NHỮNG LỜI PHẬT DẠY!

Trao đổi về các lĩnh vực khoa học và đời sống
Hình đại diện của thành viên
hoàng hiệp
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 114
Tham gia: 10:53, 02/09/10

TL: NHỮNG LỜI PHẬT DẠY!

Gửi bài gửi bởi hoàng hiệp »

Nghiên Cứu Phật Học - Phật Học Tổng Quát
Viết bởi Nguyên Hiệp




Hầu hết mọi hệ thống tư tưởng, chính trị và triết học chỉ giải quyết vấn đề con người khi sống. Như Khổng Tử nói, “Sống còn chưa biết, làm thế nào biết được chết?”
Hầu hết mọi hệ thống tư tưởng, chính trị và triết học chỉ giải quyết vấn đề con người khi sống. Như Khổng Tử nói, “Sống còn chưa biết, làm thế nào biết được chết?” Từ quan niệm này nên người ta thường cho rằng quan tâm đến những vấn đề liên quan đến con người khi còn sống thì quan trọng và thực tiễn hơn là quan tâm đến những vấn đề về con người sau khi chết. Tuy nhiên, cách trả lời này đã né tránh câu hỏi làm nhiều người thắc mắc là: “Sự thật về cái chết và điều gì sẽ xảy ra sau khi chết?” Thực ra, nếu chúng ta hiểu được những gì xảy ra sau khi chết thì thái độ của chúng ta đối với cuộc sống sẽ có rất nhiều thay đổi theo chiều hướng tốt hơn.

Cần lưu ý là Khổng Tử không nói rằng chết là tận diệt, là hết; ông cũng không nói rằng không có một đời sống tương lai sau khi chết. Đơn giản ông chỉ muốn nói: sống làm một con người có khuôn phép, có đạo đức thì quan trọng hơn đặt câu hỏi về bản chất của đời sống sau khi chết. Tuy thế, hầu hết các tôn giáo đều có lời dạy về cuộc sống sau khi chết. Có hai học thuyết đề cập đến cái chết có ảnh hưởng trong số các tôn giáo trên thế giới: một là học thuyết một đời sống và học thuyết khác là học thuyết nhiều đời sống. Thiên Chúa giáo là một trong các tôn giáo giảng dạy về học thuyết một đời sống. Theo học thuyết này thì cuộc sống của thân thể vật lý bắt đầu tại lúc được sinh ra, nhưng cũng có một thực thể tâm linh được gọi là “linh hồn” cư ngụ trong thể xác đó. Chết là sự hủy bỏ xác thân, nhưng linh hồn thì không. Sau khi chết, linh hồn tùy thuộc vào sự phán xét của đấng Tạo hóa, hoặc sẽ được lên thiên đường, hoặc sẽ bị đọa xuống địa ngục. Điều này hàm ý rằng, mỗi người chỉ có một cuộc sống trên trái đất và sau đó sẽ tồn tại vĩnh cữu hoặc đầy ân phúc trên thiên đường, hoặc chịu khổ đau ở trong địa ngục, hoàn toàn không có cơ may thoát khỏi. Hàm ý này có trình bày một sự hiểu biết trọn vẹn về lời dạy của Thiên chúa hay không thì chưa rõ. Rất có thể Chúa có nhiều điều để thuyết giảng về việc sống chết nhưng ngài không có thời gian để mang đến cho môn đồ của mình một trình độ hiểu biết cao hơn.

Học thuyết về nhiều đời sống cho rằng, sự sinh ra và chết đi của một chúng sinh chỉ là một khoen trong chuỗi mắt xích vô số kiếp sống của chúng sinh đó. Trong nhiều kiếp sống khác nhau, chúng sanh đã đi lang thang trong sáu cảnh giới hiện hữu: cõi trời, cõi người, cõi a-tu-la, cõi ngạ qủy, cõi súc sinh và cõi địa ngục. Sau khi chết, con người sẽ tái sinh vào một trong các cảnh giới này. Người ấy có thể tái sanh trở lại làm người, nhưng cũng có thể làm một vị thiên, súc sanh, a-tu-la hay một chúng sanh trong cõi địa ngục. Sự thay đổi hình thức đời sống hay sự hiện hữu tiếp diễn không hạn định mãi đến khi nào chuỗi mắt xích này bị phá bỏ. Điều này mỗi khi xảy ra thì khái niệm sanh tử không còn ý nghĩa đối với người đó nữa.

Ấn Độ giáo và Phật giáo thừa nhận học thuyết nhiều đời sống này, nhưng có một sự khác biệt tương đối lớn trong quan điểm của họ về sự phá vỡ chuỗi mắt xích. Ấn Độ giáo giữ vững niềm tin rằng vấn đề sanh tử trở nên vô nghĩa khi con người thể nhập với Brahman - Phạm thiên toàn năng. Phật giáo cho rằng con người giải thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử khi đạt được giác ngộ.

Để hiểu được quan niệm của Phật giáo, trước hết chúng ta phải hiểu rằng Phật giáo giải thích vấn đề này ở hai tầm mức. Thứ nhất là tầm mức giác ngộ, đó là lúc mà chân lý tối hậu được chứng nghiệm. Và thứ hai là tầm mức thế tục, tức là ở tầm mức hiểu biết thông thường.

Ở tầm mức giác ngộ, khái niệm về sống và chết không còn được bàn đến nữa. Tôi sẽ giải thích điều này sau. Tuy nhiên, ở tầm mức thế tục, Phật giáo tin vào học thuyết nhiều đời sống và thừa nhận dòng tâm thức của một chúng sanh. Trong trường hợp này, dòng tâm thức có thể tạm so sánh với Linh hồn trong Thiên Chúa giáo và Tự ngã trong Ấn Độ giáo. Trong Phật giáo, tâm thức của một chúng sanh được miêu tả như một dòng suối, trong đó, một khoảnh khắc sau được tạo ra bởi một khoảnh khắc trước. Xin đưa ra thí dụ về xâu chuỗi hạt. Sự di chuyển mỗi hạt chuỗi quyết định sự di chuyển của hạt chuỗi kế tiếp. Tuy nhiên điều quan trọng là những hạt chuỗi này được liên kết lại với nhau bằng một sợi dây; không có một thực thể vĩnh cữu vượt ra khỏi con đường nhân quả.

Như vậy trong Phật giáo, sự tiếp nối của sinh mạng không có nghĩa là thân thể vật lý được chuyển tiếp vào đời sống kế tiếp, hay mọi thứ chứa trong bộ não của con người (nó cũng là một phần của thân thể vật lý) sẽ chuyển sang đời sống kế tiếp. Sự thật, thân thể vật lý thay đổi trong từng sát na. Cái được chuyển tiếp vào đời sống kế tiếp hay những đời sống tương lai, và cấu thành sự miên tục của sinh mạng là sức mạnh ảnh hưởng của những hành vi con người trong đời sống hiện tại này và trong nhiều đời sống trước. Cả Phật giáo và Ấn Độ giáo gọi điều này là nghiệp.

Đến đây, chắc bạn muốn nói: “Điều đó thú vị đấy, nhưng 1: vui lòng chỉ cho tôi thiên giới và địa ngục có thể tìm thấy ở đâu? Và 2: vui lòng chứng minh cho tôi rằng, tôi đã tồn tại trước khi tôi sinh và sẽ vẫn còn hiện hữu sau khi chết như thế nào?”

Để trả lời cho câu hỏi đầu tiên tôi xin được hỏi: Bạn có tin rằng mắt của bạn có thể nhìn thấy được thiên giới hay địa ngục không? Nếu một người nào đó chỉ cho bạn thiên giới hay địa ngục, bạn sẽ không nói rằng đó chỉ là một ảo tưởng, và do đó không tin nó chứ? Nếu bạn đã nghiên cứu về dòng điền từ, bạn có thể đồng ý với tôi rằng mắt con người của chúng ta chỉ có thể nhìn thấy được một phần rất nhỏ của vũ trụ, và có rất nhiều thứ mà mắt thường của chúng ta không thể nhìn thấy được. Một vài trăm năm trước đây không có người nào có thể nhìn thấy tổng thể cấu trúc bộ xương của một người đang sống, nhưng bây giờ chúng ta có thể nhìn thấy thông qua dụng cụ rọi X-quang. Chúng ta đang tiến bộ nhanh chống vào thế giới siêu vi cũng như lĩnh vực không gian. Ai biết, có thể trong nhiều năm sau, một thiết bị khám phá mới sẽ được phát minh, và phương tiện đó sẽ giúp con người nhìn thấy một độ sóng dài khác từ sóng ánh sáng mà hiện giờ chưa nhìn thấy được. Lúc đó con người có thể khám phá ra rằng, cái được gọi là địa ngục thì ở ngay trên trái đất này; hay những thiết bị về không gian sẽ gửi trở lại một vài bức ảnh về không gian mà những bức ảnh đó chụp lại một trong những cõi trời hay những thế giới mà Phật giáo đã thừa nhận.

Còn để chứng minh rằng con người đã tồn tại trước đó và vẫn tiếp diễn sau khi chết thì có một số tài liệu đã đề cập đến. Những tài liệu này ghi lại rằng, có những người bình thường đã nhớ lại được những đời sống quá khứ của họ, hoặc cụ thể như các vị Lạt ma Tây Tạng, họ có thể tiên đoán nơi mà họ sẽ tái sanh trở lại.

Nhưng ở đây tôi muốn sử dụng một phương pháp khác để chứng minh điều này. Có một vài hiện tượng trong vũ trụ mà chúng ta có thể dùng để giải thích khái niệm về sanh và tử, và điều này có thể đưa ra một vài đầu mối để trả lời cho câu hỏi đầy bí ẩn mà các bạn muốn hỏi ở trên. Lý do đơn giản đã thuyết phục tôi rằng giải pháp này có giá trị là vì con người chúng ta không khác hơn một sản phẩm của tự nhiên và hoàn toàn bị chi phối bởi những định luật tự nhiên như trọng lực. Do đó, những định luật biểu thị đặc tính của những hiện tượng tự nhiên khác có thể áp dụng thích hợp đối với con người.

Khi tôi nghiên cứu câu hỏi này, thú vị thay, tôi đã tìm ra một vài hiên tượng trong vũ trụ có sự tương ứng thích hợp đối với học thuyết nhiều đời sống. Hiện tượng đơn giản nhất và dễ dàng nhất để chúng ta lãnh hội là sự đa dạng của H2O.

Chúng ta đều biết H2O phải không? Vâng, H2O là công thức hoá học của nước. Nghĩa là cứ hai phân tử Hydro thì có một phân tử Oxy. Công thức H2O không thay đổi dù khi nước bốc hơi tại điểm sôi hay đóng thành băng tại điểm đông đặc. H2O không sai khác khi nó ở dạng hình thể kết tinh trắng, đẹp mà người ta thường gọi là tuyết; hay trong trường hợp chất lỏng, giăng mắc trong không trung và người ta thường gọi là sương.

Đến đây một ý tưởng rất thú vị sinh khởi. Nước biến mất khi nó biến đổi thành hơi nước hay đông thành đá. Bạn sẽ không nói rằng vào lúc đó, nước chết đi và hơi nước hay đá được sanh ra phải không? Hay khi tuyết tan và trở thành nước, vào lúc đó bạn sẽ không nói rằng tuyết bị chết và nước được sanh ra phải không? Điều này sẽ đúng khi nước đơn giản được xem là nước. Tuy nhiên, nếu nước không những được nhận diện là nước mà còn là H2O thì khi đó khái niệm về sinh ra và chết đi không còn là vấn đề nữa. H2O vẫn không thay đổi khi hình thức của nó chuyển từ nước sang hơi nước hay băng và ngược lại. H2O thật sự không bị trãi qua “sống và chết” mặc dầu hình dáng và các đặc tính vất lý của nó có thể biến đổi thành những tên gọi khác nhau. H2O cũng sẽ không bị chết và tái sinh trong tương lai cho dù hình thái và các đặc tính vật lý của nó sẽ thay đổi rất nhiều lần, mãi đến cuối cùng H2O bị phân chia thành Hydro và Oxy.

Từ phép suy loại này chúng ta có thể thấy rằng học thuyết về nhiều đời sống như Ấn Độ giáo và Phật giáo đã đưa ra thì chí lí và gần với sự thật hơn những học thuyết khác. Do đó, tôi suy ra những kết luận sau đây:

1- Trong vũ trụ cũng có một thực thể tương tự như H2O. Thực thể đó, tôi tạm thời gọi

là “X”. Từ X này, biểu hiện ra những hình thức khác nhau của một chúng sanh, tức là: chư thiên, loài người, A-tu-la, ngạ quỷ, súc sanh và chúng sanh ở địa ngục. Trong Thiên Chúa giáo và Ấn Độ giáo, X được gọi là linh hồn.

2- Sáu hình thức hiện hữu luôn chuyển đổi vị trí. Như một con người có thể tái sanh làm một vị thiên, A-tu-la, súc sanh, ngạ quỷ hay chúng sanh ở địa ngục. Cũng như vậy một chúng sanh ở địa ngục cũng có thể tái sanh ở những hình thức khác nhau bao gồm cả loài người.

