 chút, trải qua dâu bể được mất cuộc đời , mới ngộ ra được tính " không " của cuộc đời , mới chịu từ bỏ mà đi tìm kiếm " sự thật đúng đắn " ........ Đọc kinh Phật , thì mọi cái ở cuộc đời này đều là huyễn , ngay cả cái thể xác này cũng vậy ..... tuy nhiên , đã là người thì ai cũng ít nhiều bị cái hấp lực của những cái huyễn này ..... Vì sao ? Vì những cái này trực tiếp tác động đến con người , qua nhãn , nhĩ , tỹ , thiệt , thân , ý ...... mà con người thì thường cho rằng , những cái gì họ tận mắt thấy , tai trực tiếp nghe thấy , mũi trực tiếp ngửi thấy , tay trực tiếp sờ thấy được ...... là thật . Đành rằng những thế giới như Cực Lạc , Lưu Ly của Phật Di Đà hay Phật Dược Sư là rất đẹp , rất hoàn mỹ , nhưng liệu mấy ai không có niềm tin vào Đạo có thể tin được ? Đó chính là 1 lý do khiến cho thời Mạt pháp này , Phật pháp không còn được như trước ..... Tuy nhiên , em đặt lại vấn đề ở đây là , những người giàu nhất 1 quốc gia, hay thậm chỉ là giàu nhất thế giới , dĩ nhiên là cái phước báu của họ ở đời này cực lớn .... họ có thể có được tất cả những gì họ mong ước ...... thế mà họ vẫn chưa được về những cõi trên , chứng tỏ những cõi ấy tốt đẹp hơn cõi này nhiều thế nào ..... Cộng với việc ra ngoài em thấy nhiều người khổ quá , mình như vầy là đã tốt hơn rất nhiều người rồi ....... Vì thế phải cố gắng hơn nữa ......
Thêm 1 điều nữa là , mỗi khi mình nói về Phật pháp ,nhiều người tỏ vẻ không thích , không tin ..... Có người im lặng , bàn sang chuyện khác .... nhưng cũng có người phản ứng lại mình gay gắt ! Nhiều lúc nghĩ mà thấy buồn lắm chị ơi . Mình có ý tốt , mà họ làm khó mình , khiến mình khởi sân si ..... lúc trước em cũng buồn nhiều , nhưng sau này nghĩ thoáng hơn là do định lực kham nhẫn của mình chưa đủ , nếu mỗi lần như vậy thì em tìm cách lảng đi cho khỏi khởi niệm ...... Lâu lâu em cũng tâm sự , ngoài đời là thằng bạn thân của em , trên đây thì có Thầy Tây Đô , nhận được sự chia sẻ , đồng cảm nên cũng bớt đi rất nhiều ...... Thằng bạn em còn nói thẳng : " Ngày xưa Phật còn bị nhiều người hãm hại , doạ giết , thì mày cứ lấy Phật làm gương , tự hỏi mình đã được như Phật chưa mà đòi hỏi ai cũng phải tốt với mày ! " ^^ .....
Thời này , em thấy đúng là chỉ có cách đi đường vòng , tức là tu Tịnh độ với pháp môn niệm Phật A Di Đà để được đến cõi Cực Lạc mà tu tập tiếp , vì nơi này dễ tu hơn , điều kiện gần giống với thời Chánh Pháp khi Phật còn tại thế .... Chứ còn muốn thành Phật thì phải tu Thiền , mở ra trí tuệ bát nhã ..... mà ở thời này mà tu thiền thì .....
Em là người biết nhìn nhận rõ vấn đề, biết suy nghĩ và đang toàn tâm tu học. Chị thấy em - một đứa con trai tuy tuổi còn trẻ với những cái Tham - Sân - Si nhưng vẫn luôn cố gắng tranh đấu để tự kìm kẹp và kiểm soát bản thân. Tương lai sẽ là một người đàn ông điềm đạm và chững chạc

Thời này tuy bị tác động nhiều của ngoại cảnh nhưng chị nghĩ đó lại là cách hay nhất để con người ta sớm giác ngộ, bởi chị thấy thời này cái gọi là "sắc sắc không không" nó lại rõ ràng hơn bao giờ hết. Có đó rồi mất đó, nhanh như thoắt, ví như nhà lầu, xe hơi, tài sản, địa vị...trong tích tắc có thể mất tất cả, nên tính "Không" cũng sớm được ngộ ra.
