Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ

Dành cho thành viên giao lưu, kết bạn, buôn chuyện
Hình đại diện của thành viên
Nhất Niệm
Cửu đẳng
Cửu đẳng
Bài viết: 11610
Tham gia: 07:52, 12/12/10
Đến từ: Việt Nam

TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ

Gửi bài gửi bởi Nhất Niệm »

baochinh87 đã viết:hello chị N :D
Chào em!

Gà Toi hay Baochinh đó ;;)

Hình đại diện của thành viên
Nhất Niệm
Cửu đẳng
Cửu đẳng
Bài viết: 11610
Tham gia: 07:52, 12/12/10
Đến từ: Việt Nam

TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ

Gửi bài gửi bởi Nhất Niệm »

Câu chuyện này hay ghê :) Các em đọc cho vui nhé :)
Đôi Mắt Di Đà

Tôi có một người dì lấy chồng Chệt Quảng Đông. Dì sanh hai con, một trai và một gái. Trai tên Phá Lường (Hoa Lương), gái tên là Phá Lục Lìn (Hoa Ngọc Liên). Dượng rể tôi làm tài phú cho một chành lúa ngoài Cầu Dài, đối diện với Chợ Cá tỉnh Vĩnh Long, cách chợ bởi dòng rạch Long Hồ... Dì tôi là cô trưởng nữ, má tôi là cô gái út cách nhau mười bảy tuổi. Khi má tôi sanh ra tôi thì anh Lường của tôi bắt đầu đi hỏi vợ...

Chị Lìn thì mới sanh ra đời đã ngu khờ, câm điếc. Ba tôi khuyên dượng tôi nên đưa chị đi lên trường câm điếc ở Lái Thiêu, nhưng dì tôi không đành lòng. Người điếc thì không nghe tiếng thị phi, lại còn câm thì chẳng mắc khẩu nghiệp... Chị Lìn tôi đẹp, thần sắc rạng rỡ như gương. Má tôi xót xa cho phận cháu, nên lãnh chị Lìn về nhà dạy chị thêu đan, làm bánh, đem hết tài khéo léo để truyền cho cháu, hai chị tôi ít giống má tôi bằng chị Lìn... Nếu trời ban cho thần thái chị sáng láng, trong trẻo, thì lại ban cho má tôi tài ăn nói, tài nhứt hô bá ứng. Bởi đó, bà làm cho bên chồng phải nể nang, ba tôi phải khiếp phục, vì bà “hoàn toàn” quá, cư xử hợp tình, hợp lý, miệng dù có cười mà ánh mắt thật oai nghiêm.

Nhà chúng tôi ở gần Đình Khao. Từ Cầu Dài, ven theo sông Cổ Chiên đi thêm hai cây số là tới ngôi nhà từ đường của ba tôi. Nhà gồm năm căn rộng, phía sau, cách cái sân lót gạch tàu là dãy hậu viện, nhà bếp, có hai dãy bên hông nối liền với dãy nhà trên... Khi tôi lớn lên ông nội, bà nội tôi qua đời. Ba má tôi có căn buồng phía trái (từ ngoài nhìn vào). Ông anh kế tôi chiếm căn buồng bên mặt. Hai chị tôi có một căn ở dãy hậu viện. Còn chị Lìn thì có căn buồng hẹp gần nhà bếp. Còn tôi, năm đó mới lên tám, không được ngủ chung với mẹ, phải ở chung buồng với ông anh kế, hễ tôi lỡ làm ảnh phật ý ảnh, ảnh cứ hăm đợi tôi ngủ, khiêng tôi bỏ ra ngoài vườn cho ma xé xác...

Chị Lìn lớn hơn tôi mười tuổi, hiền hậu, học thêu đan làm bánh kiên nhẫn, khéo léo. Mỗi khi dì dượng tôi tới thăm, má tôi than:

- Em có thể dạy con Lìn tài làm khéo, chớ làm sao dạy nó chuyện đạo lý được? Đây rồi rủi nó lỡ dại bị tụi ác ôn dâm tặc làm ẩu... thì biết sao đây? Nó thanh cao trong trắng như bông sen, lại khờ khạo có hiểu phải trái ra sao, nếu lỡ mang bầu, mang cái thứ tạp chủng trong bụng thì...

Má tôi rưng rưng nghẹn lời, không dám nói tiếp, không dám vẽ thêm ác mộng...

Dì tôi lấy khăn chậm nước mắt, mà nước mắt cứ tuôn:

- Chị van vái trời Phật cho nó một là đi tu được, còn hai là có thằng nào hào hiệp chịu đi cưới nó, chị sẽ ăn chay trường.

Sau nầy, chị Hai, chị Ba tôi kể lại, vừa khi chị Lìn bắt đầu có kinh nguyệt, mỗi tháng má tôi bắt chị phải trình đồ lót cho bà xem. Đồ lót đó thường ngâm trong chiếc vịm sành, ra nước đỏ ối. Má tôi sợ chu kỳ đỏ hằng tháng của chị Lìn lỡ bặt ngang thì đổ nợ ra...

Điều má tôi sợ vậy mà ứng nghiệm hai năm sau.

Tôi thương yêu chị Lìn của tôi như thương yêu bà mẹ thứ hai của mình. Những lúc tôi lầm lỗi, chọc ba tôi nổi sùng là roi mây ông quất tôi túi bụi. Những lúc đó chị Lìn liều mạng giựt roi ông, bằng không chị nai lưng ra hứng... Sau đó, khi kéo tôi ra nhà sau, chị cởi áo, cởi quần tôi ra, lấy dầu phọng xức lên lằn roi, vừa xức vừa khóc tầm tã... Tuy nhiên, chị không phát biểu một cử động nào để “nói” với tôi. Chị kéo tôi vào phòng chị, cho tôi xem những bức tranh chị đã thêu, những mặt gối, những chiếc khăn tay... Tôi không ưa những thứ đó, nhưng phải chăm chú xem cho chị vui lòng.

Và cũng một hôm tôi làm bể chiếc dĩa vẽ mai hạc của ba tôi. Sợ ăn đòn, tôi trốn vào buồng chị Lìn.

Chị ngồi ở khung cửa sổ, mắt chăm chú nhìn qua bên kia con rạch, nhà chú Tám xưởng mộc. Thợ mộc về buổi chiều, sau khi nghỉ việc, xúm xít ở sàn nước, lấy gáo sọ dừa, lấy gàu tre múc nước tắm. Thiệt ra khuôn viên nhà tôi có bọc một lớp rào tre. Nhưng vào năm 1945, phong trào thanh niên Tiền Phong nổi lên. Tre, tầm vông đều đốn, vạt nhọn để làm khí giới, nên rào tre trở nên thưa, bên nầy và bên kia có thể trông thông thống lẫn nhau.

Má tôi quên dời buồng chị Lìn, có lẽ vì mắc nhiều công chuyện nên bả quên việc đề phòng cơ bản đó chăng?. Lúc đó trời hơi nhá nhem. Nhưng ánh trăng mọc sớm cũng đủ rọi từng tấm thân thể trần trụi vạm vỡ đẫm nước, lấp lánh ánh bạc. Tôi táy máy thắp ngọn đèn hoa-kỳ đặt trên bàn kê gần cửa vô. Chị Lìn không bằng lòng, thổi tắt đèn. Dù sao, tôi vẫn thấy rõ mắt chị sáng kỳ dị, đôi má rạo rực, vẻ mặt bất an...

Tuần sau, là ngày tựu trường. Anh tôi phải qua Mỹ Thọ học trường Trung học. Còn hai chị tôi cũng lên Sài gòn, chị Hai học nữ công ở trường Mỹ Ngọc, chị Ba học trường Áo Tím... tôi quên mất cử chỉ kỳ lạ của chị Lìn dần dần...

Ba tôi có nuôi con chó Vá mình trắng đốm đen. Chị em tôi có vẻ lơ là với nó, trong khi đó chị Lìn săn sóc nó chu đáo. Má tôi thấy ba con chó Vện đực ở lối xóm mà đâm ra lo cho cái cô chó mỹ miều của mình. Cứ vào gần tháng 7 là bà buộc nó trong nhà, sợ nó lẹo tẹo với ba con đực Vện xấu xí mà đẻ con lộn giống chăng? Chó cái rượng đực mà bị xiềng trong nhà cứ tru, cứ hú thảm thiết quá, nên tôi lén thả nó ra. Lứa chó con năm ngoái chỉ có một con cò, còn toàn là năm con Vện con. Má tôi cho hết lũ Vện nhỏ, chừa con chó cò thì đem tặng dì Hai tôi. Gần lối tháng năm, lườn sông, lòng rạch quê tôi đã có đầy ốc hến, thì con Vá của tôi có một chứng bịnh gì không biết mà mõm nó có nổi hai cục mụt lớn cỡ hột trai ửng màu hường. Má tôi lấy thuốc đỏ, thuốc pô-mat lưu huỳnh xức cho nó mà hai mụt ghẻ ấy không chịu lặn. Tuy nhiên, chị Lìn của tôi vẫn săn sóc, tắm rửa nó đều đặn như tự bao giờ.

Một bữa trưa, tôi vào vườn hái ổi rồi đem ổi vào buồng chị Lìn để tặng chị. Tôi đi từng bước nhẹ, đẩy cửa nhẹ vào căn phòng đã mở rộng cửa sổ và chan hòa ánh nắng. Chị Lìn ngồi ở chiếc ghế đặt bên cửa sổ, ngó trân trối qua bên kia con rạch. Ba anh thợ mộc trẻ cũng nhìn chị như muốn đấu nhãn. Chợt thấy tôi xuất hiện sau lưng chị, họ bỏ vào trong xưởng. Ba anh thợ mộc này ở miệt Cái Sơn Lớn hay An Hương, Hòa Mỹ gì đó lên đây học nghề từ bốn tháng nay.

Trai tráng ở miệt ruộng vườn thì thường có bắp chân chắc, đùi to. Nay làm nghề thợ mộc, họ đều có ngực nở, tay cuồn cuộn bắp thịt. Tôi không để ý lắm khuôn mặt của họ, chỉ biết anh nào cũng có vẻ láu lỉnh. Vào những đêm trời trong, trăng tỏ, họ lấy đờn kìm ra dạo, rồi thay phiên nhau ca vọng cổ mùi mẫn... chị Lìn dù không nghe được gì, nhưng đêm trăng cùng mùi dạ lý thường làm chị bứt rứt, xốn xang.

Một hôm, dì tôi từ Cầu Dài lội bộ xuống thăm, mặt mày lo lắng. Má tôi cùng dì vào buồng chị Lìn đóng cửa lại. Có tiếng ghế xô ngã. Tôi chạy lại áp tai vào vách ván. Má tôi can:

- Bây giờ làm sao ngăn ngừa là tốt hơn. Nó có biết nghe, biết nói gì đâu. Lỗi tại em ráo trọi.

Dì tôi vẫn vừa tát con gái vừa rên rỉ:

- May mà nó câm, nó điếc. Nếu nó “được” như người thường thì nó còn đĩ ngựa giàn trời mây.

Chị Lìn lí nhí rồi khóc hu hu. Tôi còn nhỏ chẳng hiểu gì hết. Sau buổi trưa đó, chị Lìn tỏ ra ghét bỏ con Vá. Nó cứ đứng ngoài rào tre sủa luôn. Có đêm, tôi đang ngủ mơ màng thì nghe con Vá sồ ra sủa thật hăng và hình như nó đâm bổ vào một vật gì để cắn xé. Rồi thì tiếng chân chạy thịch thịch ngoài hè. Tôi nhảy xuống giường. Con Vá rượt đuổi một ai đó về phía rạch. Quả nhiên có nhiều tiếng lỏm bỏm lội qua rạch. Trời đêm tối thui.

Má tôi chợt hiểu nên bắt chị Lìn dời buồng và cho rào chặt dọc theo rạch. Vậy mà có lần tôi cầm ná thun đi bắn chim trong khu vườn làng, tức là vườn thuộc về chính quyền địa phương, không ai săn sóc. Đi sâu vào chỗ trồng toàn cây dâu miền dưới, tôi đã gặp chị Lìn trong bụi rậm đi ra, tóc tai xụ xọp, áo hơi nhèo, chiếc nút ở gần cổ quên gài... Chợt thấy chị từ xa, tôi nép vào đám cỏ song chằng để trốn. Chị men theo con đường mọc lau cỏ rồng chắn đi về phía bờ sông... Mãi một lúc sâu, có tiếng hút gió từ trong bụi rậm tiến về phía tôi. tôi càng giấu mình thật kỹ. Trời ơi, té ra ba anh thợ mộc trẻ, ở trần trùng trục, quần xà lỏn sơ sài... Tôi biết là họ đã làm chuyện ám muội với chị Lìn tôi, nhưng không thể tưởng tượng sự ám muội ra sao. Tôi sực nhớ cái hôm dì tôi vừa đánh vừa chửi chị Lìn, đoán mang máng là sự việc hôm đó cũng liên quan với sự việc hôm nay chớ chẳng không.

Chị Lìn có chửa. Chị Lìn ôm hoang thai.

Phong trào thanh niên Tiền Phong cùng Việt Minh lên nắm chánh quyền đã lôi kéo ba anh trai tơ ra khỏi xưởng mộc. Họ đi đâu biệt tăm, biệt tích. Những cái miệng độc ác đổ hô ba tôi là tác giả cái bào thai chị Lìn. Nhưng tụi chăn trâu, tụi con nít lại quyết chắc thủ phạm là ba anh thợ mộc vì chúng đã bắt gặp cả bốn trong vườn làng. Dì tôi than thở với má tôi:

- Thằng tía nó, thằng tài phú Phá Cẩm Xạch (Hoa Kim Thạch) đó, cũng bởi hắn ta lường tro đãi trấu mới có đứa con gái báo đời. Con nhỏ mặt mũi ngây ngô như vậy mà dám “thiếm xực” một hơi ba trự. Biết ai là cha đứa nhỏ đây? Con gái tui khờ khạo mà sao Trời đành cho nó mang cái thứ tạp chủng trong bụng vậy cà?

Má tôi nói:

- Chị à, nó có biết cái gì là phải, cái gì là trái đạo lý luân thường đâu ? Hoặc cái gì là điếm nhục gia phong đâu ? Thôi thì mình phải chịu nuôi con giùm nó, để sau nầy nó có chỗ nương tựa lúc tuổi già. Coi vậy chớ lẩm rẩm cái may thì luôn luôn nằm trong cái rủi đó chị.

Dần dà, tôi mới hiểu tại sao dì tôi đánh và chửi chị Lìn tôi vào bữa trưa. Số là má tôi đã bắt gặp chị mấy lần lảng vảng trước xưởng mộc, mắt ngó lấm lét vào bọn thợ trẻ. Má tôi đã nhấn mạnh, mắt tuy lấm lét, nhưng là mắt mời, mắt gọi, mắt đẩy đưa của con Thị Mầu... Nhưng có ai nhét được vào đầu óc chị Lìn tôi rằng liếc trai như vậy là bậy, là xấu ?

Làm sao chị hiểu được cái giáo dục dành cho phụ nữ phải như thế nào? Chị tới tuổi thèm khát yêu, yêu đơn giản như con chó Vá cái đi tìm ba con chó Vện đực. Không ai dạy chị liếc, dạy chị tạo cặp mắt mời gọi, đẩy đưa hết. Chị chỉ làm theo bản năng, hoặc có thể được, theo cái trực giác thâm sâu của mình. Vậy mà khi khám phá được chị có thai, dì tôi chồm tới, nghiến răng, ghịt đầu chị, nguyền rủa:

- Con đĩ thúi thây lầy lụa!

Làm sao chị nghe được mấy tiếng đó ? Chị ngơ ngác như tự hỏi tại sao mình bị đòn, bị ghịt tóc ? Chị không hiểu gì hết. Dì tôi vừa tát chị vừa chỉ cái bụng chị, có thể chị hiểu tại có cái biến chuyển trong bụng chị nên chị bị đòn, nhưng chắc chị vẫn không hiểu tại sao người ta có thể đánh người khác về cái biến chuyển đó ?

Nét mặt trong sáng, ánh mắt loáng gương và hiền dịu của chị hiện rõ vẻ hãi hùng, bi thảm như ánh mắt đứa trẻ thơ bị xô ngã. Chị Lìn tôi chỉ thông minh (tuyệt vời là khác) khi ngó qua đường kim mũi chỉ do má tôi dạy là chị có thể làm y chang. Nhưng về thói đời, về phong hóa, lề thói, lễ giáo chị mù tịt. Dì tôi đã thấy ba anh thợ mộc trẻ là quân thô tục... Cũng như ba con chó Vện đực kia, dưới nhãn quan má tôi quá xấu xí. Chị Lìn không thấy những gì xấu mà dì tôi đã thấy ở ba anh thợ mộc. Con chó Vá cái dĩ nhiên là hoàn toàn không cùng một ý nghĩ về cái đẹp xấu của loài chó đực như má tôi nên nó luân phiên hết giao hoan từ con Vện thứ nhất, sang tới Vện thứ ba..

Đó là những ý nghĩ khi tôi lớn lên, lúc đó chị Lìn đã qua đời khá lâu. Hôm chị bị đòn, tôi nhào tới để hứng đòn cho chị, cũng như chị đã từng hứng đòn cho tôi. Tôi khóc tối trời mù đất, cảm thấy cuộc đời, không riêng gì dì tôi sao có thể tàn nhẫn như vậy? Dì tôi thật ra chẳng phải muốn đánh con mình, dì muốn đánh cái bất hạnh của mình dù nó đã thể hiện qua đứa con tàn tật. Đánh xong, dì tôi khóc ngất.

- Thà trời đày tôi xuống chín tầng địa ngục mà cho con Lìn nói được, nghe được, để nó hiểu cái gì phải, cái gì trái.

Chị Lìn vẫn ở nhà chúng tôi chớ không về Cầu Dài. Dì tôi không muốn ở chỗ buôn bán đông người mà chị lại mang cái bụng chửa bẹo hình bẹo dáng thiên hạ. Khi mùa mưa thoảng xa thì nước dòng sông Cổ Chiên xanh trong. Cây điều, cây lụa trong vườn nẩy lá non mỏng, tươi ngăn ngắt, đọt chiết phớt hồng, đọt lùa màu lá mạ. Hôm chị Lìn lặt lá bốn cây mai trong sân thì anh tôi ở Mỹ Tho cùng chị Hai, chị Ba tôi ở Sài gòn hẹn tháp tùng về nhà ăn Tết.

Không ai tỏ vẻ gì trước biến cố của chị Lìn. Anh chị thường xem sự hiện diện của chị Lìn như không có, từ bao lâu họ thỏa hiệp (có thể coi là quen thuộc) bóng dáng cần mẫn và yên lặng của chị Lìn vì chị Lìn không làm phiền lụy ai, luôn luôn làm lụng tận tụy, gương mặt tươi tỉnh, thản nhiên, cái nhìn lúc nào cũng trống vắng, vô hồn. Má tôi yêu chị Lìn như yêu một tác phẩm của mình. Sự hiện diện của chị Lìn làm bà vung vải được tấm lòng từ bi nhân đạo của mình. Mới khi nhìn những mũi thêu tinh vi của chị trên nền vải lụa, bà tỏ vẻ hả hê vì mình đã ra công biến cải một con ngốc nghếch, tàn tật thành “một kẻ không đến nỗi nào”.

Có thể là cha tôi si tình chị Lìn tôi, đôi lúc tôi thấy ông nhìn chị hơi lâu, lúc má tôi vắng nhà. Năm đó ông đã ngoại tứ tuần, còn tươi, còn rắn chắc. Nhưng vốn cầu an, quen sợ nể vợ nhà, lại không thích chuyện phiền phức nên ông không thích làm chuyện phiêu lưu đó thôi. Ông đành chọn vị trí người dượng rể, vui trong sự săn sóc và hiện diện cả dì lẫn cháu.

Còn tôi, tôi yêu thương chị như một bà mẹ thứ hai. Lúc tôi bị đòn, lúc tôi buồn là luôn luôn có chị. Những lúc đó, chị đến bên tôi nhẹ nhàng xoa đầu tôi, đôi mắt không còn trống rỗng nữa, cái nhìn buồn và “có hồn” hơn.

