Bất Đoạn đã viết: ↑23:04, 19/10/19
- Tham khảo về Ba la mật: Lục độ ba la mật hay Thập độ ba la mật? Như nhau tuỳ tông phái.
1. Sáu Ba-la-mật-đa (Lục Ba-la-mật-đa)
Theo Phật giáo Đại thừa, kinh Diệu pháp liên hoa thì sáu điều toàn hảo là (sa: từ gốc trong tiếng Phạn (sankrit):
1.1 Bố thí ba-la-mật-đa (zh. 布施波羅蜜多, sa. dāna-pāramitā): Sự toàn hảo trong việc hiến tặng, cung ứng vật cho người khác.
1.2 Giới ba-la-mật-đa (zh. 戒波羅蜜多, sa. śīla-pāramitā): sự toàn hảo trong việc nghiêm túc chấp trì giới, giới luật, sát nghĩa trong Phật giáo là 5 giới cho cư sĩ và các cấm giới cho tăng và ni, người xuất gia
1.3 Nhẫn ba-la-mật-đa (zh. 忍波羅蜜多, sa. kṣānti-pāramitā): sự kiên nhẫn/chịu đựng/chấp nhận toàn hảo
1.4 Tinh tiến ba-la-mật-đa (zh. 精進波羅蜜多, sa. vīrya-pāramitā): tinh tiến, cố gắng, kiên trì
1.5 Thiền ba-la-mật-đa (zh. 禪波羅蜜多, sa. dhyāna-pāramitā): Toàn hảo trong lĩnh vực thiền/thiền định
1.6 Huệ ba-la-mật-đa (zh. 慧波羅蜜多, sa. prajñā-pāramitā): trí huệ toàn hảo
2. Mười Ba-la-mật-đa
Theo Thượng tọa bộ (hay Phật giáo Nguyên Thủy), mười điều hoàn thiện (pa. pāramī) là (từ gốc trong tiếng Pali):
2.1 Dāna (sa. dāna): bố thí
2.2 Sīla (sa. śīla): trì giới
2.3 Nekkhamma (sa. niṣkramaṇa): xuất gia (từ bỏ cuộc sống tại gia cư sĩ)
2.4 Paññā (sa.prajñā): trí tuệ
2.5 Viriya (sa. vīrya): tinh tấn
2.6 Khanti (sa. kṣānti): nhẫn nại
2.7 Sacca (sa. satya): chân thật
2.8 Adhiṭṭhāna (sa. adhiṣṭhāna): quyết định
2.9 Mettā (sa. maitrī): tâm từ
2.10 Upekkhā (sa. upekṣā): tâm xả
- Tham khảo 37 phẩm bồ đề (trợ cho giác ngộ) - Tam thập thất bồ-đề phần bao gồm:
1. Tứ niệm xứ (四念處)
- Quán Thân bao gồm sự tỉnh giác trong hơi thở, thở ra, thở vào (pi. ānāpānasati), cũng như tỉnh giác trong bốn dạng cơ bản của thân (đi, đứng, nằm, ngồi). Tỉnh giác trong mọi hoạt động của thân thể, quán sát 32 phần thân thể, quán sát yếu tố tạo thành thân cũng như quán tử thi.
- Quán Thọ /Thụ là nhận biết rõ những cảm giác, cảm xúc dấy lên trong tâm, biết chúng là dễ chịu, khó chịu hay trung tính, nhận biết chúng là thế gian hay xuất thế, biết tính vô thường của chúng.
- Quán Tâm là chú ý đến các tâm pháp (ý nghĩ) đang hiện hành, biết nó là tham hay vô tham, sân hay vô sân, si hay vô si (Tâm sở).
- Quán Pháp là biết rõ mọi pháp đều phụ thuộc lẫn nhau, đều Vô ngã, biết rõ Ngũ chướng có hiện hành hay không, biết rõ con người chỉ là Ngũ uẩn đang hoạt động, biết rõ gốc hiện hành của các pháp và hiểu rõ Tứ diệu đế.
2. Tứ chính cần (四正勤):
- Tinh tiến (tinh cần, tinh tấn) tránh làm các điều ác chưa sinh (sa. anutpannapāpakākuśaladharma);
- Tinh tiến vượt qua những điều ác đã sinh (sa. utpanna-pāpakākuśala-dharma);
- Tinh tiến phát huy các điều thiện đã có (sa. utpannakuśala-dharma), nhất là tu học Thất giác chi
- Tinh tiến làm cho các điều thiện phát sinh (sa. anutpannakuśala-dharma).
3. Tứ thần túc (四神足), cũng gọi là Tứ như ý túc (四如意足):
- Dục thần túc (zh. 欲神足, sa. chanda-ṛddhi-pāda), lòng tha thiết hoặc tập trung đạt được.
- Cần thần túc (zh. 勤神足, sa. vīrya-ṛddhi-pāda), tâm tinh tiến chuyên cần.
- Tâm thần túc (zh. 心神足, sa. citta-ṛddhi-pāda), ghi khắc kĩ những cấp đã đạt được;
- Quán thần túc (zh. 觀神足, sa. mīmāṃsa-ṛddhi-pāda), thiền định, trạng thái thiền.