Chị rất cảm kích và cảm ơn em đã chia sẻ những kinh nghiệm và suy nghĩ

Được cảm ơn bởi: cloudstrife
TL: Đất Phật
************
- Tập tin đính kèm
-
- lifeofbuddha26.jpg (124.1 KiB) Đã xem 1052 lần
Được cảm ơn bởi: cloudstrife
TL: Đất Phật
Nhân Quả
Ðịnh Nghĩa
"Nhân" là nguyên nhân, "Quả" là kết quả. Nhân là cái mầm. Quả là cái hạt, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân là năng lực phát động, Quả là sự hình thành của năng lực phát động ấy. Nhân và Quả là hai trạng thái tiếp nối nhau mà có. Nếu không có Nhân thì không có Quả; nếu không có Quả thì không có Nhân.
Ðịnh Nghĩa
"Nhân" là nguyên nhân, "Quả" là kết quả. Nhân là cái mầm. Quả là cái hạt, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân là năng lực phát động, Quả là sự hình thành của năng lực phát động ấy. Nhân và Quả là hai trạng thái tiếp nối nhau mà có. Nếu không có Nhân thì không có Quả; nếu không có Quả thì không có Nhân.
Được cảm ơn bởi: cloudstrife
TL: Đất Phật
Những Ðặc Tính Của Luât Nhân Quả
1. Nhân thế nào thì quả thế ấy:
Nếu ta muốn có quả cam thì ta phải ươm hạt giống cam; nếu ta muốn có hạt đậu thì ta phải gieo giống đậu. Không bao giờ ta trồng cam mà lại được đậu, hay trồng đậu mà lại được cam. Người học đàn thì biết đàn, người học chữ thì biết chữ. nói một cách khác, nhân với quả bao giờ cũng đồng một loại với nhau.Hễ nhân đổi thì quả cũng đổi.
2. Một nhân không thể sanh ra quả:
Sự vật trong vũ trụ nầy đều là sự tổ hợp của nhiều nhân duyên. Cho nênkhông có một nhân nào, có thể tự tác thành kết quả được, nếu không có sự giúp đỡ của nhiều nhân khác. Nói rằng hạt lúa sanh ra cây lúa, là nói một cách giản dị cho dễ hiểu, chứ thật ra hạt lúa không thể sanh ra gì được cả, nếu để một mình nó giữa khoảng trống không, thiếu không khí, ánh sáng đất nước, nhân công.
Cho nên, khi ta nghe bất cứ ai tuyên bố rằng: mọi vật do một nhân sinh ra, hay một nhân có thể sanh ra vạn vật; ta có thể chắc chắn rằng, người ấy nói sai sự thật.
3. Trong nhân có quả, trong quả có nhân:
Chính trongnhân hiện tại đã có hàm chứa cái quả vị lai; cũng chính trong cái quả hiện tại, đã có hình bóng của nhân quá khứ. Một sự vật mà ta gọi là nhân, là khi nó chưa biến chuyển, hình thành ra cái quả mà ta mong muốn, chờ đợi. Một sự vật ta gọi là quả, là khi nó chưa biến chuyển, hình thành ra trạng thái mà ta mong đợi ước muốn. Mỗi vật, vì thế, đều có thể gọi là nhân hay quả được: đối với quá khứ, thì nó là quả, nhưng đối với tương lai thì nó là nhân. Nhân và qủa tiếp nối nhau, đắp đổi nhau như những vòng trong sợi dây chuyền.
4. Sự phát triển nhanh và chậm từ nhân đến quả:
Sự biến chuyển từ nhân đến quả, có khi nhanh khi chậm, chứ không phải bao giờ cũng diễn tiến trong một thời gian đồng nhất:
Có những nhân và xảy ra kế tiếp nhau, liền nhau, nhân vừa phát khởi thì quả đã xuất hiện, như khi vừa đánh xuống mặt trống (nhân) thì tiếng trống liền phát hiện ra (quả); hay khi hai luồng điện âm và dương vừa gặp nhau, thì ánh sáng liền bừng lên.Có khi nhân đã gây rồi, nhưng quả đợi một thời gian, quả mới hình thành, như từ khi gieo hạt giống, cho đến khi gặt lúa, cần phải có một thời gian ít nhất là bốn tháng.
Có khi từ nhân đến quả cách nhau từng chục năm, như đứa trẻ mới cắp sách đi học đến ngày thành tài, phải qua một thời gian ít nhất là mười năm.Có khi cần đến một vài trăm năm, hay nhiều hơn nữa quả mới xuất hiện. Chẳng hạn như từ ý niệm giành độc lập của một quốc gia, đến khi thực hiện được nền độc lập ấy, cần phải qua bao thế kỷ.
Vì lý do mau chậm, trong sự phát hiện cái quả, chúng ta không nên nóng nẩy hấp tấp, mà cho rằng cái luật nhơn quả không hoàn toàn đúng, khi thấy có những cái nhân chưa phát sinh ra quả.