Khi chị qua đời, suốt quãng đời hoa niên của tôi, cái bóng ma và cuộc đời chị ám ảnh tôi không ngớt. Tôi cứ tự hỏi chị Lìn tôi hiểu cuộc đời như thế nào? Chị nhìn cuộc đời như nhìn qua một cuốn phim câm. Cả nhà dì dượng tôi, cả nhà tôi ai cũng làm biếng khoa chân múa tay để trao đổi ngôn ngữ tay chân với chị, dù có vung vít hoạt động song đó vẫn là ngôn ngữ câm thì làm sao để chị hiểu trọn vẹn?

Bộ óc của chị do đó mà lười hoạt động, cái nhìn thường trống vắng, vô hồn. Phải chi chị được học ở trường câm điếc, chị có một ngôn ngữ riêng để trao đổi với bạn bè đồng cảnh ngộ thì tâm hồn chị sẽ phong phú hơn.

Nhưng dù ba anh thợ mộc vốn “phường tạp chủng”, đen điu thô bạo, kệch cỡm (theo quan niệm của má tôi) lại chơi trò đoản hậu đánh trống bỏ dùi, nhưng họ đã nhóm trong mắt chị một ánh sắc rạng ngời hơn, truyền cảm hơn. Cái nhìn của chị không còn vô hồn nữa. Chị có vẻ suy nghĩ hơn, có vẻ buồn rầu uể oải hơn. Mỗi chiều chị men về dòng rạch, ngó qua xưởng mộc, nước mắt chị ứa ra, ướt đẫm má.

Hai mụt ghẻ trên mõm con chó Vá không chịu lặn mất. Rồi tuần tự những mụn ghẻ nối tiếp mọc lên kết thành một miếng dày nổi cộm tròn tròn, miếng thịt quái ác lớn dần thành một bàn tay.

Dù nó không chảy nước vàng, nhưng trông nó dễ khiếp. Má tôi sau một thời gian suy nghĩ, bà nhất định cột đá vào cổ con chó, chở nó bằng xuồng ra sông Cổ Chiên để bỏ nó chìm luôn trong đáy nước.

Hôm “thủy táng” con chó chỉ có chị Lìn và tôi. Nước lớn đầy sông, sóng vỗ ào ào, nhưng trời lại ngập tràn nắng đẹp. Con chó ngồi gần tôi, thỉnh thoảng liếm vào tay tôi... và trời ơi, trời đất ơi! Nước mắt nó chảy ròng ròng, dù tôi chưa tròng vào cổ nó cái bị có đựng cục đá xanh thật lớn. Khi tới giữa sông, tôi vừa khóc vừa tròng cái bị vào cổ con chó, nó không giẫy dụa gì hết, chỉ ngoắc đuôi.

“Um” một tiếng, con chó và cái bị đựng cục đá quăng vào nước. Sóng lấp xấp tràn tới xóa mọi dấu vết. Hình ảnh ghê tởm đã được con sông chôn vùi. Chị Lìn vừa bơi xuồng về bến nhà vừa khóc nức nở.

Sau buổi thủy táng đó, tôi bị trúng gió (có thể như vậy chăng?) ngã bịnh liệt giường. Trong những cơn mê, tôi thấy con chó ngoi lên từ mặt nước rập rờn sóng, lội qua bên kia sông, chỗ bãi cồn An Thành mọc đầy cây trầm thủy như cây bàn, cây muối, cây vạt sành. Lại có lúc, tôi thấy thây nó nổi phình lên tấp vào những giề rau mác, rau lục bình trổ hoa tím. Lại có lúc, tôi chỉ thấy cái lưỡi nó liếm vào tay tôi, hoặc chỉ thấy cái đuôi nó ngúc ngoắc.

Và cái ấn tượng mạnh nhất đã xâm vào ký ức tôi là đôi mắt tuôn lệ của nó. Đôi mắt đã lồng vào từng cơn chiêm bao của tôi.

Tôi nằm bịnh suốt tuần. Cả chị Lìn nữa. Nhà tôi không ngớt bà con họ hàng tới thăm. Dượng tôi đưa thầy Chín Đăng tới chẩn mạch cho hai chị em. Má tôi thì nghĩ rằng oan hồn con chó ám ảnh hai chị em nên bà xuống chùa Sơn Thắng ở làng Cái Sơn Bé cách nhà từ đường của ba tôi tụng kinh Cầu An cho hai chị em và tụng kinh vãng sanh cho con chó luôn.

Ni sư Diệu Pháp lúc đó sáu mươi ngoài, mặt hồng hào. Bà tu pháp môn Tịnh Độ, vốn là người dì họ của ba tôi. Nghe nói hồn còn nhỏ, bà ở trong nghề dao búa, trôi nổi từ Cái Vồn (tỉnh Cần Thơ) rồi lên miệt Tân Châu, Hồng Ngự, Nam Vang. Bà đã từng chém lính tàu tuần Pháp khi tụi nó ve vãn sàm sỡ với bà. Rồi bỗng dưng bà ta xuất gia, trường trai, tụng kinh và niệm Phật.

Trong thời gian ni sư Diệu Pháp ở nhà tôi, má tôi dành cho bà một gian phòng sạch sẽ, có giường gỗ trải nệm, có tủ áo, tủ “com-mốt”, bàn gỗ dài chất đầy lọ thuốc, hộp thuốc, lọ dầu, dĩa cam, hộp trà, ấm chén và cái rề sô để sư cô tự tay pha trà. Ni sư đem cuốn kinh Quán Vô Lượng Thọ chỉ cho cả nhà tôi xem hình về thế giới Cực Lạc do Phật A Di Đà cùng hai vị Bồ Tát là đức Quan Thế Âm và đức Đại Thế Chí trông coi. Chị Lìn lúc đó cũng nổi hứng xáp lại. Đôi mắt chị như van nài sư cô giải thích. Ni sư sau lúc giảng kinh cho mọi người nghe xong, kéo chị Lìn ngồi xáp lại gần cuốn kinh. Bà lật từng trang hình vẽ bằng nét tỉ mỉ, rồi bà khoa tay múa chân để “nói” với chị Lìn. Kỳ lạ, đôi mắt chị không còn có vẻ trống rỗng ngơ ngác như sau cơn bịnh nữa, trở nên sùng mộ vô biên. Ní sư và chị cứ múa tay. Cả hai cùng gật đầu theo từng giai đoạn diễn biến của cuốn kinh. Từng trang kinh cứ lật. Hai người đàn bà, một trẻ một già, một tục một tu, cứ trao đổi ngôn ngữ bằng cách khoa tay, đôi lúc múa chân.

Ai dám bảo là chị Lìn không hiểu những gì trong kinh Quán Vô Lượng Thọ ? Ai dám bảo ni sư không dìu dắt được chị Lìn vượt qua khỏi thế giới câm điếc để đi vào trang kinh? Lúc đó, có vài người chị họ (con của các cậu tôi) cùng vài bà hàng xóm.

Lúc đầu, ai cũng tưởng ni sư đùa giỡn với cô gái khờ khạo, dễ thương kia. Nhưng họ quên rằng một nhà tu làm sao có thể trửng giỡn như kẻ phàm phu thế tục được?

Nét mặt ni sư có vẻ cảm động, mắt có ngấn lệ trong khi nét mặt của chị Lìn càng phơi phới và trong sáng hơn. Khi quyển kinh lật tới trang cuối, bỗng dưng chị Lìn đổi sắc mặt, buồn rũ xuống và ôm mặt khóc, rút lui về buồng.

Cậu Sáu, người anh kế của má tôi từ Nha Mân lặn lội lên thăm hai cháu. Má tôi thuật hết tự sự cho cậu nghe. Cậu trầm ngâm một lúc lâu rồi trách:

- Em Bảy à, chị Hai và em thương con Lìn không phải cách. Thay vì em đưa nó vào trường câm điếc để nó học “nói”, học văn hóa để hiểu đạo lý, đàng nầy em bắt nó ở nhà học thêu, trong khi đó nó tiếp xúc cuộc đời chỉ bằng mắt, ngoài mũi lưỡi, miệng nếm đồ ăn. Nếu con Lìn hiểu rằng bị dụ dỗ làm chuyện dâm uế là nhục thì nó đâu có để cho ba thằng quỷ “xên” nó? Còn con chó, thay vì đem đến Sở Thú Y lúc đầu, em cứ trị nó bằng xức ghẻ thông thường...

Má tôi buồn lắm, dù sao bà cũng đã nuôi chị Lìn lâu năm, tấm lòng người dì cũng đổi dần thành tấm lòng người mẹ. Bà nói:

- Con Lìn đẻ xong, em cho nó vào trường câm điếc.

Ni sư Diệu Pháp trước khi về chùa Sơn Thắng, có tặng cho ba má tôi bức tranh A Di Đà Tam Tôn. Ba tôi cho đóng khung và lộng kiếng bức tranh, lập bàn thờ ở trung đường bức tranh ấy.

Chị Lìn cứ thắp nhang, trải chiếu quỳ khá lâu, tay chắp lại, thành kính chiêm ngưỡng. Nhưng ở trung đường thường có khách đến viếng nên rất ồn ào.

Ba tôi đành gửi người quen mua bức tranh A Di Đà khác rồi treo ở trong một căn phòng nhỏ, dành cho chị Lìn thắp nhang cúng nước và ngồi chiêm ngưỡng. Quả thiệt tôi chưa thấy tấm lòng sùng mộ của ai hơn tấm lòng sùng mộ của chị. Chị có thể quỳ hoặc ngồi tĩnh tọa mắt ngó hằng giờ lên tranh Phật, và lâu lắm mắt chị mới chớp. Cái nhìn của chị từ hôm ni sư Diệu Pháp đến tụng giảng Kinh Quán Vô Lượng Thọ trở nên rực rỡ kỳ lạ, giờ đây mỗi khi mường tượng lại, tôi có cảm tưởng nó có ngôn ngữ tha thiết để nhắn nhủ người đối diện: “Các người hãy xem đây, tôi cũng có một đời sống nội tâm. Mà bầu trời tâm cảnh của tôi đã thắp được một thứ ánh sáng lạ tự miền Cực Lạc !”

Nhưng cũng chính giờ đây làm sao tôi cắt nghĩa nổi sự sùng kính và niềm tin của người con gái tàn tật kia? Ai cũng thương xót cho chị Lìn bị ba tên thợ mộc trẻ làm hư hỏng nhưng có ai hiểu ý nghĩa hai dòng nước mắt của chị như thế nào vào lúc chiều chiều chị nhìn qua xưởng mộc? Và làm sao tôi hiểu thấu cuộc đàm thoại giữa sư cô Diệu Pháp và chị Lìn? Nhưng tôi nhận thấy từ lúc chị quỳ trông lên tranh Phật, chị như sắp biến thành pho tượng, gương mặt như lắng vào phút giây sùng kính ngưng đọng và im sững dần dần như gương mặt pho tượng.

Hầu như chị Lìn không để ý đến cái thai gần lâm bồn. Chị cứ thích chiêm ngưỡng tranh Phật. Có đêm tôi thức giấc, đi vòng ra sau hậu điện, đến dãy bồn, ảng, lu, kiệu, khạp, chóe nơi dãy nhà mới để tìm nước mưa uống giải khát,...
... thì thấy trong buồng đặt bàn thờ Phật nhỏ còn thắp ánh đèn. Tôi uống nước xong, chạy lại khe vách dòm vào. Trên bàn Phật, cây nhang đang cháy, tuôn khói, còn chị Lìn quỳ trước bàn Phật, chiếc gối tai bèo kê trên đầu gối.

Kỳ sanh nở, chị Lìn bị chứng nhau chằng, đau đớn từng cơn mệt lả... Suốt tám tiếng đồng hồ mà đứa con chưa chịu chui ra. Cô mụ hương thôn lấy mủ cây đu đủ phết lên gang bàn chân chị, mà vẫn không hiệu quả. Túng thế, má tôi đưa chị đi nhà thương. Cái nhau chằng vừa gỡ ra là chị sanh dễ dàng, chuyện đơn giản mà cô mụ không biết, để đến nỗi chị Lìn bị hành thân hoại thể khá lâu...

Bốn tháng sau, chị Lìn qua đời. Không rõ chị bịnh gì? Chị không nằm liệt, không lên cơn sốt gì hết. Nghe má tôi nói khoảng thời gian gần đây, ngày nào chị Lìn cũng ngồi chắp tay trước bức tượng đức Phật A Di Đà, chăm chú ngắm nhìn dường như không bao giờ mỏi mắt, đôi mắt chẳng lúc nào rời hình ảnh đức Phật cả. Bất cứ lúc nào, má tôi cũng bắt gặp chị Lìn “dán mắt” vào bức tượng, ngay cả khi thêu đan, tuy hai bàn tay của chị thoăn thoắt trên tấm vải nhưng đôi mắt vẫn luôn luôn hướng về đấng từ bi với niềm vui sướng hạnh phúc tột cùng.

Trong tuần lễ cuối đời cũng vậy, chị cứ hết thêu đan là chiêm ngưỡng tranh Phật.

Từ khi chị sanh nở, không hiểu sao chị không có sữa. Dì tôi đành đem đứa nhỏ đi ở nhà người vú. Lâu lâu chị Lìn tháp tùng mẹ đi thăm con, mắt chị rạng rỡ, chị hôn hít con như bao người mẹ khác. Trước khi ra về, chị cầm hai tay đứa nhỏ chắp lại và bắt nó xá xá...
Một sáng nọ, không thấy chị nấu nước cúng Phật, má tôi liền vào buồng tìm chị. Chị đã chết, nằm ngay ngắn, bức tranh Phật áp trên ngực, tay chị còn chắp lại. Dù thương tiếc chị, dì tôi và má tôi tỏ vẻ bằng lòng vì nét mặt của chị lúc chết êm đềm, hiền dịu như ngủ, mà có phần đẹp hơn ngày bình thường. Nụ cười của chị dù chỉ mỉm nhẹ nhưng lại tươi thật là tươi, môi mọng thắm.
Vì đỉnh đầu chị còn nóng rực, nên mãi tới ba ngày sau, má tôi mới cho tẩn liệm chị.
Cái chết của chị Lìn dường như đã ám ảnh cuộc đời tôi một cách lâu lắc, quá lâu. Có thể nói rằng trọn kiếp sống này tôi không bao giờ quên được hình ảnh chị an lành ngừng thở, đầu nóng như lửa, nhưng trên tay còn ôm ấp bức tượng A Di Đà, như muốn đức Phật truyền ban ánh quang minh vô lượng và sanh khí vĩnh cửu cho mình trong cõi sống âm u ngột ngạt của một người câm điếc. Bởi vì tôi chẳng có chút hiểu biết về Phật giáo cho nên tôi không tự mình giải thích nổi sự kiện tâm linh ấy, và tôi cũng luôn cảm giác lờ mờ về biến cố thiêng liêng mầu nhiệm đã đeo đẳng bản thân suốt mấy chục năm trường.
Cho đến ngày sang Mỹ định cư, mỗi lúc chiều buông, anh em rủ nhau nhâm nhi bên ly rượu, riêng tôi thường cầm ly mà không uống, và cũng chẳng nhắp.

Tôi thẫn thờ nhớ về hình ảnh chị Lìn. Chị nằm an lành, kính cẩn áp ngực vào bức tượng A Di Đà. Tôi không thể hiểu được đức Phật A Di Đà đã chiếu rọi vào thân tâm chị Lìn những năng lực mầu nhiệm nào để khiến chị từ giã cuộc đời này một cách an lành, hạnh phúc như vậy.

Gần đây, tình cờ gặp lại bác Tịnh Hải, tên thật của ông ta là V.Đ.P, trước là chủ báo nổi tiếng của Sài-gòn cũ, nay không hiểu vì sao chuyển sang ăn chay niệm Phật và nghiên cứu kinh điển. Tôi mừng húm, bèn đem tất cả mọi chuyện về cái chết kỳ lạ của chị Lìn thuật lại cho ổng nghe, rõ rõ ràng ràng từng chi tiết lớn nhỏ.

Nghe xong, ổng bảo :

- Mừng cho anh có người chị hết sức tuyệt vời. Chị Lìn đã giải thoát, đã đạt được thành quả mà vô số những người Phật tử luôn luôn khát khao mơ ước. Nói theo ngôn ngữ nhà Phật, thì chị Lìn đã vãng sanh.

Tôi gạn hỏi :

- Vãng sanh ? Nghĩa là làm sao? Xin bác làm ơn giảng rõ cho cháu đặng chăng?

- Vãng sanh ... là ... Chà, thiệt khó nói quá. Anh tạm thời cứ hiểu như vậy : vãng sanh nghĩa là tâm linh chị Lìn được chuyển đổi bởi năng lực bất khả tư nghị của đức Phật A Di Đà. Và qua năng lực vi diệu ấy, chị đã hoán cải tâm linh nhiễm dơ của mình trở thành “tâm thức giác ngộ”, ... ờ ờ, nhà Phật gọi là “hoa khai kiến Phật”, tạm thời phải diễn tả như vậy, như vậy, ...

Nói dài dòng là phải nói như vầy : Tuy chị Lìn là một người câm điếc hoàn toàn, vô văn hóa, vô lễ nghĩa, vô trí thức - nhưng ni sư Diệu Pháp đã nỗ lực và khéo léo “thuyết giảng” bằng ngôn ngữ đặc biệt nào đó, khiến cho chị ta thâu nhận, thấu hiểu ý nghĩa của kinh Quán Vô Lượng Thọ - rồi tuyệt đối tin tưởng vào năng lực cứu độ và lòng thương yêu chúng sanh vô hạn của đức A Di Đà cùng cõi Phật trang nghiêm vi diệu. Ni sư Diệu Pháp cũng đã giúp chị Lìn phát nguyện vãng sanh Cực Lạc bằng cách nhất tâm xưng niệm danh hiệu Phật. Cuối cùng chị Lìn đã đạt thực hành pháp môn Niệm Phật theo kiểu cách đặc biệt rất riêng của mình và đã đạt kết quả như ý. Với niềm tin, với trình độ Phật pháp của tui, với tất cả những điềm lành xuất hiện lúc lâm chung của chị, thì tui nghĩ, chị Lìn đã rốt ráo giải thoát, chứng ngộ ngay giờ phút lâm chung và đã được đức A Di Đà tiếp dẫn về thế giới Cực Lạc !

Tôi thắc mắc :

- Chị Lìn vừa câm vừa điếc, làm sao mở miệng niệm Phật cho đặng ?

Bác Tịnh Hải cười ngất :

- Thì ... chị Lìn niệm Phật bằng ... đôi mắt chứ sao ? Chúng ta có lổ miệng thì mình niệm Phật bằng môi, bằng miệng, bằng lưỡi. Người không có miệng để niệm ra tiếng như tụi mình thì niệm Phật bằng mắt ... Chính anh biết đó, chị Lìn đã niệm Phật bằng mắt bởi vì trong hoàn cảnh gọi là “thiếu căn” của chị, chị Lìn buộc phải niệm Phật bằng hai con mắt, vốn là khí cụ duy nhất để truyền thông và phát tín hiệu cho thế giới bên ngòai. Tuy có khó khăn nhiều đó, nhưng nếu chị không sử dụng cặp mắt thì biết làm sao bây giờ? Không được hay sao?

Điều đáng nói ở đây là : năng lực cứu độ của đức Phật quả thiệt là không thể nghĩ bàn ! (bất khả tư nghị !)

Tôi trở thành con người nhất tâm tin Phật từ đó, và bài viết này được xem như là một kỷ niệm trân trọng của một bước khởi đầu. Tôi về đâu ? Nếu không phải là mạnh dạn cất bước tiến vào hành trình trở về cõi Phật A Di Đà, như chị Lìn của tôi đã thành tựu trước đây mấy mươi năm ?

Xin xem bài viết này như một nén nhang cảm ơn đức Phật A Di Đà, cảm ơn ni sư Diệu Pháp. Xin cảm ơn chị Lìn và nhất là, xin cảm ơn những lời chỉ dẫn tận tình của cư sỹ Tịnh Hải. Cuối cùng, xin cảm ơn tất cả quý vị đã chịu khó bỏ thời gian quý báu mà đọc tới đây.

