Hỏi về cách tính Đại hạn, tiểu hạn một lá số.
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục dành cho việc xem lá số tử vi. Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức tử vi.
Không được đính kèm lá số của trang web khác. Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
Đây là chuyên mục dành cho việc xem lá số tử vi. Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức tử vi.
Không được đính kèm lá số của trang web khác. Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
TL: Hỏi về cách tính Đại hạn, tiểu hạn một lá số.
gửi bởi Khoaatvn » 20:08, 05/06/15
Anh Mộc huynh thân mến, anh xem giúp em tiểu hạn năm nay đc ko ạ. Thank anh trước.
..........................
Trả lời : Có biết động tốt nhiều hơn xấu.
.................................
gửi bởi tuphuongsg » 20:27, 05/06/15
Anh Mộc cho em hỏi chút xíu: Thiên La ở cung Phối (có Triệt) có nghĩa như thế nào ah?
..................................
Trả lời : Cung thiên la phải có Đà la thì mới đúng nghĩa lưới trời bao bọc, khó xoay chuyển ra ngoài ( xấu), cần Tuần Triệt tháo, cắt, ngỡ lưới ra ngoài sẽ tốt hơn.
........................................
gửi bởi hongdai106 » 22:21, 05/06/15
em đã xem lại thì đúng là anh đã xem cho em rồi ạ, em thực sự xin lỗi.Nhưng có câu này em thắc mắc ko hiểu ạ. Lúc đó anh bảo là:
''Riêng bạn vẫn đang trong Đại vận tốt do Thái Âm - Hóa Kỵ làm bạn phiền muộn thôi, bạn thuộc tuổi được hưởng Lộc tồn trên muôn người đó là cái sở đắc cuộc đời bạn sẽ được thụ hưởng.''
câu này ý bác là cả cuộc đời em hay chỉ là nằm trong đại vận thôi ạ
..................................................
Trả lời : Mẫu số chung ý Cụ Thiên lương viết : " Tuổi Ất ( Hợi Mão Mùi) thuộc tuổi được hưởng Lộc tồn.." câu mình viết ...cuộc đời bạn chứ không phải nhất thời ở vận hạn... Tất nhiên chi tiết có được hưởng đầy đủ hay chỉ một phần, còn phụ thuộc và vì trí, thế của cung Mệnh, Thân, Phúc...
Anh Mộc huynh thân mến, anh xem giúp em tiểu hạn năm nay đc ko ạ. Thank anh trước.
..........................
Trả lời : Có biết động tốt nhiều hơn xấu.
.................................
gửi bởi tuphuongsg » 20:27, 05/06/15
Anh Mộc cho em hỏi chút xíu: Thiên La ở cung Phối (có Triệt) có nghĩa như thế nào ah?
..................................
Trả lời : Cung thiên la phải có Đà la thì mới đúng nghĩa lưới trời bao bọc, khó xoay chuyển ra ngoài ( xấu), cần Tuần Triệt tháo, cắt, ngỡ lưới ra ngoài sẽ tốt hơn.
........................................
gửi bởi hongdai106 » 22:21, 05/06/15
em đã xem lại thì đúng là anh đã xem cho em rồi ạ, em thực sự xin lỗi.Nhưng có câu này em thắc mắc ko hiểu ạ. Lúc đó anh bảo là:
''Riêng bạn vẫn đang trong Đại vận tốt do Thái Âm - Hóa Kỵ làm bạn phiền muộn thôi, bạn thuộc tuổi được hưởng Lộc tồn trên muôn người đó là cái sở đắc cuộc đời bạn sẽ được thụ hưởng.''
câu này ý bác là cả cuộc đời em hay chỉ là nằm trong đại vận thôi ạ
..................................................
Trả lời : Mẫu số chung ý Cụ Thiên lương viết : " Tuổi Ất ( Hợi Mão Mùi) thuộc tuổi được hưởng Lộc tồn.." câu mình viết ...cuộc đời bạn chứ không phải nhất thời ở vận hạn... Tất nhiên chi tiết có được hưởng đầy đủ hay chỉ một phần, còn phụ thuộc và vì trí, thế của cung Mệnh, Thân, Phúc...