1. Nhân thế nào thì quả thế ấy:
Nếu ta muốn có quả cam thì ta phải ươm hạt giống cam; nếu ta muốn có hạt đậu thì ta phải gieo giống đậu. Không bao giờ ta trồng cam mà lại được đậu, hay trồng đậu mà lại được cam. Người học đàn thì biết đàn, người học chữ thì biết chữ. nói một cách khác, nhân với quả bao giờ cũng đồng một loại với nhau.Hễ nhân đổi thì quả cũng đổi.
2. Một nhân không thể sanh ra quả:
Sự vật trong vũ trụ nầy đều là sự tổ hợp của nhiều nhân duyên. Cho nênkhông có một nhân nào, có thể tự tác thành kết quả được, nếu không có sự giúp đỡ của nhiều nhân khác. Nói rằng hạt lúa sanh ra cây lúa, là nói một cách giản dị cho dễ hiểu, chứ thật ra hạt lúa không thể sanh ra gì được cả, nếu để một mình nó giữa khoảng trống không, thiếu không khí, ánh sáng đất nước, nhân công.
Cho nên, khi ta nghe bất cứ ai tuyên bố rằng: mọi vật do một nhân sinh ra, hay một nhân có thể sanh ra vạn vật; ta có thể chắc chắn rằng, người ấy nói sai sự thật.
3. Trong nhân có quả, trong quả có nhân:
Chính trongnhân hiện tại đã có hàm chứa cái quả vị lai; cũng chính trong cái quả hiện tại, đã có hình bóng của nhân quá khứ. Một sự vật mà ta gọi là nhân, là khi nó chưa biến chuyển, hình thành ra cái quả mà ta mong muốn, chờ đợi. Một sự vật ta gọi là quả, là khi nó chưa biến chuyển, hình thành ra trạng thái mà ta mong đợi ước muốn. Mỗi vật, vì thế, đều có thể gọi là nhân hay quả được: đối với quá khứ, thì nó là quả, nhưng đối với tương lai thì nó là nhân. Nhân và qủa tiếp nối nhau, đắp đổi nhau như những vòng trong sợi dây chuyền.
4. Sự phát triển nhanh và chậm từ nhân đến quả:
Sự biến chuyển từ nhân đến quả, có khi nhanh khi chậm, chứ không phải bao giờ cũng diễn tiến trong một thời gian đồng nhất:
Có những nhân và xảy ra kế tiếp nhau, liền nhau, nhân vừa phát khởi thì quả đã xuất hiện, như khi vừa đánh xuống mặt trống (nhân) thì tiếng trống liền phát hiện ra (quả); hay khi hai luồng điện âm và dương vừa gặp nhau, thì ánh sáng liền bừng lên.Có khi nhân đã gây rồi, nhưng quả đợi một thời gian, quả mới hình thành, như từ khi gieo hạt giống, cho đến khi gặt lúa, cần phải có một thời gian ít nhất là bốn tháng.
Có khi từ nhân đến quả cách nhau từng chục năm, như đứa trẻ mới cắp sách đi học đến ngày thành tài, phải qua một thời gian ít nhất là mười năm.Có khi cần đến một vài trăm năm, hay nhiều hơn nữa quả mới xuất hiện. Chẳng hạn như từ ý niệm giành độc lập của một quốc gia, đến khi thực hiện được nền độc lập ấy, cần phải qua bao thế kỷ.
Vì lý do mau chậm, trong sự phát hiện cái quả, chúng ta không nên nóng nẩy hấp tấp, mà cho rằng cái luật nhơn quả không hoàn toàn đúng, khi thấy có những cái nhân chưa phát sinh ra quả.
Được cảm ơn bởi: cloudstrife
TL: Đất Phật
Phân Tích Hành Tướng Của Nhân Quả Trong Thực Tế
Như các đoạn trên đã nói, nhân quả chi phối tất cả vũ trụ vạn hữu, không có một vật gì, sự gì, động vật hay thực vật, vật chất hay tinh thần, thóat ra ngoài luật nhân quả được. Ở đây, để có một quan niệm rõ ràng hơn về luật nhân quả, chúng ta hãy tuần tự phân tích hành tướng của nhân quả trong mọi sự vật:
1. Nhân quả có trong những vật vô tri vô giác:
Nước bị lửa đốt thì nóng, bị gió thổi thì thành sóng, bị lạnh thì đông lại. Nắng lâu ngày thì đại hạn, mưa nhiều thì lụt, gió nhiều thì sanh bão.
2. Nhân quả trong loài thực vật:
Hạt cam thì sanh ra cây cam, cây cam thì sanh trái cam. Hạt ớt thì sanh ra cây ớt, cây ớt thì sanh ra trái ớt. Nói một cách tổng quát, giống ngọt thì sanh trái ngọt, giống chua thì sanh trái chua, giống nào thì sanh quả ấy.