Nam mô A Di Đà Phật

Hồ Trường An

lieuquanhue.com
Nguồn: http://daitangkinhvietnam.org/van-hoc-v ... di-da.html" target="_blank
Được cảm ơn bởi: Sầu riêng, cunconhamchoi, mythinh1912

mythinh1912
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2116
Tham gia: 13:02, 20/09/11

TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ

Gửi bài gửi bởi mythinh1912 »

Nhất Niệm đã viết:
mythinh1912 đã viết:
Nhất Niệm đã viết:Tính chị ko thích hợp cho kinh doanh! Chị thích đầu tư thôi!

Chị mà ra kinh doanh tuy chị có thể lên kế hoạch dc, nhưng khi ra thương trường vung dao chém, chị sẽ ko nở hạ dao đâu!
Nếu đầu tư thì chắc là bđsản, vàng, chứng khoán...


Em kô nghĩ vậy chị àh! Cũng có thể do cách e snghĩ đơn jản, chia sẽ để đôi bên cùng có lợi và jữ dc hòa khí. Kô fải cái mình làm dc thì ng khác sẽ làm dc, kô fải cái ng khác làm dc thì mình sẽ làm dc! Thòi gian vừa wa em ra ngoài tiếp xúc nhìu ng trong ngành. đôi bên đều chia sẻ rất thật với nhau, mở lòng ra với nhau, và cái em nhận lại dc cũng rất nhìu chị àh. Em dc ngta chỉ bảo về hàng hóa rất nhìu. Sao fải đấu đá với nhau, khi ta có thể chọn jải fáp bắt tay! Cùng nhau fát triển hơn là đè bẹp lẫn nhau. Vì thị trường là rộng lớn, mỗi ng sẽ có định hướng khai thác khác nhau. Đó là snghĩ của riêng em. Cũng có thể do em còn non trẻ, nên nhìn cđời đơn jản.
Khi thương nghiệp của em phát triển hơn thì có lẽ em sẽ đối đầu nhiều cái hơn, và lúc đó em sẽ phải vung gươm hạ triệt đối thủ thương trường của em!

Nói chung, tính chị nhu nhược, ko thể làm dc người trong thương trường!

Chúc em thành công nhé bé!

Chị chưa ngủ nữa àh? Vậy chị thuộc ng ngủ ít rùi. Em cũng có ngày 5,6h sáng mới chợp mắt được. Chị NN có thích những nơi ồn ào kô chị? Em thì cực ghét! Vừa nãy em vừa fải đi uống cf ở 1 wán cf cực kỳ ồn ào, nồng nặc mùi thuốc lá! Ghét thật! Đau hết cả đầu!

Em đag mong đợi cái chuỗi hạt chị àh! Em mạng hỏa, đeo chuỗi này thì chắc là hợp! :">
Được cảm ơn bởi: Nhất Niệm

Hình đại diện của thành viên
Nhất Niệm
Cửu đẳng
Cửu đẳng
Bài viết: 11610
Tham gia: 07:52, 12/12/10
Đến từ: Việt Nam

TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ

Gửi bài gửi bởi Nhất Niệm »

mythinh1912 đã viết:
Chị chưa ngủ nữa àh? Vậy chị thuộc ng ngủ ít rùi. Em cũng có ngày 5,6h sáng mới chợp mắt được. Chị NN có thích những nơi ồn ào kô chị? Em thì cực ghét! Vừa nãy em vừa fải đi uống cf ở 1 wán cf cực kỳ ồn ào, nồng nặc mùi thuốc lá! Ghét thật! Đau hết cả đầu!

Em đag mong đợi cái chuỗi hạt chị àh! Em mạng hỏa, đeo chuỗi này thì chắc là hợp! :">
Chị ngủ ít, em a.

Ko, em. Từ bé chị đã ko thích ồn ào rồi! Lúc ở đại học, tuy chị đã có tự do vì chị ko sống chung với gia đình, và bạn bè lúc ấy đã rủ chị đi clubs/bars, nhưng chị ko thích đi vì tính chị ko thích các chổ ồn ào thế! Chị lại ko biết uống beer/rượu thì đi làm gì :) Các bạn nam của chị đã thắc mắc sao chị khác các cô khác quá, vì nếu ko đi làm thì chị rút vô góc thư viện ngồi học bài và cuối tuần lái xe đi chùa với bạn, thế thôi. Họ hỏi sao chị ko chụm ba, chụm bảy đi chơi, đi shopping như các cô khác! Tính chị ở ngoài trầm lặng và giản dị :)
Được cảm ơn bởi: mythinh1912

Hình đại diện của thành viên
Nhất Niệm
Cửu đẳng
Cửu đẳng
Bài viết: 11610
Tham gia: 07:52, 12/12/10
Đến từ: Việt Nam

TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ

Gửi bài gửi bởi Nhất Niệm »

LỢI ÍCH KHI NIỆM PHẬT

(tập 1)
Người giảng: Lão pháp sư Tịnh Không

Thời gian: ngày 23 tháng 06 năm 2003

Giảng tại: Học Viện Tịnh Tông Úc Châu

Phần 1

Xin chào các vị đồng tu!

Hôm qua chúng tôi từ Tuyết Lê Newsaque trở về, hôm nay đã nghỉ hết một ngày, buổi tối chúng ta họp mặt với các đồng tu đàm luận mấy vấn đề tu học Phật pháp. Những vấn đề này phần nhiều đều là thuộc về sơ học, cho dù là lão tu cũng luôn xem thường, cho nên gọi là “tập nhi bất sát”. Đợi đến khi có người hỏi đến chúng ta, thì có không ít người không biết phải trả lời thế nào. Học viện của chúng ta là học viện của Tịnh Tông, xem hình thức là biết nội dung, chúng ta là chuyên tu Tịnh Độ. Tịnh Độ cũng gọi là tịnh nghiệp, chuyên tu tịnh nghiệp, nếu có người hỏi bạn, mười phương chư Phật quá nhiều quá nhiều, vì sao các người chỉ niệm Phật A Di Đà? Vì sao chỉ chuyên niệm A Di Đà Phật mà không niệm các Phật khác? Tôi hỏi thử các vị, mọi người các vị ai có thể giải thích được vấn đề này rõ ràng? Mười phương Phật rất nhiều, vì sao các vị chuyên niệm A Di Đà Phật? Vì sao các vị không niệm mười phương chư Phật? Có người nào có thể trả lời hay không?

Trả lời đơn giản nhất, chính là chiếu theo trên kinh A Di Đà đã nói. Thích Ca Mâu Ni Phật ở trong kinh A Di Đà đã bốn lần khuyên bảo chúng ta niệm A Di Đà Phật. Kinh A Di Đà có thể làm chứng minh là Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta thuận theo lời giáo huấn của Thích Ca Mâu Ni Phật niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, đây là đáp án rất đơn giản, rất dễ dàng. Thế nhưng vấn đề của người ta vẫn chưa được khai mở ra, vì sao Thích Ca Mâu Ni Phật muốn khuyên chúng ta niệm A Di Đà Phật? Không chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật, mà chúng ta thấy ở trong kinh Vô Lượng Thọ và Kinh A Di Đà là mười phương tất cả chư Phật Như Lai đều khuyên mọi người niệm A Di Đà Phật, đó là ý gì vậy? Nếu như bạn muốn hiểu vũ trụ, chúng ta gọi là vũ trụ, ở trong Phật pháp gọi là pháp giới, nếu như chân thật hiểu được rõ ràng chân tướng của vũ trụ nhân sanh rồi thì bạn liền biết được tất cả chư Phật vì sao bảo chúng ta niệm A Di Đà Phật. Cho nên đây là một vấn đề lớn, không phải là vấn đề nhỏ. Các vị có đọc qua ở trong kinh đại thừa hay không? Hình như trong khóa tụng sớm tối đã có, trong 88 vị Phật có Pháp giới Tàng thân A Di Đà Phật, cái ý này đã nói rõ rồi. A Di Đà Phật là tên gốc của pháp giới tất cả chư Phật, danh hiệu của tất cả chư Phật là biệt hiệu của Ngài, A Di Đà Phật là tên gốc của các Ngài, cho nên gọi pháp giới tàng thân.

Vì sao nói A Di Đà Phật là tên gốc của tất cả chư Phật? Cái danh hiệu này là dịch âm ra từ tiếng Phạn, dịch thành ý nghĩa theo tiếng Trung Quốc là vô lượng, “A” dịch là Vô, “ Di Đà” dịch là Lượng, Phật dịch là Trí, dịch là Giác. A DI Đà Phật nghĩa là vô lượng trí, vô lượng giác. Các vị thử nghĩ xem, vị Phật nào không là vô lượng giác, vô lượng trí? Đó là tên gốc của Phật. A Di Đà Phật cùng với Phật Tỳ Lô Giá Na, ý nghĩa rất gần nhau, thế nhưng không hề giống nhau. Tỳ Lô Giá Na cũng là tên gốc của tất cả chư Phật, ý nghĩa của nó là biến khắp tất cả, còn A Di Đà là dùng vô lượng trí biến khắp tất cả, vô lượng giác biến khắp tất cả. Khi bạn vừa hợp lại xem thì ý nghĩa rất là rõ ràng, chúng ta phải thông hiểu hàm nghĩa chân thật của danh hiệu Phật.

Cho nên tất cả chư Phật khuyên chúng ta niệm A Di Đà Phật vì A Di Đà Phật cũng chính là tên gốc của tự tánh chính chúng ta. Việc này trên kinh đại thừa Phật thường nói, “tất cả chúng sanh hữu tình đều có Phật tánh”. Vô tình chúng sanh, vô tình ngày nay chúng ta gọi là thực vật và khoáng vật, có pháp tánh. Phật tánh cùng pháp tánh là một tánh, không phải là hai tánh, đây là tên gốc của tánh đức. Thế Tôn ở trong hội Hoa Nghiêm nói với chúng ta, “tất cả chúng sanh đều có trí tuệ đức tướng Như Lai”. Tất cả chúng sanh là bao gồm chúng ta trong đó, chúng ta vốn dĩ là Phật, mỗi một người vốn dĩ là Phật, vốn dĩ là A Di Đà Phật, vốn dĩ là Tỳ Lô Giá Na Phật, xin nói với bạn, hiện tại vẫn là vậy. Chẳng phải các vị thường thấy trên kinh đã nói là tự tánh Di Đà? Tự tánh Di Đà mỗi người chúng ta đều có phần, vì sao vậy? Mỗi người chúng ta vốn dĩ vô lượng trí, vốn dĩ có vô lượng giác, trí giác của chúng ta chiếu khắp mọi nơi, vốn dĩ chính là như vậy, cho nên trên kinh Hoa Nghiêm và Duyên Giác kinh nói tất cả chúng sanh vốn dĩ thành Phật. Thế nhưng lời nói này Phật không thường nói, vì sao vậy? Sợ người ta nghe không hiểu sanh ra hiểu lầm nên Phật rất ít giảng. Thế nhưng đây là lời thật.

Vì sao hiện tại biến thành phàm phu? Vì bạn mê rồi. Mê rồi thì thế nào? Mê rồi thì bạn ngu si, bạn không có trí tuệ, bạn cũng không giác, mê mất tự tánh, chính là mê mất tự tánh A Di Đà, mê mất tự tánh Tỳ Lô Giá Na, sự việc chính là như vậy. Mê rồi thì làm phàm phu. Cảnh giới của giác ngộ, cảnh giới của Phật, cảnh giới của giác ngộ là thế giới Cực Lạc, cảnh giới của giác ngộ là thế giới Hoa Tạng, sau khi mê rồi thì đem Cực Lạc, đem Hoa Tạng biến thành đời ác năm trược hiện tại của chúng ta. Sự việc chính là như vậy. Thế nên hiện tại Thế Tôn dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, tất cả chư Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, đó là ý gì vậy? Dạy chúng ta dùng phương pháp này để làm cho tự tánh hồi phục lại. Giống như một người chúng ta đang ngủ ngon, mê hoặc điên đảo, một câu A Di Đà Phật làm cho chúng ta tỉnh lại. Sau khi tỉnh rồi mới biết được chính mình vốn dĩ là A Di Đà Phật, chính mình vốn dĩ là Tỳ Lô Giá Na. Thế nhưng chúng ta mê đã quá lâu, mê đã quá nặng, ngày ngày đang niệm vẫn là không thể tỉnh, vậy thì phải làm sao?

Những chư Phật Như Lai đã giác ngộ rồi, đã thức tỉnh rồi sẽ giúp đỡ cho bạn. Thế giới Tây Phương Cực Lạc, Bồ Tát Pháp Tạng thành Phật ở thế giới Cực Lạc chính là A Di Đà Phật ngày nay, Ngài phát tâm giúp đỡ chúng ta. Ngài nói với chúng ta, chỉ cần đầy đủ tín tâm, tin sâu nguyện thiết, tin sâu nguyện thiết chính là tâm Bồ Đề, lại thêm “một lòng chuyên niệm”, chính là một phương hướng, một mục tiêu, chuyên niệm A Di Đà Phật, vậy thì liền có thể giúp được cho bạn. Cho nên một câu A Di Đà Phật là từ tâm địa của chúng ta mà sanh khởi, niệm ra từ nơi miệng, dùng cách nói của khoa học hiện đại là sóng âm. Các vị thấy tiến sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật Bản, phòng nghiên cứu của ông chính là phòng nghiên cứu sóng âm, tâm khởi lên một ý niệm, đó là sóng âm của tâm. Tốc độ của sóng âm của tâm thì tất cả hiện tượng sóng âm của vật chất đều không thể bì kịp, ý niệm trong tâm vừa sanh khởi thì sóng âm này lập tức biến khắp hư không pháp giới, nhanh hơn nhiều so với ánh sáng. Ánh sáng một giây mới đi được 30 vạn dặm, từ địa cầu phát ánh sáng lên đến mặt trời phải mất hơn tám phút, cái cự ly này không xa, rất gần. Thế nhưng ý niệm của chúng ta vừa khởi, cái sóng âm lập tức biến khắp hư không pháp giới, không có tốc độ nào có thể so sánh kịp. Chư Phật dạy chúng ta, chúng ta khởi tâm động niệm, niệm một câu A Di Đà Phật thì ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, A Di Đà Phật lập tức liền nhận được tín hiệu này, chúng ta liền bắt tín hiệu được với Phật. Ngài nhận được tin tức rồi, Ngài cũng có hồi âm. Có hồi âm mà chúng ta không hề biết, vì sao chúng ta không biết vậy? Hiện tại máy móc này của chúng ta quá già quá cũ rồi, không nhạy bén nữa, không được linh mẫn như Ngài. Cho dù sóng âm có nhỏ đến đâu, Ngài cũng đều có thể nhận được. Máy móc của chúng ta vì sao không linh vậy? Phật nói với chúng ta, bởi vì chính chúng ta có vọng tưởng, có phân biệt, có chấp trước. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đã làm chướng ngại sáu căn của chúng ta. Căn tánh sáu căn có ba loại chướng ngại này, đó là chướng ngại lớn, cho nên hồi âm của chư Phật chúng ta không nhận được.

Đến lúc nào thì chúng ta có thể nhận được? Đó là tu định, bạn có được sức định sâu. Cái gì gọi là sức định? Chính là bạn buông bỏ được vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Khi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước ít đi rồi, tác dụng của sáu căn liền linh mẫn, hồi âm của A Di Đà Phật bạn liền có thể nhận được, bạn có thể thấy được Phật, bạn có thể nghe được thinh âm của Phật nói pháp, mũi có thể ngửi được bảo hương của thế giới Cực Lạc, thân có thể cảm xúc được gió nhẹ của thế giới Cực Lạc. Thế giới Tây Phương Cực Lạc cách với chúng ta rất xa, các vị đã nghe qua báo cáo của cư sĩ Chung Mao Sâm, đó là khoa học hiện đại phát hiện, ông báo cáo qua cho chúng ta ba sự việc.

Việc thứ nhất, thời gian cùng không gian không phải là thật, việc này ở trên kinh Phật giảng nói rất rõ ràng, thời gian cùng không gian là sự vận hành không tương ưng. Sự vận hành không tương ưng chính là khái niệm trừu tượng, không phải sự thật. Hiện tại khoa học gia chứng thực, ở trong một điều kiện nào đó thì không gian không có. Khi không gian không còn nữa thì là không có xa gần, xa gần không còn nữa. Khi xa gần không còn nữa thì Phật A Di Đà ở đâu vậy? Phật A Di Đà ở ngay đối diện với chúng ta, không có xa gần, cho nên chúng ta xem thấy được rất tường tận, Ngài nói chuyện chúng ta nghe được rất thông suốt, mùi hương của thế giới Cực Lạc chúng ta ngửi được rất rõ ràng, mọi thứ đều rất phân minh, không có xa gần. Không những không có xa gần, thời gian cũng là giả, ở trong một điều kiện nào đó thì thời gian cũng không có. Khi thời gian không có, chính là không có quá khứ, không có vị lai, con người chúng ta có thể trở về quá khứ, cũng có thể bước vào tương lai. Đây là việc thứ nhất mà hiện tại khoa học đã chứng minh, cùng với Kinh Điển đã nói là hoàn toàn giống nhau. Cho nên thời gian và không gian đều là từ huyễn tướng của vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mà sanh ra, cái huyễn tướng này biến thành chướng ngại rất lớn.

Phát hiện thứ hai, đó là cái “có”. Tất cả vạn vật từ do đâu mà ra? Trong không sanh có. Khoa học gia hiện tại đã phát hiện, có là từ trong không mà ra, từ trong không mà có lại trở về với không, có lại quay về với không. Phát hiện này thực tế mà nói, họ vẫn chưa có thể nói được tường tận. Trên kinh Lăng Nghiêm, Phật nói rất rõ ràng là “ngay chỗ sanh ra, tùy chỗ diệt tận”. Ngay chỗ sanh ra, cái chỗ đó là không, không có thứ gì, từ trong không nó liền sanh ra có, tuy là sanh ra có liền lập tức quay về lại với không, trên kinh Lăng Nghiêm giảng nói rất tường tận. Báo cáo nghiên cứu của họ đem đến ở chỗ tôi đây, tôi lập tức liền biết được, không một chút gì kinh ngạc.

Việc thứ ba chính là nói khởi nguồn của vũ trụ, hư không, thế giới, tinh cầu, sinh mạng, vạn vật từ do đâu mà ra? Thực tế ra mà nói, chính là từ trong không mà sanh ra có. Báo cáo gần đây nhất của khoa học, từ trước đều nói là vụ nổ lớn, vụ nổ lớn này là do thứ gì làm nổ ra vậy? Hiện tại họ đã tìm ra được cái điểm của vụ nổ. Việc này vẫn là từ nơi lý luận mà suy diễn ra, trên thực tế không cách gì tìm ra. Họ nói cái nguyên điểm vụ nổ lớn của vũ trụ bao lớn vậy? Các vị nghe báo cáo của tiến sĩ Chung đều biết, ông nói cái nguyên điểm là rất nhỏ, nhỏ đến mức chúng ta không thể tưởng tượng được. Ông nêu ra một thí dụ, đây là thí dụ của khoa học gia nêu ra, tóc của chúng ta thì rất nhỏ, cái sợi tóc này sau khi bạn cắt xuống, bạn cắt lấy một đoạn, cắt một đoạn tóc là cắt ngang, không phải cắt dọc, mặt bằng ở trên đầu sợi tóc là tròn, đường ngang của mặt tròn này có thể xếp cái nguyên điểm của vũ trụ này. Có thể xếp được bao nhiêu cái nguyên điểm của vũ trụ? Một trăm vạn ức ức ức cái, phía sau có ba cái ức. Chỉ là một đường ngang của đầu sợi tóc mà xếp được một vạn ức ức ức cái nguyên điểm, cái nguyên điểm này nổ ra chính là nổ vũ trụ.

Sự việc này ở trên kinh Hoa Nghiêm chúng ta đã giảng rất nhiều lần, kinh Hoa Nghiêm nói trong vi trần có thế giới, thế giới không lớn, vi trần không nhỏ. Vi trần mà trên kinh Hoa Nghiêm đã nói, có thể chính là nguyên điểm mà khoa học gia đã nói. Trên mặt bằng của đầu sợi tóc có thể đặt một trăm vạn ức ức ức cái nguyên điểm. Cái nguyên điểm này nhà Phật giảng là vi trần. Ai có thể vào được thế giới vi trần? Bồ Tát Phổ Hiền, trên Kinh Hoa Nghiêm chúng ta xem thấy Bồ Tát Phổ Hiền có thể vào được. Bồ Tát Phổ Hiền là Bồ Tát gì vậy? Là Đẳng Giác Bồ Tát. Việc này nói với bạn, khi bạn chứng được Đẳng Giác Bồ Tát thì bạn liền có thể bước vào nguyên điểm của vũ trụ, “ngay chỗ sanh ra, tùy chỗ tận diệt”, cho nên ông nói nó là một nguyên điểm của vụ nổ. Hiện tại vũ trụ vẫn đang mở rộng, khi nổ ra đã biến thành vũ trụ, bao gồm sinh mạng, tất cả vạn vật, đều là do đây mà ra.