Được cảm ơn bởi: Hồng Ân
TL: Hỏi về cách tính Đại hạn, tiểu hạn một lá số.
Một người mạnh bạo nói về lá số Tử vi trên trang viết không có nghĩa là kết luận sẽ đúng như vậy, tất cả chỉ để các bạn tham khảo và chắc nghiệm với bản thân, Tử vi chỉ có độ tương ứng đúng 60%, với người có nhiều năm kinh nghiệm tỷ lệ % đúng sẽ cao hơn mức ấy....Tất nhiên người xem số cũng phải có một năng lượng nhất định được hiển thị trên lá số Thiên định khi chào đời để vượt qua biết bao gian nan thử thách ( nếm đủ 81 kiếp nạn...). Mình không biết sẽ còn bao nhiêu kiếp nạn nữa đây? Cách cục tổng quát lá số của mình đây các bạn cùng tham khảo:


Được cảm ơn bởi: Hồng Ân
TL: Hỏi về cách tính Đại hạn, tiểu hạn một lá số.
Tử vi cư ngọ. .... thân vũ khúc thiên tướng. Giàu xụ
TL: Hỏi về cách tính Đại hạn, tiểu hạn một lá số.
gửi bởi windytkk » 11:30, 06/06/15
Tử vi cư ngọ. .... thân vũ khúc thiên tướng. Giàu xụ
...................................
Trong mẫu số chung của Cụ Thiên lương không đề cao cách cục của các chính tinh, bạn đánh giá tổng quát cách ấy sẽ bị thiên lệch, môn Tử vi không đơn giản như vậy, theo mình bạn nên xem kỹ lại sách của Cụ TL sẽ sáng tỏ thêm nhé. Cách cục ấy dù có tốt mấy cũng phải đi làm lợi cho Thiên hạ trước thì mới mong có lộc cho bản thân, cho dù là ông Vua thì cũng vậy.
Mình còn nhớ đươc một vị thầy qua đường, trong một quãng thời gian quá ngắn mình không còn rõ tên ông, nhưng một vài câu thơ của ông ấy vẫn còn đọng lại với mình tuy chỉ còn lõm bõm vài dòng:
....Âm dương thỏa khí hài hòa sinh nhận.
.....Nhân sinh sống ở trên đời
Thủ kho giữ của cho trời cả thôi
Tuần hoàn chìm nổi đầy vơi...
Tử vi cư ngọ. .... thân vũ khúc thiên tướng. Giàu xụ
...................................
Trong mẫu số chung của Cụ Thiên lương không đề cao cách cục của các chính tinh, bạn đánh giá tổng quát cách ấy sẽ bị thiên lệch, môn Tử vi không đơn giản như vậy, theo mình bạn nên xem kỹ lại sách của Cụ TL sẽ sáng tỏ thêm nhé. Cách cục ấy dù có tốt mấy cũng phải đi làm lợi cho Thiên hạ trước thì mới mong có lộc cho bản thân, cho dù là ông Vua thì cũng vậy.
Mình còn nhớ đươc một vị thầy qua đường, trong một quãng thời gian quá ngắn mình không còn rõ tên ông, nhưng một vài câu thơ của ông ấy vẫn còn đọng lại với mình tuy chỉ còn lõm bõm vài dòng:
....Âm dương thỏa khí hài hòa sinh nhận.
.....Nhân sinh sống ở trên đời
Thủ kho giữ của cho trời cả thôi
Tuần hoàn chìm nổi đầy vơi...
Được cảm ơn bởi: Hồng Ân
TL: Hỏi về cách tính Đại hạn, tiểu hạn một lá số.