4. Ngũ căn (五根):
- Tín căn (信根);
- Tinh tấn căn/Tấn căn/Tiến căn (精根);
- Niệm căn (念根);
- Định căn (定根);
- Huệ căn (慧 根).
5. Ngũ lực (五力):
- Tín lực (zh. 信力);
- Tinh tiến lực (zh. 精進力);
- Niệm lực (zh. 念力);
- Định lực (zh. 定力);
- Huệ lực (zh. 慧力).
6. Thất giác chi (七覺支):
- Trạch pháp (zh. 擇法, sa. dharmapravicaya), phân tích, biết phân biệt đúng sai,
- Tinh tiến (zh. 精進, sa. vīrya);
- Hỉ (zh. 喜, sa. prīti), tâm hoan hỉ;
- Khinh an (zh. 輕安, sa. praśabdhi), tâm thức khinh an, sảng khoái;
- Niệm (zh. 念, sa. smṛti), tỉnh giác.
- Định (zh. 定, sa. samādhi), có sự tập trung lắng đọng.
- Xả (zh. 捨, sa. upekṣā), lòng buông xả, không câu chấp.
7. Bát chính đạo (八聖道).
- Chánh / Chính kiến (zh. 正見, pi. sammā-diṭṭhi, sa. samyag-dṛṣṭi): Gìn giữ một quan niệm xác đáng về Tứ diệu đế và giáo lý vô ngã.
- Chính tư duy (zh. 正思唯, pi. sammā-saṅkappa, sa. samyak-saṃkalpa): Suy nghĩ hay có một mục đích đúng đắn, suy xét về ý nghĩa của bốn chân lý một cách không sai lầm.
- Chính ngữ (zh. 正語, pi. sammā-vācā, sa. samyag-vāc):Nói thiện nói lành xây dựng ích lợi chung vì người nghe tiến bộ. nói đúng khéo léo để người nghe dễ hiểu
- Chính nghiệp (zh. 正業, pi. sammā-kammanta, sa. samyak-karmānta): Làm những việc lành thiện tạo ích lợi chung. không làm điều xấu ác.
- Chính mệnh (zh. 正命, pi. sammā-ājīva, sa. samyag-ājīva): giữ gìn thân thể trong sạch mạnh khỏe băng cách ăn uống, đủ chất. ăn uống do nghiệp lành, không do sát sinh tạo sân hận nghiệp ác gây nên. ngủ nghỉ chỗ trong sạch lành mạnh tránh chỗ ô nhiễm.
- Chính tinh tiến (zh. 正精進, pi. sammā-vāyāma, sa. samyag-vyāyāma): Luôn luôn nhớ hàng ngày hàng giờ hàng phút viêc tu học, giữ giới luật để sao sát tiến bộ.
- Chính niệm (zh. 正念, pi. sammā-sati, sa. samyag-smṛti): Tỉnh giác trên ba phương diện Thân, Khẩu, Ý;
- Chính định (zh. 正定, pi. sammā-samādhi, sa. samyak-samādhi): Tập trung tâm ý đạt bốn định xuất thế gian (sa. arūpa-samādhi).
(theo Wikipedia tiếng Việt)
- Lưu ý:
1. Tu theo Đạo Phật không phải là Đạo Ăn mà suốt ngày chỉ biết chế biến các loại thức ăn Chay (trong đó còn có loại miệng Chay lòng Mặn - tên món chay là tên món mặn). Tu mà chỉ biết suốt đời trường chay mà không có phẩm hạnh Đạo đức, Đạo lực thì sẽ cộng duyên với loài ăn thực vật; khác nào ngoại đạo khi xưa tu khổ hạnh mà không thoát khỏi luân hồi đảo điên. Ăn mặn mà không tu hành nghiêm túc, không có phước đức để trả nợ máu huyết chúng sinh nuôi mạng mình thì cộng nghiệp với loài ăn máu huyết, cũng đi vào 4 con đường đoạ lạc trả nợ máu chúng sinh thí mạng vì mình.
2. Tu mà chỉ biết suốt đời ê a tụng niệm mà không trau dồi kinh điển cũng như Đạo lực thì khác nào "thầy tụng" lấy bài kinh tiếng mõ làm cần câu cơm - mang tội với chư Phật mang nợ với chúng sinh bởi chư Phật không ra khỏi luân hồi chỉ bởi ngồi tụng kinh, bái sám - chư Phật là thầy (bậc Đạo sư của Tam giới nên không lễ bái ai vì chư Phật có 3 ân đức vô biên không một đấng quyền năng nào có thể sánh bằng: Tuệ đức, Tịnh đức, Bi đức), nợ với chúng sinh vì thân mang áo Phật mà không tế độ được chúng sinh, ăn của cúng dường mà không xiển dương Giáo Pháp của chư Phật - ăn mày cửa Phật, quyết không thể siêu độ cho ai khác kể cả bản thân.
Đạo Pháp trong thời suy thoái (mạt pháp) mà bản thân không có tinh thần tu tiến, hoằng dương Đạo Mầu thì chỉ thêm tội đẩy nhanh quá trình suy vong của Chánh Pháp mà thôi, cuộc tu đó thà không "đầu tròn áo vuông" có lẽ còn ít tội - nghiệp hơn.