3. Nhân quả trong các loài động vật:
Loài chim sanh ra trứng, nên chúng ta gọi trứng là nhân, chờ khi ấp nở thành con là quả; con chim ấy trở lại làm nhân, sinh ra trứng là quả.
Loài thú sanh con, con ấy là quả. Con thú lớn lên, trở lại làm nhân sanh con là quả.
4. Nhân quả nơi con người:
Về phương diện thể chất: Thân tứ đại là do bẩm thụ huyết của cha mẹ, và do hoàn cảnh nuôi dưỡng. Vậy cha mẹ và hoàn cảnh là nhân, người con trưởng thành là quả, và cứ tiếp nối như thế mãi, nhân sanh quả, quả sanh nhân, không bao giờ dứt.
Về phương diện tinh thần:Những tư tưởng và hành vi trong quá khứ, tạo cho ta những tánh tình tốt hay xấu, một nếp sống trong hiện tại: tư tưởng và hành động quá khứ là nhân, tánh tình nếp sống tinh thần trong hiện tại là quả. Tánh tình và nếp sống này là nhân, để tạo ra những tư tưởng và hành động trong tương lai là quả
Như các đoạn trên đã nói, nhân quả chi phối tất cả vũ trụ vạn hữu, không có một vật gì, sự gì, động vật hay thực vật, vật chất hay tinh thần, thóat ra ngoài luật nhân quả được. Ở đây, để có một quan niệm rõ ràng hơn về luật nhân quả, chúng ta hãy tuần tự phân tích hành tướng của nhân quả trong mọi sự vật:
1. Nhân quả có trong những vật vô tri vô giác:
Nước bị lửa đốt thì nóng, bị gió thổi thì thành sóng, bị lạnh thì đông lại. Nắng lâu ngày thì đại hạn, mưa nhiều thì lụt, gió nhiều thì sanh bão.
2. Nhân quả trong loài thực vật:
Hạt cam thì sanh ra cây cam, cây cam thì sanh trái cam. Hạt ớt thì sanh ra cây ớt, cây ớt thì sanh ra trái ớt. Nói một cách tổng quát, giống ngọt thì sanh trái ngọt, giống chua thì sanh trái chua, giống nào thì sanh quả ấy.
3. Nhân quả trong các loài động vật:
Loài chim sanh ra trứng, nên chúng ta gọi trứng là nhân, chờ khi ấp nở thành con là quả; con chim ấy trở lại làm nhân, sinh ra trứng là quả.
Loài thú sanh con, con ấy là quả. Con thú lớn lên, trở lại làm nhân sanh con là quả.
4. Nhân quả nơi con người:
Về phương diện thể chất: Thân tứ đại là do bẩm thụ huyết của cha mẹ, và do hoàn cảnh nuôi dưỡng. Vậy cha mẹ và hoàn cảnh là nhân, người con trưởng thành là quả, và cứ tiếp nối như thế mãi, nhân sanh quả, quả sanh nhân, không bao giờ dứt.
Về phương diện tinh thần:Những tư tưởng và hành vi trong quá khứ, tạo cho ta những tánh tình tốt hay xấu, một nếp sống trong hiện tại: tư tưởng và hành động quá khứ là nhân, tánh tình nếp sống tinh thần trong hiện tại là quả. Tánh tình và nếp sống này là nhân, để tạo ra những tư tưởng và hành động trong tương lai là quả
Được cảm ơn bởi: cloudstrife
TL: Đất Phật
Nhân Quả Về Phương Diện Tinh Thần
1. Nhân quả của tư tưởng và hành vi không tốt:
Tham: Thấy tiền của người, nổi lòng tham lam sanh ra trộm cắp, hoặc giết hại người là nhân; bị chủ đánh đập hoặc đâm chém, phải tàn tật, hay bị nhà chức trách bắt giam trong khám đường, chịu những điều tra tấn, đau khổ là quả.
Sân: Người quá nóng giận, đánh dập vợ con, phá hoại nhà cửa, chém giết người không gớm tay là nhân; khi hết giận đau đớn, nhìn thấy vợ con bịnh hoạn, nhà cửa tiêu tan, luật pháp trừng trị, phải chịu nhiều điều khổ cực là quả.
Si mê: Người say mê sắc dục, liễu ngõ hoa tường, không có biết sự hay dở, phải trái là nhân; làm cho gia đình lủn củn, thân thể suy nhược, trí huệ u ám là quả.
Nghi ngờ: Suốt đời cứ nghi ngờ việc nầy việc khác, ai nói gì cũng không tin, ai làm gì cũng không theo, đó là nhân; kết cuộc không làm nên được việc gì cả, đến khi lâm chung, buông xuôi hai bàn tay trắng đó là quả.