Bài viết về mẫu số chung các bạn tham khảo:
Lê Trung Hưng
Đọc bài của giáo sư Lê Trung Hưng viết về các bí quyết để đóan về cung Mạng của lá số tử vi, quý bạn từng theo dõi KHHB chắc thấy rằng giáo sư Hưng thuộc lò Thiên Lương. Giáo sư Hưng có thể được kể là môn đồ sáng giá nhất của cụ Thiên Lương.
Chúng tôi đương sọan bài tóm tắt lại các kinh nghiệm tử vi đã được nêu lên trong năm ngóai trên giai phẩm KHHB thì vừa được bài này, xin đem cống hiến quý bạn đọc. Bài này đã nói trước một số kinh nghiệm mà chúng tôi sẽ khai triển.
I-Tử Vi dưới nhãn quan Huyền Cơ đạo thuật
Khoa học Tử Vi theo truyền thuyết thì phát sinh từ đời nhà Tống (Trung Hoa) và do Trần Đoàn hiền triết phát huy thành hệ thống lý học, để rồi sau đó được các thế hệ nối tiếp vừa đóng góp nghiên cứu, vừa quảng bá nhân gian như một khuynh hướng tiên tri các hoạt động của mỗi con người. Xã hội Á Đông xưa trọng kẻ sĩ hơn hết thảy :
- Dân hữu tử, sĩ vi chi tiên
Mẫu người đại nhân phải hội đủ các yếu tố hơn đời và hơn người qua sự tinh thông nho, y, lý số. Trong khi đại đa số quần chúng lo sinh nhai bằng cách sinh hoạt trên căn bản nông nghiệp, thì giới sĩ phu miệt mài bằng các suy tư nhân linh của đạo học Đông Phương, lấy tĩnh trạng làm căn bản biện chứng cho các động trạng. Hai chiều hướng trái ngược :
- Đa số : Động trạng - Tĩnh trạng
- Thiểu số : Tĩnh trạng - Động trạng
Làm cho khoa lý học Tử Vi trở thành huyền học và tệ hơn nữa là thành đạo thuật mưu sinh của của những " bậc đại nhân nửa chừng xuân " vì tham vọng cho cá nhân. Nhãn quan chung của nhân gian, xưa đến nay một phần bị mê hoặc bởi các thuật sĩ, một phần chịu ảnh hưởng triết lý nhị nguyên của Tây Phương (qua cố gắng nhiệt thành của các quan Tây Phương cai trị thời pháp thuộc), nhìn môn Tử Vi như một kiến thức của óc mê tín, chỉ một vài năm gần đây, giới trí thức mới đang kiếm các phục hồi cho khoa Tử Vi bằng những nổ lực của luận lý, là đem kỹ thuật của Tây Phương giải thích sáng tỏ một phần góc cạnh " áo bí " của khoa học nhân văn này. Trong tinh thần mới ấy, khoa Tử Vi không thể chỉ nghiên cứu bằng những mẫu chuyện truyền khẩu, bằng những câu phú thực nghiệm trải qua thời gian đã bị tam sao thất bổn : mà phải vận dụng tinh thần tinh tế của lý học hiện đại đồng thời vẫn lấy căn bản " dịch lý " của Đông Phương làm nền tảng phán đoán. Nếu ai cũng biết cái tinh hoa của quan niệm " ý tại ngôn ngoại " " của " lời vô ngôn " đẻ ra cung cách của Thuật Zen (Thiền) thì cái tinh túy mềm dẻo và thích nghi của Yoga càng phải nên áp dụng vào khoa Tử Vi để linh động biện chứng những tương quan của các dữ kiện (tạm gọi là sao trên lá số Tử Vi) chi phối đời người.
II-Kỹ thuật tiêu chuẩn để nhận biết lá số Tử-Vi
Trong phạm vi bài tham luận này, bỏ ra ngoài những giai đoạn lập lá số Tử -Vi mà tạm coi như việc hoàn thành lá số có đầy đủ. Người có bản số hãy theo theo dõi các dữ kiện " sao " sau đây :
1- Dữ kiện nghị lực : Sao Thiên Mã.
