Những việc thực, đã xảy ra trong quá khứ để chứng minh công đức của việc tích chứa phúc thiện
(Mạn phép sư trụ trì Nhất Niệm)
1. Có một người làm đến chức Thiếu sư, tên là Dương Vinh, thuộc huyện Kiến Ninh, tỉnh Phúc Kiến. Tổ tiên của ông làm nghề chèo thuyền đưa khách sang sông để kiếm sống. Có một lần, mưa xuống rất lâu, sông suối ngập tràn, thế nước ào ạt, cuốn phăng nhà cửa của dân. Rất nhiều người đã bị nước cuốn, số chết, số đang vật vã trong dòng nước xiết. Những thuyền khác đều lo đi vớt của cải trôi theo dòng nước, chỉ ông cố và ông nội của Dương Vinh lo đi cứu những người mắc nạn bị nước cuốn trôi mà không vớt một món vật nào. Người trong làng đều cười chê , cho họ là ngu. Đến khi cha Dương Vinh ra đời, sinh kế của gia đình lần lần khá giả. Có một vị đạo sĩ nói với cha Dương Vinh rằng: “ Cha và ông nội của ông tích chứa được rất nhiều âm đức, con cháu nhất định sẽ thành đạt làm quan lớn. Ông nên đem hài cốt cha mình an táng tại chỗ kia,,.
Cha Dương Vinh nghe xong, y lời đạo sĩ đem hài cốt của cha và ông nội chôn tại chỗ đạo sĩ chỉ. Ngôi mộ đó, ngày nay mọi người đều biết là mộ Bạch Thố. Sau đó, Dương Vinh ra đời, đến năm hai mươi tuổi thi đậu Tiến sĩ. Làm quan mãi đến chức Thiếu Sư thuộc hàng Tam Công. Hoàng đế còn truy phong cho cha, ông nội, ông cố của Thiếu Sư chức tước như ông. Con cháu đời sau của Thiếu Sư vô cùng thành đạt, mãi cho đến ngày nay vẫn còn rất nhiều bậc hiền tài.
2. Dương Tự Trừng người Ninh Ba, Triết Giang. Ban đầu làm chức Thư biện ở nha quan, tâm vô cùng nhân hậu, nghiêm giữ pháp luật, làm việc công minh. Lúc đó, quan huyện là người nghiêm khắc ngay thẳng, có một lần đánh một kẻ tù phạm đến máu chảy đầy đất mà vẫn chưa nguôi giận. Dương Tự Trừng lúc đó quỳ xuống xin tha cho người phạm tội. Quan huyện bảo: “ Ông xin tha tội cho hắn vốn chẳng có gì đáng nói, song tên tù phạm này không tuân thủ pháp luật, làm trái đạo lý, sao mà không giận cho được! ”.
Dương Tự Trừng vừa dập đầu lạy vừa thưa: “ Hiện nay trong triều, thật ra thị phi khó định, quan trường toàn là việc tối tăm tham ô hủ bại, đánh mất lòng dân đã lâu. Nếu ngài thẩm vấn giả như tìm ra tội của phạm nhân thì cũng nên đau lòng cho họ, thương họ không biết đạo lý, lầm phạm pháp luật, không nên vì đó mà vui mừng. Nếu như có tâm vui thích tìm ra tội trạng của phạm nhân, e sẽ dễ đưa đến xử án thiếu sót sai lầm. Nếu như ngài quá nóng giận đánh đập tra khảo, e rằng phạm nhân do không chịu nổi sẽ nhận tội bừa, làm oan uổng người ta. Ngay cả ưa thích tìm ra tội trạng của phạm nhân còn không được, huống chi là nổi giận sao?,,.
Quan huyện nghe xong lời nói của Dương Tự Trừng vô cùng cảm động, lập tức dịu sắc mặt, hạ cơn giận xuống.