Hôm đó tôi hỏi tiến sĩ Chung, tôi hỏi ông nó nổ ra lúc nào vậy? Vũ trụ này của chúng ta đã nổ ra từ lúc nào vậy? Ông không nói ra được. Tôi nói tôi biết được, kỳ thật việc này tôi đã nói qua rất nhiều lần rồi, nếu như các vị thật nghe hiểu rồi, những vấn đề này của khoa học khi vừa hỏi bạn, bạn liền có đáp án ngay. Vừa rồi tôi cũng đã nói qua, trên kinh Lăng Nghiêm nói “ngay chỗ sanh ra, tùy chỗ diệt tận”, trên kinh Nhân Vương nói với chúng ta, một khảy móng tay có 60 sát na, một sát na có 900 sanh diệt, cái sanh đó chính là hiện, diệt chính là quay về, ngày nay chúng ta xem thấy cái hiện tượng này là hiện tượng gì vậy? Tướng tiếp nối tướng, cho nên trên kinh Kim Cang giảng là “tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ cũng như điện, nên quán thấy như vậy”. Vũ trụ này tất cả hiện tượng không phải là chân thật, “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Nó nổ được quá nhanh, lập tức liền tiêu mất, cái thứ hai lại nổ, cái nguyên điểm đó là vô lượng vô biên, không biết được là có bao nhiêu. Cái nguyên điểm đó là gì vậy? Khoa học gia nói không ra. Phật không hề nói.

Phật tuy là không nói nguyên điểm của vũ trụ, nhưng chúng ta biết được đó là thứ gì? Là chủng tử trong A Lại Da Thức, Phật nói, chủng tử của A Lại Da Thức không có hình tướng, nếu như có hình tướng thì tận hư không khắp pháp giới cũng không thể dung nạp được. Hiện tại họ tính nguyên điểm, cái điểm nhỏ như vậy cùng bằng với hư không. Bạn xem, mặt bằng trên đầu sợi tóc có thể xếp một trăm vạn ức ức ức cái nguyên điểm, ngày nay công cụ khoa học cao minh hơn, đều không cách gì quan sát được. Vì sao vậy? Nếu bạn đem cái nguyên điểm này phóng to ra một trăm vạn ức ức ức lần, bạn vẫn là xem không thấy, cần phần cộng thêm một lần nữa thì bạn mới thấy cái nguyên điểm này nó là bao lớn, cũng giống như trên đầu tóc nhỏ như vậy thôi. Đó là cảnh giới không thể nghĩ bàn, đó là chân tướng của vũ trụ mà trên kinh Phật đã nói. Khoa học gia hiện tại tuy là từ trong số học tính đếm ra được, nhưng vẫn là không cách gì quan sát được, bởi vì gần như không dễ gì đem một sợi tóc phóng to vuông vứt đến một trăm vạn ức ức ức lần. Nếu phóng to được như vậy thì bạn mới có thể xem thấy cái điểm đó giống mặt bằng trên đầu tóc cắt ra, chỉ lớn bằng như vậy thôi.

Chúng ta biết tiến sĩ Giang Bổn Thắng xem kết tinh của nước trong kính hiển vi, chỉ có 250 lần quan sát kết tinh nước. Bạn muốn quan sát vi trần, trên kinh Phật gọi là vi trần, khoa học gia gọi là nguyên điểm của vũ trụ, kính hiển vi đó có thể phóng to được bao nhiêu lần? Một trăm vạn ức ức ức mét vuông thì bạn mới có thể xem thấy được, nếu không thì bạn sẽ không thể xem thấy được. Khoa học kỹ thuật cao đến như vậy, hiện tại trên thế giới này của chúng ta chưa có, cho nên đây là “thực tướng các pháp”. Bồ Tát Đẳng Giác tường tận, rất tự tại, nguyên điểm cũng có thể vào được. Điều này nói với chúng ta, không có lớn nhỏ, đó là tự tánh biến hiện, không có lớn nhỏ, nguyên điểm không nhỏ, vũ trụ không lớn, không có xa gần, không có trước sau. Không có xa gần thì không có cự ly, không có trước sau thì không có quá khứ hiện tại vị lai. Ngày nay chúng ta gọi là không gian thời gian, đến lúc đó tất cả đều bằng không, đó là chân tướng.

Chúng ta học Phật không gì khác hơn, chủ yếu chính là phải hiểu rõ chân tướng này. Nếu chúng ta muốn ở trong chân tướng này mà sống, đó chính là cảnh giới của Phật, cái cảnh giới này chính là thế giới Cực Lạc mà trên kinh đại thừa đã nói, chính là thế giới Hoa Tạng mà trên kinh đại thừa nói. Chúng ta chính mình nếu muốn tu hành chứng được cảnh giới này là khó! Quá khó! Rất khó! Vì sao vậy? Nếu bạn đem phiền não tập khí của chính mình đoạn được sạch sẽ vắng lắng, kiến tư phiền não, trần sa phiền não, vô minh phiền não đều đoạn hết không phải là việc dễ dàng. A Di Đà Phật, một vị Phật hiện tại ở thế giới Cực Lạc, Ngài chân thật là đại từ đại bi, đã giúp chúng ta rất nhiều. Phiền não của chúng ta không cần đoạn, chỉ cần niệm danh hiệu của Ngài, danh hiệu này cũng giống như sóng điện từ vậy, chúng ta dùng phương pháp này để tương thông, đến khi thọ mạng của chúng ta hết rồi, đầy đủ tín nguyện trì danh. Các vị phải nên biết, tín nguyện chính là phát tâm Bồ Đề mà trên kinh Vô Lượng Thọ đã nói, tín nguyện là tâm Bồ Đề. Lời nói này không phải tôi nói, mà là đại sư Ngẫu Ích đã nói trong Yếu Giải kinh A Di Đà. Một lòng chuyên niệm chính là trì danh, tin tức của chúng ta thường thường liên hệ, đến khi nào Ngài giúp đỡ chúng ta, tiếp dẫn chúng ta đến thế giới Cực Lạc. Đến thế giới Cực Lạc để làm gì?

Đến thế giới Cực Lạc để tu hành. Thế giới Cực Lạc rất tốt, tốt ở chỗ nào vậy? Chỗ tốt thứ nhất, đó là tổ sư đại đức xưa nay thường giảng, vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc là chỗ tốt thứ nhất, vào thời đó các Ngài không gọi là chỗ tốt, mà gọi là đức thứ nhất (đức của đạo đức), hiện tại chúng ta gọi là chỗ tốt thứ nhất, gọi đức thứ nhất không có người hiểu. Chỗ tốt thứ nhất là gì vậy? Vô lượng thọ, bạn có tuổi thọ vô lượng. Tuổi thọ vô lượng thì ngay trong đời đó của bạn đương nhiên sẽ thành tựu, bạn liền chứng được cảnh giới Phật, đó là cái tốt thứ nhất. Chúng ta sống ở thế gian này tuổi thọ quá ngắn, học thứ gì cũng học không thành công, thành thật mà nói, học một bộ kinh cũng học không thành. Hiện tại các vị thử nghĩ xem, một đời này bạn có thể học được kinh Hoa Nghiêm hay không? Hiện tại chúng ta từ đầu đến cuối giảng qua một lượt, giảng qua một lượt này không phải là giảng tỉ mỉ, mà là giảng rất thô, giảng rất giản lượt, như vậy giảng qua một lượt, hiện tại chúng ta dự tính chí ít phải hơn mười ngàn giờ. Hiện tại chúng ta giảng đến quyển 12, vẫn chưa giảng xong quyển thứ 12 nhưng đã dùng hơn hai ngàn giờ đồng hồ rồi. Bộ kinh này tổng cộng có 99 quyển, cho nên một đời học một bộ kinh cũng rất khó khăn vì tuổi thọ không đủ, thời gian không đủ dùng. Việc này A Di Đà Phật giúp được một phần rất lớn, để chúng ta đi đến thế giới Cực Lạc, đổi một thân thể khác.

Trước tiên nên hiểu rõ, cái tánh này, Phật tánh pháp tánh, tánh thì không sanh không diệt, đạo lý này nhất định phải nên hiểu, tánh thì không sanh không diệt. Tánh nếu mê rồi thì gọi là thức, người Trung Quốc chúng ta gọi là linh hồn. Linh hồn là gì vậy? Đó là tự tánh mê rồi thì biến thành hình trạng này, biến thành linh hồn. Linh hồn đầu thai trong sáu đường, cho dù là đầu thai cách nào thì nó cũng không sanh không diệt. Lúc nào giác ngộ thì là thành Bồ Tát thành Phật, giác ngộ thì được đại tự tại, không giác ngộ thì họ bị nghiệp lực xoay chuyển. Thí dụ như khi sanh ra, nghiệp họ đã tạo là thiện, tâm thiện, ý nghĩ thiện, việc làm thiện, vậy thì hoàn cảnh sinh hoạt mà họ sanh đến là cõi người cõi trời. Trời có 28 tầng trời, nếu như tâm của họ không thiện, tư tưởng không thiện, việc làm không thiện, tương lai nơi mà họ sanh đến chính là ngạ quỷ, địa ngục, súc sanh, đó là sanh ác đạo.

Cho nên thần thức, người Trung Quốc chúng ta gọi là linh hồn, đi đầu thai, nó không diệt, nó sẽ chuyển biến, nó không bị tiêu diệt. Nếu nó giác rồi thì chuyển thành Phật tánh, mê thì nó chuyển thành thần thức, nó sẽ chuyển biến tùy theo mê ngộ, nó vĩnh viễn sẽ không bị tiêu diệt. Cho nên nếu bạn chân thật hiểu rõ chân tướng sự thật này, thì bạn sẽ không sợ chết, vì sao vậy? Căn bản là không có sanh tử. Sanh tử là gì vậy? Đổi một cái thân, đổi một hoàn cảnh sinh hoạt, giống như chúng ta di dân vậy. Hiện tại di dân mọi người rất rõ ràng, rất thấu hiểu, chúng ta từ Trung Quốc di dân đến nước Mỹ, đó chính là đổi một thân thể, ngoài ra còn có thể đổi một thân phận. Quốc tịch Trung Quốc chúng ta không cần nữa thì đi lấy quốc tịch của Mỹ, liền đổi một thân phận. Đây chính là bạn có thể đổi thân thể, bạn có thể hoán đổi hoàn cảnh sinh hoạt. Gần đây chúng ta lại từ nước Mỹ di dân đến Úc Châu, chúng ta ở Úc Châu đã lấy được chứng nhận công dân, lại đổi một thân phận. Người vẫn chưa chết mà đã đổi hết ba thân phận, đã đổi hết ba hoàn cảnh sinh sống, chính là như vậy mà thôi.

Cho nên bạn phải nên hiểu, hiện tại chúng ta ở thế gian này, chúng ta ở Trung Quốc, ở nước Mỹ có rất nhiều đồng tu bạn bè thân thích, chúng ta vẫn thường hay liên hệ, thường giữ liên lạc, đạo lý là như vậy. Nếu như bạn sanh đến thiên đạo, bạn sanh đến thế giới Cực Lạc, bạn cùng với rất nhiều thân thích bạn bè ở trên cái địa cầu này cũng thường hay giữ lấy liên lạc, cũng thường hay đi chăm sóc họ, đi thăm viếng họ, thế nhưng cảnh giới không giống nhau, không gian duy thứ không giống nhau. Họ đến nơi đây thăm chúng ta, họ rất rõ ràng nhưng chúng ta thì không thấy được họ, đó là do không gian duy thứ không giống nhau. Chúng ta tuy là không nhìn thấy họ, nhưng chúng ta thường hay kỷ niệm họ, thí dụ như chúng ta tụng kinh bái Phật, đem công đức hồi hướng, đó là kỷ niệm họ. Thế nên họ cũng thường hay đến thăm chúng ta, trong âm thầm bảo hộ chúng ta, vẫn là thường hay giữ mối quan hệ qua lại. Nếu như chúng ta tu hành có đầy đủ công phu, công phu đầy đủ là gì vậy? Đầy đủ sức định. Có đầy đủ sức định thì có thể làm vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chúng ta hạ thấp xuống. Hạ xuống đến trình độ nhất định thì việc cảm ứng này sẽ rất rõ ràng, họ đến thăm chúng ta hoặc là chúng ta đi thăm họ. Cho nên nói cảnh giới trong định thì không gian cùng thời gian đều không tồn tại, cho nên trong định thì có thể qua lại, có thể trở về quá khứ, cũng có thể bước vào tương lai.

Hiện tại khoa học gia biết được, xác thực là có không gian duy thứ khác nhau đang tồn tại, thế nhưng không biết được dùng phương pháp gì để đột phá. Trên lý luận thì có, như những nhà khoa học đã nói, họ dùng độ gia tốc, nếu như tốc độ này có thể vượt qua tốc độ ánh sáng, trên mặt lý luận mà nói thì có thể trở về quá khứ, có thể đột phá không gian. Việc này người học Phật chúng ta hiểu được, nhà Phật gọi không gian duy thứ là pháp giới, pháp giới chính là không gian duy thứ mà khoa học gia đã nói. Vì sao pháp giới lớn đến như vậy? Từ đâu mà ra? Là từ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mà biến hiện ra. Nếu vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của bạn thảy đều không còn thì cái không gian duy thứ này sẽ không còn, sẽ hoàn toàn đột phá, lúc đó thì cho dù thân bằng quyến thuộc của chúng ta ở trong không gian nào, chúng ta cũng đều thấy được, chúng ta có thể trực tiếp qua lại, cùng với người không gian khác nhau qua laị.

Việc này sớm nhất là Ba La Môn giáo, Ba La Môn giáo có đến hơn mười ngàn năm lịch sử, Phật giáo chúng ta mới 3000 năm, họ chính là nhờ tu định, từ trong thiền định đột phá không gian duy thứ, cho nên hiện tượng của sáu cõi luân hồi họ đã thấy được rất sớm. Tuy là thấy được, nhưng họ không biết được sáu cõi rốt cuộc do đâu mà ra. Mãi đến Thích Ca Mâu Ni Phật ra đời mới đem việc này giảng tường tận giảng thấu đáo. Họ biết được sở đương nhiên mà không biết được sở dĩ nhiên. Sau khi Phật xuất hiện mới đem nguyên nhân lý do nói ra, là từ trong vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mà biến hiện ra, rời khỏi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì pháp giới này là nhất chân. Hay nói cách khác, quyết định không có không gian duy thứ, không gian duy thứ là một huyễn tướng, không phải là chân tướng.

Chúng ta vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc chỉ nhờ vào câu Phật hiệu này, thế nhưng câu Phật hiệu này nhất định phải biết, chỉ niệm một câu A Di Đà Phật không phát tâm Bồ Đề thì không thể vãng sanh. Đại sư Ngẫu Ích giảng cho chúng ta nghe được rất rõ ràng, rất đơn giản, rất thấu đáo là “chân tín thiết nguyện”. Tôi thật tin tưởng, không một chút hoài nghi, tôi thật bằng lòng đi đến thế giới Cực Lạc, chân thật bằng lòng thân cận A Di Đà Phật, học với A Di Đà Phật, cái tín cùng nguyện này chính là tâm đại Bồ Đề, sau đó bạn chỉ cần một lòng chyên niệm thì đầy đủ điều kiện rồi, thì bạn liền có thể vãng sanh. Vãng sanh là việc lớn, nhân duyên hy hữu. Thế gian bất cứ thứ gì cũng đều là giả, những việc thế gian có duyên thì làm, không có duyên thì tuyệt đối không nên khởi lên ý niệm này. Nếu bạn đem tinh thần và thời gian lãng phí ở nơi thế gian pháp, cái nhân duyên đại sự này bị lỡ qua rồi thì bạn đến đời nào kiếp nào mới có thể gặp lại được? Nhất định bạn phải hiểu. Cho nên người học Phật chúng ta ở thế gian này tất cả tùy duyên, vì việc tốt cho chúng sanh. Có duyên thì chúng ta làm, không có duyên thì không nên phan duyên, việc này quan trọng hơn bất cứ việc gì.

Thích Ca Mâu Ni Phật, rất nhiều Bồ Tát tổ sư đại đức thị hiện ở ngay trong đời này, bạn xem việc các Ngài đã làm ra, chúng ta phải hiểu, chúng ta phải học tập. Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa còn ở đời vì chúng ta làm ra tấm gương, Ngài thị hiện 30 tuổi thành Phật, đại triệt đại ngộ minh tâm kiến tánh, đây gọi là thành Phật. Thành Phật chính là thành tựu trí tuệ viên mãn, giác ngộ viên mãn. Sau khi trí tuệ giác ngộ viên mãn rồi thì giáo hóa chúng sanh, cả đời làm công việc giáo học. Giáo học cũng là tùy duyên, cho nên nói Phật không độ người không có duyên. Có duyên gặp được đó gọi là có duyên, không có duyên không gặp được, Phật sẽ không sách lồng đèn đi khắp nơi mà tìm, không có loại đạo lý này. Ai gặp được thì người đó có duyên. Sau khi Phật diệt độ đến nay, tuy là Ngài không ở thế gian, nhưng kinh điển của Ngài lưu lại thế gian này. Chúng ta có thể gặp được kinh điển chính là có duyên, là người có duyên, không gặp được kinh điển thì không có duyên. Gặp được kinh điển mà bạn có thể đọc tụng kinh điển, bạn có thể lý giải, bạn có thể tin tưởng, bạn có thể y theo đạo lý phương pháp của kinh điển mà tu hành thì bạn liền có thành tựu rồi. Chỗ này rất quan trọng. Chúng ta phải buông bỏ thân tâm thế giới, tức là phải buông bỏ vọng tưởng, buông bỏ phân biệt, buông bỏ chấp trước, thì chúng ta liền có thể tương thông với chư phật Bồ Tát, giới hạn ngay trong đó liền có thể đột phá. Ngày nay chúng ta học Phật nhưng không thể đột phá là do nguyên nhân gì vậy? Bạn vẫn chưa thể buông bỏ.

Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
------------------------------------------------------

Phần 2

Chỗ này rất quan trọng, chúng ta phải buông bỏ thân tâm thế giới, tức là buông bỏ vọng tưởng, buông bỏ phân biệt, buông bỏ chấp trước thì chúng ta liền có thể tương thông với chư phật Bồ Tát, liền có thể đột phá giới hạn. Ngày nay chúng ta học Phật không thể đột phá là do nguyên nhân gì vậy? Bạn vẫn chưa buông bỏ. Cho nên lỗi lầm này chính ở chúng ta, không phải ở nơi Phật cũng không phải ở trong kinh điển, mà là ở chính mình. Chính mình không thật tin, còn có hoài nghi, còn có vọng tưởng, còn có chấp trước, vậy thì không còn cách gì, chư Phật Như Lai có ở ngay trước mặt bạn cũng không thể giúp được, đó là việc của chính bạn. Cho nên đến thế giới Cực Lạc, việc tốt là tuổi thọ vô lượng, phước báo vô lượng. Vô lượng trí vô lượng giác của Ngài là cách nói thông thường, trên kinh giảng là vô lượng quang, vô lượng thọ. Cái ý này trên kinh rất hay. Vô lượng quang, quang là quang minh biến chiếu, đại biểu không gian. Vô lượng thọ, thọ là đại biểu thời gian. Tất cả vô lượng trong vô lượng thời không thảy đều đầy đủ không kém khuyết chút nào, cho nên nói “Phật thị môn trung hữu cầu tất ứng”. Vì sao có thể có cầu ắt có ứng? Bởi vì tất cả đều là trong tự tánh của bạn vốn sẵn đầy đủ. Trong tự tánh của bạn vốn sẵn đầy đủ vô lượng trí tuệ nên trí tuệ này liền hiện tiền, vô lượng tài nghệ, tài nghệ đức năng đều hiện tiền, vô lượng tướng hảo chính là phước báo vô lượng đều hiện tiền.