2- Dữ kiện sinh tồn :các sao vòng Tràng Sinh.
3- Dữ kiện hưng thịnh : các sao vòng Lộc-Tồn.
4- Dữ kiện tính khí : các sao vòng Thái Tuế.
5- Dữ kiện thời vận : các sao Tuần và Triệt.
6- Dữ kiện bẩm chất : các sao Thiên Không, Đào Hoa, Hồng Loan.
7- Dữ kiện hoạt động : các sao Vòng Mệnh và vòng Thân.
8- Dữ kiện thú tính : các sao Địa Không, Địa Kiếp, Đà La, Kình Dương, Hỏa-Tinh, Linh-Tinh.
9- Dữ kiện phù trợ : các sao Tả-Phù, Hữu-Bật, Lực Sĩ, Bác-Sĩ, Hóa Quyền, Hóa Khoa.
10- Dữ kiện ma thuật : Mệnh vô chính diệu.
Ngoài các dữ kiện sao vừa nói, ta hãy nói sơ lược lại nền tảng phối hợp ngũ hành, để thích nghi luận lý :
a- Tương sinh : Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thủy-Mộc.
b- Tương khắc: Mộc-Thổ-Thủy-Hỏa-Kim-Mộc.
c- Bình Hòa : Thổ gặp Thổ (dù là loại Thổ gì cũng vậy)
d- Bất cập : Hỏa gặp Hỏa (dù là loại Hỏa gì cũng vậy)
e- Thái quá : Thủy gặp Thủy (dù là loại Thủy gì cũng vậy)
f- Phát triển :Kim gặp Kim và Mộc gặp Mộc.
Có nhiều sách ghi thêm tính chất của nhiều loại Thổ, nhiều loại Hỏa để cố gắng phân tích sự tiết giảm xung đột hay tăng thêm hòa hợp; điều này có phần biện bác để an ủi cho những người gặp cảnh ngộ xấu hoặc là tâng bốc những người ưa nghe điều tốt mà thôi. Vì đã ở thế cùng hành tất phải ở tình trạng ngưng đọng hơn là ảnh hưởng với nhau (lý thuyết nhất nguyên tính trạng) Do đó, chủ ý của bài viết này là nhằm cái biến dịch của ngũ hành trên 12 cung số của bản số Tử Vi mà luận giải.
III- Sao Thiên Mã
Người Đông Phương ưa cảm thông sự vật hơn phát biểu sự vật nên việc dùng từ ngữ chỉ có ý nghĩa tượng trưng (chứ không có tính cách mô tả chủ quan như Tây Phương) cho nên dữ kiện được gọi là " sao Thiên Mã " chỉ nên hiểu là cái nghị lực của con người trong bản số Tử Vi. Tùy theo vị trí của 4 cung : Dần, Tỵ, Thân, Hợi mà sao Thiên Mã đóng, ta hiểu như sau :
a- Thiên Mã ở cung Dần : đứng ở cung Mộc rất hợp với người mạng Mộc bạc nhược với người mạng Kim, vất vả với người mạng Thủy, làm hại người mạng Thổ, làm lợi người mạng Hỏa.
b- Thiên Mã ở cung Tỵ : đứng ở cung Hỏa rất hợp với người mạng Hỏa, làm lợi người mạng Thổ, vất vả người mạng Mộc, làm hại người mạng Kim, bạc nhược với người mạng Thủy.
c- Thiên Mã ở cung Thân : đứng ở cung Kim rất hợp với người mạng Kim, làm lợi người mạng Thủy, vất vả người mạng Thổ, làm hại người mạng Mộc, bạc nhược với người mạng Hỏa.
d- Thiên Mã ở cung Hợi : đứng ở cung Thủy rất hợp với người mạng Thủy, làm lợi cho người mạng Mộc, vất vả với người mạng Kim, làm hại người mạng Thổ.