Dương Tự Trừng gia cảnh rất nghèo xong có người đem biếu cho món gì ông đều không nhận. Gặp khi tù phạm đói khát, ông thường tìm cách kiếm thức ăn biếu cho họ. Một hôm, có vài tù nhân mới đến, vì đường xa không có ăn uống nên vô cùng đói khát. Lúc đó, nhà ông lại thiếu gạo, nếu đem đến cho tù nhân thì người nhà sẽ phải chịu đói. Nếu chỉ lo cho mình thì những tù nhân này đói khát thật đáng thương. Không còn cách nào khác, ông bèn bàn cùng vợ đem số gạo trong nhà ra nấu cháo cho họ cùng ăn. Về sau, hai người sinh được hai đứa con trai, đứa lớn tên Thủ Trần, đứa nhỏ tên Thủ Chỉ, đều làm quan đến chức Nam Bắc Lại bộ thị lang. Cháu nội lớn làm đến chức Hình bộ thị lang. Cháu nội nhỏ cũng làm đến chức Tứ Xuyên án sát sứ. Hai người con, hai người cháu đều là những quan lớn nổi tiếng. Hiện nay có hai danh nhân là Sở Đình và Đức Chánh đều là dòng dõi con cháu của Dương Tự Trừng .
3. Vào khoảng năm Chánh Thống vua Anh Tông triều Minh, có một người lãnh đạo thổ phỉ tên là Đặng Mậu Thất làm phản ỏ tỉnh Phúc Kiến. Kẻ sĩ và dân chúng nơi đó đi theo rất đông. Triều đình bèn sai Trương Khải người huyện Ngân làm chức Đô ngự sử đi dẹp loạn. Trương Khải dùng kế bắt được Đặng Mậu Thất. Sau đó họ Trương lại phái Tạ Đô Sự làm chức Bố ty chánh tỉnh Phúc Kiến đi tróc nã những người tòng đảng. Nếu bắt được liền giết. Nhưng Tạ Đô Sự không chịu giết càn, sợ giết lầm người. Ôn bèn cho đi tra tìm danh sách thổ phỉ, điều tra ra nếu không phải là tòng đảng, trên danh sách không có tên, đều ngầm đưa cho họ một lá cờ trắng và hẹn rằng, khi quan binh đến tra xét thì treo lá cờ trắng đó trước cửa, chứng tỏ mình là lương dân vô tội. Đồng thời ông cũng cấm các quan binh không được giết bừa. Nhờ biện pháp đó, có đến hàng vạn người tránh khỏi bị giết. Về sau, con trai của Tạ Đô Sự là Tạ Thiên thi đậu trạng nguyên làm quan đến chức Tể Tướng. Cháu nội của ông là Tạ Phi cũng thi đậu Thám hoa, tức Tiến Sĩ hạng ba.
4. Trong huyện Bồ Điền tỉnh Phúc Kiến có nhà họ Lâm. Trưởng bối của họ có một bà cụ thích làm việc thiện, thường dùng bột mỳ làm bánh biếu cho người nghèo. Chỉ cần có người mở lời xin, bà liền biếu ngay, không chút do dự. Có một vị đạo sĩ mỗi sáng đều đến xin bà sáu bảy cái bánh. Bà lão cho suốt ba năm chưa hề có lời phiền hà. Đạo sĩ biết bà có thành tâm làm việc thiện nên bảo: “ Tôi ăn bánh của bà suốt ba năm, không biết làm sao để đáp ơn này? Sau nhà có miếng đất trống, nếu sau khi mất, bà có thể an táng tại nơi đó, sau này con cháu nhất định sẽ có quan tước, nhiều như một đấu mè,,.
Về sau bà lão qua đời, người con y lời đem chôn mẹ mình ở nơi đạo sĩ nói. Không ngờ một đời nhà họ Lâm thi đậu có đến chín người. Sau này con cháu làm quan nhiều đời, số lượng rất nhiều. Do đó, tỉnh Phúc Kiến truyền tụng câu nói: “ Nếu không có họ Lâm đi thi thì không thể có người trúng tuyển,,. Ý nói, người họ Lâm đi thi nhiều, đậu cũng lắm.