Kiêu mạn: Tự cho mình là hơn cả, khinh bỉ mọi người, chà đạp lên nhân phẩm người chung quanh, là nhân; bị người ghét bỏ, xa lánh, sống một đời lẻ loi, cô độc là quả. Nghiện rượu trà: chung quanh tiện bạc ăn nhậu cho ngỏa nguê là nhơn; đến lúc say sưa chén bát ngổn ngang, ghế bàn nghiêng ngả nhiều khi gây ra chém giết nhau làm những điều tội lỗi, phải bị phạt vạ và tù tội là quả.
Say mê cờ bạc: Thấy tiền bạc của người muốn hốt về mình, đắm đuối quanh năm, suốt tháng theo con bài lá bạc, là nhân; đến lúc của hết nhà tiêu, nợ nần vây kéo, thiếu trước hụt sau, thâm quỹ Ộthụt kétỢ là quả.
2. Nhân quả của tư tưởng và hành vi tốt:Như trên chúng ta đã thấy, những tư tưởng hành vi xấu xa tạo cho con người những hậu quả đen tối, nhục nhã, khổ đau như thế nào, thì những tư tưởng và hành vi đẹp đẽ tạo cho con người những hậu quả sáng lạng, vinh quanh và an vui như thế ấy.
Người không có tánh tham bỏn sen, thì tất không bị của tiền trói buộc, tâm trí được thảnh thơi.
Người không nóng giận, tất được sống cảnh hiền hòa, gia đình êm ấm;
Người không si mê theo sắc dục, thì tất được gia đình kính nể, trí huệ sáng suốt, thân thể tráng kiện;
Người không hay ngờ vực, có đức tin, thì hăng hái trong công việc, được người chung quanh tin cậy, dễ thành tựu trong đời; người không ngạo mạn thì được bạn bè quí chuộng, niềm nở đón tiếp, tận tâm giúp đỡ khi mình gặp tai biến.
Người không rượu chè, cờ bạc thì không đến nỗi túng thiếu, bà con quan biết kình nể, yêu vì...Những điều nầy, tưởng không cần phải nói nhiều, quí đọc giả cũng chán biết.
Hàng ngày quanh chúng ta, những cảnh tượng nhân và quả ấy, diễn ta không ngớt, chỉ cần giở tờ báo hàng ngày, đọc các mục tin tức là thấy ngay.
Nói một cách tổng quát, về phương diện tinh thần cũng như về vật chất, người ta gieo thứ gì, thì gặp thứ ấy. Người Pháp có câu: Mỗi người là con đẻ của công nghiệp mình.
1. Nhân quả của tư tưởng và hành vi không tốt:
Tham: Thấy tiền của người, nổi lòng tham lam sanh ra trộm cắp, hoặc giết hại người là nhân; bị chủ đánh đập hoặc đâm chém, phải tàn tật, hay bị nhà chức trách bắt giam trong khám đường, chịu những điều tra tấn, đau khổ là quả.
Sân: Người quá nóng giận, đánh dập vợ con, phá hoại nhà cửa, chém giết người không gớm tay là nhân; khi hết giận đau đớn, nhìn thấy vợ con bịnh hoạn, nhà cửa tiêu tan, luật pháp trừng trị, phải chịu nhiều điều khổ cực là quả.
Si mê: Người say mê sắc dục, liễu ngõ hoa tường, không có biết sự hay dở, phải trái là nhân; làm cho gia đình lủn củn, thân thể suy nhược, trí huệ u ám là quả.
Nghi ngờ: Suốt đời cứ nghi ngờ việc nầy việc khác, ai nói gì cũng không tin, ai làm gì cũng không theo, đó là nhân; kết cuộc không làm nên được việc gì cả, đến khi lâm chung, buông xuôi hai bàn tay trắng đó là quả.
Kiêu mạn: Tự cho mình là hơn cả, khinh bỉ mọi người, chà đạp lên nhân phẩm người chung quanh, là nhân; bị người ghét bỏ, xa lánh, sống một đời lẻ loi, cô độc là quả. Nghiện rượu trà: chung quanh tiện bạc ăn nhậu cho ngỏa nguê là nhơn; đến lúc say sưa chén bát ngổn ngang, ghế bàn nghiêng ngả nhiều khi gây ra chém giết nhau làm những điều tội lỗi, phải bị phạt vạ và tù tội là quả.
Say mê cờ bạc: Thấy tiền bạc của người muốn hốt về mình, đắm đuối quanh năm, suốt tháng theo con bài lá bạc, là nhân; đến lúc của hết nhà tiêu, nợ nần vây kéo, thiếu trước hụt sau, thâm quỹ Ộthụt kétỢ là quả.