IV- Vòng Tràng Sinh
Vòng Tràng sinh có 12 sao đóng đủ trên 12 cung Tử Vi, ý nghĩa của vòng sao này ta nên coi là dữ kiện sinh tồn của đương số, do đó, khi cung an Mệnh, cung Phước đức (tiền kiếp) và cung Tật Ách (hậu kiếp) có những sao cùng hành với bản mệnh thì luận ra tính cách thọ, yểu, mạnh, khỏe, hay đau yếu :
a- Đối với saoTràng Sinh (là Thủy) Cung Mệnh sinh sao, sao sinh bản Mệnh là đắc cách. Thí dụ : Người hành Mộc, mệnh an tại Dậu (Tuổi Âm Nam, Dương Nữ) thuộc Kim có các Sao Trường Sinh là Thủy (Kim-Thủy) sao Trường sinh sinh ra hành Mộc. Cung Mệnh sinh sao, sao khắc bản mệnh là sống không khỏe mạnh. Cung Mệnh khắc sao, sao sinh bản Mệnh bất đắc kỳ tử. Cung Mệnh khắc sao, sao khắc bản mệnh : chết non.
b- Đối với sao Thai (Thổ) thì cần phải đóng ở cung Phúc Đức để chứng tỏ tiền kiếp đã kết tụ tinh anh, phát kết ra kiếp hiện tại, thì lý tự nhiên cuộc sống phải bền, để ý nghĩa của " Thai " hiện hữu như một căn bản không phản hồi được. Trường hợp này, cung Mệnh có sao Mộ, cung Quan có Trường Sinh, Cung Tài có Đế Vượng, (ngu si hưởng thái bình!?)
c- Đối với sao Đế Vượng (là Kim) cần phải tụ hội ở cung Tật ách (hậu kiếp) để minh chứng ngày ra đi sang kiếp sau được tiếp đón như một thành tích vẻ vang tuyệt đỉnh (vì trong chu kỳ sinh thái của Vòng Tràng-Sinh, thì giai đoạn Đế Vượng coi như điểm cực đại của hàm số Parabole, biểu diễn vòng luân hồi của con người). Trường hợp này là người có sao Tuyệt ở cung Mệnh (khôn ngoan ở đời).
V- Vòng Lộc Tồn
Sống ở đời, người ta ai cũng cần có phương tiện thuận lợi tối đa để hưởng hạnh phúc (dù là hạnh phúc tạm), nên trong khoa Tử-Vi có vòng sao Lộc Tồn được coi là những dữ kiện của sự hưng thịnh. Vòng Lộc Tồn cũng có 12 sao an đủ 12 cung trên bản số. Tuy nhiên ta lưu ý 4 cung : Dần, Mão, Thân, Dậu nhiều nhất :
a- Tuổi Giáp : Lộc tồn ở Dần.
b- Tuổi Ất : Lộc tồn ở Mão
c- Tuổi Canh : Lộc tồn ở Thân.
d- Tuổi Tân : Lộc tồn ở Dậu.
Cho nên, những người sanh năm Dần-Ngọ-Tuất mà tuổi Giáp (Giáp Dần, Giáp Ngọ, Giáp Tuất) thì hưởng cái lộc này lâu dài (đúng nghĩa Lộc tồn) những người tuổi Ất Mão, Ất Hợi và Ất Mùi; Canh Thân, Canh Tý và Canh Thìn; Tân Tỵ, Tân Dậu, và Tân Sửu cũng được hưởng may mắn nói trên. Kỳ dư các tuổi khác nếu, cung Mệnh, cung Quan hoặc cung Tài mà có Lộc tồn, thì Lộc tuy có nhưng không tồn được (hưởng trong giai đoạn ngắn mà thôi !? )
VI. Vòng Thái Tuế
Có lẽ đây vòng sao hệ trọng nhất đối với người nghiên cứu khoa tử vi lý học . Bởi vòng này diễn tả cái tính khí, phẩm hạnh của đương số cũng như nó cho biết cái chu kỳ thăng trầm của cuộc đời . Cho nên ta phân 12 sao của ngũ hành là :
- Dần Ngọ Tuất : Hành Hỏa
- Tỵ Dậu Sửu : Hành Kim
- Hợi Mão Mùi : Hành Mộc
- Thân Tý Thìn : Hành Thủy
Thành ra 4 nhóm mệnh danh như sau :
a-Nhóm chánh phái : Thái tuế, Quan Phù, Bạch Hổ.