3- Theo Phật giáo, một người không thể sống trên thiên giới mãi mãi hay đọa vào trong địa ngục vĩnh hằng. Cuộc sống luôn tiếp diễn, hình thức của nó thay đổi liên tục. Hiện tượng trôi chảy liên tục của chết đi và tái sanh trở lại trong sáu cảnh giới này được gọi là luân hồi tái sanh.

4- Khái niệm về sanh và chết chỉ có nghĩa khi nào con người được đề cập đến như một đối tượng cụ thể. Nếu vấn đề được chuyển đổi trở lại chính bản chất nguyên thủy của đối tượng đó thì khái niệm về sống và chết không còn tác dụng. Nước và H2O là một ví dụ: nước là một đối tượng được xác định cụ thể, nó có thể thay hình đổi dạng, nhưng H2O thì bản chất nó luôn luôn như vậy dù khi nó ở dạng nước, tuyết, hay sương.

5. Đây là điều quan trọng: nếu một người còn chấp chặt mình là một con người có tự ngã thì người ấy còn phải trãi qua sống và chết. Cũng như thế áp dụng đối với nước: nếu nước được nhận diện như là nước thì chúng ta thấy nó có sinh ra và mất đi khi nó thay đổi hình dạng. Nhưng nếu một người nhận mình như là X, thì không có sự chết đi, dù khi hình dạng của X biểu hiện dưới hình thức một con người bị hủy diệt. Như vậy ta thấy, chỉ có một sự thay đổi liên tục về hình thức, trong khi X vẫn không thay đổi. Thêm nữa, áp dụng tương như vậy, nếu nước được xem như là H2O thì nước không có sinh ra mất đi. Do đó, nếu chúng ta khát khao chấm dứt sanh tử luân hồi, điều đầu tiên chúng ta nên làm là xa rời việc chấp thủ tự ngã.

Đáng tiếc thay, điều này hoàn toàn đi ngược lại bản năng dục vọng của chúng ta. Chúng ta xưa này luôn chấp thủ rằng chúng ta là những con người thực hữu, và đó là lí do tại sao chúng ta trầm luân trong luân hồi. Như thế mục đích cốt tủy của lời dạy đức Phật là giúp chúng sanh tự giải thoát ra khỏi luân hồi. Do đó, cốt tủy của Phật giáo là dạy con người nên xem mình như X. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là Phật giáo không dạy chúng ta xem X như là linh hồn. Linh hồn không phải là thực thể tối hậu; nó vẫn bị chết đi, giống như H2O bị phân thành Hydro và Oxy. Phật giáo dạy chúng ta xem bản thân mình như X khi được giải thích ở tầm mức giác ngộ. Ở tầm mức giác ngộ, chúng ta biết rằng X là điều không thể lãnh hội được bằng giác quan con người, mà nó chỉ có thể được thực chứng và được thừa nhận bằng tuệ giác. Nhưng nếu vấn đề là như vậy thì làm sao chúng ta có thể hiểu và giải thích nó đây? May mắn thay, bằng khoa học hiện đại, tôi đã tìm ra một điều mà nó có thể giúp chúng ta rất nhiều nhằm hiểu được việc giải thích về X ở cấp độ giác ngộ. Đó là năng lượng.

Trong khoa học hiện đại mà chúng ta học thì vạn vật ở trong vũ trụ đều là hình thức của năng lượng. Điện, hơi nống, ánh sáng, lửa, âm thanh, phản ứng hóa học, vật chất.., tất cả đều là những biểu hiện khác nhau của năng lượng. Chúng ta không thể nhìn thấy, nghe, ngửi, nếm, hay xúc chạm năng lượng, nhưng khắp nơi trong vũ trụ những hình thức của nó thì vô số lượng, có thể nhìn thấy, nghe thấy, ngửi được, nếm được, xúc chạm hay nói cách khác là nó được khám phá bằng các giác quan của con người. Do đó, năng lượng được xem như cái cốt lõi của vạn vật.

Tuy nhiên, cần ghi nhớ rằng, năng lượng cũng chỉ là một danh xưng do con người đặt ra. Sự thực, định nghĩa về năng lượng đã được thay đổi từ khi từ này lần đầu tiên được sử dụng. Như vậy, xin đừng chấp chặt cứng nhắc định nghĩa của từ điển về từ ngữ. Tôi có thể lý giải từ này khác hơn những nhà khoa học đã thực hiện. Từ năng lượng, như tôi dùng nó ở đây, được đặt cho một vật nào đó trong vũ trụ mà nó bao hàm toàn thể vạn vật, và không thể nhìn thấy, nghe, ngửi, nếm, hay xúc chạm bằng các quan năng của con người, nhưng bản thân nó có thể biểu lộ trong trong rất nhiều hình thức khác nhau mà chúng ta có thể khám phá được bằng các giác quan. Bởi vì nó bao hàm trọn vẹn toàn thể vạn vật, nó không thể bị tăng lên hay giảm xuống; nó không có sự chuyển động. Tóm lại: năng lượng là vũ trụ và vũ trụ là năng lượng.

Nếu bạn có thể lãnh hội được những gì tôi vừa trình bày ở trên về năng lượng thì bạn sẽ không gặp mấy khó khăn trong việc hiểu X như đã được giải thích theo Phật giáo ở tầm mức giác ngộ. Theo Phật giáo, dựa vào giác ngộ, con người có thể nhận chân được X của họ, và chính X đó, bao hàm hết thảy vạn vật; X đó là vạn vật và vạn vật là X; X không bị tăng hay giảm; X đó như như bất động, và X đó không ô nhiễm cũng không thanh tịnh. Bởi vì quá khó khăn để giải thích X và lĩnh hội được X, cho nên hơn 2.500năm qua, những nhà Phật học đã đặt cho nó nhiều tên gọi khác nhau trong nỗ lực làm sáng tỏ khái niệm. Thuật ngữ đơn giản nhất, theo ý tôi là “Bản Thể”. Chữ “thể” có nghĩa rằng tất cả thế giới hiện tượng đều phát xuất từ đó, thay vì hiện hữu riêng lẽ. Khác với quan niệm về linh hồn, bản thể không hàm ý sự riêng biệt của một cá thể. Không thể có những bản thể khác nhau: X này là của tôi, là của anh, là của mọi người, và của vạn vật. Do vậy, có thể nào X lại bị chết? làm thế nào có thể áp dụng khái niệm về sống và chết đối với X? Cho nên, bản thể này là điều chúng ta cần nhận biết.

Chúng ta chỉ biết được điều này rõ ràng khi chúng ta giác ngộ và thể tánh của chúng ta được hiển lộ; còn nếu chúng vẫn còn trầm luân trong sinh tử luân hồi thì khó lãnh hội được. Do đó, Phật giáo là một bài học mà chúng ta nên nghiên cứu một cách nghiêm túc, bởi vì nó cung cấp cho chúng ta nhưng phương pháp nhận chân và thừa nhận bản thể của chúng ta. Bằng cách này chúng ta có thể giải thoát chính mình ra khỏi sự sống chết vô cùng tận, là nguồn gốc của tất cả mọi khổ đau.

Tuy nhiên, tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng, trong đời sống hàng ngày của chúng ta, học thuyết về nhiều kiếp sống thậm chí còn quan trọng hơn cả tuệ quán về X, bởi vì tất cả chúng ta đều chưa giác ngộ và vẫn còn bị luân hồi. Sẽ hết sức sai lầm khi thờ ơ với học thuyết nhiều đời sống và nghĩ đơn giản: “Tôi là vạn vật và vì thế không có sự chết đi”, cho nên khi cái chết đến, chúng ta vẫn còn sợ hãi.

Để kết luận buổi nói chuyện hôm nay, tôi xin trình bày một vài quan điểm của tôi về hai hiện tượng xã hội quan trọng trong đời sống hàng ngày của chúng ta:

1. Giết người không có nghĩa là sự loại trừ một đối thủ và giành lấy được chiến thắng như con người thường nghĩ. Bởi vì chỉ có hình thức con người vật lý bị hủy hoại, nên nạn nhân vẫn còn hiện hữu. Do vậy đó không phải là một sự chiến thắng, và điều đó có thể là đầu mối của những vấn đề bất an.

2. Tự sát không có nghĩa là kết thúc khổ đau. Thân thể con người vật lý có thể bị hủy bỏ nhưng đời sống vẫn tiếp tục. Vấn đề đó có thể trở nên phức tạp và nghiêm trọng nhiều hơn từ kết quả của việc tự sát.

Như tôi đã nói ngay lúc bắt đầu buổi nói chuyện này, thái độ sống có thể thay đổi rất nhiều nếu chúng ta biết được những gì xảy ra sau cái được gọi là chết. Những khoa học gia, những chính trị gia và triết gia nào mà làm ngơ với vấn đề quan trọng này thì có thể đang dấn thân vào sự sai lầm nghiêm trọng vì sự thiển cận của mình. Bởi vậy, chúng ta cần phải thận trọng và cân nhắc khi đánh giá một vấn đề./.

Nguyên Hiệp dịch
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
hoàng hiệp
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 114
Tham gia: 10:53, 02/09/10

TL: NHỮNG LỜI PHẬT DẠY!

Gửi bài gửi bởi hoàng hiệp »

Văn Học và Nghệ Thuật - Truyện Phật Giáo
Viết bởi Nguyên Hiệp
Tôi trở về chùa sau gần một tháng nằm viện. Trở về chùa, trở lại nơi thiết thân nhất của mình, người chợt nhẹ hẳn đi.

Giàn mướp ngoài kia đã kết đầy trái, non tơ và xanh mướt. Có đi đâu đó xa trở về, mới thấy ngôi chùa và khu vườn này đáng trân quý biết chừng nào.

Tôi vẫn phải nằm suốt ngày vì chưa thể ngồi lâu được. Quảng mang lên đặt ở bàn một tấm hình chụp chúng tôi hồi còn nhỏ. Tôi hỏi để làm gì thì chú ta bảo “dấu ấn quá khứ, coi lại cho vui!” Tôi nói “quá khứ không truy tìm” thì chú ta bảo “rứa thì đem nó đi đốt hỉ.”

Tôi không nhớ rõ tấm hình này được chụp từ khi nào, hình như lúc Quảng mới vào tu, bởi vì trông cái chỏm tóc còn rất ngắn, cười thì toe toét bày cả mấy cái răng sún. Hồi đó hình như anh Tâm đã học lớp 9. Anh Tâm lúc nào trông cũng già trước tuổi. Đây là một trong những tấm hình hiếm hoi ghi lại dấu ấn thời chúng tôi còn thơ dại. Xuề xoà như Quảng vẫn lưu tâm giữ lấy những tấm hình xưa cũ thế này! Tôi thì chẳng bao giờ muốn lưu giữ một thứ gì của tuổi thơ cả!

- Ba đứa này rồi ai sẽ về với Phật trước tiên? Tôi nhìn tấm hình, buột miệng.

Quảng đang lau bàn, dừng tay lại nhìn sang chỗ tôi nằm, ngẫm nghĩ một lát, hỏi:

- Anh có thấy khoẻ lên chút nào không?

Tôi biết câu nói của tôi khiến Quảng sợ. Quảng đã nghe những trao đổi giữa thầy tôi và bác sĩ về bệnh tình của tôi, linh cảm về một điều gì đó không lành sớm sẽ xảy ra với tôi.

Tôi có niềm tin kiên định vào Phật. Tôi biết đức Phật không phải thần linh có thể đem đến cho người ta những phước lành nào đó, nhưng tôi tin vào năng lượng từ bi của ngài, và tôi tin vào những lời dạy của ngài về sự sống và cái chết, về những gì đã là quy luật của cuộc đời này. Tôi có đủ niềm tin để không trở thành bi quan; tôi có niềm tin để sống yên ổn với mệnh sống đang rút ngắn từng ngày!

Quảng đã tốt nghiệp 12, nhưng từ bỏ ý định thi vào đại học vì do tôi bệnh. Thầy tôi sai Quảng chăm sóc tôi, và ông cũng dành nhiều thời gian ở chùa hơn, không còn đi cúng xa nhiều như trước. Từ ngày anh Tâm đi học lại, rồi tôi bệnh, thầy tôi trở nên nhiều nghĩ ngợi. Chúng tôi là đệ tử của thầy, nhưng cũng như những đứa con. Không phải lúc nào những đệ tử cùng làm vui lòng thầy, và không phải lúc nào thầy cũng đáp ứng được nguyện vọng của các đệ tử, nhưng tình cảm thầy trò vẫn là điều gì đó rất thiêng liêng.

- Anh Nguyên, có internet thật tiện lợi đó nghe. Quảng bắt đầu đề cập đến chuyện kết nối internet của chú ta.

- Tiện lợi thế nào?

- Bây giờ ở tại ngôi chùa quê này, nhưng qua internet mình biết được mọi chuyện xảy ra ở các thành thị lớn, cả những chuyện bên Tàu, bên Tây.

- Chú nói thế nào mà Thầy cho kết nối internet hay vậy?

- Thuyết phục được Thầy khó lắm. Thầy cứ bảo lãng phí, không cần thiết, mất thì giờ, ảnh hưởng không tốt đến tu học. Em nói, có internet sẽ có nhiều điều lợi ích, như ở đây mình có thể biết ở đâu sắp khai giảng lớp Trung cấp Phật học, ở đâu sắp có giới đàn, ở đâu sắp có những khoá tu học sẽ được tổ chức… Em nói nhiều điều khác nữa, Thầy làm thinh, biết là thầy đã chịu nên nhờ đứa bạn hồi trước học chung liên hệ và kết nối giúp.