2. Nhân quả của tư tưởng và hành vi tốt:Như trên chúng ta đã thấy, những tư tưởng hành vi xấu xa tạo cho con người những hậu quả đen tối, nhục nhã, khổ đau như thế nào, thì những tư tưởng và hành vi đẹp đẽ tạo cho con người những hậu quả sáng lạng, vinh quanh và an vui như thế ấy.
Người không có tánh tham bỏn sen, thì tất không bị của tiền trói buộc, tâm trí được thảnh thơi.
Người không nóng giận, tất được sống cảnh hiền hòa, gia đình êm ấm;
Người không si mê theo sắc dục, thì tất được gia đình kính nể, trí huệ sáng suốt, thân thể tráng kiện;
Người không hay ngờ vực, có đức tin, thì hăng hái trong công việc, được người chung quanh tin cậy, dễ thành tựu trong đời; người không ngạo mạn thì được bạn bè quí chuộng, niềm nở đón tiếp, tận tâm giúp đỡ khi mình gặp tai biến.
Người không rượu chè, cờ bạc thì không đến nỗi túng thiếu, bà con quan biết kình nể, yêu vì...Những điều nầy, tưởng không cần phải nói nhiều, quí đọc giả cũng chán biết.
Hàng ngày quanh chúng ta, những cảnh tượng nhân và quả ấy, diễn ta không ngớt, chỉ cần giở tờ báo hàng ngày, đọc các mục tin tức là thấy ngay.
Nói một cách tổng quát, về phương diện tinh thần cũng như về vật chất, người ta gieo thứ gì, thì gặp thứ ấy. Người Pháp có câu: Mỗi người là con đẻ của công nghiệp mình.
Được cảm ơn bởi: cloudstrife
TL: Đất Phật
Lợi Ích Ðem Lại Cho Chúng Ta Do Sự Hiểu Biết Và Áp Dụng Luật Nhân Quả
1. Luật nhân quả tránh cho ta những mê tín dị đoan, những tin tưởng sai lầm vào thần quyền:
Luật nhân quả cho chúng ta thấy được thực trạng của sự vật, không có gì mơ hồ, bí hiểm. Nó vén tất cả những cái gì đen tối, phĩnh phờ của mê tín dị đoan, đang bao trùm sự vật. Nó cũng phủ nhận luôn cái thuyết chủ trương Vạn vật do một vị thần sinh ra, và uy quyền thưởng phạt muôn loàiỢ. Do đó, người hiểu rõ luật nhân quả sẽ không đặt sai lòng tin tưởng của mình, không cầu xin một cách vô ích, không ỷ lại thần quyền, không lo sợ hoang mang.
2. Luật nhân quả đem lại lòng tin tưởng vào chính con người:
Khi đã biết cuộc đời của mình do nghiệp nhân của mình tạo ra, mình là người thợ tự xây dựng đời mình, mình là kẻ sáng tạo, mà không tin tưởng ở mình thì còn tin tưởng ở ai nữa? Lòng tự tin ấy là một sức mạnh vô cùng qúy báu, làm cho con người dám hoạt động, dám hy sinh hăng hái làm điều tốt. Vì những hành động tốt đẹp ấy, họ biết sẽ là những cái nhân quý báu, đem lại những kết quả đẹp đẽ.
3. Lật nhân quả làm cho chúng ta không chán nản, không trách móc:
Người hay chán nản, hay trách móc là vì đã có thói quen ỷ lại ở kẻ khác, là vì hướng ngoại. Nhưng khi đã biết mình là động lực chính, là nguyên nhân chính của mọi sự thất bại hay thành công, thì còn chán nản trách móc ai nữa? Ðã biết mình là quan trọng như thế, là chỉ còn lo tự sửa mình, thôi gieo nhân xấu, để khỏi phải gặt quả xấu, tránh tạo giống ác để khỏi mang cái ác.
1. Luật nhân quả tránh cho ta những mê tín dị đoan, những tin tưởng sai lầm vào thần quyền:
Luật nhân quả cho chúng ta thấy được thực trạng của sự vật, không có gì mơ hồ, bí hiểm. Nó vén tất cả những cái gì đen tối, phĩnh phờ của mê tín dị đoan, đang bao trùm sự vật. Nó cũng phủ nhận luôn cái thuyết chủ trương Vạn vật do một vị thần sinh ra, và uy quyền thưởng phạt muôn loàiỢ. Do đó, người hiểu rõ luật nhân quả sẽ không đặt sai lòng tin tưởng của mình, không cầu xin một cách vô ích, không ỷ lại thần quyền, không lo sợ hoang mang.