5. Cha của Thái sư Phùng Trác Am lúc làm tú tài ở trường huyện, vào một buổi sáng trời mùa đông vô cùng lạnh lẽo, ông đang trên đường đi đến trường, bỗng trông thấy một người nằm ngã trên tuyết, lạnh cóng sắp chết. Phùng tiên sinh liền cởi áo khoác của mình ra mặc cho người đó và đưa về nhà cứu giúp cho tỉnh lại. Sau đó, Phùng tiên sinh nằm mơ thấy một vị thiện thần bảo: “ Người cứu một mạng người hoàn toàn xuất phát từ tâm chí thành cho nên ta phái Hàn Kỳ đầu thai làm con trai nhà ông,,.
Về sau, Trác Am sinh ra, được đặt tên là Phùng Kỳ. Thì ra, Phùng Kỳ vốn là một vị Tể tướng văn võ toàn tài triều Tống tên Hàn Kỳ tái sinh.
6. Ở Đài Châu Triết Giang có một vị quan Thượng Thư tên là Ứng Đại Do. Ông thưở còn trẻ từng ở trong núi tự học. Nơi đây ban đêm thường có loài quỷ tụ tập kêu gào, mọi người đều sợ không dám ở, song Ứng Đại Do lại không sợ. Một đem nọ, ông nghe hai con quỷ nói chuyện. Một con quỷ bảo: “ Có một phụ nữ chồng đi xa đã lâu chưa về. Cha mẹ chồng cho là con trai mình đã chết nên ép người con dâu đi cải giá. Song cô này lại muốn thủ tiết không chịu nên định tối mai đến đấy thắt cổ tự tử. Như vậy tôi có thể tìm ra người thay thế,,.
Ứng Đại Do nghe được lời này, khởi lên tâm cứu người nên ngầm bán đi miếng ruộng của mình được bốn lạng bạc, vội viết một lá thư giả làm con trai của gia đình đó, cùng với số bạc gửi đến nhà. Gia đình tuy xem xong bức thư, tuy chữ viết không phải của con mình nhưng số bạc là thật nên cuối cùng bán tín bán nghi, vẫn hy vọng con mình còn sống và không ép con dâu cải giá nữa. Về sau con trai của họ quả nhiên trở lại, vợ chồng hòa hợp như xưa.
Lại nói, do Ứng Đại Do sau khi cứu người phụ nữ đó xong, đêm sau ông nghe con quỷ đó nói: “ Tôi đáng lẽ có thể tìm được người thế thân, không ngờ lại bị gã tú tài này làm hỏng chuyện!,,. Con quỷ bên cạnh bảo: “ Sao mày không hại chết tên đó!,,. Con quỷ đó trả lời : “ Vì tâm người này tốt, làm nhiều điều thiện, âm đức rất lớn nên được thiện thần ngày đêm bảo hộ, làm sao mà hại hắn được!,,.
Ứng công sau khi nghe hai con quỷ nói lại càng nỗ lực phát tâm lành, công đức cũng ngày một sâu dày. Khi gặp năm mất mùa đói kém, ông đều bố thí cơm gạo cứu người. Gặp khi thân thuộc có nạn gấp, ông nhất định tìm cách giúp người qua cơn khó khăn. Khi gặp phải oan gia hay việc bất như ý, ông đều tự xét lại mình, tâm bình khí hòa chấp nhận mọi việc. Nhờ đó, con cháu của Ứng công nhiều người được công danh quan vị, mãi đến ngày nay vẫn còn.
7. Huyện Thường Thục, tỉnh Giang Tô có một vị tiên sinh tên là Từ Phụng Trúc, cha của ông vốn rất giàu có. Gặp năm mất mùa đói kém, ông đều không lấy thuế ruộng của tá điền. Điều này đã khiến các địa chủ khác học theo. Ngoài ra, ông còn đem lúa gạo cứu giúp người nghèo đói. Một đêm, ông nghe có tiếng quỷ xướng lên trước cửa: “ Ngàn lần không sai, vận lần không sai, tú tài nhà họ Từ sắp thi đậu cử nhân”.