Hiện tại người thế gian này, hôm qua tôi ở Tuyết Lê cũng nói đến vấn đề này, người thế gian mong cầu cũng không ngoài ba việc là của cải, trí tuệ và khỏe mạnh sống lâu, ba thứ này ở thế giới Tây Phương Cực Lạc là đầy đủ cả. Thế giới Tây Phương của cải vô lượng. Các vị xem, Thích Ca Mâu Ni Phật ở trên kinh điển giới thiệu cho chúng ta hoàn cảnh của thế giới Tây Phương Cực Lạc, đại địa của thế giới Tây Phương Cực Lạc không phải là đất, mà là Lưu Ly. Lưu Ly là thứ gì vậy? Người thế gian này chúng ta gọi là Tỷ Thúy tức ngọc màu xanh. Thứ này thông thường giá trị rất cao. Đại địa của thế giới Tây Phương là Tỷ Thúy, cho nên Tỷ Thúy ở thế giới Tây Phương Cực Lạc thì không đáng một đồng, vì sao vậy? Cũng giống như đất của chúng ta ở đây vậy, ở đây chúng ta đeo một chiếc nhẫn Tỷ Thúy rất cao quý, đến bên đó lại là đất mà đeo ở trên tay thì chẳng phải là trò cười hay sao?

Người chúng ta quý trọng vàng ròng đến dường nào! Còn ở thế giới Tây Phương Cực Lạc vàng ròng là để làm gì vậy? Cũng giống như xi măng vậy, đem đi làm đường, vàng ròng làm đất dùng để đắp đường đi. Bạn xem, đất là Tỷ Thúy, đường đi đắp bằng vàng ròng, bạn không cần nói thứ khác, bạn nói xem bên đó giàu có bao nhiêu! Phú ông ức vạn thế gian này chúng ta đến thế giới Tây Phương Cực Lạc là bần cùng hết chỗ, không có tiền. Thế giới Tây Phương bạn thấy nhà ở của ta ở đều là bảy thứ báu tạo thành, vật liệu xây dựng là bảy báu, kim ngân, lưu ly, xa cừ, mã não, không phải là xi măng sắt thép chúng ta ở đây, không phải thứ này, bạn nghĩ xem đầy đủ đến dường nào! Cơm áo đi đứng đều tự nhiên, bạn muốn ăn bất cứ thứ gì, ý niệm vừa khởi, những thứ mà bạn cần ăn đã bày đầy trên bàn. Vào thời xưa Hoàng đế Trung Quốc chúng ta ăn cơm là một trăm món ăn, cho dù là ông ăn mấy món nhưng mỗi lần dọn cơm nhất định là một trăm món ăn. Đến thế giới Tây Phương Cực Lạc còn dư giả hơn so với làm Hoàng Đế. Hoàng Đế mới có một trăm món, bạn đến nơi đó, bạn muốn một ngàn món, muốn một vạn món, ý niệm vừa khởi đều bày ra ở trước mặt, Hoàng Đế làm sao có thể so sánh được với bạn! Sau khi ăn xong, không cần nữa thì lập tức không còn gì hết, cũng không cần phải đi rửa chén, cũng không cần phải đi thu dọn bát đĩa, nó đều biến hết, trở về cái không, cho nên thế giới đó chính là ngày nay khoa học gia chúng ta gọi là chuyển biến của năng lượng và vật chất. Hiện tại khoa học gia biết được, đích thực là có cái lý luận này, thế nhưng không làm được. Thế giới Tây Phương Cực Lạc đã làm được rồi, khi cần dùng đến thì làm cho năng lượng biến thành vật chất, chính mình tận tình hưởng thụ, khi không dùng nữa thì vật chất này lại quay trở về lại năng lượng, không còn thứ gì hết, được đại tự tại.

Phòng ốc nơi bạn ở, muốn ở trên mặt đất thì phòng ốc liền hạ xuống mặt đất, muốn ở trên hư không thì nó liền nâng lên, liền ở ngay trong hư không, muốn đến các cõi nước phương khác cũng không cần phải ngồi phi cơ, nhà ở của bạn cũng biết bay, chính là công cụ phi hành của bạn. Tùy tâm sở muốn, tướng hảo quang minh, không chỉ 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp. 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp ở thế gian này chúng ta là quý tướng, các vị xem cái tướng đó là quý tướng. Nhưng ở trên kinh Phật nói với chúng ta, người thế giới Tây Phương Cực Lạc có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp. Trên kinh các vị xem thấy Thích Ca Mâu Ni Phật làm một thí dụ, không những người thế gian chúng ta không có, không thể so sánh, Đại Phạm Thiên Vương, Ma Hê Thủ La Thiên Vương, những tướng phú quý đó, nếu đứng cùng với người hạ phẩm hạ sanh của thế giới Tây Phương Cực Lạc thì họ giống như người xin ăn vậy, không thể so sánh. Không có thứ nào là không vừa lòng như ý. Lợi ích của niệm Phật, lợi ích của vãng sanh, nếu bạn hỏi vãng sanh, vãng sanh có thật hay không? Là thật! Một chút cũng không giả. Ngay trong một đời này của tôi chính mắt nhìn thấy đứng vãng sanh, ngồi vãng sanh, tôi xem thấy mười mấy người, nếu nghe nói thì không biết là đến bao nhiêu. Lần gần đây nhất, vẫn chưa đến hai năm, lão cư sĩ Trần Quang Biệt của Cư Sĩ Lâm Singapore, đó là lão hội trưởng, bạn thấy ông vãng sanh, đó là chúng ta chính mắt nhìn thấy. Học sinh chúng ta đều đi trợ niệm giúp cho ông. Lão cư sĩ tuổi tác lớn rồi, đã hơn 80 tuổi, những năm cuối bị bệnh sức khỏe không tốt. Thực tế mà nói, bị bệnh rồi ông mới chân thật học Phật, khi ông chưa bị bệnh thì ông chưa thật học Phật. Ông là người làm ngân hàng, mỗi ngày công việc đều rất bận, căn bản là không có thời gian đọc kinh, cũng không có thời gian nghe kinh. Bị bệnh rồi không còn cách gì, ở trong nhà dưỡng bệnh, mỗi ngày nằm trên gường buồn bã. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên đem băng đĩa giảng kinh của chúng ta đến tặng cho ông, ông xem mỗi ngày, càng xem càng hoan hỉ. Mỗi ngày ông xem 8 giờ đồng hồ, lúc nào không xem thì ông niệm A Di Đà Phật. Hai năm là thời gian không dài, hai năm thì ông liền thành tựu.

Có một hôm ông nói với cư sĩ Lý Mộc Nguyên là ông muốn vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên nói với ông là không được, hiện tại ông không thể đi, hiện tại Cư Sĩ Lâm tất cả đều chưa yên ổn, chỉ cần ông sống ở thế gian thì sức ảnh hưởng của ông vẫn còn, nên hy vọng ông quan tâm. Ông nói được rồi, vậy tôi sẽ đợi thêm hai năm nữa. Khi hai năm này đến, nhiệm kỳ sau cùng nhất, Cư Sĩ Lâm cử hành tuyển cử, đổi nhiệm, ông ngồi xe đẩy đến tham gia, ngày hôm đó tôi cũng có mặt, đó là lần sau cùng ông đến Cư Sĩ Lâm. Sau khi trở về, tôi nghe người trong nhà ông nói, có một hôm ông viết ở bên cạnh ngoài của tờ báo ngày mùng 07 tháng 8, ông đã viết mười mấy lần mùng 07 tháng 8, người trong nhà cũng không có người nào dám hỏi, cũng không biết đó là chuyện gì. Mùng 07 tháng 8 hôm đó ông vãng sanh. Ngày ông viết ra ngày ông vãng sanh cách ngày ông vãng sanh ba tháng, ông đã biết trước ngày ông vãng sanh ba tháng. Thời gian ngày tháng tường tận như vậy, mùng 07 tháng 8, ông đã viết mười mấy lần mùng 07 tháng 8, dự biết giờ đi. Từ lúc ông bị bệnh bắt đầu nghe kinh niệm Phật đến lúc ông vãng sanh, thời gian cũng sắp gần bốn năm.

Bạn thấy sau khi ông đi rồi, Cư Sĩ Lâm Singapore xuất hiện một việc kỳ quái. Có một hôm, cư sĩ Đỗ Mỹ Quyên, về trước tôi không quen biết cô, sau khi sự việc này xảy ra, cư sĩ Đỗ đến tìm tôi, xảy ra sự việc gì vậy? Oan gia trái chủ của Cư Sĩ Trần Quang Biệt, rất nhiều người, đó không phải là người sống mà là hồn quỷ, đi đến Cư Sĩ Lâm. Những oan gia trái chủ này vốn là ở ngay trong nhà của Trần Quang Biệt, thế nhưng mỗi ngày Trần Quang Biệt nghe kinh niệm Phật, nên họ không dám đụng đến ông, nghe kinh niệm Phật có thần hộ pháp, cho nên oan gia trái chủ tuy là vây quanh ở bên cạnh nhưng không dám động ông. Khi xem thấy ông vãng sanh rồi, những oan gia trái chủ này đều cảm động, cho nên họ đi theo các pháp sư (mỗi ngày chúng ta đều phái pháp sư đi trợ niệm, bốn người một nhóm luân phiên đi), những oan gia trái chủ này đi theo pháp sư đến Cư Sĩ Lâm. Họ nói thần hộ pháp của Cư Sĩ Lâm không hề chướng ngại họ, họ nói chúng tôi đến Cư Sĩ Lâm tuyệt đối sẽ không gây phiền phức, chúng tôi không dám gây phiền phức, chúng tôi đến cầu xin quy y. Họ nói, chúng tôi xem thấy lão cư sĩ Trần Quang Biệt vãng sanh, chúng tôi đều rất là hoan hỉ nên đến cầu quy y. Vào lúc đó tôi đang ở HongKong, dường như là sư Toàn gọi điện thoại cho tôi, nói là hồn quỷ muốn quy y, tôi nói với ông phải mau quy y giúp cho họ. Sau khi quy y rồi, họ muốn nghe kinh, pháp sư của Cư Sĩ Lâm liền nói với họ, lầu 4 là niệm Phật đường, lầu 5 là giảng đường, mỗi ngày đều có pháp sư ở nơi đó giảng kinh, các vị đều có thể đến nơi đó nghe kinh. Họ nói ánh sáng của giảng đường lầu 5 quá mạnh, họ không chịu nỗi. Sau đó mấy lần thương lượng thì chúng tôi mở ra lầu 1 và lầu 2 để máy truyền hình cho họ xem. Họ yêu cầu nghe kinh Địa Tạng, cho nên 24 giờ mở băng đĩa kinh Địa Tạng cúng dường quỷ thần. Quỷ thần thích nghe nhất là kinh Địa Tạng và kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, họ thích nhất là hai bộ kinh này. Sau khi nghe xong rồi thì họ liền ra đi. Đã xảy ra một việc như vậy.

Qua mấy ngày sau, đại khái dường như là hơn một tuần lễ, cô Đỗ Mỹ Quyên đến tìm tôi, đem tình hình quỷ thần nhập thân nói với tôi. Cô nói ngay lúc đó cô bị hôn mê, sau khi hôn mê thì cô không hề biết gì hết. Sau khi tỉnh lại, người khác nói cho cô nghe là cô đã nói hơn một giờ đồng hồ, nhưng chính cô một câu cũng đều không biết. Người trong nhà cô không hề tin, nhất là em trai cô, anh ấy nói việc này nhất định là không đáng tin, kết quả em trai của cô hôm đó, nghe nói bị tám con quỷ vật ra vả cho một trận, họ còn kéo anh ấy đến rãnh nước bên cạnh đường lộ làm anh bị trọng thương, kết quả là phải nhờ xe cứu thương đưa anh vào phòng cấp cứu. Anh báo cảnh sát, anh nói anh bị bảy, tám người đánh bị thương. Kết quả cảnh sát đến điều tra, hỏi người chung quanh, người chung quanh nói không có, anh ấy chính mình ngã tam ngã tứ rồi chính mình ngã xuống đó, không có người nào đánh anh. Bảy, tám con quỷ đánh anh. Từ đó về sau tin tưởng, người cả nhà đều tin tưởng. Đỗ Mỹ Quyên bị quỷ nhập thân độ được người cả nhà, cho nên sự việc này là thật, một chút cũng không giả.

Ngồi đồng nhập cốt tôi cũng đã gặp qua rất nhiều, có rất nhiều là thật, cũng có giả, giả thì rất ít. Thứ giả hoặc mạo nhận họ có mưu đồ, đều có mục đích, vừa nghe vừa thấy thì liền biết được, cho nên phải có năng lực phân biệt, không nên bị những người này phỉnh. Việc này khi chúng ta qua lại với quỷ thần, nhất định phải nên thận trọng, quyết định không nên để bị hại. Bạn tỉ mỉ lắng nghe lời của họ nói, họ thị hiện ra cái tướng này rất đáng được tham khảo. Phật sự Tam Thời Hệ Niệm là do thiền sư Trung Phong, đó là người đầu triều nhà Nguyên, Ngài y theo kinh A Di Đà soạn ra một nghi quy. Bộ nghi quy này chuyên dùng để siêu độ vong nhân, chúng ta tu Tịnh Độ dùng nghi quy này thì rất thích hợp. Trong nghi quy này chúng ta tỉ mỉ mà xem, trong đó có tán Phật, có tụng kinh, có niệm chú (chú vãng sanh là niệm chú), có sám hối, có phát nguyện, có hồi hướng, có quy y. Trong đây tổng cộng có 8 phương pháp tu học, rất là hoàn bị, rất thù thắng. Đây cũng chính là khai thị, khai thị rất nhiều, khai thị rất là tinh túy, đối với việc tu học của chúng ta có sự giúp đỡ rất lớn, có sự giúp đỡ không nhỏ. Cho nên khai thị của Ngài, nếu như các vị thường hay tụng, thường hay đọc, tôi tin tưởng đọc lâu rồi thì các vị chính mình có thể ngộ nhập vào cảnh giới này. Vào được cảnh giới đó là lợi ích rất lớn. Hiện tại chúng ta đem Phật sự Tam Thời Hệ Niệm làm thành thời khóa để tụng, mỗi một tuần chúng ta làm một lần, âm dương lưỡng lợi.

Hiện tại trên thế gian này, người khổ, linh hồn cũng rất khổ. Con người chúng ta có tai nạn, cái thế gian này có tai nạn, con người không biết nhưng linh hồn biết. Những năm gần đây, những tin tức này tiết lộ ra từ linh giới, nói đến việc tai nạn của tu hành này rất khiếp sợ. Việc mà họ nói tôi tin tưởng, tôi không chỉ tin tưởng lời của linh quỷ nói lại, mà tôi tin tưởng đạo lý của nhân quả báo ứng mà trên kinh Phật đã nói, tất cả những tai nạn là do ác nghiệp chiêu cảm. Bạn xem thấy hiện tại người ở thế gian này, họ tưởng là những gì? Họ nghĩ là những gì? Họ nói ra là những gì? Họ làm ra là những gì? Bạn tỉ mỉ mà quan sát thì bạn liền biết được. Người xưa nói “nhà làm việc thiện ắt dư thừa việc vui, nhà làm việc ác ắt dư thừa việc xấu”. Hiện tại tất cả xã hội, những chúng sanh này họ làm là những việc gì? Ý niệm ác, tư tưởng ác, lời nói ác, việc làm ác, như vậy làm sao mà không có tai nạn? Vào thời trước người nhận qua giáo dục truyền thống của người xưa, từ nhỏ đã dạy bạn cách làm người thế nào. Giáo dục của Trung Quốc từ Nghiêu Thuấn, việc này trên lịch sử có ghi chép, Nghiêu Thuấn cách ngày nay chúng ta đại khái là 4500 năm, ở vào cuối triều nhà Thanh. Trung Quốc dạy là những thứ gì? Dạy về luân lý, dạy về đạo đức, luân lý đạo đức duy trì dân tộc quốc gia này đến 5000 năm. Từ năm dân quốc đến nay mọi người đều là mến mộ khoa học phương tây, bỏ mất đi luân lý đạo đức của chính mình, đời sống vật chất dường như có nâng lên cao, mức sống nâng cao, nhưng luân lý đạo đức thì không còn, xã hội động loạn, lòng người bất an, có thể nêu ra là người nổi tiếng ở đời, có mấy người có cảm giác an toàn? Bao gồm chính chúng ta, bạn đi hỏi xem thử, bạn có cảm giác an tòan hay không? Rất đáng thương.

Hiện tại tương đối tốt hơn một chút là người học Phật. Chân thật học Phật, chân thật đạt được thọ dụng của Phật pháp, tâm địa tương đối thanh tịnh thì có được cảm giác an toàn, vì sao vậy? Biết được thật tướng của các pháp, cũng chính là biết được chân tướng vũ trụ nhân sanh, biết được tất cả chúng sanh không sanh không diệt, chỉ là chuyển biến mà thôi, cho nên gọi là tâm an lý đắc. Đạo lý làm được rõ ràng rồi thì tâm liền được an, đạo lý chưa hiểu được rõ ràng thì tâm của họ làm sao có được an định? Ngày nay trong xã hội này, nếu như cầu được thân tâm an ổn thì phải đem đại đạo lý của vũ trụ nhân sanh hiểu cho tường tận, hiểu cho thấu đáo, chân tướng sự thật thông suốt rồi thì tâm của bạn được định, tâm của bạn được an, bạn cũng biết được phải sống ra sao, làm việc thế nào, làm thế nào đối nhân xử thế tiếp vật. Khai thị trong Tam Thời Hệ Niệm quá tinh tế.

Người sau khi qua đời vì sao phải cúng thất? Có rất nhiều người hỏi vấn đề này, vì sao phải làm thất? Nếu như người này niệm Phật thật đã vãng sanh rồi, thực tế mà nói, vậy thì không cần phải làm thất. Người vãng sanh và người sanh thiên (người ở ngay trong một đời có đại thiện, sau khi chết sanh thiên) đều không có thân trung ấm thì không cần làm thất. Thế nhưng người thông thường nghiệp chướng tập khí sâu nặng, nếu là họ đọa vào ác đạo, đọa ba đường ác, hoặc là sanh đến loài người, đời sau vẫn có thể sanh đến cõi người, thế nhưng chỉ là một người rất thông thường, không phải là người phú quý, chỉ là một người phổ thông thì đều có thân trung ấm. Trung ấm thông thường tồn tại 49 ngày, chính là 7 lần 7. Trung ấm thì 7 ngày họ có một lần biến dị sanh tử, cũng chính là nói họ cứ 7 ngày thì có một lần rất đau khổ, vào ngay lúc này tụng kinh niệm Phật cho họ, hoặc là tu sám pháp cho họ, hồi hướng cho họ, thì có thể giảm nhẹ đau đớn của họ. Đó là trong kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn nguyện đã nói. Cho nên làm thất là từ trong kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn nguyện mà ra, bạn đi đọc kinh này thì liền biết.

Cho nên con người nhất định không nên tự sát. Tự sát thì vô cùng thống khổ, vì sao vậy? Hễ là người tự sát mà chết thì thân trung ấm mỗi 7 ngày một lần, nó lại phải tự sát một lần, nó không phải làm một lần rồi xong đâu, mà mỗi 7 ngày thì phải diễn lại một lần, rất khổ sở. Thí dụ như treo cổ mà chết, mỗi lần cách 7 ngày họ lại phải treo cổ một lần. Uống thuốc độc mà chết thì cách 7 ngày họ lại phải uống độc một lần. Cho nên vào ngay lúc này, thân bằng quyến thuộc tu phước cho họ thì có thể giảm ít đau khổ cho họ. Hoặc giả là họ không bị đau khổ, nếu như không có thân bằng quyến thuộc tu phước cho họ, thì họ nhất định sẽ không thể tránh khỏi. Việc này là Phật nói cho chúng ta nghe, nếu bạn là người hiểu Phật pháp thì bảy cái thất đều phải làm, không thể nói chỉ chọn vài thất, còn các thất khác thì có thể không làm, không thể được, vì sao vậy? Họ trong bảy ngày có một lần đau khổ thay đổi, chúng ta ở trong Kinh Điển hiểu được đạo lý này, cho nên niệm Phật lợi ích rất lớn. Cúng thất, trên kinh nói rất rõ ràng, bảy phần công đức, người làm thất chúng ta chính mình được sáu phần, vong giả chỉ có thể được một phần, cho nên khi làm thất, tốt nhất là nên mời 7 pháp sư. Công đức của 7 vị pháp sư thì họ chỉ có thể được một phần. Cúng tuần thất muốn có thể chân thật có được lợi ích lớn, những người làm pháp sự này, không luận là xuất gia tại gia, đều phải dùng tâm chân thành mà làm thì họ được lợi ích lớn. Nếu như chiếu theo nghi thức tụng kinh bái sám, trong lòng không thành thì họ được lợi ích rất ít.