2. Luật nhân quả đem lại lòng tin tưởng vào chính con người:
Khi đã biết cuộc đời của mình do nghiệp nhân của mình tạo ra, mình là người thợ tự xây dựng đời mình, mình là kẻ sáng tạo, mà không tin tưởng ở mình thì còn tin tưởng ở ai nữa? Lòng tự tin ấy là một sức mạnh vô cùng qúy báu, làm cho con người dám hoạt động, dám hy sinh hăng hái làm điều tốt. Vì những hành động tốt đẹp ấy, họ biết sẽ là những cái nhân quý báu, đem lại những kết quả đẹp đẽ.
3. Lật nhân quả làm cho chúng ta không chán nản, không trách móc:
Người hay chán nản, hay trách móc là vì đã có thói quen ỷ lại ở kẻ khác, là vì hướng ngoại. Nhưng khi đã biết mình là động lực chính, là nguyên nhân chính của mọi sự thất bại hay thành công, thì còn chán nản trách móc ai nữa? Ðã biết mình là quan trọng như thế, là chỉ còn lo tự sửa mình, thôi gieo nhân xấu, để khỏi phải gặt quả xấu, tránh tạo giống ác để khỏi mang cái ác.
TL: Đất Phật
Quyết Nghi
Có người nghĩ rằng: Nhân quả là một luật tự nhiên rất đúng đắn công bằng, sao có người cả đời hiền từ mà lại gặp lắm tai nạn khổ sở; trái lại, những người hung ác, sao lại vẫn được an bình ?
Ðáp: Những đọan trên đã nói, thời gian tiến triển từ nhân đến quả, có khi nhanh khi chậm, chứ không phải khi nào cũng đồng nhau. Có cái nhân từ đời nay, đến đời sau mới hình thành quả v.v...
Vậy nếu có người trong đời hiện tại làm việc hung ác, mà được an lành, là do kiếp trước họ tạo nhơn hiền từ. Còn cái nhơn hung ác, mới tạo trong đời nay, thì tương lai hay qua đời sau, họ sẽ chịu quả báo. Cũng như có người năm nay ăn chơi, không làm gì hết, mà vẫn no đủ, là nhờ năm rồi họ có làm, có tiền của để dành vậy. Còn cái nhân ăn chơi không làm năm nay, thì sang năm họ sẽ chịu quả đói rách.
Còn người đời nay hiền từ, làm các điều phước thiện, mà vẫn gặp tai nạn, khổ sở, là do đời trước, họ tạo những nhơn không tốt. Cái nhơn hiền từ đời nay, qua đời sau họ sẽ hưởng quả vui. Cũng như có người tuy năm nay siêng năng làm ruộng, mà vẫn thiếu hụt, là vì nhân ăn chơi năm vừa rồi. Cái nhân siêng năng năm nay, sang năm sau họ sẽ hưởng quả sung túc. Do đó, Cổ nhân có nói:
Thiện ác đáo đầu chung hữu báo,
Chỉ danh lai tảo dữ lai trì
(Việc lành hay việc dữ đều có quả báo, chỉ khác nhau đến sớm hay muộn mà thôi)
Có người hỏi: Theo luật nhân quả thì làm nấy chịu: cha làm tội, con không thể thay thế được; con làm tội, cha không thể thay thế được. Sao thấy có những việc: cha làm con phải chịu liên can, con làm cha phải chịu ảnh hưởng?
Đáp: Trong kinh Phật dạy: Nhân quả nghiệp báo có hai thứ: Biệt nghiệp và Cộng nghiệp.
Biệt nghiệplà nghiệp báo riêng của mỗi chúng sanh, như mình có học nhiều thì mình biết nhiều, mình ăn thì mình no, mình siêng năng thì mình dễ thành công, mình nhác lười thì mình thất bại.
Cộng nghịêplà nghiệp chung cho nhiều chúng sinh; cùng sống trong mọt hoàn cảnh. Như người Việt Nam, sống trên mảnh đất chữ S nầy trong giai đoạn chiến tranh Việt Pháp vừa qua, thì dù giàu, dù nghèo, dù trí thức, dù bình dân, đều chịu ảnh hưởng chung của chiến tranh; như sanh ở một nước tiên tiến, thì mọi người đều tương đối được hưởng một dời sống vật chất đầy đủ hơn ở một nước bán khai.
Ðã sanh chung một gia đình, một xứ sở hay một dân tộc, cố nhiên cái nghiệp quả phải có liên quan với nhau
Một người làm phước, ngàn người đều được ảnh hưởng; một cây trổ hoa, muôn cây chung quanh đều được thơm lây
Có người nghĩ rằng: Nhân quả là một luật tự nhiên rất đúng đắn công bằng, sao có người cả đời hiền từ mà lại gặp lắm tai nạn khổ sở; trái lại, những người hung ác, sao lại vẫn được an bình ?
Ðáp: Những đọan trên đã nói, thời gian tiến triển từ nhân đến quả, có khi nhanh khi chậm, chứ không phải khi nào cũng đồng nhau. Có cái nhân từ đời nay, đến đời sau mới hình thành quả v.v...