- Chú có tài thuyết phục thiệt. Giỏi!

- Thầy phải chìu em thôi. Đó là em chưa nói đến chuyện bỏ chùa về nhà đó nghe. Hồi trước mỗi lần bị thầy rầy la chuyện gì, em nói sẽ không tu nữa, về nhà, là thầy không rầy nữa. Kế sách này xem ra thật tuyệt vời, hỉ?

- Vậy thì có gì hay ho chớ! Hành xử với thầy của mình như vậy có nên không?

- Nhưng mà chùa này có ai thương Thầy bằng em. Anh Tâm thì lầm lì, mọi việc Thầy làm bằng lòng hay không luôn cứ ngậm thinh, không bao giờ chịu lắng nghe hay chia sẻ với Thầy điều gì. Anh thì có thương Thầy thật, nhưng mà có bao giờ giúp thầy được một việc gì ra trò, phải không? Rốt cuộc em vẫn là người thương Thầy nhất thôi, gần gũi thầy, giúp thầy nhiều việc.

Tôi thích cách nói chuyện của Quảng, nó chân chất và vô tư.

- Vậy trong thực tế chú thấy kết nối internet có ích không? Tôi quay lại đề tài internet.

- Có ích chứ. Bây giờ ngồi ở đây em biết được rất nhiều điều, nhưng… có điều những thứ này chắc không giúp ích gì cho việc tu tập cả. Hôm trước em kể với Thầy một vài chuyện và Thầy nói với em như vậy… Ngay cả việc em kể về những ngôi chùa to lớn có nhiều kỷ lục vừa mới được xây dựng, Thầy nói to lớn để mà làm chi, những thông tin như vậy không ích gì cả. Thầy mình hình như bảo thủ quá, anh Nguyên hỉ?

- Thầy thấy những điều đó không cần thiết với việc tu học thì Thầy nói chúng không cần thiết. Còn mình muốn biết thêm những gì đang xảy ra xung quanh mình thì mình cứ tìm hiểu. Nói Thầy bảo thủ thì không nên. Mà ngôi chùa to lớn chú vừa nói ở đâu vậy?

Rồi Quảng huyên thuyên kể về ngôi chùa, từ chủ đầu tư, kinh phí và các hạng mục công trình. Nhưng con số, những hạng mục xây dựng được kể ra đều khiến người nghe choáng ngợp. Và Quảng kể thêm rằng có công ty sách nào đó đã “tặng không” cho ngôi chùa này cả tá kỷ lục.

- Chắc tại ngôi chùa đó tăng chúng tu học đông lắm hỉ? Tôi hỏi.

- Đâu có! Hình như là có thầy nào đó đứng tên trụ trì, nhưng tăng chúng thì không có mấy người cả.

- Ủa, vậy chớ người ta xây dựng chùa to lớn như rứa để làm chi?

- Nghe nói để làm cơ sở du lịch tâm linh và để hộ quốc an dân gì đó.

- Xây chùa để hộ quốc an dân là nghĩa thế nào?

- Em thì nghe sao nói lại vậy chứ đâu hiểu nó có nghĩa thế nào. Nó là công việc thượng tầng, là vĩ mô, mình răng biết được. Mình suốt ngày luẩn quẩn trong chùa, cả năm không biết thị xã của tỉnh đen đỏ thế nào, làm răng biết được những chuyện cao xa.... Em ước một lần Thầy cho đến đó tham quan, cho biết.

- Chú lớn rồi, muốn thì xin Thầy mà đi, có chi phải ước ao nhỉ. Cứ ra tham quan cho biết, xem người ta xây chùa bằng gạch hay bằng đồng, Phật tử đến chùa lạy Phật hay lạy Mẫu, người ở trong chùa là tăng hay tục... Mấy cái đó chắc không phải thượng tầng, vĩ mô; những điều có thể nhìn thấy và biết ngay được.

Hôm anh Tâm còn ở chùa, tôi nghe anh kể về trường đại học Nalanda gì đó ở bên Ấn Độ. Đó là một trường đại học cổ xưa và quy mô nhất của Phật giáo, được hình thành và tồn tại gần mười thế kỷ. Nó là một đại học lớn, từ vấn đề cơ sở cho đến việc đào tạo giảng dạy. Một Đại học được phát triển lên từ một ngôi chùa, có thiền đường, cư xá, giảng đường đủ cho mười ngàn sinh viên và hai ngàn giáo sư nội trú. Nhưng chỉ cần vài trăm tên lính Hồi giáo thiện chiến cầm gươm, đã phút chóc san bằng và thiêu rụi đại học này. Nhưng cũng may trước đó Đại học Nalanda đã đào tạo nên nhiều bậc thầy và những vị này đã mang đạo Phật đến nhiều nơi khác nhau nên khi Phật giáo bị khủng bố tại đó nó vẫn còn sống tại những nơi khác. Nghe nói rằng khi Nalanda bị thiêu đốt, một số tăng sĩ đã mang kinh sách đến Tây Tạng; và may mắn thay Tây tạng là một xứ sở Phật giáo có liên hệ mất thiết với Nalanda, chứ Tây Tạng mà xứ sở Hồi giáo thì ôi thôi...

Tôi cảm thấy đau nhói ở ngực nên quay người vào trong vách. Những cơn đau vẫn đến bất chợt như thế này. Quảng thì không để ý đến, vẫn huyên thuyên kể, nói rằng sẽ có thêm những ngôi chùa to lớn khác sắp được xây dựng trong tương lai. Chú ta nói rằng có được những ngôi chùa đồ sộ như vậy thật thích, chứ toàn những ngôi chùa lẹt đẹt như chùa mình thì cũng buồn lắm, ai mà biết đến ai mà viếng thăm. Kể thôi một hồi, thấy tôi làm thinh, nghĩ là tôi đã chán nghe chuyện chùa hoành tráng kỷ lục nên chú ta bắt qua chuyện khác.

- Em tin là bệnh của anh rồi sẽ sớm qua khỏi thôi. Khi anh lành bệnh em sẽ đi học. Dù ở ngôi chùa quê hẻo lánh như thế này, nhưng có học vẫn hơn, anh Nguyên hỉ? Thầy thì bảo thành Phật thành Tổ không phải nhờ vào sự học, nhưng mà cỡ mình, nếu không học thì người còn chưa thành nói đến thành chi. Anh thấy em nói có lý không?

- Chú tìm Thầy mà hỏi. Hỏi tui thì giống như hỏi cục đất, biết chi mà trả lời có lý hay không có lý.

- Tạm thời chấp nhận nó có lý đi để còn nói chuyện tiếp chớ.... Chắc em sẽ thi vào một trường đại học nào đó, như đại học Luật chẳng hạn.

Nghe đến câu này, sự ngạc nhiên khiến tôi quên mất cơn đau, xoay người trở lại, tôi hỏi:

- Chú mới nói cái chi vậy? Định học Luật để sau này đi làm thầy cãi à? Học Phật mà Thầy còn bảo không thể thành Phật thành Tổ, không biết chú định học cái đó vì muốn trở thành ông gì, luật sư chắc?

- Mới giả dụ vậy thôi, đã đi học đâu...

Im lặng một lát, Quảng nói tiếp:

- Em thật không thích học ở Học viện Phật giáo chút nào cả. Bây giờ học ở Học viện Phật giáo cũng phải nộp học phí. Thi đỗ vào Học viện nhiều khi không tìm ra chỗ ở để mà đi học. Sư phụ mình có quen biết ai ở đó đâu mà gởi gắm. Nhớ hồi anh Tâm vào Sài Gòn học, suốt cả tháng vẫn không tìm ra được một ngôi chùa để mà trú chân. Nhiều người học tại Học viện Phật giáo nhưng phải ở nhà trọ vì không có sự trợ giúp về vấn đề lưu trú.

- Uả, không phải rằng Học viện đã có cư xá cho tăng ni sinh lưu trú à?

- Anh đúng là không biết chi hết! Anh không nhớ hồi trước anh Tâm tìm không ra chỗ ở, điện về Thầy xin trợ giúp thì Thầy bảo không tìm được chỗ ở thì về chùa à?

- Vậy sao Học viện không xây cư xá cho tăng ni sinh?

- Có thể có khó khăn về mặt tài chính.

- Vậy sao hồi nãy chú nói đến chuyện xây chùa hàng trăm tỷ.

- Anh buồn cười thiệt. Việc chi phải ra việc đó chớ. Xây chùa là xây chùa, học viện là học viện.

- Chú ni nói giống thiền “công án” quá hè (cười)! Vậy chứ Học viện và mấy ngôi chùa kỷ lục kia không cùng hệ thống, không thuộc một tổ chức à? Nếu khác tổ chức thì thôi không nói làm chi (mà ai cho phép khác tổ chức!). Còn nếu là một thì sao người ta không trích một phần trăm từ mấy ngôi chùa kỷ lục kia để xây dựng cư xá cho tăng ni sinh, để ít ra sau này những ngôi chùa to lớn đồ sộ kia còn có kẻ về quét bụi?

- Em làm sao biết được mấy chuyện đó. Mà các ngôi chùa to lớn kia không cần đến mình quét bụi đâu...

Quảng cười và tiếp:

- Có lẽ người ta nghĩ xây chùa kỷ lục thì quan trọng nhất trọng việc phát triển Phật giáo hiện nay chăng? Hay là nó có một chiến lược mang tầm vĩ mô nào đó mà mình không đủ sức để biết?

Tôi nghe Quảng hỏi mà tự nhiên bối rối. Câu hỏi này chắc phải tìm Phật để xin câu trả lời mới được. Rồi tôi nhìn lên bức ảnh Phật treo ở trên vách, và trên kia... đức Phật đã cười!

Tạp truyện của Nguyên Hiệp

Tiếp theo >


Author of this article: Nguyên Hiệp
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
nhatminh8
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 949
Tham gia: 20:35, 10/03/09
Đến từ: Nghệ An

TL: NHỮNG LỜI PHẬT DẠY!

Gửi bài gửi bởi nhatminh8 »

Những lời cuối cùng của đức Phật

Dưới đây là tóm tắt những lời dặn dò cuối cùng của Phật. Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-Nan-đà tập họp các đệ tử để nghe giảng và thông báo trước sự tịch diệt của mình. Lúc ấy Phật đã 80 tuổi.



Trong những tháng cuối cùng, Phật đã gầy còm và mệt mỏi, nhưng vẫn đi thuyết giảng như thường, tuy không còn đi xa được nữa. A-Nan-Đà xin Phật hãy tĩnh dưỡng trong những ngày còn lại, nhưng Ngài khoát đi và dạy rằng :

« Thân ta tuy có kém mạnh khoẻ, nhưng lòng từ bi của ta, trí sáng suốt của ta không kém sút. Ta còn tại thế ngày nào thì ngày ấy không phải là một ngày vô ích ».

Trong một khu rừng cạnh thị trấn Câu-thi-na (Kusinaga, còn viết là Kuçinagara), ngày nay là một thị trấn nhỏ tên là Kasia, cách 50 cây số về phía đông tỉnh Gorakhpur, và cách 150 kilomét về phía bắc-đông-bắc Varanasi (Bénarès), Phật nằm nghỉ giữa hai gốc cây sa-la. Ngài tự gấp áo cà sa làm bốn, rồi nằm nghiêng về phía tay phải, đầu hướng về phía bắc, mặt hướng về phía tây, hai chân duỗi thẳng, chân này gác lên chân kia. Sau đó Phật ngỏ những lời cuối cùng với các đệ tử để nhắc lại một lần nữa tầm quan trọng của Đạo Pháp. Phật nhắc nhở các đệ tử phải hiểu rằng vị thầy của họ không phải là một nhân vật nào cả, dù đó là Phật, vị thầy đích thực của họ chính là Đạo Pháp. Phật cất tiếng và nhắn nhủ các đệ tử đang ngồi chung quanh Ngài như thế này :

« Này các đồ đệ, các con hãy tự làm đuốc để soi sáng cho các con, hãy trông cậy vào chính sức mạnh của các con; không nên lệ thuộc vào bất cứ ai. Những lời giảng huấn của ta sẽ làm ngọn đuốc dẫn đường cho các con, làm nơi nương tựa cho các con; không cần phải lệ thuộc thêm vào những lời giảng huấn nào khác nữa.

« Hãy nhìn vào thân xác các con, các con sẽ thấy cái thân xác đó ô uế biết chừng nào. Khi các con hiểu được rằng lạc thú lẫn đớn đau của thân xác cũng chỉ là cội nguồn chung của khổ đau, khi hiểu được như thế, các con sẽ không thể nào tự buông lỏng cho dục vọng chi phối các con.

« Hãy nhìn vào tâm thức các con, các con sẽ thấy cái tâm thức đó biến dạng không ngừng. Vì thế các con sẽ không thể nào tự buông rơi vào chính những ảo giác của tâm thức, để rồi tự duy trì những kiêu căng và ích kỷ do tâm thức tạo ra, nhất là khi các con đã hiểu rằng những xúc cảm đó nhất định chỉ mang đến khổ đau mà thôi.