b-Nhóm tả phái : Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn.
c-Nhóm thiên hữu : Long Đức, Thiếu Âm, Trực Phù.
d-Nhóm thiên tả : Thiếu dương, Tử Phù, Phúc Đức.
Cung An Mệnh thuộc nhóm nào, thì giúp ta nhìn thấy cái cá tính chung của đương số ngay, Ví dụ như :
- Những người tuổi Dần, Ngọ, Tuất, cung Mệnh, cung Quan Lộc và Tài Bạch cũng đóng ở 3 cung Dần, Ngọ, Tuất (có nhóm chánh phái đóng) thì là những người đảm lược, lương hảo, anh hùng.
- Những người tuổi Tỵ, Dậu, Sửu có 3 cung Mệnh, Quan và Tài đóng ở 3 cung Tỵ, Dậu, Sửu (có nhóm chánh phái đóng) thì hiển hách hơn người, được kính nể;
- Ta tiếp tục lý luận như trên cho các người tuổi Thân, Tý, Thìn. Mệnh, Quan và Tài cũng đóng Thân, Tý, Thìn. Những người tuổi Hợi, Mão Mùi mà 3 cung Hợi, Mão, Mùi đều là chánh phái cả. Cộng thêm các dữ liệu sao có trong bản số của đương số thì kết luận thêm cho chính xác.
Giai đoạn tuổi ở 1 trong 3 cung của nhóm: Thái Tuế-Quan Phù-Bạch Hổ, đều là thời vận tốt nhất cho người có lá số tử vi. Khi cung Mệnh của của bản số tử-vi thuộc nhóm tả phái đó là người bất mãn, lang bạt và đau khổ. Cung Mệnh thuộc nhóm thiên hữu là người bẩm chất hiền lành nhưng nhu nhược, cung Mệnh thuộc nhóm thiên tả, là người khôn vặt, lanh lợi những chuyện tầm thường.
VII- Luật của sao TUẦN & TRIỆT
Kiếp nhân sinh ví như cái xe lăn trên đường đời, Sao Triệt được coi như cái Thắng đầu của xe, còn sao Tuần coi như bộ thắng sau của xe. Thắng đầu cần mới nguyên, rất hữu hiệu trong việc cản bánh xe lăn (đôi khi còn tạo ra nguy hiểm ! làm cho xe lật) nên dưới 30 tuổi ảnh hưởng của sao Triệt thật đậm đà. Sao Tuần ít bộc phát ảnh hưởng rõ rệt, nhưng lại bền vững suốt đời người (thắng của bánh xe sau tác dụng điều hòa tốc độ của xe chạy). Luật hóa giải TUẦN-TRIỆT được đặc biệt cho những ai có bản số Tử vi mà cung Mệnh bị một trong hai sao Triệt và Tuần trấn đóng, thì đi đến giai đoạn cung có sao còn lại đóng, là vận hên đã tới.
Thí dụ : Mệnh đóng tại Tỵ có sao Triệt, cung Phúc đức có sao Tuần , vậy đi đến giai đoạn cung Phúc đức thì phát huy được danh phận (dù không thuộc vòng Thái Tuế-Quan Phù-Bạch Hổ). Lý giải điều này cũng tự nhiên. Vi khi xe chạy mà người tài xế điều hành được hai bộ thắng thì tất nhiên phải an toàn bảo đảm như ý muốn.