Đêm nào cũng có tiếng như thế vang lên trước cửa. Năm đó, Từ Phụng Trúc đi thi Hương, quả nhiên đỗ được cử nhân. Cha của ông nhân đó rất vui, càng nỗ lực làm các việc thiện, tích chứa công đức. Ông thường làm việc xây cầu, đắp đường, trai tăng, cúng dường Tam Bảo…Gặp người nghèo khó cơ nhỡ, ông đều ra tay cứu giúp. Sau đó, ban đêm ông lại nghe có tiếng quỷ thần kêu trước cửa: “ Ngàn lần không sai, vạn lần không sai, cử nhân nhà họ Từ làm quan đến Khâm Sai’’. Sau này, Từ Phụng Trúc quả nhiên làm đến chức Khâm sai tuần phủ miền Triết Đông và Triết Nam thuộc tỉnh Triết Giang.
8. Huyện Gia Hưng tỉnh Triết Giang có một vị họ Đồ, tên là Khang Hi. Buổi ban đầu giữ chức chủ sự bộ hình thường vào trong ngục điều tra xét hỏi cặn kẽ phạm nhân. Nhờ vậy ông phát hiện ra nhiều vụ án oan khuất. Ông không tự lấy làm công lao của mình mà viết sớ mật trình lên quan Trưởng bộ hình. Về sau, các án tích đều được đưa về triều xét lại. Quan Trưởng bộ hình dựa vào các tài liệu do Đồng công cung cấp, tra hỏi xét xử lại giải oan được cho hàng chục người mà trước đây vì chịu không nổi nhục hình đã khai nhận, song thực chất là vô tội.
Lúc đó, dân chúng trong kinh thành đều khen quan Trưởng bộ hình sáng suốt minh xét. Sau đó, Đồ công lại dâng lên một bức tấu trình, thưa rằng: “ Dưới chân thiên tử còn có nhiều người bị oan khuất như vậy, huống chi là cả nước rộng lớn, làm sao mà không có người bị oan khuất> Vì vậy, xin kiến nghị mỗi năm phái một vị giảm hình quan đi các tỉnh tra xét kỹ lại sự thật của các vụ án. Nếu quả như có tội thì định tội cũng phải công minh; còn như oan khuất, nên xét xử lại, giảm nhẹ hay tha bổng”.
Quan Trưởng bộ hình bèn thay ông dâng sớ điệp đó lên vua. Vua phê chuẩn cho lời kiến nghị của ông bèn phái giảm hình quan đến các tỉnh để thẩm tra. Đồ công cũng ở trong đoàn thanh tra đó.
Một hôm nọ, Đồ công nằm mơ trông thấy một vị thần đến bảo: “ Mệnh của ông đúng ra không có con trai, song nhờ ông nêu ra cách giảm hình án hợp với lòng trời lòng người nên ông sẽ có ba người con trai, sau này đều làm quan lớn,,.
Không bao lâu sau, vợ của ông lền có mang. Về sau sinh ra Ứng Vẫn, Ứng Khôn, Ứng Tuấn đều làm quan lớn.
9. Có một vị người Gia Hưng, tên Bao Bằng, hiệu Tín Chi. Cha của ông từng làm Thái Thú của phủ Trì Châu, tỉnh An Huy, sinh ra bảy người con trai, Bao Bằng là con út. Ông vào ở rẻ nhà họ Viên huyện Bình Hồ, thường qua lại với ông nội con, giao tình rất thân. Học vấn của ông uyên bác, tài năng rất cao nhưng nhiều lần đi thi đều không đỗ nên chán chuyện khoa bảng mà chuyên tâm nghiên cứu đạo Phật.