« Hãy nhìn vào tất cả các vật thể chung quanh xem có vật thể nào trường tồn hay chăng? Có vật thể nào không phải là những cấu hợp sinh ra hay không? Tất cả sẽ gẫy nát, tan rã và phân tán. Các con chớ sợ hãi khi nhận thấy khổ đau cùng khắp mọi nơi, hãy noi theo những lời giáo huấn của ta, kể cả sau khi ta đã tịch diệt. Như thế các con sẽ loại bỏ được khổ đau. Thật vậy, cứ noi theo những lời giáo huấn của ta, rồi nhất định các con sẽ trở thành những đồ đệ thật sự của ta.

« Này các đồ đệ của ta, những lời giáo huấn ta giảng cho các con, các con đừng bao giờ quên, đừng bao giờ để cho mai một đi. Phải bảo tồn những lời giáo huấn ấy, đem ra nghiên cứu và thực hành. Nếu theo đúng những lời giáo huấn ấy, các con sẽ đạt được an vui.

« Những gì hệ trọng nhất trong những lời giáo huấn của ta là các con phải kiểm soát được tâm thức các con. Hãy gạt bỏ mọi thèm muốn và giữ cho thân xác đứng thẳng, tâm thức tinh khiết và ngôn từ chân thật. Nếu các con biết tự nhắc nhở là cuộc sống của các con chỉ là tạm bợ, các con sẽ đủ khả năng loại bỏ mọi thèm khát và hung dữ đưa đến khổ đau.

« Nếu các con nhận ra được là tâm thức các con đang có xu hướng bám níu hay vướng mắc vào ham muốn, các con phải gạt bỏ ngay sự ham muốn và chận đứng sự cám dỗ đó. Các con phải làm chủ được tâm thức các con.

Tâm thức có khả năng biến một con người thành một vị Phật hay một con thú. Khi rơi vào sự lầm lẫn, ta có thể trở thành quỷ sứ, nhưng khi Giác ngộ ta sẽ thành Phật. Vì thế, các con phải kiểm soát lấy tâm thức các con và không đi lạc ra ngoài Chánh Đạo.

« Để có thể giữ đúng như lời giáo huấn của ta, các con hãy kính trọng lẫn nhau và đừng cãi vả. Đừng bắt chước như nước với dầu xô đẩy lẫn nhau; hãy bắt chước như nước với sữa, có thể hoàn toàn hòa lẫn vào nhau.

Hãy cùng nghiên cứu với nhau, cùng giảng giải cho nhau, thực hành với nhau. Không nên phí phạm tâm thức của các con và thời giờ của các con trong sự cãi vả hay lười biếng. Hãy hân hoan đón nhận hoa thơm của Giác ngộ vào lúc ra hoa và hái lấy quả ngọt trên Đường Ngay Thật.

« Những lời giáo huấn ta ban cho các con là do nơi kinh nghiệm của chính ta, và chính ta đã noi theo con đường đó. Các con nên tuân theo những lời giáo huấn ấy và giữ đúng như thế dù phải gặp hoàn cảnh khó khăn nào. Nếu các con xao lãng, có nghĩa là các con chưa hề gặp được ta, các con thật sự còn đang ở một nơi nào đó thật xa, dù cho trong lúc này đây các con đang ngồi bên cạnh ta cũng vậy. Nhưng nếu ngược lại, các con chấp nhận và đem ra thực hành những lời giáo huấn của ta, thì dù cho các con ở thật xa trong một chốn tận cùng của thế giới, nhưng cũng giống như các con đang ở bên cạnh ta trong lúc này.

« Hỡi các đồ đệ, phút cuối cùng của ta đã gần kề, phút xa lìa giữa ta và các con không còn bao lâu nữa. Tuy nhiên các con không nên than khóc. Sự sống là một sự đổi thay không ngừng và không có gì cản trở được sự tan rã của xác thân. Cái sự thực đó, ta đang chứng minh cho các con thấy ngay trên thân xác của ta, thân xác ta sẽ tan rã như một cỗ xe hư nát. Đừng than khóc một cách vô ích, trái lại các con phải hân hoan khi nhận ra được cái quy luật biến đổi ấy và hiểu được rằng sự sống của con người chỉ là trống không mà thôi. Đừng cố gắng duy trì cái khát vọng phi lý, mong muốn những gì tạm bợ phải nhất định trở thành trường tồn.

« Con quỷ của những dục vọng thế tục luôn luôn tìm cách đánh lừa tâm thức các con. Nếu có một con rắn độc trong phòng, các con sẽ không thể nào ngủ yên nếu chưa đuổi được nó ra ngoài. Các con phải cắt đứt những mối giây ràng buộc của thèm khát thế tục và rứt bỏ những mối giây đó như các con đã đuổi bỏ con rắn độc ra khỏi phòng. Các con phải bảo vệ thật cẩn thận tâm thức các con.

« Này các môn đệ của ta, giây phút cuối cùng của ta đã đến, tuy vậy các con phải hiểu rằng cái chết chỉ là sự tan rã của xác thân vật chất mà thôi. Thân xác được cha mẹ sinh ra, nó lớn lên nhờ thức ăn, nó không có cách gì tránh khỏi bịnh tật và cái chết. Một vị Phật đích thực không mang thân xác con người, mà vỏn vẹn chỉ là sự Giác ngộ. Chỉ có sự Giác Ngộ mà thôi. Thân xác con người phải tiêu tan, nhưng Trí tuệ của Giác ngộ sẽ trường tồn vô tận trong thực thể của Đạo Pháp, trên con đường tu tập Đạo Pháp. Nếu có ai chỉ thấy thân xác ta thì kẻ ấy không thấy ta một cách thật sự. Chỉ có người nào chấp nhận những lời giáo huấn của ta mới thật sự nhìn thấy ta.

« Sau khi ta tịch diệt, Đạo Pháp thay ta làm vị thầy cho các con. Biết noi theo Đạo Pháp, ấy chính là cách các con tỏ lòng trung thành với ta. Trong bốn mươi lăm năm sau cùng trong cuộc đời của ta, ta không hề dấu diếm điều gì trong những lời giáo huấn. Chẳng có một lời giáo huấn nào bí mật, không có một lời nào mang ẩn ý. Tất cả những lời giảng của ta đều được đưa ra một cách ngay thật và minh bạch.

« Này các con yêu quý của ta, đây là giây phút chấm dứt. Trong một khoảnh khắc nữa ta sẽ nhập vào Niết bàn. Những lời này là những lời dặn dò cuối cùng của ta cho các con ».

Người chép lại những lời này của Phật xin chắp tay mong rằng :

- Vì Phật, chúng ta hãy đọc lại những lời nhắn nhủ trên đây thêm một lần.

- Vì tất cả chúng sinh, vì sự đau khổ của muôn loài, chúng ta lại đọc thêm một lần nữa.

- Để gởi đến từng đơn vị nhỏ nhoi nhất của sự sống, chúng ta lại đọc thêm một lần nữa, đọc thêm một lần nữa…

Chúng ta nguyện sẽ đọc lên và đọc lên cho từng chúng sinh một, ta đọc cho đến khi nào những lời dặn dò trên đây của Phật trở thành những lời dặn dò xuất phát từ chính tâm thức ta, để nhắn nhủ cho chính ta, nhắn nhủ những người chung quanh ta, kể cả những sinh linh nhỏ nhoi nhất của sự sống. Khi những lời nhắn nhủ chân thật và tràn đầy Từ bi trên đây của Phật trở thành làn hơi thở của của chính ta, thì biết đâu lúc ấy ta cũng sẽ là một vị Phật ?

Bures-Sur-Yvette (Pháp quốc)
Hoang Phong
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
nhatminh8
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 949
Tham gia: 20:35, 10/03/09
Đến từ: Nghệ An

TL: NHỮNG LỜI PHẬT DẠY!

Gửi bài gửi bởi nhatminh8 »

...... ... .. . .. . . Tô canh bù ngót
Huỳnh Trung Chánh

--------------------------------------------------------------------------------

Suốt ngày phải quay cuồng "bù đầu nhức óc" với việc nhà việc sở, vừa có chút rỗi rảnh thì máy truyền hình lại thu hút hết hồn vía, thành thử Đông chẳng còn chút thời giờ để sống riêng cho chính mình, huống hồ có thể nhàn nhã tưởng nhớ đến thân nhân bè bạn. Mãi đến khi phải ngồi bó gối hàng giờ trên chiếc phi cơ hành khách, không lăng xăng gì được, Đông mới mặc tình thả hồn trôi thật xa, về với chuỗi ngày ấu thơ êm ấm, tại căn nhà ngói ba gian, mặt tiền hướng ra rạch Cái Sơn, thuộc xã Hòa An, Cao Lãnh. Đông là con trai duy nhất, lại là út, nên được cả nhà chiều chuộng nâng niu. Các chị là gái thì lúc nào cũng phải giữ gìn ý tứ, đi đứng đoan trang, và chia xẻ công việc nhà với mẹ, chớ đâu có buông lung nhong nhong suốt ngày phá làng phá xóm, khi thì phóng xuống sông quậy bùn đụt ngầu, lúc lại thượng lên cây mận, cây vú sữa, ngồi vắt vẻo vừa ăn, vừa lơ đãng ngắm trời xanh. Cùn chân cùn cẳng, chán chuyện phá phách ngoài đường thì về nhà chọc ghẹo ba bà chị cũng thú vị. Chọc ghẹo quá trớn "giỏi lắm" bị mắng "thằng quỉ", thằng "mắc dịch" là tột cùng, còn như muốn trừng phạt thì "sức mấy" ba chị rượt kịp thằng nhỏ. Thật ra, chuyện chọc ghẹo bị đòn tuy hiếm hoi, nhưng đi đêm có ngày gặp ma, Đông cũng lâm nạn một lần khiến cái đầu lãnh cục u tròn như trái chanh. Giờ đây, bỗng nhiên nhớ lại chuyện xưa tích cũ nầy, Đông cảm thấy vui quá đổi là vui. Chàng tủm tỉm cười, lầm thầm: "Ông bà già mình lẫm rẫm vậy mà hay ghê! Phát họa kế hoạch sản xuất bốn năm, rồi đúng theo tiêu chuẩn mà thi hành y chang, mới tài tình chớ!". Tuy là một nông dân chân chính, nhưng tài nghệ đặt kế hoạch sản xuất của ông già, được "hậu thế nhắc nhở" phải kể là chuyện sản xuất con. Bà già cứ tà tà sanh con năm một, ông già lại theo bốn mùa mà đặt tên con là Xuân, Hạ, Thu, Đông. Hết tên đặt thì bà chấm dứt cái rụp, chớ không tòn ten kèm theo thằng Ráng, thằng Thêm, con Thôi, con Nữa như người khác. Ông già rất hãnh diện về cái mục nầy, nên chỉ chờ đợi nhà có khách khứa thì gọi đám con ra, kể tên từng đứa để khoe khoang thành tích, vô tình khiến chị Ba tức tối đến điên người. Cũng giống như bất cứ cô gái mỹ miều nào, chị Ba thích trang điểm, làm dáng và dĩ nhiên rất mong được khoác một cái tên thơ mộng thanh tao. Điều éo le, là người đẹp hoa mỹ lại bị gán cho cái tên Hạ, lè tè thấp thỏi, thì sao chẳng đau lòng. Chẳng cần ai chỉ dẫn, vừa lên trung học, chị bèn lẵng lặng khai tử tên Hạ, sửa khai sanh bằng cách bôi dấu nặng thêm dấu huyền thành chữ Hà, đồng thời, lúc trò chuyện với bạn bè lúc nào, cũng xưng tên "Kim Hà thế nầy, Kim Hà thế kia" rất ư là điệu hạnh. Thế nhưng trường trung học quận Cao Lãnh chẳng lớn, bạn bè năm trước có đứa cũng lên học chung, thành thử cái tên cúng cơm "con ba Hạ" không thể dấu diếm ai được. Cái tên Hạ nhờm gớm, khó chịu dính cứng với chị Ba, giống như cục đàm kẹt cứng nơi cổ, khạc nhổ không xong, mà nuốt cũng chẳng trôi. Bực bội quá, có lần chị Ba lên tiếng càm ràm:

- Ba à! miền Nam mình đâu có đủ bốn mùa. Ba đặt tên tụi con là Xuân Hạ Thu Đông, thiệt chẳng hợp tí nào!

Đông vọt miệng:

- Đúng rồi! miền Nam mình chỉ có hai mùa là mùa nắng và mùa mưa. Vậy nếu Ba đặt tên đúng theo thời tiết, thì có lẽ chị hai mang tên "Phơi Nắng", còn tên chị là "Mắc Mưa" mới phải! Chị Ba! Chị nghĩ sao chớ theo em thì cái tên ba Hạ "bảnh tên" hơn cái tên ba Mắc Mưa nhiều lắm chị à!

Chị ba háy thằng em một cái bén ngót rồi lên tiếng: "Xí! ai bàn chuyện với mầy mà bày đặt ăn cơm hớt!", đoạn chị tiếp tục phân bua với ba:

- Con nghĩ chữ Việt có rất nhiều bộ bốn chữ hay ho như tứ quí, tứ đức, tứ phương...sao ba không chọn, nhè chọn bốn mùa chi, nghe chẳng thanh chút nào!

