Chào bác Hà Uyên!Hà Uyên đã viết:Chào anh Lequangtctlequangtct đã viết:
- Còn về việc tôi hỏi bác về 2 quẻ dịch Nhân mệnh thế nào rồi ạ. Mong bác cho ý kiến phản hồi.
Như vậy, hai quẻ Anh đặt vấn đề, nhưng từ cơ sở nào để có được hai quẻ này, Anh có ý không muốn nói (!)
Tôi đặt vấn đề, thứ nhất là theo tiêu chí topic Anh đã đặt tên, thứ nữa là phương pháp lập quẻ cũng một phần quyết định cách chọn Nghĩa để lập Lý. Tại sao nói vậy?
Giả như phương pháp lập quẻ dùng 3 đồng tiền (cổ) gieo quẻ, thì phương pháp này, bỏ qua giai đoạn Tứ tượng. Do vậy, chu kỳ 18 (lần) thành quẻ, tùy theo trường phái để chọn Nghĩa cho cái Lý vậy.
Cảm ơn anh Lequangtct đã dành thời gian.
Hà Uyên
Rất vui và rất cám ơn bác đã quan tâm đến những bài viết của tôi, những vấn đề bác hỏi tôi đều đã trả lời cùng bác, nhưng có lẽ có sự hiểu lầm nào ở đây chăng? Sự thực thì tôi không có ý không nói như bác nghĩ đâubác ạ. Nhưng tôi thiển nghĩ là đã nói đến quẻ Nhân mệnh là bác đã hiểu ngay về phương pháp lập quẻ rồi, hơn nưa tôi còn nói rõ là căn cứ ngày giờ tháng năm sinh (cả can và chi) trên cơ sở sắp xếp Tứ trụ của Lý Hư Trung và Từ Tử Bình để lại, chứ có dám dấu bác điều gì đâu. Cách lập như sau bác ạ: Lấy can của năm + tháng + ngày = tổng số bao nhiêu đem chia cho 8, lấy số dư làm quẻ thượng, lại lấy tiếp tổng số đó cộng với giờ, được bao nhiêu đem chia cho 8, lấy số dư để tìm quẻ hạ, lại lấy tổng sau chia cho 6, lấy số dư để tìm hào động, từ hào động đó ta biến âm thành dương hoặc dương thành âm để tìm quẻ biến, loại quẻ này chỉ có một hào động thôi bác ạ, còn tìm quẻ Hỗ thì chắc bác đã biết. Từ mấy quẻ đó mà làm căn cứ dự đoán vừa theo tượng, số, vừa theo nghiã Lý bac a. Có lẽ bác ít khi lập quẻ theo thời gian, mà chỉ thiên về lập quẻ theo 3 đồng tiền cổ nên có những phân vân nhất định. Quẻ Nhân mệnh không lập theo đồng tiền bác ạ. Gieo quẻ bằng 3 đồng tiền cổ thì tôi cũng vẫn thường dùng, tuy có hơi dích dắc một chút, nhất là khi đang đi chơi nhà ai đó, hoặc đang đi trên đường, trên xe tàu thì có hơi bất tiện. Cho nên tôi chỉ dùng ở nhà và khi xem Tình duyên, xem cầu tài, xem cầu danh, cầu quan, xem gia sự... thì mới dùng đến. Theo tôi thì trong các cách lập quẻ, thì lập theo thời gian, hoặc theo tượng vật là tiện lợi nhất, ở đâu cũng dùng được, khi nào cũng dùng được, kể cả khi nửa đêm gà gáy.
Sau đây tôi xin post lại 2 quẻ Nhân mênh trên để bác xem xét, khảo chứng và cho ý kiến.
1. Nam mệnh: Sinh giờ Tý ngày 20/2/1979 al, tức ngày Giáp thân, tháng Đinh mạo, năm Kỷ mùi.
Được quẻ nhân mệnh Lôi Phong Hằng, H5 động, biến Trạch Phong Đại Quá
Hằng
Tài Tuất thổ - ứng
Quỷ Thân kim
Tử Ngọ hoả
Quỷ Dậu kim - thế
Phụ Hợi thuỷ
Tài Sửu thổ
Biến - Đại quá
Tài Mùi thổ
Quỷ Dậu kim
Phụ Hợi thuỷ - Thế
Quỷ Dậu kim
Phụ Hợi thuỷ
Tài Sửu thổ - ứng
2. Nữ mệnh: Sinh 6 giờ chiều ngày 21/5/1980 AL, tức giờ Dậu, ngày Đinh sửu, tháng Nhâm Ngọ, năm Canh Thân:
Được quẻ Nhân mệnh là:
Thiên Hoả Đồng Nhân , động H1, biến quẻ Thiên sơn Độn
Đồng nhân
Tử tôn Tuất thổ - ứng
Thê tài Thân kim
Huynh đệ Ngọ hoả
Quan quỷ Hợi thuỷ - thế
Tử tôn Sửu thổ
Phụ mẫu Mão mộc
Biến - Độn
Tử tôn Tuất thổ
Thê tài Thân kim - ứng
Huynh đệ Ngọ hoả
Thê tài Thân kim
Huynh đệ Ngọ hoả - thế
Tử tôn Thìn thổ
Rất chân thành cám ơn bác!
Thưa bác! Việc xem quẻ cũng thú vị lắm bác ạ. Có nhiều chuyện không ngờ được. Khổng Tử ngày xưa cũng đã từng rơi nước mắt khi gieo được quẻ "Lữ", ông biết sẽ tha hương mà chẳng làm nên việc gì; sau lại gieo được quẻ "Bôn" Không chỉ nói bôn tẩu mà nói về trang sức, qua quẻ Ngài biết thần linh muốn nhắc nhở: Vật đã đẹp nguyên chất rồi thì không cần phải trang sức nữa. Học trò hỏi Ngài sao buồn, Ngài liên hệ tới bản thân mình và rơi nước mắt.
Sau đó Ngài quyết chí học dịch, nhưng lúc đó tuổi đã về già, khi lâm chung Ngài còn nghĩ giá như được học dịch sớm hơn hoặc, ước nếu trời cho Ngài sống thêm vài năm nữa để học dịch thì sẽ bớt được những sai lầm trong cuộc sống. Học dịch thật khó vậy thay, thành thử chẳng ai dám bảo mình là biết tất cả, phải vậy không thưa bác.
Kính!