Vậy nếu có người trong đời hiện tại làm việc hung ác, mà được an lành, là do kiếp trước họ tạo nhơn hiền từ. Còn cái nhơn hung ác, mới tạo trong đời nay, thì tương lai hay qua đời sau, họ sẽ chịu quả báo. Cũng như có người năm nay ăn chơi, không làm gì hết, mà vẫn no đủ, là nhờ năm rồi họ có làm, có tiền của để dành vậy. Còn cái nhân ăn chơi không làm năm nay, thì sang năm họ sẽ chịu quả đói rách.
Còn người đời nay hiền từ, làm các điều phước thiện, mà vẫn gặp tai nạn, khổ sở, là do đời trước, họ tạo những nhơn không tốt. Cái nhơn hiền từ đời nay, qua đời sau họ sẽ hưởng quả vui. Cũng như có người tuy năm nay siêng năng làm ruộng, mà vẫn thiếu hụt, là vì nhân ăn chơi năm vừa rồi. Cái nhân siêng năng năm nay, sang năm sau họ sẽ hưởng quả sung túc. Do đó, Cổ nhân có nói:
Thiện ác đáo đầu chung hữu báo,
Chỉ danh lai tảo dữ lai trì
(Việc lành hay việc dữ đều có quả báo, chỉ khác nhau đến sớm hay muộn mà thôi)
Có người hỏi: Theo luật nhân quả thì làm nấy chịu: cha làm tội, con không thể thay thế được; con làm tội, cha không thể thay thế được. Sao thấy có những việc: cha làm con phải chịu liên can, con làm cha phải chịu ảnh hưởng?
Đáp: Trong kinh Phật dạy: Nhân quả nghiệp báo có hai thứ: Biệt nghiệp và Cộng nghiệp.
Biệt nghiệplà nghiệp báo riêng của mỗi chúng sanh, như mình có học nhiều thì mình biết nhiều, mình ăn thì mình no, mình siêng năng thì mình dễ thành công, mình nhác lười thì mình thất bại.
Cộng nghịêplà nghiệp chung cho nhiều chúng sinh; cùng sống trong mọt hoàn cảnh. Như người Việt Nam, sống trên mảnh đất chữ S nầy trong giai đoạn chiến tranh Việt Pháp vừa qua, thì dù giàu, dù nghèo, dù trí thức, dù bình dân, đều chịu ảnh hưởng chung của chiến tranh; như sanh ở một nước tiên tiến, thì mọi người đều tương đối được hưởng một dời sống vật chất đầy đủ hơn ở một nước bán khai.
Ðã sanh chung một gia đình, một xứ sở hay một dân tộc, cố nhiên cái nghiệp quả phải có liên quan với nhau
Một người làm phước, ngàn người đều được ảnh hưởng; một cây trổ hoa, muôn cây chung quanh đều được thơm lây
Được cảm ơn bởi: cloudstrife
TL: Đất Phật
Kết luận
Chúng ta đã biết giá trị của luật nhân quả, vậy chúng ta nên đem bài học nầy ra áp dụng vào mọi công việc hằng ngày của chúng ta.Khi chúng ta làm một việc gì, nói một lời gì, cũng nên nghĩ trước kết quả tốt hay xấu của nó, chứ đừng làm liều, nói liều, rồi phải chịu hậu quả đau khổ, nhục nhã trong tương lai. Nếu chúng ta làm được như thế, thì chúng ta sẽ thấy tánh tình và hành vi của chúng ta, mỗi ngày mỗi cải tiến, các việc sai quấy sẽ giảm bớt, các việc lành càng thêm tăng trưởng. Và do sự gieo nhân toàn thiện đó, từ địa vị người, chúng ta có thể tiến dần lên đến quả vị thánh hiền.
Chúng ta đã biết giá trị của luật nhân quả, vậy chúng ta nên đem bài học nầy ra áp dụng vào mọi công việc hằng ngày của chúng ta.Khi chúng ta làm một việc gì, nói một lời gì, cũng nên nghĩ trước kết quả tốt hay xấu của nó, chứ đừng làm liều, nói liều, rồi phải chịu hậu quả đau khổ, nhục nhã trong tương lai. Nếu chúng ta làm được như thế, thì chúng ta sẽ thấy tánh tình và hành vi của chúng ta, mỗi ngày mỗi cải tiến, các việc sai quấy sẽ giảm bớt, các việc lành càng thêm tăng trưởng. Và do sự gieo nhân toàn thiện đó, từ địa vị người, chúng ta có thể tiến dần lên đến quả vị thánh hiền.
Được cảm ơn bởi: cloudstrife, tigerstock68