Tánh nào tật nấy, Đông lại nhanh nhẩu xía vào:

- Coi bộ đặt tên chị em mình theo bốn phương Đông Tây Nam Bắc hấp dẫn thiệt tình a! Chà! Trường hợp nầy chị sẽ mang mỹ danh là Tây, gọi đầy đủ là cô Ba Tây mới đúng! Chị ơi! ba Tây hay má Tây gì cũng đâu có đẹp hơn cái tên ba Hạ, chị Ba!

Thằng nhỏ ba hoa chích chòe không ngờ lời chọc ghẹo "ba Tây má Tây" lại khiến ông già nổi giận thình lình, ông cốc trên đầu thằng bé một cú đau điếng, rồi gằng giọng mắng:

- Thằng ăn nói bá láp! Cái miệng ăn mắm ăn muối độc địa nói tầm bậy rủi... có gì... thì sao?

Lời nói quàng xiên của Đông chắc đã phát ra đúng giờ linh, nên giờ nầy thì chị hai Phơi Nắng lại sinh sống tại vùng nắng cháy sa mạc Arizona, còn chị ba Mắc Mưa thì mặc tình dầm mưa tại vùng bão lụt Mississipi. Nhưng chuyện "linh ứng" thật sự đã xảy ra chỉ vài năm sau đó tại Việt Nam, liên quan đến chuyện tình duyên gây cấn của chị Ba. Vừa chuyển lên Saigon tiếp tục việc học, thoát khỏi bàn tay kềm kẹp của cha mẹ, chị Ba liền có ngay một nếp sống tình cảm khá tự do. Chị giao du rộng, có nhiều bạn trai, mà ai thì chị cũng đẩy đưa tình tứ, khuyến khích họ đeo đuổi. Với chị thì càng có nhiều người cạnh tranh trồng cây si thì càng có giá trị, nó thú vị như một thứ trò chơi, chớ chị đâu hề toan tính chuyện hôn nhân mà phải ra điều đứng đắn. Ông bà biết tính bay bướm của con gái, ngày đêm thấp thỏm lo âu, chẳng biết "hũ mắm nêm" hiểm nghèo nổ tung lúc nào. Ông bà chỉ biết khuyên lơn năn nỉ con gái dứt khoát "ưng" một chàng nào cho xong, nhưng cô nàng cứ "phớt tỉnh Ăng Lê", và cứ nhởn nhơ đùa giỡn. Một hôm chị Ba đột ngột mang hộp bánh trung thu về làm quà thăm cha mẹ. Sau buổi cơm chiều, chọn lúc cha mẹ đang nhâm nhi trà bánh vui vẻ, chị mới thỏ thẻ:

- Ba má à! vâng lời ba má, con đã dứt khoát chọn được người chồng tương lai cho con rồi!

Bà già đang ngồi ghế mừng quá nhỏm dậy hỏi một hơi:

- Thiệt vậy hả con! Thẳng (1) đến nhà mình lần nào chưa? Nó làm nghề gì? Mặt mày nó lịch sự không con?

Ông già cũng ôn tồn:

- Tánh tình nó ra sao? Học hành tới cỡ nào vậy con?

- Ơ! ảnh làm Cố vấn tại Bộ Xây Dựng Nông Thôn, cùng một cơ quan với con, ảnh cao ráo trắng trẻo đẹp trai lắm má ạ! Ơ! tánh ảnh hiền hậu dễ thương... làm sao á! ảnh đã tốt nghiệp đại học ở Hoa Kỳ đó ba!

- Tốt lắm! Thành phần du học thì sự nghiệp đương nhiên vững chãi, không có gì phải lo nữa! Còn gia đình nó như thế nào vậy con?

- Ơ!... ơ! cha mẹ ảnh không có ở đây ba à!

- Ủa! Như vậy té ra nó di cư vào Nam một mình à! điều đó cũng được đi, nhưng ít nhất thì nó cũng phải tìm ra chú bác cô dì hay anh chị để đứng làm chủ hôn chớ!

- Ơ...ơ! ảnh "mình ên" ở xứ nầy, ... ảnh là người... Hoa Kỳ ba à!

Ông bà già sống quanh quẩn tại xứ Đồng Tháp quê mùa, đầu óc thủ cựu, nên có một quan niệm rất hẹp hòi về việc kết hôn với người nước ngoài. "Cực chẳng đã, mới gả con cho chệc"(2), gả con cho người Trung Hoa, cùng màu da, sống cung đụng trong nước lâu đời mà còn bị khe khắc cho là chuyện cực chẳng đã, huống chi gả con cho người da trắng, để bị mỉa mai là con gái làm "me Mỹ, me Tây". Do đó, vừa nghe thỉnh cầu "động trời" của chị Ba, ông già đỏ mặt tía tai, nổi giận bừng bừng, còn bà già thì tái xanh như gà bị cắt tiết, khuỵu xuống ghế thở chẳng ra hơi.

- Mầy nói cái gì? Cho mầy lấy Mỹ đặng người ta cười thúi đầu tao hả?, ông già hét lên, rồi đứng lên thở hồng hộc chừng mười phút cho dịu cơn nóng giận, mới tiếp lời:

- Nó là người ngoại quốc làm sao tao biết gốc gác, biết cha mẹ họ hành nó! Rồi không mai mối, không ai đứng chủ hôn đàng trai thì tao gả bán với ai đây? Tao nhứt định không là không? Thà chết chớ tao không gả con cho Tây cho Mỹ nghe chưa?

- Con à! sao con dại quá vậy! con ưng thằng Việt Nam nào ba má cũng chiều ý con, chớ người Mỹ họ khác với người mình quá mà! gia đình lễ giáo đâu có ai lấy chồng ngoại quốc, a con!, bà già lên tiếng vỗ về.

Chị ba im lặng để mặc cho cha mẹ giảng "mo ran" đã đời, rồi mới lừng khừng nói:

- Con hiểu ba má chẳng ưa gì người Mỹ, nhưng con đã lỡ dại..., con đã có bầu với người ta rồi! Con biết phải làm sao bây giờ?

Ông bà đang ào ào giảng dạy con, bỗng nín khe không thốt thêm được một lời nào nữa. Bà nhìn ông, ông nhìn bà chua xót não nề. Phai lâu hàng giờ, ông già mới thở phào ra như quả bóng xì hơi, xuôi xị lên tiếng:

- Thôi được! Con muốn chọn ai thì chọn!

Thế rồi, ông bà cấp tốc lên Saigon tổ chức một đám cưới giản dị cho cô con gái, đoạn quày quả về quê, gặm nhấm nỗi buồn khổ khôn nguôi. Chị ba thì đâu cần đám cưới rình rang, cũng không có nhu cầu nở mặt nở mày với bà con xóm giềng. Chị lấy được người chồng chị thương, chị được xuất ngoại như mơ ước, và nhất là được hợp pháp "xổ toẹt" cái tên cúng cơm, để mang tên họ hoàn toàn Mỹ: bà Sue Johnson, thì chị đã hả dạ tột cùng rồi. Bà già nghe chuyện con gái đổi tên họ lắc đầu thở than: "Tưởng nó lựa chọn tên gì sang trọng, chớ tên Xu, tên Cắc thì hay hơn tên Hạ ở điểm nao?"

Năm 1975, khi gia đình Đông được đưa về tạm trú tại trại Fort Smith, chị Sue có đến thăm. Lần đó, Đông nhận thấy chị có vẻ xa cách, chị hà tiện từng lời nói, thường hay khinh khỉnh "à há, á à" thay câu đối đáp, nên Đông ngần ngại không đề cập đến chuyện nhờ vả chị lập hồ sơ bảo lãnh. Đông là người rất nặng tình gia đình, nên khi nếp sống tị nạn tạm ổn định, từ Houston chàng lần mò tìm đường viếng thăm chị Sue tại Jackson, Mississipi. Lần nầy, ngược lại chị Sue nói năng thật nhiều. Chị hãnh diện về kiểu cách sống rặc ròng Mỹ, chị khoe chồng con, khoe tài sản, sau cùng chị dành rất nhiều thời giờ để cười chê cái đám người Việt tị nạn quê mùa ngớ ngẩn để than phiền rằng sự hiện diện của họ ở xứ sở văn minh nầy chỉ làm tăng thêm phần lộn xộn, khiến chị mất mặt với bè bạn Hoa Kỳ mà thôi. Đông háo hức viếng chị hi vọng tìm lại những giây phút đậm đà tình ruột thịt ngày xưa, nhưng chị Sue đã vĩnh viễn cắt đứt quá khứ, đề tài mới mẻ về đời sống Mỹ của chị lại chẳng hấp dẫn chàng tí nào. Đông ngao ngán ra về, và từ đó, mối liên lạc chị em thưa dần. Người chị giàu tình cảm, có nếp sống giản dị, phù hợp với Đông nhất có lẽ là chị tư Thu. Chị không lập gia đình, ở lại Việt Nam chăm sóc cha mẹ cho đến ngày ông bà mãn phần thì đi xuất gia. Từ đó, viết thơ thăm hỏi phải hạn chế, ngôn từ sử dụng phải dè dặt để tránh khuấy động nếp sống thanh tịnh của kẻ tu hành. Bây giờ, dẫu Đông về nước thăm chị, thì hoàn cảnh kẻ tu người tục, Đông cũng khó tìm lại khối tình ruột thịt thắm thiết ngày xưa được. Do đó, bao nhiêu tình cảm gia đình, Đông dành hết cho người chị thứ hai ngụ tại Tucson, Arizona. Mặc dù vị trí thành phố nầy nằm trẹo đường, Đông phải đổi chuyến bay cực nhọc, nhưng mỗi khi có dịp đi Cali, chàng luôn tìm cách sắp xếp để ghé thăm chị đôi ngày. Về với chị cũng là về với quãng đời ấu thơ êm ấm ngày xưa tại quê hương yêu dấu.

*

* *

Vừa bước ra khỏi cửa phi cơ, Đông đột ngột bị phủ chụp bởi một độ nóng kinh khủng như đang bị thiêu đốt trong một lò lửa vĩ đại, khiến chàng tối tăm mặt mũi muốn thối lui lại. Thế nhưng nhìn thiên hạ, Đông thấy ai cũng nhàn nhã không lộ chút khẩn trương, nên đành từ từ nối gót nhau đi vào bên trong phi trường. Đông dáo dác tìm thân nhân, thì nghe tiếng reo:

- Cậu năm! Thưa cậu năm!

- A! cháu Toàn! Mới hai năm không gặp mà trông cháu trưởng thành và đẹp trai hẳn ra!

- Dạ cám ơn cậu! Lần nầy cậu đến nhằm mùa hè nên khí hậu khá nóng phải không cậu?

- Nóng dễ sợ chớ khá khá cái gì! Nóng như vầy mà sao dân ở đây chịu đựng nỗi? hay thiệt!

Thằng nhỏ cười hệch hạc đáp:

- Cái gì cũng quen dần cậu ạ! Cậu biết không! dân ở Arizona thường tiếu rằng "địa ngục còn mát hơn xứ nầy vài độ, nên sống được ở đây rồi, thì chẳng ai còn sợ bị đọa xuống địa ngục cả!".

- Ba má cháu mạnh khỏe?

- Dạ mạnh! Ba vẫn đi làm "ca hai" nên đến hơn một giờ khuya mới về, phần má con tuy muốn ra phi trường đón cậu lắm nhưng lại kẹt nồi mắm chưng đang nấu dở dang!

- Tội nghiệp chị Hai! Cứ khổ công nấu với nướng!

- Hì! Hì! Cậu biết tánh má con mà! Bả lo lắng cả tuần lễ, bả chuẩn bị nấu nướng đâu vào đó từ ngày hôm qua lận, gồm toàn các món cậu ưa là bánh canh giò heo, tôm kho tàu, mực dồn thịt, gỏi sứa... Rồi hồi trưa nầy, trong khi đang lim dim nằm ngủ, chợt bả trổi dậy nói: "Chèn đét ơi! xém chút nữa tao quên món mắm chưng rồi! đây là món hẩu (3) nhứt của cậu út mầy đó". Thế rồi má con hối hả đi chợ để nấu liền cho kịp!

- Đúng là cậu thích những món đó! nhưng cậu chỉ lưu lại hai ngày mà má cháu nấu "ấp lẫm" như vậy, bụng dạ nào cậu chịu nỗi!

- Hì hì! Bởi tính má con như vậy nên thích thức ăn gì thì con ra tiệm ăn, tuyệt đối không hở môi. Nếu lỡ dại để bả biết, bả sẽ nấu đầy ấp, nấu dài dài, rồi ép ăn trợn lên trợn xuống đến nỗi vừa thấy đã rùn mình rởn óc mà chưa chắc bả buông tha!

- Hề! Hề! Cháu là út mà! Má cưng út quá nên mới ngóng tìm món nào út thích để nấu nướng cực khổ mà cung phụng út! Cháu sung sướng quá mà còn kêu rêu gì nữa?

- Thưa cậu! Được thương dĩ nhiên là điều sung sướng, nhưng được thương quá mức đôi khi nó lại ngột ngạt khó thở lắm cậu ạ!