Thế nào là trong lòng không thành? Một mặt tụng kinh, bái sám, một mặt trong lòng khởi vọng tưởng, lòng để đâu đâu thì lợi ích mà họ được sẽ rất ít. Nếu như vong giả này lúc ở đời tánh tình rất dữ, lòng dạ không tốt, người tụng kinh không thành khẩn thì họ sẽ tìm đến gây phiền phức. Quỷ cùng người như nhau, một số người lợi hại nếu bạn đắc tội với họ, họ sẽ tìm bạn gây phiền phức, họ báo thù bạn. Người tánh tình ôn hòa thì sẽ bỏ qua, thì sẽ không tìm. Cho nên mọi việc đều có nhân quả, nghiệp nhân quả báo không sót mảy trần, đây là chân lý. Trong Phật pháp thường giảng “vạn pháp giai không, nhân quả bất không”. Nhân quả vì sao mà bất không? Nhân quả có chuyển biến bất không, nhân sẽ biến thành quả, quả lại biến thành nhân, như chúng ta trồng cây ăn trái, mọi người sẽ rất rõ ràng. Bạn trồng xuống cây đào, hột đào là hạt giống, là nhân, nhân trồng xuống rồi nó sẽ lớn thành cây, nhân liền biến thành quả, quả lại biến thành nhân, trong trái đào lại có hạt đào, đó là “chuyển biến bất không”, “tuần hoàn bất không”, nhân quả tuần hoàn. Đó là nói cái này bất không, “tiếp nối bất không”, cho nên nó có ba hiện tượng là chuyển biến, tiếp nối và tuần hoàn, đó là tất cả pháp thế xuất thế gian đều không rời khỏi nhân quả.

Chúng ta đọc kinh đại thừa, trong kinh đại thừa đã nói, kinh Hoa Nghiêm có ngũ châu nhân quả, không rời nhân quả, kinh Pháp Hoa có nhất thừa nhân quả. Phật pháp xuất thế gian cũng không rời khỏi nhân quả, nhân quả là chân lý giữa vũ trụ này, thiện có thiện báo, ác có ác báo. Người xưa nói rất hay, “không phải không báo, thời giờ chưa đến”. Nhân gặp duyên, đó chính là thời giờ đã đến, chưa gặp được duyên thì đó là thời giờ chưa đến, gặp được duyên nhất định quả báo hiện tiền. Cho nên khi hiểu được đạo lý này, đặc biệt là giữa người và người qua lại với nhau, người xưa nói rất hay là oan gia nên giải không nên kết. Bạn phải ghi nhớ tuyệt đối là không nên kết oán thù với người. Kết oán thù thì phiền não rất lớn, oan oan tương báo, đời đời kiếp kiếp không hề ngừng dứt, kia đây đôi bên đều đau khổ. Mỗi người chúng ta ở thế gian này không phải là một đời, bạn có kiếp trước, bạn có đời trước, đời quá khứ của bạn, ngay trong đời đời kiếp kiếp bạn kết oán thù với bao nhiêu chúng sanh? Cho nên ngày tháng của đời này làm gì trải qua được tốt?

Bạn gặp được một người lạ đang đi trên đường, xưa nay chưa từng quen, họ tức giận trợn mắt nhìn bạn, đó là nghiệp đã kết trong đời quá khứ. Người học Phật chúng ta hiểu rõ, họ trợn nhìn ta một cái thì ta niệm A Di Đà Phật, ta cũng không nên nhìn họ mà cúi đầu xuống, niệm một câu Phật hiệu đáp lại họ thì liền hóa giải. Không thể nói họ trợn mắt nhìn bạn một cái, thì bạn cũng trợn mắt nhìn họ lại một cái, vậy thì phiền phức sẽ lớn. Người gặp mặt cúi đầu mỉm cười với bạn, đó là thiện duyên trong đời quá khứ. Cho nên nghiệp duyên phải từ trong nội tâm mà hóa giải, đó là chúng ta thường nói, nhất định không nên đối lập với tất cả người và sự vật, phải đem ý niệm đối lập hóa giải, phải bình đẳng đối đãi, hòa thuận cùng ở, vậy thì tốt, cái điểm này hy vọng mọi người đặc biệt chú ý. Nếu như chúng ta gặp phải oan gia trái chủ (việc này thường hay gặp phải), hoặc là có ý, hoặc là vô ý hủy báng chúng ta, nhục mạ ta, thậm chí còn hãm hại ta, chúng ta phải tường tận, quyết định không nên có tâm sân hận, nhất định không nên có tâm báo thù.

Bạn thấy kinh Kim Cang mọi người đọc qua rất nhiều, trên kinh Kim Cang nói Nhẫn Nhục Tiên Nhân bị Ca Lợi Vương cắt xẻo thân thể, đó là nhục mạ rất lớn, tổn hại rất lớn, thế nhưng Nhẫn Nhục Tiên Nhân dùng thái độ gì vậy? Không hề có chút ý niệm sân hận nên Nhẫn Nhục Ba La Mật viên mãn, không hề có chút ý niệm báo thù, chỉ trì giới Ba La Mật viên mãn. Hơn nữa còn phát tâm, ta tương lai sau khi thành Phật thì người độ đầu tiên là ông nên Bố Thí Ba La Mật viên mãn. Việc này phải nên học, việc này người thông thường không làm được, người thông thường nhất định khởi sân hận, khởi ý niệm báo thù, vậy thì phiền phức sẽ lớn. Báo thù sẽ đời đời kiếp kiếp không hề ngừng dứt, cho nên không nên kết oán thù với người, nhất định phải hóa giải. Oán thù vạn nhất không nên kết, quyết định không nên thiếu nợ người, việc này cần phải cận trọng. Ngay trong một đời này, nếu như là gặp phải đòi nợ nhất định phải trả, cường đạo đến cướp của bạn, trộm vặt đến trộm đồ bạn, bạn có tổn thất, bạn đều phải nên có ý nghĩ trả nợ thì sẽ không việc gì. Họ trộm tiền của của ta, đại khái ngay trong đời quá khứ ta đã trộm của họ, hiện tại họ đến trộm lại, một báo trả một báo thì xong rồi, hoan hỉ vui mừng. Quyết định không nên có ý niệm chiếm tiện nghi của người vì chiếm tiện nghi của người khác chính là trộm, tương lai đều phải trả. Cho nên nếu bạn chân thật thông đạt thấu hiểu sự lý của nhân quả báo ứng rồi thì tâm của bạn liền sẽ rất an. Một người ở ngay trong một đời, báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ đều có nhân quả đời trước. Bạn liền sống được rất tự tại, cho dù là oan gia trái chủ đối đầu rất nhiều cũng rất tự tại, vì sao vậy? Ngay đời này từng món từng món đã tính sổ hết rồi, đời sau gặp mặt đều là bạn tốt. Oán thì giải, nợ thì trả, người khác thiếu ta thì ta không cần, bố thí luôn, càng thí phước báo càng lớn.

Hôm qua tôi ở Tuyết Lê nói với các đồng tu, người hiện tại đều tham tài, đều muốn phát tài, bởi vì mấy ngày trước tôi xem thấy một tờ quảng cáo trên đài truyền hình Phụng Hoàng nói “có trí thì có tiền của”. Câu nói này không đúng. Khi tôi còn trẻ đã gặp qua rất nhiều giáo thọ rất nổi tiếng, chân thật có trí tuệ, có tài năng nhưng rất nghèo, tiền mua sách cũng không có, là giáo thọ nghèo. Cho nên lời của Phật nói với chúng ta là đúng, “có thí thì có tiền tài”. Bố thí tài thì được tài phú, càng thí càng nhiều, bố thí pháp được thông minh trí tuệ, bố thí vô úy được khỏe mạnh sống lâu. Cho nên tiền của, thông minh trí tuệ, khỏe mạnh sống lâu đều là từ bố thí mà ra, bố thí là nhân. Bố thí tài là nhân, tiền của là quả báo, pháp bố thí là nhân, thông minh trí tuệ là quả báo, bố thí vô úy là nhân, khỏe mạnh sống lâu là quả báo.

Cho nên hôm những đồng tu bên Tuyết Lê, có một số cũng không phải là tín đồ Phật giáo, thế nhưng họ đã làm việc tốt là tổ chức một đội y bác sĩ đến Tây Tạng trị bệnh đục thủy tinh thể cho người Tây Tạng. Họ nói bệnh đục thủy tinh thể của người Tây Tạng rất nghiêm trọng, rất là nhiều, bởi vì họ ở nơi cao nguyên, tia tử ngoại tuyến rất mạnh, cho nên bệnh đục thủy tinh thể rất nhiều, rất phổ biến, rất nhiều người do bệnh đục thủy tinh thể mà bị mù. Họ tổ chức một đoàn y bác sĩ đến bên đó giúp đỡ cho những người này, còn mang theo thiết bị mới, nghe nói hiệu quả rất tốt, hơn nữa cũng rất mau, đại khái trị liệu cho một người mà nói, dường như chỉ cần mười mấy phút thì hoàn thành thủ thuật, hơn thế nữa tỷ suất thành công là 99%. Đội này của họ đến Tây Tạng dự định là một tuần lễ, khám bệnh miễn phí một tuần, có mười bác sĩ, 5 bác sĩ nhãn khoa và 5 bác sĩ thông thường, ngoài ra còn có nhân viên hộ lý, tổng cộng 15 người, chúng ta đều gặp mặt. Việc làm này là thuộc về bố thí vô úy, quả báo bố thí vô úy là khỏe mạnh sống lâu. Đại hội hôm qua cũng mời tôi diễn giảng, sau khi tôi giảng xong, bên dưới cúng dường cũng không ít, đều đưa bao thư đến cúng dường, toàn bộ tôi đều cho đi Tây Tạng. Mỗi một người đều đã tu bố thí vô úy, hy vọng mỗi một người đều khỏe mạnh sống lâu, vậy thì chân thật viên mãn rồi.

Tốt rồi! Chúng ta đến chỗ này cũng đã giảng viên mãn. A Di Đà Phật!

Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
Được cảm ơn bởi: Sầu riêng

mythinh1912
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2116
Tham gia: 13:02, 20/09/11

TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ

Gửi bài gửi bởi mythinh1912 »

Nhất Niệm đã viết:Câu chuyện này hay ghê :) Các em đọc cho vui nhé :)
Đôi Mắt Di Đà

Tôi có một người dì lấy chồng Chệt Quảng Đông. Dì sanh hai con, một trai và một gái. Trai tên Phá Lường (Hoa Lương), gái tên là Phá Lục Lìn (Hoa Ngọc Liên). Dượng rể tôi làm tài phú cho một chành lúa ngoài Cầu Dài, đối diện với Chợ Cá tỉnh Vĩnh Long, cách chợ bởi dòng rạch Long Hồ... Dì tôi là cô trưởng nữ, má tôi là cô gái út cách nhau mười bảy tuổi. Khi má tôi sanh ra tôi thì anh Lường của tôi bắt đầu đi hỏi vợ...

Chị Lìn thì mới sanh ra đời đã ngu khờ, câm điếc. Ba tôi khuyên dượng tôi nên đưa chị đi lên trường câm điếc ở Lái Thiêu, nhưng dì tôi không đành lòng. Người điếc thì không nghe tiếng thị phi, lại còn câm thì chẳng mắc khẩu nghiệp... Chị Lìn tôi đẹp, thần sắc rạng rỡ như gương. Má tôi xót xa cho phận cháu, nên lãnh chị Lìn về nhà dạy chị thêu đan, làm bánh, đem hết tài khéo léo để truyền cho cháu, hai chị tôi ít giống má tôi bằng chị Lìn... Nếu trời ban cho thần thái chị sáng láng, trong trẻo, thì lại ban cho má tôi tài ăn nói, tài nhứt hô bá ứng. Bởi đó, bà làm cho bên chồng phải nể nang, ba tôi phải khiếp phục, vì bà “hoàn toàn” quá, cư xử hợp tình, hợp lý, miệng dù có cười mà ánh mắt thật oai nghiêm.

Nhà chúng tôi ở gần Đình Khao. Từ Cầu Dài, ven theo sông Cổ Chiên đi thêm hai cây số là tới ngôi nhà từ đường của ba tôi. Nhà gồm năm căn rộng, phía sau, cách cái sân lót gạch tàu là dãy hậu viện, nhà bếp, có hai dãy bên hông nối liền với dãy nhà trên... Khi tôi lớn lên ông nội, bà nội tôi qua đời. Ba má tôi có căn buồng phía trái (từ ngoài nhìn vào). Ông anh kế tôi chiếm căn buồng bên mặt. Hai chị tôi có một căn ở dãy hậu viện. Còn chị Lìn thì có căn buồng hẹp gần nhà bếp. Còn tôi, năm đó mới lên tám, không được ngủ chung với mẹ, phải ở chung buồng với ông anh kế, hễ tôi lỡ làm ảnh phật ý ảnh, ảnh cứ hăm đợi tôi ngủ, khiêng tôi bỏ ra ngoài vườn cho ma xé xác...

Chị Lìn lớn hơn tôi mười tuổi, hiền hậu, học thêu đan làm bánh kiên nhẫn, khéo léo. Mỗi khi dì dượng tôi tới thăm, má tôi than:

- Em có thể dạy con Lìn tài làm khéo, chớ làm sao dạy nó chuyện đạo lý được? Đây rồi rủi nó lỡ dại bị tụi ác ôn dâm tặc làm ẩu... thì biết sao đây? Nó thanh cao trong trắng như bông sen, lại khờ khạo có hiểu phải trái ra sao, nếu lỡ mang bầu, mang cái thứ tạp chủng trong bụng thì...

Má tôi rưng rưng nghẹn lời, không dám nói tiếp, không dám vẽ thêm ác mộng...

Dì tôi lấy khăn chậm nước mắt, mà nước mắt cứ tuôn:

- Chị van vái trời Phật cho nó một là đi tu được, còn hai là có thằng nào hào hiệp chịu đi cưới nó, chị sẽ ăn chay trường.

Sau nầy, chị Hai, chị Ba tôi kể lại, vừa khi chị Lìn bắt đầu có kinh nguyệt, mỗi tháng má tôi bắt chị phải trình đồ lót cho bà xem. Đồ lót đó thường ngâm trong chiếc vịm sành, ra nước đỏ ối. Má tôi sợ chu kỳ đỏ hằng tháng của chị Lìn lỡ bặt ngang thì đổ nợ ra...

Điều má tôi sợ vậy mà ứng nghiệm hai năm sau.

Tôi thương yêu chị Lìn của tôi như thương yêu bà mẹ thứ hai của mình. Những lúc tôi lầm lỗi, chọc ba tôi nổi sùng là roi mây ông quất tôi túi bụi. Những lúc đó chị Lìn liều mạng giựt roi ông, bằng không chị nai lưng ra hứng... Sau đó, khi kéo tôi ra nhà sau, chị cởi áo, cởi quần tôi ra, lấy dầu phọng xức lên lằn roi, vừa xức vừa khóc tầm tã... Tuy nhiên, chị không phát biểu một cử động nào để “nói” với tôi. Chị kéo tôi vào phòng chị, cho tôi xem những bức tranh chị đã thêu, những mặt gối, những chiếc khăn tay... Tôi không ưa những thứ đó, nhưng phải chăm chú xem cho chị vui lòng.

Và cũng một hôm tôi làm bể chiếc dĩa vẽ mai hạc của ba tôi. Sợ ăn đòn, tôi trốn vào buồng chị Lìn.

Chị ngồi ở khung cửa sổ, mắt chăm chú nhìn qua bên kia con rạch, nhà chú Tám xưởng mộc. Thợ mộc về buổi chiều, sau khi nghỉ việc, xúm xít ở sàn nước, lấy gáo sọ dừa, lấy gàu tre múc nước tắm. Thiệt ra khuôn viên nhà tôi có bọc một lớp rào tre. Nhưng vào năm 1945, phong trào thanh niên Tiền Phong nổi lên. Tre, tầm vông đều đốn, vạt nhọn để làm khí giới, nên rào tre trở nên thưa, bên nầy và bên kia có thể trông thông thống lẫn nhau.

Má tôi quên dời buồng chị Lìn, có lẽ vì mắc nhiều công chuyện nên bả quên việc đề phòng cơ bản đó chăng?. Lúc đó trời hơi nhá nhem. Nhưng ánh trăng mọc sớm cũng đủ rọi từng tấm thân thể trần trụi vạm vỡ đẫm nước, lấp lánh ánh bạc. Tôi táy máy thắp ngọn đèn hoa-kỳ đặt trên bàn kê gần cửa vô. Chị Lìn không bằng lòng, thổi tắt đèn. Dù sao, tôi vẫn thấy rõ mắt chị sáng kỳ dị, đôi má rạo rực, vẻ mặt bất an...

Tuần sau, là ngày tựu trường. Anh tôi phải qua Mỹ Thọ học trường Trung học. Còn hai chị tôi cũng lên Sài gòn, chị Hai học nữ công ở trường Mỹ Ngọc, chị Ba học trường Áo Tím... tôi quên mất cử chỉ kỳ lạ của chị Lìn dần dần...

Ba tôi có nuôi con chó Vá mình trắng đốm đen. Chị em tôi có vẻ lơ là với nó, trong khi đó chị Lìn săn sóc nó chu đáo. Má tôi thấy ba con chó Vện đực ở lối xóm mà đâm ra lo cho cái cô chó mỹ miều của mình. Cứ vào gần tháng 7 là bà buộc nó trong nhà, sợ nó lẹo tẹo với ba con đực Vện xấu xí mà đẻ con lộn giống chăng? Chó cái rượng đực mà bị xiềng trong nhà cứ tru, cứ hú thảm thiết quá, nên tôi lén thả nó ra. Lứa chó con năm ngoái chỉ có một con cò, còn toàn là năm con Vện con. Má tôi cho hết lũ Vện nhỏ, chừa con chó cò thì đem tặng dì Hai tôi. Gần lối tháng năm, lườn sông, lòng rạch quê tôi đã có đầy ốc hến, thì con Vá của tôi có một chứng bịnh gì không biết mà mõm nó có nổi hai cục mụt lớn cỡ hột trai ửng màu hường. Má tôi lấy thuốc đỏ, thuốc pô-mat lưu huỳnh xức cho nó mà hai mụt ghẻ ấy không chịu lặn. Tuy nhiên, chị Lìn của tôi vẫn săn sóc, tắm rửa nó đều đặn như tự bao giờ.

Một bữa trưa, tôi vào vườn hái ổi rồi đem ổi vào buồng chị Lìn để tặng chị. Tôi đi từng bước nhẹ, đẩy cửa nhẹ vào căn phòng đã mở rộng cửa sổ và chan hòa ánh nắng. Chị Lìn ngồi ở chiếc ghế đặt bên cửa sổ, ngó trân trối qua bên kia con rạch. Ba anh thợ mộc trẻ cũng nhìn chị như muốn đấu nhãn. Chợt thấy tôi xuất hiện sau lưng chị, họ bỏ vào trong xưởng. Ba anh thợ mộc này ở miệt Cái Sơn Lớn hay An Hương, Hòa Mỹ gì đó lên đây học nghề từ bốn tháng nay.

Trai tráng ở miệt ruộng vườn thì thường có bắp chân chắc, đùi to. Nay làm nghề thợ mộc, họ đều có ngực nở, tay cuồn cuộn bắp thịt. Tôi không để ý lắm khuôn mặt của họ, chỉ biết anh nào cũng có vẻ láu lỉnh. Vào những đêm trời trong, trăng tỏ, họ lấy đờn kìm ra dạo, rồi thay phiên nhau ca vọng cổ mùi mẫn... chị Lìn dù không nghe được gì, nhưng đêm trăng cùng mùi dạ lý thường làm chị bứt rứt, xốn xang.