Một hôm, ông đi chơi ở Mão Hồ, tình cờ trông thấy trong một ngôi chùa ở làng nọ, vì tường chùa hư hại nên tượng Quán Thế Âm trở nên trơ trọi lộ thiên, dầm mưa loang lổ. Lúc đó, ông móc hết tất cả các túi ra, có tất cả là mười lạng bạc liền đem cúng cho vị trụ trì, nhờ tu sửa gian nhà thờ đức Bồ Tát Quán Thế Âm. Trụ trì nói với ông: “ Sửa chùa là công trình lớn, tiền ít e không đủ dùng, khó mà hoàn thành”.
Nghe vậy, ông lại lấy bốn xấp vải quý sản xuất tại Tùng Giang và mở hòm lấy ra bảy chiếc áo mới đưa hết tất cả cho vị trụ trì để bán lấy tiền phụ thêm vào việc tu bổ chùa. Người làm có ý tiếc, ngăn cản lại. Nhưng Bao Bằng bảo: “ Chỉ cần tượng Đức Bồ Tát Quán Thế Âm không bị mưa ướt, thì thân này dù có cởi trần cũng không sao!’’.
Trụ trì nghe xong rơi lệ bảo: “ Cúng dường tiền, vải, áo quần không phải khó. Nhưng thành tâm đến mức này thật là hiếm có!,,.
Sau khi điện thờ Quán Thế Âm Bồ Tát được sửa xong, Bao Bằng có đưa cha mình đến nơi đó thăm và ở lại trong chùa. Đêm đó, Bao Bằng nằm mộng, trông thấy Hộ Pháp trong chùa đến cám ơn, bảo: “ Ông làm được công đức này, con cháu nhiều đời của ông sẽ được quan chức, phú quý!,,
Về sau, con của ông là Bao Biện, cháu là Bao Thánh Phương đều thi đậu Tiến sĩ, làm quan lớn.
10. Huyện Gia Thiện, tỉnh Triết Giang có một người tên là Chi Lập. Cha của ông làm chức Thư biện trong phòng hình sự huyện nha. Có một phạm nhân bị hại, mắc tội oan, bị phán quyết tử hình. Thư biện họ Chi thấy tội nghiệp, tìm cách xin quan trên giảm tội chết cho người đó. Người đó biết được lòng tốt của ông, bèn bảo với vợ: “ Chi công có lòng tốt muốn giải oan cứu sống ta, thực lấy làm hổ thẹn là ta không có gì báo đền ơn đức đó được. Ngày mai, bà hãy mời ông ta về nhà, xin làm thiếp hầu hạ ông. Ông ta nếu cảm động trước ân tình này thì tôi sẽ có cơ hội được sống,,.
Vợ của phạm nhân nghe xong, không có cách nào, chỉ đành vừa khóc vừa nhận lời. Đến hôm sau, khi mời Chi Thư biện về nhà, vợ của phạm nhân ra mời Thư biện uống rượu và đem ý chồng mình ra nói với ông. Nhưng Thư biện đã kiên quyết từ chối.
Song ông vẫn đem hết khả năng của mình ra tranh biện cho phạm nhân. Cuối cùng, vụ án được giải oan, trả lại công bằng cho người phạm nhân bị oan. Sau đó phạm nhân ra ngục, vợ chồng hai người đến nhà Thư biện lạy tạ bảo: “ Ngài có đức độ sâu dày như vậy, hiện nay thật hiếm có. Nay ngài không có con trai, tôi xin dâng đứa con gái đến làm thiếp, lo việc hầu hạ trong ngoài. Về tình về lý không có gì quá đáng”.
Chi Thư biện nghe lời, chuẩn bị lễ vật, rước người con gái đó về làm thiếp, sau này sinh được một người con trai tên Chi Lập, mới hai mươi tuổi đã đỗ đầu cử nhân, làm quan đến chức thư ký Hàn lâm viện. Sau này, con của Chi Lập là Chi Cao, con của Chi Cao là Chi Lộc đều làm quan đến chức giáo thọ trường huyện. con của Chi Lộc là Chi Đại Luân cũng thi đậu Tiến Sĩ.
Nguồn:
TÍCH PHÚC CẢI MÊNH - P4 | Facebook