Đông cũng là con út nên rất thông cảm cháu, vỗ về:

- Ngày xưa, ngoại cũng thương yêu lo lắng cho cậu tột độ như vậy, tình thương của ngoại trở thành mù quáng và độc quyền, đến nỗi cậu cảm thấy tù túng khó chịu. Đây là chuyện "nỗi lòng khó ngỏ cùng ai" phải không cháu? Mình hở môi than thở thì bị lên án ngay là con bất hiếu, nên đành phải câm nín. Nỗi khổ của người bị thương chưa chắc dễ thở hơn nỗi khổ của người bị ghét cháu ạ!

Câu chuyện đành bỏ dở dang khi hai cậu cháu bước ra ngoài trời đến chỗ đậu xe, và Đông lại phải gồng mình chống đỡ độ nóng kinh khủng của vùng sa mạc. Khi Toàn lái xe còn cách nhà mươi thước, Đông đã thấy bà chị lấp ló bên cửa ngóng chờ mình. Càng về già chị hai càng giống mẹ. Thoáng nhìn mái tóc bạc phơi, vẻ mặt phúc hậu, nụ cười dễ dãi của chị, Đông cảm thấy như mẹ đang hiện hữu, chàng xúc động run giọng lên tiếng:

- Chị hai!

Chị cũng mừng rỡ ứa nước mắt:

- Em út!

- Chị hai à! Chị giống má quá chừng hà! Cho chị quấn cái khăn rằn, miệng bỏm bẻm nhai trầu, thì y chang má ngày xưa, chẳng khác tí nào!

- Hì hì! Còn em hả! Cái trán sói, khuyết sâu hai bên như hai cái ụ tàu của em cũng chẳng khác gì ba! Cho em vận cái áo bành tô, chống cây ba toong thì giống hệt ông già rồi!

Chỉ đối đáp đôi câu mà cả bầu trời thương nhớ với bao nhiêu kỷ niệm ấm êm hiện về tràn ngập tâm khảm hai chị em. Đông mường tượng như mình còn là thằng bé con lẩn quẩn bên cha mẹ tại căn nhà ngói ven bờ rạch Cái Sơn, chàng đang tung tăng chạy nhảy quanh gốc xoài, gốc ổi, gốc mận trong vườn. Bất chợt, Đông bùi ngùi hỏi:

- Sau hè nhà mình có trồng rau đắng không chị hai?

- Vườn nhà mình chẳng có rau đắng! Ơ... mấy thuở mà má nấu thứ rau nầy, sao em nhắc đến kìa?

- Vậy thì em lầm rồi! mỗi lần em nghe bản nhạc "Con thương rau đắng mọc bên hè", em lại cứ liên tưởng đến món canh rau ngọt ngọt nấu với chuối mà má thường cho mình ăn lúc nhỏ. Lớn lên, sao má không còn nấu món nầy nữa chị há?

- A! đó là canh rau bú ngót! Em biết không? ở nhà quê đâu có phương tiện dự trữ thành thử thức ăn khi thừa thải, có lúc khan hiếm chẳng có món gì, kể cả rau cải. Trong trường hợp này, để bổ túc với món khô sặc, má ra sau hè "quơ" mớ rau bù ngót, chế ra món canh chuối, ngọt ngọt cho con cái dễ nuốt cơm. Về sau, thì con lộ trước nhà đã được xây đắp, chợ búc đi lại dễ dàng, nên món canh tạm bợ nầy không còn xuất hiện nữa! Lạ quá hén! Tại sao bao thức ăn ngon lành em không nhớ, nhè nhớ món canh quê mùa nầy?

- Hì! Hì! Em cũng chẳng hiểu tại sao em còn ghi nhận rõ ràng hương vị đậm đà của tô canh bù ngót, cùng với chi tiết cảnh gia đình mình quây quần ăn bữa cơm chiều hôm đó. Có thể vì hôm đó em được món đồ chơi mới, một cái vòng làm bằng vành nia cũ, mà chị vừa buộc sửa lại cho em. Em chan món canh nầy lua một hơi, để tự do xách cái vòng phóng ra ngoài chơi. Em đánh vòng chạy lanh quanh trên con đường bờ sông thiệt là vui!

- Vui quá hén! Vui quá đến nỗi lọt tuốt xuống sông, khiến cho bà già chửi chị một trận tơi tả về cái tội bày đầu, bày đặt...

Trong khi hai chị em đang cười khúc khích thì Toàn ăn mặc chải chuốc bước ra phòng khách, lễ phép khoanh tay:

- Thưa má! Thưa cậu! Con đi dự sinh nhựt bạn con!

- Con tệ quá hà! Lâu lâu cậu mới đến chơi một lần, đáng lẽ con nên ở nhà ăn cơm với cậu chớ?, chị hai càm ràm.

Thằng bé nhăn nhó như khỉ ăn ớt:

- Con hứa với thằng Thanh cả tháng trước! Mà con cũng đã thưa với má hôm quá rồi mà!

- Thôi chị! đừng nhằn nó tội nghiệp! Nó đã hứa với bạn thì phải giữ lời, vả chăng, ở nhà để nghe chị em mình kể chuyện đời xưa chán phèo thì chịu đời sao cho thấu!

Thằng bé vừa bước ra khỏi cửa, thì chị hai đã than vấn thở dài:

- Thằng đó tệ lắm! Nó chỉ biết bè bạn nó thôi, chớ chẳng nghĩ gì đến cha, đến mẹ!

- Chị nói sao chớ em nhận thấy thằng Toàn khá ngoan chớ!

- Không nhắc chi chuyện xa xôi, mới ràng ràng tuần trước đây nè! Hôm đó, nghe nó nhắc bún bò Huế, đi làm về mệt đừ, chị vẫn ráng bươn bả đi chợ, nấu ngay món nầy cho nó. Cơm nước xong, chờ đợi mỏi mòn đến chín giờ rưỡi tối, mới thấy nó mới dẫn thằng Thanh về nhà. Chị vừa mừng vừa giận, xum xoe trách: "Sao con về trễ quá vậy? con đi chơi với bạn sao không cho má hay, làm má lo lắng gần chết! Má chờ cơm đói rã ruột vậy đó!". Chỉ có vậy mà mặt nó chù ụ, nó hậm hực trả lời: "Tụi con vào thư viện tra cứu sách vở, chớ đi chơi hồi nào đâu? Mà con nói với má nhiều lần rồi! con đã hai mươi bảy tuổi, đâu còn con nít nữa mà lo lắng mãi! Má đã biết rằng con phải học bù đầu, lại còn trực nhà thương, giờ giấc bất thường, lúc nào con về thì con ăn! Sao má cứ chờ đợi hoài, để rồi lên tiếng cằn nhằn?". Nó tệ như vậy đó em! có mặt bạn nó mà nó lớn tiếng với chị, nó không nghĩ gì đến tình thương bao la của người mẹ, suốt đời hi sinh tận tụy, chịu đủ điều gian khổ để chăm nom lo lắng cho con...

- Như vậy thì nó hư giống như cậu nó rồi! Chị hai biết không có lần em về Cao Lãnh thăm má. Trong khi má lăng xăng nấu nướng mừng con, em ra chợ chơi chợt nghe tin thằng Danh, bạn chí thiết của em lâm bệnh nặng. Em vội tìm nó, được biết nó bị bệnh ung thư gan không phương cứu chữa, mạng sống chỉ kéo dài tối đa sáu tháng. Nó rủ em ra quán cà phê rỉ rả tâm sự với nhau lần chót. Lẽ ra, em nên nhận lời, nhưng em biết má trông ngóng ở nhà, nên nài ép nó ăn cơm tại nhà mình. Vừa dẫn nó bước vào cửa, em chưa có cơ hội phân trần thì má đã trách móc tùm lum, em bực bội quá nên trả lời tương tợ như thằng Toàn vậy đó. Chuyện nầy má không nhắc với em nữa, nhưng bả lại than thở với mấy dì, khiến em buồn phiền không ít. Thật ra, thằng con trai nào cũng muốn chứng tỏ mình ngon lành, mình trưởng thành đối với bạn bè. Do đó, trước mặt bạn nó, nếu mình tỏ ra cưng lo thái quái thì thằng nhỏ đã bối rối thẹn thùng rồi, huống chi, mình còn cằn nhằn nó, thì trách sao nó chẳng nổi cơn!

- Ơ! thằng Thanh thì chị coi như con cháu trong nhà nên có gì phải úy kỵ!... Ơ! nảy giờ chị em gặp nhau mừng quá quên cả việc cơm nước! Chắc em đói lắm hả?

- Chưa đói đâu chị!

- Chị có làm món nầy đặc biệt cho em nè! Đố em đó!

- Mắm chưng! Đúng không? hì! hì! thằng Toàn báo cáo trước với em rồi! em đã thèm nhỏ dãi từ lúc ở phi trường lận! Trời đất! chị nấu gì mà tới sáu, bảy món đầy khẳm như vậy? làm sao ăn cho nỗi? Thôi! Em chỉ xin ăn món mắm là đủ rồi!

- Ậy! Dĩ nhiên ưu tiên là mắm chưng nhưng em cũng phải nếm các món khác chứ!

- Ô! Chị hai tài quá! ở xứ nầy mà chị tìm đâu đủ thứ rau thơm, lại còn có chuối chát và khế nữa!

- Ừa! Thì đủ hết, nhưng so với quê mình thì vẫn còn thiết đọt lụa, đọt chiết, đọt chùm ruột... em à!

Nghe nhắc đến chùm ruột, Đông bỗng rùng mình tưởng nhớ hình ảnh mẹ hiền ngày xưa. Có lần bà thẩn thờ nhìn nhánh chùm ruột sai oằn, rồi lẩm bẩm: "Má mong nhà mình giống như nhánh chùm ruột, con cháu cả đàn quấn quít san sát bên nhau, thì hạnh phúc biết chừng nào!". Chàng ứa nước mắt nhủ thầm: "Ước mơ thâm thiết của má vẫn ràng ràng trước mắt, mà nay má không còn nữa, con cháu tản lạc mỗi người một nơi, phần con thì biết chừng nào mới có thể về thăm lại mảnh đất quê nhà!". Để che dấu nỗi xúc động dâng tràn, Đông vội vã xới cơm mời chị. Chàng gắp miếng mắm, cẩn thận kèm theo khế, chuối chát, rau thơm. Chàng nhai chầm chậm, để cho vị mắm mặn mà trộn lẫn với khế chua, chuối chát, cùng với rau thơm the the, biến thánh đặc chất khoái khẩu đậm đà, chan chứa cả bầu trời thương nhớ quê hương.

Đông buộc miệng khen:

- Chị nấu mắm chưng quá ư độc đáo! Ngon ơi là ngon!

- Ngon như vậy đó, vậy mà con cái nó chê mới tức chớ! Chị hai chép miệng thở dài, rồi buồn hiu tiếp tục than thở:

- Con cái đời bây giờ không ngoan ngoãn với cha mẹ như mình ngày xưa đâu em. Chị em thằng Toàn đều như vậy hết. Con Hồng nhan sắc mặn mòi nên có bao chỗ xứng đáng đánh tiếng muốn làm xuôi gia với chị. Chỗ nào nó cũng phản đối hết, để rồi đi ưng một thằng học hành chẳng hơn gì nó. Tức chết đi được! Giờ thì tụi nó sinh sống ở Los Angeles, đâu có xa xôi gì, vậy mà năm đầu nó còn về thăm cha mẹ, sau đó biệt dạng luôn. Thằng Tú đang làm kỹ sư ở Phoenix cách đây một trăm dặm, tới lui gần gũi cũng tiện. Chị thấy nó giao thiệp toàn gái Mỹ hơi lo ngại nên gạ dẫn nó đi Cali coi mắt con gái người bạn, thì nó cười ngất chê chuyện đó kỳ quá. Tới chừng chị nghe tin nó có con bồ gốc Mễ, chị bực quá la cho nó một trận, rồi chị lại thường xuyên tới lui khuyên nhủ và kiểm soát nó. Ngờ đâu, nó giận, nó âm thầm xin thuyên chuyển về hảng chánh ở Chicago, mà chẳng thèm hỏi ý kiến cha mẹ một tiếng. Còn thằng Toàn ở nhà thì cũng như không. Nó học bù đầu suốt tuần, mà hễ có chút giờ rảnh thì chụp cái điện thoại hò hẹn bạn bè, chẳng thèm ngó ngàng gì tới chị. Chị cảm tưởng như chúng bỏ rơi mình, chúng khinh thường mình như một thứ thừa thải, một kẻ dốt nát quê mùa, không xứng đáng để chúng bàn bạc, hỏi han ý kiến. Trước kia chị còn nhắc nhở chúng những chuyện vụn vặt như đội nón, che dù, mặc áo ấm, uống thuốc cảm..., nhưng thấy chúng chỉ "dạ! dạ!" lấy lệ, rồi lơ là chẳng thèm nhớ nghĩ..., nên đành câm họng! Ai cũng tưởng chị sung sướng có con cái ngoan giỏi, nhưng đâu có biết nỗi cô đơn, buồn tủi của chị đối với con cái như thế nào? Chắc chị chờ thêm một năm nữa cho thằng Toàn lấy xong mảnh bằng bác sĩ, chị sẽ vào chùa tu phứt cho rồi!

- Chị hai à! sống ở xứ người thì ngay bọn người lớn cũng bị ảnh hưởng mà thay đổi ít nhiều, huống chi là bọn trẻ. Chúng phải học hành, tiếp xúc suốt ngày với nền văn hóa nước người, thì làm sao mình có thể đòi hỏi chúng hoàn toàn giữ trăm phần trăm chất Việt Nam trong người cho được! Em chỉ mong sao chúng nó còn biết dạ thưa, chào hỏi bằng tiếng mẹ đẻ là an ủi lắm rồi!