Một hôm, dì tôi từ Cầu Dài lội bộ xuống thăm, mặt mày lo lắng. Má tôi cùng dì vào buồng chị Lìn đóng cửa lại. Có tiếng ghế xô ngã. Tôi chạy lại áp tai vào vách ván. Má tôi can:

- Bây giờ làm sao ngăn ngừa là tốt hơn. Nó có biết nghe, biết nói gì đâu. Lỗi tại em ráo trọi.

Dì tôi vẫn vừa tát con gái vừa rên rỉ:

- May mà nó câm, nó điếc. Nếu nó “được” như người thường thì nó còn đĩ ngựa giàn trời mây.

Chị Lìn lí nhí rồi khóc hu hu. Tôi còn nhỏ chẳng hiểu gì hết. Sau buổi trưa đó, chị Lìn tỏ ra ghét bỏ con Vá. Nó cứ đứng ngoài rào tre sủa luôn. Có đêm, tôi đang ngủ mơ màng thì nghe con Vá sồ ra sủa thật hăng và hình như nó đâm bổ vào một vật gì để cắn xé. Rồi thì tiếng chân chạy thịch thịch ngoài hè. Tôi nhảy xuống giường. Con Vá rượt đuổi một ai đó về phía rạch. Quả nhiên có nhiều tiếng lỏm bỏm lội qua rạch. Trời đêm tối thui.

Má tôi chợt hiểu nên bắt chị Lìn dời buồng và cho rào chặt dọc theo rạch. Vậy mà có lần tôi cầm ná thun đi bắn chim trong khu vườn làng, tức là vườn thuộc về chính quyền địa phương, không ai săn sóc. Đi sâu vào chỗ trồng toàn cây dâu miền dưới, tôi đã gặp chị Lìn trong bụi rậm đi ra, tóc tai xụ xọp, áo hơi nhèo, chiếc nút ở gần cổ quên gài... Chợt thấy chị từ xa, tôi nép vào đám cỏ song chằng để trốn. Chị men theo con đường mọc lau cỏ rồng chắn đi về phía bờ sông... Mãi một lúc sâu, có tiếng hút gió từ trong bụi rậm tiến về phía tôi. tôi càng giấu mình thật kỹ. Trời ơi, té ra ba anh thợ mộc trẻ, ở trần trùng trục, quần xà lỏn sơ sài... Tôi biết là họ đã làm chuyện ám muội với chị Lìn tôi, nhưng không thể tưởng tượng sự ám muội ra sao. Tôi sực nhớ cái hôm dì tôi vừa đánh vừa chửi chị Lìn, đoán mang máng là sự việc hôm đó cũng liên quan với sự việc hôm nay chớ chẳng không.

Chị Lìn có chửa. Chị Lìn ôm hoang thai.

Phong trào thanh niên Tiền Phong cùng Việt Minh lên nắm chánh quyền đã lôi kéo ba anh trai tơ ra khỏi xưởng mộc. Họ đi đâu biệt tăm, biệt tích. Những cái miệng độc ác đổ hô ba tôi là tác giả cái bào thai chị Lìn. Nhưng tụi chăn trâu, tụi con nít lại quyết chắc thủ phạm là ba anh thợ mộc vì chúng đã bắt gặp cả bốn trong vườn làng. Dì tôi than thở với má tôi:

- Thằng tía nó, thằng tài phú Phá Cẩm Xạch (Hoa Kim Thạch) đó, cũng bởi hắn ta lường tro đãi trấu mới có đứa con gái báo đời. Con nhỏ mặt mũi ngây ngô như vậy mà dám “thiếm xực” một hơi ba trự. Biết ai là cha đứa nhỏ đây? Con gái tui khờ khạo mà sao Trời đành cho nó mang cái thứ tạp chủng trong bụng vậy cà?

Má tôi nói:

- Chị à, nó có biết cái gì là phải, cái gì là trái đạo lý luân thường đâu ? Hoặc cái gì là điếm nhục gia phong đâu ? Thôi thì mình phải chịu nuôi con giùm nó, để sau nầy nó có chỗ nương tựa lúc tuổi già. Coi vậy chớ lẩm rẩm cái may thì luôn luôn nằm trong cái rủi đó chị.

Dần dà, tôi mới hiểu tại sao dì tôi đánh và chửi chị Lìn tôi vào bữa trưa. Số là má tôi đã bắt gặp chị mấy lần lảng vảng trước xưởng mộc, mắt ngó lấm lét vào bọn thợ trẻ. Má tôi đã nhấn mạnh, mắt tuy lấm lét, nhưng là mắt mời, mắt gọi, mắt đẩy đưa của con Thị Mầu... Nhưng có ai nhét được vào đầu óc chị Lìn tôi rằng liếc trai như vậy là bậy, là xấu ?

Làm sao chị hiểu được cái giáo dục dành cho phụ nữ phải như thế nào? Chị tới tuổi thèm khát yêu, yêu đơn giản như con chó Vá cái đi tìm ba con chó Vện đực. Không ai dạy chị liếc, dạy chị tạo cặp mắt mời gọi, đẩy đưa hết. Chị chỉ làm theo bản năng, hoặc có thể được, theo cái trực giác thâm sâu của mình. Vậy mà khi khám phá được chị có thai, dì tôi chồm tới, nghiến răng, ghịt đầu chị, nguyền rủa:

- Con đĩ thúi thây lầy lụa!

Làm sao chị nghe được mấy tiếng đó ? Chị ngơ ngác như tự hỏi tại sao mình bị đòn, bị ghịt tóc ? Chị không hiểu gì hết. Dì tôi vừa tát chị vừa chỉ cái bụng chị, có thể chị hiểu tại có cái biến chuyển trong bụng chị nên chị bị đòn, nhưng chắc chị vẫn không hiểu tại sao người ta có thể đánh người khác về cái biến chuyển đó ?

Nét mặt trong sáng, ánh mắt loáng gương và hiền dịu của chị hiện rõ vẻ hãi hùng, bi thảm như ánh mắt đứa trẻ thơ bị xô ngã. Chị Lìn tôi chỉ thông minh (tuyệt vời là khác) khi ngó qua đường kim mũi chỉ do má tôi dạy là chị có thể làm y chang. Nhưng về thói đời, về phong hóa, lề thói, lễ giáo chị mù tịt. Dì tôi đã thấy ba anh thợ mộc trẻ là quân thô tục... Cũng như ba con chó Vện đực kia, dưới nhãn quan má tôi quá xấu xí. Chị Lìn không thấy những gì xấu mà dì tôi đã thấy ở ba anh thợ mộc. Con chó Vá cái dĩ nhiên là hoàn toàn không cùng một ý nghĩ về cái đẹp xấu của loài chó đực như má tôi nên nó luân phiên hết giao hoan từ con Vện thứ nhất, sang tới Vện thứ ba..

Đó là những ý nghĩ khi tôi lớn lên, lúc đó chị Lìn đã qua đời khá lâu. Hôm chị bị đòn, tôi nhào tới để hứng đòn cho chị, cũng như chị đã từng hứng đòn cho tôi. Tôi khóc tối trời mù đất, cảm thấy cuộc đời, không riêng gì dì tôi sao có thể tàn nhẫn như vậy? Dì tôi thật ra chẳng phải muốn đánh con mình, dì muốn đánh cái bất hạnh của mình dù nó đã thể hiện qua đứa con tàn tật. Đánh xong, dì tôi khóc ngất.

- Thà trời đày tôi xuống chín tầng địa ngục mà cho con Lìn nói được, nghe được, để nó hiểu cái gì phải, cái gì trái.

Chị Lìn vẫn ở nhà chúng tôi chớ không về Cầu Dài. Dì tôi không muốn ở chỗ buôn bán đông người mà chị lại mang cái bụng chửa bẹo hình bẹo dáng thiên hạ. Khi mùa mưa thoảng xa thì nước dòng sông Cổ Chiên xanh trong. Cây điều, cây lụa trong vườn nẩy lá non mỏng, tươi ngăn ngắt, đọt chiết phớt hồng, đọt lùa màu lá mạ. Hôm chị Lìn lặt lá bốn cây mai trong sân thì anh tôi ở Mỹ Tho cùng chị Hai, chị Ba tôi ở Sài gòn hẹn tháp tùng về nhà ăn Tết.

Không ai tỏ vẻ gì trước biến cố của chị Lìn. Anh chị thường xem sự hiện diện của chị Lìn như không có, từ bao lâu họ thỏa hiệp (có thể coi là quen thuộc) bóng dáng cần mẫn và yên lặng của chị Lìn vì chị Lìn không làm phiền lụy ai, luôn luôn làm lụng tận tụy, gương mặt tươi tỉnh, thản nhiên, cái nhìn lúc nào cũng trống vắng, vô hồn. Má tôi yêu chị Lìn như yêu một tác phẩm của mình. Sự hiện diện của chị Lìn làm bà vung vải được tấm lòng từ bi nhân đạo của mình. Mới khi nhìn những mũi thêu tinh vi của chị trên nền vải lụa, bà tỏ vẻ hả hê vì mình đã ra công biến cải một con ngốc nghếch, tàn tật thành “một kẻ không đến nỗi nào”.

Có thể là cha tôi si tình chị Lìn tôi, đôi lúc tôi thấy ông nhìn chị hơi lâu, lúc má tôi vắng nhà. Năm đó ông đã ngoại tứ tuần, còn tươi, còn rắn chắc. Nhưng vốn cầu an, quen sợ nể vợ nhà, lại không thích chuyện phiền phức nên ông không thích làm chuyện phiêu lưu đó thôi. Ông đành chọn vị trí người dượng rể, vui trong sự săn sóc và hiện diện cả dì lẫn cháu.

Còn tôi, tôi yêu thương chị như một bà mẹ thứ hai. Lúc tôi bị đòn, lúc tôi buồn là luôn luôn có chị. Những lúc đó, chị đến bên tôi nhẹ nhàng xoa đầu tôi, đôi mắt không còn trống rỗng nữa, cái nhìn buồn và “có hồn” hơn.

Khi chị qua đời, suốt quãng đời hoa niên của tôi, cái bóng ma và cuộc đời chị ám ảnh tôi không ngớt. Tôi cứ tự hỏi chị Lìn tôi hiểu cuộc đời như thế nào? Chị nhìn cuộc đời như nhìn qua một cuốn phim câm. Cả nhà dì dượng tôi, cả nhà tôi ai cũng làm biếng khoa chân múa tay để trao đổi ngôn ngữ tay chân với chị, dù có vung vít hoạt động song đó vẫn là ngôn ngữ câm thì làm sao để chị hiểu trọn vẹn?

Bộ óc của chị do đó mà lười hoạt động, cái nhìn thường trống vắng, vô hồn. Phải chi chị được học ở trường câm điếc, chị có một ngôn ngữ riêng để trao đổi với bạn bè đồng cảnh ngộ thì tâm hồn chị sẽ phong phú hơn.

Nhưng dù ba anh thợ mộc vốn “phường tạp chủng”, đen điu thô bạo, kệch cỡm (theo quan niệm của má tôi) lại chơi trò đoản hậu đánh trống bỏ dùi, nhưng họ đã nhóm trong mắt chị một ánh sắc rạng ngời hơn, truyền cảm hơn. Cái nhìn của chị không còn vô hồn nữa. Chị có vẻ suy nghĩ hơn, có vẻ buồn rầu uể oải hơn. Mỗi chiều chị men về dòng rạch, ngó qua xưởng mộc, nước mắt chị ứa ra, ướt đẫm má.

Hai mụt ghẻ trên mõm con chó Vá không chịu lặn mất. Rồi tuần tự những mụn ghẻ nối tiếp mọc lên kết thành một miếng dày nổi cộm tròn tròn, miếng thịt quái ác lớn dần thành một bàn tay.

Dù nó không chảy nước vàng, nhưng trông nó dễ khiếp. Má tôi sau một thời gian suy nghĩ, bà nhất định cột đá vào cổ con chó, chở nó bằng xuồng ra sông Cổ Chiên để bỏ nó chìm luôn trong đáy nước.

Hôm “thủy táng” con chó chỉ có chị Lìn và tôi. Nước lớn đầy sông, sóng vỗ ào ào, nhưng trời lại ngập tràn nắng đẹp. Con chó ngồi gần tôi, thỉnh thoảng liếm vào tay tôi... và trời ơi, trời đất ơi! Nước mắt nó chảy ròng ròng, dù tôi chưa tròng vào cổ nó cái bị có đựng cục đá xanh thật lớn. Khi tới giữa sông, tôi vừa khóc vừa tròng cái bị vào cổ con chó, nó không giẫy dụa gì hết, chỉ ngoắc đuôi.

“Um” một tiếng, con chó và cái bị đựng cục đá quăng vào nước. Sóng lấp xấp tràn tới xóa mọi dấu vết. Hình ảnh ghê tởm đã được con sông chôn vùi. Chị Lìn vừa bơi xuồng về bến nhà vừa khóc nức nở.

Sau buổi thủy táng đó, tôi bị trúng gió (có thể như vậy chăng?) ngã bịnh liệt giường. Trong những cơn mê, tôi thấy con chó ngoi lên từ mặt nước rập rờn sóng, lội qua bên kia sông, chỗ bãi cồn An Thành mọc đầy cây trầm thủy như cây bàn, cây muối, cây vạt sành. Lại có lúc, tôi thấy thây nó nổi phình lên tấp vào những giề rau mác, rau lục bình trổ hoa tím. Lại có lúc, tôi chỉ thấy cái lưỡi nó liếm vào tay tôi, hoặc chỉ thấy cái đuôi nó ngúc ngoắc.

Và cái ấn tượng mạnh nhất đã xâm vào ký ức tôi là đôi mắt tuôn lệ của nó. Đôi mắt đã lồng vào từng cơn chiêm bao của tôi.

Tôi nằm bịnh suốt tuần. Cả chị Lìn nữa. Nhà tôi không ngớt bà con họ hàng tới thăm. Dượng tôi đưa thầy Chín Đăng tới chẩn mạch cho hai chị em. Má tôi thì nghĩ rằng oan hồn con chó ám ảnh hai chị em nên bà xuống chùa Sơn Thắng ở làng Cái Sơn Bé cách nhà từ đường của ba tôi tụng kinh Cầu An cho hai chị em và tụng kinh vãng sanh cho con chó luôn.

Ni sư Diệu Pháp lúc đó sáu mươi ngoài, mặt hồng hào. Bà tu pháp môn Tịnh Độ, vốn là người dì họ của ba tôi. Nghe nói hồn còn nhỏ, bà ở trong nghề dao búa, trôi nổi từ Cái Vồn (tỉnh Cần Thơ) rồi lên miệt Tân Châu, Hồng Ngự, Nam Vang. Bà đã từng chém lính tàu tuần Pháp khi tụi nó ve vãn sàm sỡ với bà. Rồi bỗng dưng bà ta xuất gia, trường trai, tụng kinh và niệm Phật.

Trong thời gian ni sư Diệu Pháp ở nhà tôi, má tôi dành cho bà một gian phòng sạch sẽ, có giường gỗ trải nệm, có tủ áo, tủ “com-mốt”, bàn gỗ dài chất đầy lọ thuốc, hộp thuốc, lọ dầu, dĩa cam, hộp trà, ấm chén và cái rề sô để sư cô tự tay pha trà. Ni sư đem cuốn kinh Quán Vô Lượng Thọ chỉ cho cả nhà tôi xem hình về thế giới Cực Lạc do Phật A Di Đà cùng hai vị Bồ Tát là đức Quan Thế Âm và đức Đại Thế Chí trông coi. Chị Lìn lúc đó cũng nổi hứng xáp lại. Đôi mắt chị như van nài sư cô giải thích. Ni sư sau lúc giảng kinh cho mọi người nghe xong, kéo chị Lìn ngồi xáp lại gần cuốn kinh. Bà lật từng trang hình vẽ bằng nét tỉ mỉ, rồi bà khoa tay múa chân để “nói” với chị Lìn. Kỳ lạ, đôi mắt chị không còn có vẻ trống rỗng ngơ ngác như sau cơn bịnh nữa, trở nên sùng mộ vô biên. Ní sư và chị cứ múa tay. Cả hai cùng gật đầu theo từng giai đoạn diễn biến của cuốn kinh. Từng trang kinh cứ lật. Hai người đàn bà, một trẻ một già, một tục một tu, cứ trao đổi ngôn ngữ bằng cách khoa tay, đôi lúc múa chân.

Ai dám bảo là chị Lìn không hiểu những gì trong kinh Quán Vô Lượng Thọ ? Ai dám bảo ni sư không dìu dắt được chị Lìn vượt qua khỏi thế giới câm điếc để đi vào trang kinh? Lúc đó, có vài người chị họ (con của các cậu tôi) cùng vài bà hàng xóm.

Lúc đầu, ai cũng tưởng ni sư đùa giỡn với cô gái khờ khạo, dễ thương kia. Nhưng họ quên rằng một nhà tu làm sao có thể trửng giỡn như kẻ phàm phu thế tục được?

Nét mặt ni sư có vẻ cảm động, mắt có ngấn lệ trong khi nét mặt của chị Lìn càng phơi phới và trong sáng hơn. Khi quyển kinh lật tới trang cuối, bỗng dưng chị Lìn đổi sắc mặt, buồn rũ xuống và ôm mặt khóc, rút lui về buồng.

Cậu Sáu, người anh kế của má tôi từ Nha Mân lặn lội lên thăm hai cháu. Má tôi thuật hết tự sự cho cậu nghe. Cậu trầm ngâm một lúc lâu rồi trách:

- Em Bảy à, chị Hai và em thương con Lìn không phải cách. Thay vì em đưa nó vào trường câm điếc để nó học “nói”, học văn hóa để hiểu đạo lý, đàng nầy em bắt nó ở nhà học thêu, trong khi đó nó tiếp xúc cuộc đời chỉ bằng mắt, ngoài mũi lưỡi, miệng nếm đồ ăn. Nếu con Lìn hiểu rằng bị dụ dỗ làm chuyện dâm uế là nhục thì nó đâu có để cho ba thằng quỷ “xên” nó? Còn con chó, thay vì đem đến Sở Thú Y lúc đầu, em cứ trị nó bằng xức ghẻ thông thường...

Má tôi buồn lắm, dù sao bà cũng đã nuôi chị Lìn lâu năm, tấm lòng người dì cũng đổi dần thành tấm lòng người mẹ. Bà nói:

- Con Lìn đẻ xong, em cho nó vào trường câm điếc.

Ni sư Diệu Pháp trước khi về chùa Sơn Thắng, có tặng cho ba má tôi bức tranh A Di Đà Tam Tôn. Ba tôi cho đóng khung và lộng kiếng bức tranh, lập bàn thờ ở trung đường bức tranh ấy.

Chị Lìn cứ thắp nhang, trải chiếu quỳ khá lâu, tay chắp lại, thành kính chiêm ngưỡng. Nhưng ở trung đường thường có khách đến viếng nên rất ồn ào.

Ba tôi đành gửi người quen mua bức tranh A Di Đà khác rồi treo ở trong một căn phòng nhỏ, dành cho chị Lìn thắp nhang cúng nước và ngồi chiêm ngưỡng. Quả thiệt tôi chưa thấy tấm lòng sùng mộ của ai hơn tấm lòng sùng mộ của chị. Chị có thể quỳ hoặc ngồi tĩnh tọa mắt ngó hằng giờ lên tranh Phật, và lâu lắm mắt chị mới chớp. Cái nhìn của chị từ hôm ni sư Diệu Pháp đến tụng giảng Kinh Quán Vô Lượng Thọ trở nên rực rỡ kỳ lạ, giờ đây mỗi khi mường tượng lại, tôi có cảm tưởng nó có ngôn ngữ tha thiết để nhắn nhủ người đối diện: “Các người hãy xem đây, tôi cũng có một đời sống nội tâm. Mà bầu trời tâm cảnh của tôi đã thắp được một thứ ánh sáng lạ tự miền Cực Lạc !”