- Ừa! Thì đành chịu như vậy chớ biết làm sao bây giờ!

- Thật ra dầu đám con cái của mình vẫn còn giữ nguyên chất Việt Nam, thì chắc chắn vẫn có lắm chuyện rắc rối khác xảy ra, và bậc làm cha mẹ cũng kêu rêu như thường. Nguyên nhân đích thực chính là quan niệm khác biệt giữa hai thế hệ, mà mâu thuẫn nầy thì ở nước nào, thời đại nào cũng xảy ra. Đây chính là mầm mống khổ đau không phải chỉ riêng giới cha mẹ gánh chịu, mà đám con cái cũng lãnh đủ nữa. Nói chi xa xôi, chị em mình ngày xưa cũng làm khổ ba má đâu có ít phải không chị?

- Làm khổ ba má thì còn ai ngoài con ba Hạ nữa!

- Chị Ba và em là hai đứa con tội lỗi ngập đầu, đâu đáng kể tới. Ngoan hiền nhất như chị tư Thu mà còn có chuyện cho ba má khổ nữa kia. Chị xin xuất gia, ba má không thuận, chị cũng vâng lời. Rồi chị lại xin thuyên chuyển về quận nhà dạy học để săn sóc ba má lúc tuổi già. Thế nhưng mối quan tâm lớn nhất của bậc làm cha mẹ là mong cái yên bề gia thất nên ba má cứ đôn đáo, tìm người mai mối để ép chị lấy chồng. Chị tư không thuận, thì trách móc, giận hờn..., khiến chị Tư cũng phiền muộn không kém...

- Hừ! Người ta nói "ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên", vụ ba má ép con Tư lấy chồng cũng hơi quá đáng phải không út? Về phần con tư thì tánh nó cũng dị hợm quá chừng hà! Chị thấy cái đám thằng kỹ sư Danh được quá chớ, vậy mà nó không ưng quách cho rồi, nếu được như vậy có phải nó làm cho ba má vui lòng không?

Có lẽ hừng chí với lời phê bình đặc sắc của mình, chị gật gù đúng theo giọng kẻ cả, trịnh trọng phán:

- Ba đứa em còn nhỏ không gần gũi ba má và hiểu ba má nhiều như chị, nên mới dễ làm cho ba má buồn phiền như vậy đó!

- Bộ chị tưởng..., ơ...ơ..., chị còn nhớ những chuyện sôi nổi về việc chị đòi uốn tóc, đòi quần áo son phấn thời trang không? À! còn cái vụ thằng con tiệm vàng Hữu Lợi cậy mai mối xin hỏi chị mới gay cấn hấp dẫn từng hồi chớ!

Dù tuổi đã gần sáu mươi, khi nghe cậu em nhắc những chuyện bực bội xa xưa hằng bốn mươi năm, chị hai vẫn cảm thấy nóng mặt. Chị ấm ức tuôn ra một hơi:

- Ông bà già mình hủ lậu hết chỗ nói! Cả nước người ta uốn tóc quăn, người ta chưng diện theo thời trang mà ổng bả cứ chủ trương con gái nhà lành thì phải kẹp tóc, quần đen áo trắng kín mít, may rộng thùng thình, mặt mày thì để mét chằng chớ cầm kỵ thoa chút phấn son. Nội cái việc chị muốn mặc cái quần trắng thôi mà cũng lắm gian nan với ổng bả rồi. Thuở đó, phong trào mặc quần trắng mướt ôm sát thân hình thật hấp dẫn khiến chị thèm thuồng vô cùng. Đúng lúc đó, ba cho tiền sắm một cái áo dài và cái quần mỹ a để dự tiệc cưới con đầu lòng của chú bảy Dinh. Vải mỹ a rất mắc tiền, nhưng đi đứng nghe sột soạt khó chịu, nên với quan niệm của con gái thời đó thì nó quê mùa, chớ đâu hấp dẫn bằng cái quần xa teng rẻ tiền. Chị âm thầm may quần xa teng trắng và dấu kỹ cho đến ngày đám cưới mới lòi ra. Má vừa thấy quần đã nổi giận đùng đùng rầy la chị một trận tơi bời, rồi bả còn lấy kéo cắt quân ra từng mảnh, nát tan như chính cõi lòng của chị.

- Ủa! Chuyện đó sao em chẳng nghe vậy kìa?

- Khổ sở thì chị khóc thầm thôi, chớ chị đâu dám đôi co lời qua tiếng lại với má, thì làm sao em hay biết được! Chị hiền thì ba má đối xử khắc khe như vậy đó. Đến khi con ba Hạ ăn vận theo đợt sống mới, ổng bả giận lắm nhưng vừa mới mở lời khuyên giải, thì nó đã nhảy dựng lên dọa bỏ nhà đi bụi đời, ổng bả đâu dám hó hé gì nữa. Chuyện chồng con của nó cũng vậy, nó muốn ngang nào được ngang nấy, chớ đâu bị hành hạ, "cà riềng cà tỏi" cằn nhằn tối ngày như chị vậy! Chướng nhất là vụ thằng con chủ tiệm vàng Hữu Lợi xin hỏi chị! Em nghĩ coi, cái thằng tướng tá tròn vo như hột mít, lại vô duyên, bất tài... chỉ giỏi ngón nghề chạy chọt được giấy miễn dịch... vậy mà ba má khăng khăng cho rằng nó "thọ", nó có tương lai... để rồi áp bức dày vò chị dài dài để buộc chị ưng hắn! Ngược lại, đến khi chị và anh hai thương nhau xin tiến tới hôn nhân, thì ổng bả ngăn cản đủ mọi cách. Ổng bả chê anh hai là người Trung, tính nết khó lường, tiếng nói khó nghe, xuôi gia xa xôi khó thân thiết, đời quân ngũ hiểm nghèo, không chăm sóc được vợ con... thế rồi, để làm nản lòng anh chị, ổng bả kiếm chuyện bắt lỗi phải từng cử chỉ, từng lời nói... khiến anh chị phải điêu đứng gian nan cả năm trời cho đến ngày cử hành hôn lễ mới được yên thân...

- Chị hai à! hành động nào của ba má cũng đều phát xuất từ tình thương vô bờ đối với con cái! Em nhắc nhở chuyện xưa không phải trách móc ba má, mà chỉ muốn chứng minh một điều là bậc làm cha mẹ, đôi khi thương yêu con mà thiếu hiểu biết, lại vô tình gây khổ đau cho con, đồng thời cũng tự làm khổ mình nữa. Đây là kinh nghiệm thời trẻ ai cũng đã trải qua, nhưng chẳng ai rút tỉa được bài học nầy hết! Khi trở thành bậc cha mẹ, người ta sẽ cố chấp và thiếu hiểu biết đối với con cái y hệt như cha mẹ họ ngày xưa! Đây là đầu giây mối nhợ của bao bất hòa, của nỗi khổ đau xảy ra trong mọi gia đình! Chị hai có đồng ý với em điều nầy không chị hai?

Chị hai trầm ngâm suy tư, rồi gục gặc gật đầu.

Chừng như đã chán ngán bàn chuyện con cái, hai chị em đổi đề tài sang chuyện cây xoài cây ổi, bánh phồng bánh tráng, tát đìa bắt cá... toàn là chuyện tầm ruồng chẳng đầu chẳng đuôi, vậy mà vui vẻ tận cùng. Món mắm chưng lại hợp khẩu nên Đông đã vui miệng nói, lại vừa vui miệng ăn "miếng đặng miếng được" đến khi no cứng mới ngừng. Thế nhưng chị hai đâu chịu để yên. Chị nằn nì nài ép: "em ăn thêm miếng gỏi sứa cho chị vui!", "tôm càng kho tàu nấu y chang như má nè"! Em thử một miếng chứ!, "mực dồn thịt chị làm cực khổ lắm nghen! Em không ăn thì phụ lòng chị đó!"... Đông nể chị, ăn thêm món nầy đến món kia, cho đến khi thở chẳng ra hơi, mới được bà chị buông tha. Đông có ý định chờ ông anh rể để chào mừng, nhưng chưa quen giờ giấc miền Tây, chàng buồn ngủ híp mắt, không thể thức thêm được nữa. Nửa đêm, cái bụng căng phồng khó chịu quá, Đông phải làm xấu, dựng chị dậy, kêu gào mấy viên thuốc tiêu thì mới tạm yên. Sáng hôm sau thức dậy, bữa ăn sáng thịnh soạn đã dọn đầy bàn, nhưng rất may, Đông không bị ép ăn nữa. Chàng nhâm nhi cà phê, hàn huyên hào hứng đủ mọi đề tài vô thưởng vô phạt với ông anh rể, cho đến giờ anh chị đưa trở ra phi trường.

Trong giờ phút chia tay quyến luyến, chị hai nắm tay em ân cần han hỏi:

- Cái bụng em đã đỡ chưa út?

- Đỡ nhiều rồi chị ạ!

Rồi với giọng nửa đùa nửa thật, Đông tiếp lời:

- Chị hai thấy không? cái gì quá mức thì cũng nguy hiểm cả! Được cho ăn quá mức thì bị trúng thực, còn được thương quá mức thì... ơ...ơ... nó cũng tù túng ngột ngạt lắm chị hai ạ!

- Hì! hì! té ra em chỉ giả vờ đau bụng để nhắc khéo chị điều đó phải không?

*

* *

Đông trở về Houston quay cuồng kiếm sống, thỉnh thoảng chàng cũng điện thoại vắn tắt thăm chị, nhưng những mẩu chuyện tâm tình sôi động trong chuyến đi Tucson vừa qua, không ai buồn nhắc đến nữa. Bất ngờ, đúng ngày Tết âm lịch, Đông lại nhận được một bức thơ dầy cộm của chị. Lo sợ có điều bất tường. Đông hấp tấp mở ra xem:





Tucson, ngày 3 tháng 01 năm 1997

Em út thương của chị,

Lụi hụi mà chỉ còn một tuần lễ nữa thì mình lại ăn thêm một cái Tết tha hương. Tết bên nầy sao tẻ lạnh quá út ạ! Giờ nầy năm xưa ở bên nhà, không khí Tết rộn ràng lắm! Ba đã tỉ mỉ chọn cành mai đơm đầy bông búp chưng lên bàn thờ, cân xứng với một cặp dưa hấu to, và bộ lư hương bằng đồng sáng giới. Má chuẩn bị bánh mứt, trái cây từ mấy tuần trước, dự trữ thật nhiều, hầu đến cận Tết rảnh tay nấu một nồi bánh ích và bánh tét đầy âm ấp sẵn sàng chờ đợi đám con cháu tề tựu về tưng bừng ăn uống. Tình thương con cháu của má thật bao la, má gian nan cực khổ thế nào cũng được, miễn là thấy mặt đám con cháu đông đủ sum vầy quây quần trong ngôi nhà, thì bà mãn nguyện lắm rồi.

Tánh chị có lẽ chẳng khác gì má. Bao nhiêu tâm ý chị đều đặt tất cả vào các con: nhìn chúng ăn uống cười nói, chị hân hoan rộn rã; thấy chúng chợt đăm chiêu, lòng chị thảng thốt bất an. Chị chỉ muốn con cái sống gần gũi trong tầm tay của mình, vắng đứa nào chị cũng nhớ thương ủ rũ, chúng về nhà trễ thì ruột chị quặn thắt từng cơn. Đối với chị, đám con chị là nhất, quý giá không con cái ai sánh bằng, cho nên chị thấy có nhu cầu lo lắng bảo vệ chúng từng li tứng tí, sợ chúng ốm đau, gặp tai nạn, sợ chúng bị bạn bè lợi dụng, sợ chúng lầm lạc chọn người không xứng đáng gây khổ đau suốt đời... Thế nhưng chị càng lo lắng chăm sóc chúng thì chúng lại tỏ ra bất cần, chị muốn ôm chặt chúng trong vòng tay thì chúng càng vuột ra ngoài, than trách thì chúng tỏ vẻ bực bội tránh xa. Chị cảm thấy bị con cái bỏ rơi, chúng khinh thường, chúng bất cần mình. Chị cô đơn quá! chị hờn tủi và khổ sở cùng cực mà chỉ biết âm thầm chịu đựng, chớ tìm đâu được kẻ tâm giao để chia xẻ nỗi niềm. Chị đâm ra quạu quọ rắc rối, nhưng chỉ quạu quọ rắc rối với anh hai, chớ với chúng thì vẫn mềm mỏng để chiêu hồi.

May là trong chuyến thăm chị, em nhắc nhở chuyện ngày xưa, khiến chị lưu tâm suy tư cặn kẽ những mâu thuẫn của hai thế hệ. Từ đó chị nhận chân được một sự thật là: Ba má rất thương yêu con cái, nhưng thương yêu một cách mù quáng và không hiểu biết hoặc lưu ý gì đến tuổi trẻ, vì vậy mà ba má đã có cái nhìn cố chấp hẹp hòi, kết quả là ba má tự chuốc lấy khổ đau, mà đồng thời lại gây phiền lụy cho con cái nữa. Đó cũng là một khuyết điểm mà chị đã vấp phải. Chị đinh ninh rằng chỉ cần ôm "chính nghĩa thương con", thì chẳng cần đếm xỉa điều gì khác nửa, cứ mặc tình "tự tung tự tác" muốn thương con cách nào cũng đúng, vì vậy mới gây ra bao lủng củng trong nhà. Do khám phá nầy, chị không còn oán trách con cái nữa, mà chỉ tự quán sát tìm hiểu những khuyết điểm của chính mình. Trước hết, chị nghĩ đến mối bất hòa giữa chị và đứa con gái đầu lòng. Thật ra thì thằng rể cũng hiền lành dễ thương, nhưng theo quan niệm "phi cao đẳng bất thành phu phụ", chị cho rằng nó không xứng đáng nên ngăn cản tình yêu của chúng rất mãnh liệt, với thâm ý tách rời hai đứa hầu đem cháu Hồng gả cho con anh tư Thời đang học nha khoa. - Hồi nhỏ chị chủ trương tiền bạc và cấp bằng không đem lại hạnh phúc, chị chống đối ép duyên đến cùng, mà nay sao chị lại ép duyên con kìa? - Ngăn cấm không kết quả, chị đành thuận cho chúng tiến hành hôn lễ, nhưng nỗi ấm ức cứ tuôn tràn qua thái độ kém thân thiện của chị đối với thằng rể. Có lẽ vì vậy mà chúng nó viện cớ tìm được việc làm tốt ở Los Angeles, rồi dọn đi mất. Nó đi xa, chị nhớ chị buồn, rồi chị lại cằn nhằn oán trách, chúng càng né tránh rồi trốn biệt luôn. Ôi! giờ nầy chị hiểu và thương chúng nó, kể ra cũng hơi muộn màng. Kinh nghiệm vụ con Hồng, chị canh giữ hai thằng con trai rất kỹ. Chị gợi ý cho thằng Tú đám nào, nó cũng chẳng màn để ý, mà hễ hai anh em nó giao thiệp ai, chị lại thấy chẳng cô nào xứng đáng cả. (Chị mới nghiệm ra điều nầy em ạ! Dường như trong máu của người đàn bà thương con đã ngầm chứa chút tị hiềm với con dâu nên bạn gái nào của nó mình cũng chê. Ngay nàng dâu do mình chọn rồi giới thiệu cho con, không bao lâu mình cũng sẽ khám phá ra vô số khuyết điểm của nó.). Thời gian ngắn ngủi sau đó, chị hốt hoảng khám phá rằng thằng Tú dính líu với một cô gái gốc Mễ. Hôn nhân là chuyện chúng nó, chủng tộc nào tùy nó, đâu chắc gì có vợ Việt thì hạnh phúc bền bỉ? Kể ra, ở bên nầy mà có vợ Mễ thì cũng đâu có gì quá đáng hơn ngày xưa tại xứ Đồng Tháp quê mùa có chị nằng nặc đòi kết hôn với người Huế, nói tiếng gì mà cả xóm Cái Sơn chẳng ai hiểu một câu! Thế nhưng, lúc đó chị không nghĩ vậy, chị làm dữ với thằng Tú trước mặt con nhỏ đó, hi vọng con đó bỏ thằng Tú thì tốt biết bao nhiêu. Kết cuộc, như em biết đó, thằng Tú xin đổi lên Chicago. Từ chuyện tình duyên của con cái, chị quán sát cả đến những chuyện lặt vặt khác và chột dạ thấy mình sao lẩm cẩm quá chừng đi. Em nghĩ coi, thằng Toàn đã 27 tuổi, học năm chót y khoa, mà chị lải nhải bắt nó uống thuốc nầy thuốc nọ, phải mặc áo ấm, đội nón, che dù... lo như lo cho đứa con nít tiểu học, vậy mà nó lơ là thì chị lại hờn tủi mới chướng đời chớ! Đến như việc việc giao tế của nó, chị thường càm ràm rằng nó dành hết thời giờ cho bạn bè, nhưng thật ra thì nó học bạc đầu, mỗi tuần được chừng vài giờ rảnh rỗi, liên lạc với bạn bè trang lứa kháo nhau chuyện tầm phào cho thoải mái, mà chị đòi dành thời giờ đó cho chị, điều đó chắc hơi quá đáng phải không em?

Càng suy tư quán sát chị càng thông cảm hiểu biết con cái, chị không còn khổ sở, hờn giận gì nữa. Chúng nó, giống như chị ngày xưa, sẽ đến lúc trưởng thành, rồi có cuộc đời riêng. Con chim mẹ, phải tập nhìn bầy con của mình, tung cánh bay cao, với niềm hãnh diện hân hoan, chớ không phải với tâm trạng cô đơn hờn tủi.

Suy tư nầy vừa lóe trong tâm tư, chị liền cảm thấy niềm an lạc tràn ngập khắp cả châu thân. Chị vừa "ngộ" em ạ! Em đừng cười chị nhé! Chị nói giỡn nhưng không hẳn là đại ngôn đâu! Cái nguyên lý "vô thường" mà mình nghe quý thầy giảng hoài, chị tưởng như đã nắm vững, nhưng thật ra, trước kia mình nghe như nước đổ lá môn, mà chưa bao giờ thâm nhập. Bây giờ thì chị ý thức rõ rệt nguyên lý vô thường như một kinh nghiệm thực tại, nó hòa nhịp trong đời sống của mình, diễn tiến tuần tự, như nhiên và mầu nhiệm: hợp rồi tan, tròn rồi khuyết. Có cái gì thành trụ mà chẳng đi đến giai đoạn hoại không? Tấm thân tứ đại cũ mèm nầy, rồi cũng sẽ đến lúc tan hoại rã rời.

Em út thương,

Nguyên lý vô thường dính liền với ý niệm sống chết. Đã sanh ra đời thì ai cũng có một lần chết. Đó là sự thật hiển nhiên, vậy mà bấy lâu nay cơ hồ chị quên mất điều đó. Chị hành động in tuồng như chị sẽ sống dai như "Bành tổ" để đùm bọc, lo lắng cho các con mãi mãi. Ca dao nước mình so sánh sự sinh nở nguy hiểm như là chuyến phiêu lưu ra biển khơi cô đơn:

Người ta đi biển có đôi

Còn tôi đi biển mồ côi một mình.

Ca dao trên không đúng với trường hợp của chị, vì khi sanh ba mụn con, lần nào chị cũng có chồng kề cận, được bác sĩ và hộ sinh chăm sóc, nên cảnh cô đơn hiểm nghèo chưa thật sự trải qua. Thế nhưng, giờ đây câu ca dao đó bỗng hiện về ray rứt chị, khi chị nhận thấy rằng dường như nó phản ảnh khá trung thực tâm trạng cô đơn hoảng hốt của con người trong chuyến ra đi cuối cùng của cuộc đời. Con người từ cõi sống bước vào cõi chết mù mịt bơ vơ, hoang mang chẳng biết trôi dạt về đâu thì có khác nào đi biển một mình trong đêm đen mưa gió bão bùng. Chuyến đi kinh khủng đó không có phương cách trốn tránh được, vậy thì chỉ có một giải pháp duy nhất là chuẩn bị sẵn sàng để đối diện: nếu mình nắm vững phương hướng, và được hành trang bằng niềm tin và nghị lực chắc chắn nỗi hoang mang sợ hãi sẽ giảm thiểu! phải không út?

Anh chị đã may mắn quy y và học Phật Pháp với hòa thượng Thiện Hòa trước năm 1975, nhưng khi sang Hoa Kỳ phải quay cuồng với nếp sống mới, rồi chị lại "xà quần" với chuyện lo lắng, thương yêu, hờn giận con cái, mà xao lãng chuyện tu tập. Nay giật mình tỉnh thức, nhận thấy tình trạng đã vô cùng cấp bách, không còn chần chờ gì nữa, chị dứt khoát tu tập theo pháp môn Niệm Phật tu tâm, cầu vãng sanh về thế giới cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Kinh sách hướng dẫn pháp môn tịnh độ nhiều lắm, nhưng chị thấy chỉ cần quyển Niệm Phật Thập Yếu của thầy T. Thiện Tâm cũng đủ lắm rồi. Chị căn cứ theo đó mà lập thời dụng biểu cẩn mật để tha thiết Niệm Phật cầu vãng sanh. Nếu "Tín, Hạnh, Nguyện" được vững vàng, thì chuyến đi cuối cùng mình đã rõ ràng phương hướng, đầy đủ tư lương nên không có gì phải hoang mang bối rối nữa! phải không em!

Từ ngày khởi sự tu tập, tâm chị dần dần thoải mái. Dĩ nhiên là chị vẫn chăm sóc và cơm nước cho hai cha con, nhưng chị không "ép ăn và ép thương" ai nữa. Chị không đòi hỏi con cái lúc nào cũng nghĩ tới chị, chị cũng không trách móc hờn tủi, cũng không bận bịu lo âu về những chuyện xa vời ngoài tầm tay mình nữa. Anh hai cũng đỡ bị chị lăng nhăng cà khịa nên rất hài lòng.

Có lẽ tụi nhỏ kháo với nhau rằng độ rày chị dễ dãi, nên mùa giáng sinh vừa qua, đám con Hồng và thằng Tú rủ nhau về cho một nhà. Chị để chúng sống thoải mái tùy thích, không đòi hỏi ràng buộc gì cả. Chị cũng tươm tất nấu nướng cho chúng toàn là những thức ăn đặc biệt Việt Nam, để biết đâu chừng, một ngày xa xôi nào đó, bất chợt nhớ lại khung cảnh gia đình ngày xưa, thì hình ảnh con tôm kho tàu, trái khổ qua dồn thịt, tô mắm chưng... - giống như tô canh bù ngót của cậu út -, sẽ hiện về trong tâm khảm chúng như một kỷ niệm ngọt ngào tình thương. Chúng nó tựu về thì vui, chúng đi chị khỏe, thời giờ tu tập đỡ bị xáo trộn.

Ờ! có chuyện nầy khá vui, sẵn dịp chị kể em nghe cười chơi. Nhân dịp có đủ hai thằng con trai, anh dặn dò:

- Ba má đã bàn nhau và đồng ý rằng hôn nhân của các con do các con tự quyết định, hạnh phúc thì các con nhờ, đau khổ các con chịu. Ba má không muốn xen vào chuyện của các con, mà chỉ muốn nhắc nhở các con một điều là vợ chồng cùng chung một nền văn hóa, cùng chung một tôn giáo, dễ xây dựng hạnh phúc hơn. Lúc trẻ mình không thấy tầm quan trọng của hai vấn đề nầy, nhưng khi về già, người ta thường sống trở lại với dĩ vãng và cần nương tựa vào một niềm tin, thì văn hóa và tôn giáo, trở thành yếu tố then chốt giữ vững tình nghĩa mặn nồng cho chuỗi ngày già.

Chị cũng góp ý:

- Hôn nhân là chuyện quan trọng ảnh hưởng suốt cả đời. Do đó, các con nhớ phải cẩn thận, lựa thật kỹ kẻo mang khổ nghe các con!

Tú cười ngất đáp:

- Má yên chí đi! Vụ nầy thì con kỹ lắm! Con phải sống chung với nhau vài năm, biết rõ hết mọi chuyện rồi mới nghĩ đến chuyện kết hôn má ạ!

"Trời đất! Em nghe thằng Tú nói như vậy em có lùng bùng lỗ tai không út?". Chị thấy nó chủ trương kỳ lạ muốn răn dạy nó, nhưng mình đã nguyện buông bỏ mọi việc để rảnh rang tu tập, mà còn thắc mắc gì nữa, nên chị gượng cười cho xong.

Em út thương,

Chị biết em đã chứng kiến và hiểu biết nỗi đau khổ của chị, nên chị viết thơ nầy kể lể hết mọi chuyện để em được yên tâm. Bắt đầu tu tập thì cũng bắt đầu cảm thấy an lành thư thái em ạ! Kể ra, đợi gần đến sáu mươi mới lo tu niệm là quá trễ phải không em?

Ít hàng thăm hai em và các cháu. Chúc gia đình em một năm mới an khang thịnh vượng.

Chị hai của em,

Nguyễn Thị Xuân.



Đông xếp thơ chị lại trong niềm vui tràn ngập. Hình ảnh người chị thân thương thấp thoáng ẩn hiện trong tâm khảm chàng. Bóng dáng người chị tuổi lục trần đó thoạt tan biến rồi hóa thành cô gái tuổi trâm cài nhí nhảnh, đang chăm chỉ sửa chiếc vòng làm bằng vành nia cho thằng em út. Cạnh đó, bên bàn ăn, một tô canh bù ngót ngọt ngào vẫn còn nghi ngút khói...

Tháng 11.1996



Ghi chú:

1. Thẳng; thằng ấy

2. Chệc: thổ ngữ của người Tiều Châu có nghĩa là chú, như tiếng xẩm có nghĩa là thím. Dân miền Nam hiếu khách gọi người Tiều là "chú thím" bằng ngôn ngữ của họ là "chệc và xẩm", có người trùng dụng là chú chệc, thím xẩm.

3. Hẩu: hay hẩu sực là thổ ngữ người Quảng Đông có nghĩa là thức ăn ngon, khoái khẩu.
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Cuộc sống muôn màu”