Nhưng cũng chính giờ đây làm sao tôi cắt nghĩa nổi sự sùng kính và niềm tin của người con gái tàn tật kia? Ai cũng thương xót cho chị Lìn bị ba tên thợ mộc trẻ làm hư hỏng nhưng có ai hiểu ý nghĩa hai dòng nước mắt của chị như thế nào vào lúc chiều chiều chị nhìn qua xưởng mộc? Và làm sao tôi hiểu thấu cuộc đàm thoại giữa sư cô Diệu Pháp và chị Lìn? Nhưng tôi nhận thấy từ lúc chị quỳ trông lên tranh Phật, chị như sắp biến thành pho tượng, gương mặt như lắng vào phút giây sùng kính ngưng đọng và im sững dần dần như gương mặt pho tượng.

Hầu như chị Lìn không để ý đến cái thai gần lâm bồn. Chị cứ thích chiêm ngưỡng tranh Phật. Có đêm tôi thức giấc, đi vòng ra sau hậu điện, đến dãy bồn, ảng, lu, kiệu, khạp, chóe nơi dãy nhà mới để tìm nước mưa uống giải khát,...
... thì thấy trong buồng đặt bàn thờ Phật nhỏ còn thắp ánh đèn. Tôi uống nước xong, chạy lại khe vách dòm vào. Trên bàn Phật, cây nhang đang cháy, tuôn khói, còn chị Lìn quỳ trước bàn Phật, chiếc gối tai bèo kê trên đầu gối.

Kỳ sanh nở, chị Lìn bị chứng nhau chằng, đau đớn từng cơn mệt lả... Suốt tám tiếng đồng hồ mà đứa con chưa chịu chui ra. Cô mụ hương thôn lấy mủ cây đu đủ phết lên gang bàn chân chị, mà vẫn không hiệu quả. Túng thế, má tôi đưa chị đi nhà thương. Cái nhau chằng vừa gỡ ra là chị sanh dễ dàng, chuyện đơn giản mà cô mụ không biết, để đến nỗi chị Lìn bị hành thân hoại thể khá lâu...

Bốn tháng sau, chị Lìn qua đời. Không rõ chị bịnh gì? Chị không nằm liệt, không lên cơn sốt gì hết. Nghe má tôi nói khoảng thời gian gần đây, ngày nào chị Lìn cũng ngồi chắp tay trước bức tượng đức Phật A Di Đà, chăm chú ngắm nhìn dường như không bao giờ mỏi mắt, đôi mắt chẳng lúc nào rời hình ảnh đức Phật cả. Bất cứ lúc nào, má tôi cũng bắt gặp chị Lìn “dán mắt” vào bức tượng, ngay cả khi thêu đan, tuy hai bàn tay của chị thoăn thoắt trên tấm vải nhưng đôi mắt vẫn luôn luôn hướng về đấng từ bi với niềm vui sướng hạnh phúc tột cùng.

Trong tuần lễ cuối đời cũng vậy, chị cứ hết thêu đan là chiêm ngưỡng tranh Phật.

Từ khi chị sanh nở, không hiểu sao chị không có sữa. Dì tôi đành đem đứa nhỏ đi ở nhà người vú. Lâu lâu chị Lìn tháp tùng mẹ đi thăm con, mắt chị rạng rỡ, chị hôn hít con như bao người mẹ khác. Trước khi ra về, chị cầm hai tay đứa nhỏ chắp lại và bắt nó xá xá...
Một sáng nọ, không thấy chị nấu nước cúng Phật, má tôi liền vào buồng tìm chị. Chị đã chết, nằm ngay ngắn, bức tranh Phật áp trên ngực, tay chị còn chắp lại. Dù thương tiếc chị, dì tôi và má tôi tỏ vẻ bằng lòng vì nét mặt của chị lúc chết êm đềm, hiền dịu như ngủ, mà có phần đẹp hơn ngày bình thường. Nụ cười của chị dù chỉ mỉm nhẹ nhưng lại tươi thật là tươi, môi mọng thắm.
Vì đỉnh đầu chị còn nóng rực, nên mãi tới ba ngày sau, má tôi mới cho tẩn liệm chị.
Cái chết của chị Lìn dường như đã ám ảnh cuộc đời tôi một cách lâu lắc, quá lâu. Có thể nói rằng trọn kiếp sống này tôi không bao giờ quên được hình ảnh chị an lành ngừng thở, đầu nóng như lửa, nhưng trên tay còn ôm ấp bức tượng A Di Đà, như muốn đức Phật truyền ban ánh quang minh vô lượng và sanh khí vĩnh cửu cho mình trong cõi sống âm u ngột ngạt của một người câm điếc. Bởi vì tôi chẳng có chút hiểu biết về Phật giáo cho nên tôi không tự mình giải thích nổi sự kiện tâm linh ấy, và tôi cũng luôn cảm giác lờ mờ về biến cố thiêng liêng mầu nhiệm đã đeo đẳng bản thân suốt mấy chục năm trường.
Cho đến ngày sang Mỹ định cư, mỗi lúc chiều buông, anh em rủ nhau nhâm nhi bên ly rượu, riêng tôi thường cầm ly mà không uống, và cũng chẳng nhắp.

Tôi thẫn thờ nhớ về hình ảnh chị Lìn. Chị nằm an lành, kính cẩn áp ngực vào bức tượng A Di Đà. Tôi không thể hiểu được đức Phật A Di Đà đã chiếu rọi vào thân tâm chị Lìn những năng lực mầu nhiệm nào để khiến chị từ giã cuộc đời này một cách an lành, hạnh phúc như vậy.

Gần đây, tình cờ gặp lại bác Tịnh Hải, tên thật của ông ta là V.Đ.P, trước là chủ báo nổi tiếng của Sài-gòn cũ, nay không hiểu vì sao chuyển sang ăn chay niệm Phật và nghiên cứu kinh điển. Tôi mừng húm, bèn đem tất cả mọi chuyện về cái chết kỳ lạ của chị Lìn thuật lại cho ổng nghe, rõ rõ ràng ràng từng chi tiết lớn nhỏ.

Nghe xong, ổng bảo :

- Mừng cho anh có người chị hết sức tuyệt vời. Chị Lìn đã giải thoát, đã đạt được thành quả mà vô số những người Phật tử luôn luôn khát khao mơ ước. Nói theo ngôn ngữ nhà Phật, thì chị Lìn đã vãng sanh.

Tôi gạn hỏi :

- Vãng sanh ? Nghĩa là làm sao? Xin bác làm ơn giảng rõ cho cháu đặng chăng?

- Vãng sanh ... là ... Chà, thiệt khó nói quá. Anh tạm thời cứ hiểu như vậy : vãng sanh nghĩa là tâm linh chị Lìn được chuyển đổi bởi năng lực bất khả tư nghị của đức Phật A Di Đà. Và qua năng lực vi diệu ấy, chị đã hoán cải tâm linh nhiễm dơ của mình trở thành “tâm thức giác ngộ”, ... ờ ờ, nhà Phật gọi là “hoa khai kiến Phật”, tạm thời phải diễn tả như vậy, như vậy, ...

Nói dài dòng là phải nói như vầy : Tuy chị Lìn là một người câm điếc hoàn toàn, vô văn hóa, vô lễ nghĩa, vô trí thức - nhưng ni sư Diệu Pháp đã nỗ lực và khéo léo “thuyết giảng” bằng ngôn ngữ đặc biệt nào đó, khiến cho chị ta thâu nhận, thấu hiểu ý nghĩa của kinh Quán Vô Lượng Thọ - rồi tuyệt đối tin tưởng vào năng lực cứu độ và lòng thương yêu chúng sanh vô hạn của đức A Di Đà cùng cõi Phật trang nghiêm vi diệu. Ni sư Diệu Pháp cũng đã giúp chị Lìn phát nguyện vãng sanh Cực Lạc bằng cách nhất tâm xưng niệm danh hiệu Phật. Cuối cùng chị Lìn đã đạt thực hành pháp môn Niệm Phật theo kiểu cách đặc biệt rất riêng của mình và đã đạt kết quả như ý. Với niềm tin, với trình độ Phật pháp của tui, với tất cả những điềm lành xuất hiện lúc lâm chung của chị, thì tui nghĩ, chị Lìn đã rốt ráo giải thoát, chứng ngộ ngay giờ phút lâm chung và đã được đức A Di Đà tiếp dẫn về thế giới Cực Lạc !

Tôi thắc mắc :

- Chị Lìn vừa câm vừa điếc, làm sao mở miệng niệm Phật cho đặng ?

Bác Tịnh Hải cười ngất :

- Thì ... chị Lìn niệm Phật bằng ... đôi mắt chứ sao ? Chúng ta có lổ miệng thì mình niệm Phật bằng môi, bằng miệng, bằng lưỡi. Người không có miệng để niệm ra tiếng như tụi mình thì niệm Phật bằng mắt ... Chính anh biết đó, chị Lìn đã niệm Phật bằng mắt bởi vì trong hoàn cảnh gọi là “thiếu căn” của chị, chị Lìn buộc phải niệm Phật bằng hai con mắt, vốn là khí cụ duy nhất để truyền thông và phát tín hiệu cho thế giới bên ngòai. Tuy có khó khăn nhiều đó, nhưng nếu chị không sử dụng cặp mắt thì biết làm sao bây giờ? Không được hay sao?

Điều đáng nói ở đây là : năng lực cứu độ của đức Phật quả thiệt là không thể nghĩ bàn ! (bất khả tư nghị !)

Tôi trở thành con người nhất tâm tin Phật từ đó, và bài viết này được xem như là một kỷ niệm trân trọng của một bước khởi đầu. Tôi về đâu ? Nếu không phải là mạnh dạn cất bước tiến vào hành trình trở về cõi Phật A Di Đà, như chị Lìn của tôi đã thành tựu trước đây mấy mươi năm ?

Xin xem bài viết này như một nén nhang cảm ơn đức Phật A Di Đà, cảm ơn ni sư Diệu Pháp. Xin cảm ơn chị Lìn và nhất là, xin cảm ơn những lời chỉ dẫn tận tình của cư sỹ Tịnh Hải. Cuối cùng, xin cảm ơn tất cả quý vị đã chịu khó bỏ thời gian quý báu mà đọc tới đây.

Nam mô A Di Đà Phật

Hồ Trường An

lieuquanhue.com
Nguồn: http://daitangkinhvietnam.org/van-hoc-v ... di-da.html" target="_blank

Câu truyện với đoạn đầu yên ả, đoạn jữa bùn cho thân fận 1 ng con gái câm, điếc khi ở độ tuổi xuân nồng làm sao tránh khỏi cảm dỗ trần tục, những dục vọng rất con người! Người con gái này có lẽ sống tốt nên khi mất đi mới ấm dc đỉnh đầu.

Bà Ngoại em lúc mất chỉ ấm dc đến ngực.
Được cảm ơn bởi: Nhất Niệm

mythinh1912
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2116
Tham gia: 13:02, 20/09/11

TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ

Gửi bài gửi bởi mythinh1912 »

Nhất Niệm đã viết:
mythinh1912 đã viết:
Chị chưa ngủ nữa àh? Vậy chị thuộc ng ngủ ít rùi. Em cũng có ngày 5,6h sáng mới chợp mắt được. Chị NN có thích những nơi ồn ào kô chị? Em thì cực ghét! Vừa nãy em vừa fải đi uống cf ở 1 wán cf cực kỳ ồn ào, nồng nặc mùi thuốc lá! Ghét thật! Đau hết cả đầu!

Em đag mong đợi cái chuỗi hạt chị àh! Em mạng hỏa, đeo chuỗi này thì chắc là hợp! :">
Chị ngủ ít, em a.

Ko, em. Từ bé chị đã ko thích ồn ào rồi! Lúc ở đại học, tuy chị đã có tự do vì chị ko sống chung với gia đình, và bạn bè lúc ấy đã rủ chị đi clubs/bars, nhưng chị ko thích đi vì tính chị ko thích các chổ ồn ào thế! Chị lại ko biết uống beer/rượu thì đi làm gì :) Các bạn nam của chị đã thắc mắc sao chị khác các cô khác quá, vì nếu ko đi làm thì chị rút vô góc thư viện ngồi học bài và cuối tuần lái xe đi chùa với bạn, thế thôi. Họ hỏi sao chị ko chụm ba, chụm bảy đi chơi, đi shopping như các cô khác! Tính chị ở ngoài trầm lặng và giản dị :)

Oh, vậy đời sống chị cũng khép kín! Trước đây em hay cf với bạn bè lắm, nhưng chỉ đến những wán cf yên tĩnh, nhẹ nhàng. Em sợ tiếng ồn và nơi nồng nặc thuốc lá! Khoản hơn 1 năm đổ lại đây em chỉ thíx cf 1 mình ở nơi yên tĩnh, kô thích chơi với bạn bè nhìu.

Vậy chị fải là ng thích đoc sách! Em cũng đã từng thích đọc sách nhưng em kô thich tiểu thuyết, nghe nhạc nhẹ, kô thích xem film cho lắm. Giờ trí nhớ em kém wá nên cũng ít đọc sách như trước.

NGoài sở thích niệm Phật, đi chùa chị còn thích làm gì vào lúc rãnh rỗi?
Được cảm ơn bởi: Nhất Niệm

Hình đại diện của thành viên
Nhất Niệm
Cửu đẳng
Cửu đẳng
Bài viết: 11610
Tham gia: 07:52, 12/12/10
Đến từ: Việt Nam

TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ

Gửi bài gửi bởi Nhất Niệm »

mythinh1912 đã viết: Câu truyện với đoạn đầu yên ả, đoạn jữa bùn cho thân fận 1 ng con gái câm, điếc khi ở độ tuổi xuân nồng làm sao tránh khỏi cảm dỗ trần tục, những dục vọng rất con người! Người con gái này có lẽ sống tốt nên khi mất đi mới ấm dc đỉnh đầu.

Bà Ngoại em lúc mất chỉ ấm dc đến ngực.
NÓng ở đỉnh đầu là cô ấy đã dc vãng sinh đó, em a. Đôi mắt Di Đà là ý nói cô gái câm, điếc ấy đã dùng đôi mắt để niệm Phật và đã dc vãng sinh rồi đấy, vì cô ấy:
1. nóng đầu
2. khi mất vẻ mặt tươi, đẹp, thanh thản, và ôm hình Phật trong tay khi mất!

Là Phật đã tiếp dẫn cô ấy đấy!

Bà ngoại em ấm ở ngực là sẽ đầu thai làm người :)
Được cảm ơn bởi: mythinh1912

Hình đại diện của thành viên
Nhất Niệm
Cửu đẳng
Cửu đẳng
Bài viết: 11610
Tham gia: 07:52, 12/12/10
Đến từ: Việt Nam

TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ

Gửi bài gửi bởi Nhất Niệm »

mythinh1912 đã viết:
Nhất Niệm đã viết:
mythinh1912 đã viết:
Chị chưa ngủ nữa àh? Vậy chị thuộc ng ngủ ít rùi. Em cũng có ngày 5,6h sáng mới chợp mắt được. Chị NN có thích những nơi ồn ào kô chị? Em thì cực ghét! Vừa nãy em vừa fải đi uống cf ở 1 wán cf cực kỳ ồn ào, nồng nặc mùi thuốc lá! Ghét thật! Đau hết cả đầu!

Em đag mong đợi cái chuỗi hạt chị àh! Em mạng hỏa, đeo chuỗi này thì chắc là hợp! :">
Chị ngủ ít, em a.

Ko, em. Từ bé chị đã ko thích ồn ào rồi! Lúc ở đại học, tuy chị đã có tự do vì chị ko sống chung với gia đình, và bạn bè lúc ấy đã rủ chị đi clubs/bars, nhưng chị ko thích đi vì tính chị ko thích các chổ ồn ào thế! Chị lại ko biết uống beer/rượu thì đi làm gì :) Các bạn nam của chị đã thắc mắc sao chị khác các cô khác quá, vì nếu ko đi làm thì chị rút vô góc thư viện ngồi học bài và cuối tuần lái xe đi chùa với bạn, thế thôi. Họ hỏi sao chị ko chụm ba, chụm bảy đi chơi, đi shopping như các cô khác! Tính chị ở ngoài trầm lặng và giản dị :)

Oh, vậy đời sống chị cũng khép kín! Trước đây em hay cf với bạn bè lắm, nhưng chỉ đến những wán cf yên tĩnh, nhẹ nhàng. Em sợ tiếng ồn và nơi nồng nặc thuốc lá! Khoản hơn 1 năm đổ lại đây em chỉ thíx cf 1 mình ở nơi yên tĩnh, kô thích chơi với bạn bè nhìu.

Vậy chị fải là ng thích đoc sách! Em cũng đã từng thích đọc sách nhưng em kô thich tiểu thuyết, nghe nhạc nhẹ, kô thích xem film cho lắm. Giờ trí nhớ em kém wá nên cũng ít đọc sách như trước.

NGoài sở thích niệm Phật, đi chùa chị còn thích làm gì vào lúc rãnh rỗi?
Chị có khả năng chơi thể thao khá, em a.

Chị chơi tennis rất ok.

Lúc Trung Học, chị cũng đã tham gia đội tuyển cầu lông đi đấu cho trường trong toàn thành! Cầu lông chị ko có thích bằng tennis, nhưng bà coach năn nỉ chị tham gia đi đấu nên chị đã tham gia! Đội cầu lông của trường chị lúc ấy xê'p hạng 1 trong toàn thành! Đội trường chị đi đâu đánh mấy trường kia đều sợ cả vì bỏ xa bọn họ! Cứ học kỳ 1 là chị tham gia đội tuyển của tennis; học kỳ 2 là chị tham gia trong đội tuyển cầu lông! Năm lớp 9 chị đã tham gia đội bơi, nhưng chị đã ko tiếp tục tham gia và các năm còn lại thì chị tham gia 2 bộ môn trên.

Bà Coach cho đội cầu lông đã muốn chị tham gia vì đội ko có người khác có khả năng, mà khả năng của chị cũng chẳng giỏi gì! CHị đã dc xếp hạng 3, nữ single, trong đội! Bà coach ko muốn đội trưỜng của chị bị mất hạng trong toàn thành vì trưỜng chị lúc ấy đội cầu lông mạnh dữ lắm nên bã muốn chọn những người có khả năng 1 chút, chứ bã ko đưa đại người trong đội dự bị lên đâu!

Đội tennis của trường chị ko mạnh bằng đội cầu lông!

Cũng như tennis, chị cũng đã tham gia đấu thôi, chứ ko có đi đánh tournaments để đoạt giải nên đã chẳng lãnh cup gì cả!
Được cảm ơn bởi: mythinh1912

Hình đại diện của thành viên
Nhất Niệm
Cửu đẳng
Cửu đẳng
Bài viết: 11610
Tham gia: 07:52, 12/12/10
Đến từ: Việt Nam

TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ

Gửi bài gửi bởi Nhất Niệm »

Nói chung, môn gì cầm vợt là chị chơi rất ok. Chị chơi tennis, cầu lông, và bóng bàn khá! Chị bơi cũng ok, và nhảy ván cũng dc.

Hình như tuổi Ngọ có chút năng khiểu thể thao thì phải!?

Chị thích thể thao vì nó tốt cho sức khỏe, luyện tinh thần, luyện tính cách giao lưu trong đoàn thể (teamwork), và có thể dùng chiến lưỢc trên sân để đối thủ chạy :)

Nhưng, mục đích quan trọng hơn cả đối với chị khi tham gia các đội tuyển thể thao hồi Trung Học là để cạnh tranh thi vào đại học! Bên chị em tốt nghiệp với điểm chuẩn chưa đủ, mà họ muốn em là 1 người ko chỉ mọt sách, mà là người có đóng góp lợi ích trong cộng đồng, xã hội, nên ngoài tham gia các đội thể thao, chị đã tham gia trong các câu lạc bộ trong trường, :) Thời đó, chị còn đi làm ngoài giờ nữa! Chị đi làm tutor vừa kiếm tiền vừa ôn kiến thức nữa, nên 1 công 2 việc! Cũng chẳng cực nhọc gì mấy! Trường Trung Học của chị lúc ấy đã mưỚn chị dạy kèm môn toán!

Bên chị học sinh Trung Học khá năng động!
Sửa lần cuối bởi Nhất Niệm vào lúc 18:50, 14/12/11 với 2 lần sửa.
Được cảm ơn bởi: mythinh1912

Đã khóa