VIII- Bộ ba Thiên Không, Đào Hoa và Hồng Loan
Người biết coi Tử vi, ai cũng biết :Thiên Không (Hành Hỏa), Đào Hoa (Hành Mộc) và Hồng Loan (thuộc hành Thủy). Bản chất của Hỏa Tinh là tàn phá, là gieo rắc tai ương (Thần chiến tranh) : cho nên khi ba cung Mệnh, Quan và Tài của bản số tử vi có :
a- Thiên Không, Đào Hoa nghĩa là Mộc dưỡng hỏa, để Hỏa tàn phá thêm mạnh dạn, thêm khốc liệt, ý tượng trưng cho sự khôn ngoan quá quắt của đương số. Người có cách này là mẫu người muốn chiếm đọat, muốn lấn tới để ăn người.
b- Thiên Không Hồng Loan : Nghĩa là lửa đã bị Thủy trấn áp, bó tay qui hàng, nên cung Mệnh có cách này là mẫu người thoát tục, thích cảnh tịnh hơn cảnh động.
c- Thiên Không độc thủ (ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi có Hồng Đào chiếu) bụng dạ thất thường người Âm Nam, Âm Nữ là lửa ngầm, người Dương Nam, Dương Nữ là lửa bùng : tất cả đều thủ đoạn vặt hoặc không bộc lộ hoặc phát tiết ra ngòai.
IX- Vòng Mệnh và Vòng Thân
Căn cứ của Luật Tam hạp :
- Dần Ngọ Tuất là Hỏa.
- Thân Tý Thìn là Thủy.
- Hợi Mão Mùi là Mộc.
- Tỵ Dậu Sửu là Kim.
Thì khi cung an Mệnh đứng ở vị trí nào so với vòng Thái Tuế, ta phải nhìn thế tam hợp của cung an Mệnh như Vòng tha nhân đối với Vòng bẩm tính đương số là vòng Thái Tuế tam hợp của cung an Thân là Vòng hành động của đương số. Biện chứng qua Luật ngũ hành tiêu-trưởng, ta vạch trần được tác phong đường số một các dễ dàng.
Ví dụ : Người tuổi Tỵ (Vòng Thái Tuế là Tỵ-Dậu-Sửu : Kim), cung an Mệnh đóng ở Tuất (Vòng tha nhân là Dần-Ngọ-Tuất : Hỏa), cung an Thân ở Tý (Vòng hành động là Thân-Tý-Thìn : Thủy). Ta lý giải ngay : số người này là mẫu người ra đời bị người ta chèn ép (do Hỏa khắc Kim), chịu nhiều thua thiệt, vất vả (vì Kim sinh Thủy)
X- Nhóm hung tinh chiến lược
Ta gọi là hung tinh chiến lược, vì các sao Địa không, Địa Kiếp, Đà La, Kình Dương, Hỏa Tinh, Linh Tinh, có những bộ mặt thú tính man dã nhưng hóa giải được khi điều hướng đúng chỗ.
a- Hai sao Địa Kiếp, Địa Không khi đứng trong nhóm tam hợp của vòng Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ, thì dù đắc địa (Tỵ, Hợi) hay hãm địa, cũng vẫn mất hiệu lực phá hại của nó, để trở nên ý nghĩa của người có tài mà không có thời. Mặt khác, nếu đương số thuộc hành Thổ thì đã làm cho tính chất Hỏa của Không Kiếp bị tiết khí : nên vẫy vùng yếu kém hẳn.
b- Hai sao Đà La đóng ở Dần Thân Tỵ Hợi và Kình Dương đóng ở tứ mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi ) lại có Vòng Thái Tuế ở đây thì không còn là sao tác họa mà trở thành bộ " hồi chánh tinh " đới công chuộc tội, phát võ hiển vinh, vượng phu ích tử.
c- Hai sao Hỏa tinh, Linh Tinh cũng là bộ Hỏa-Linh. Nếu đứng trong vòng Thái Tuế thì tạo thành những cái thất bại anh dũng của đương số. Người có cách này, dù " khí thiêng đã về thần" cũng được người đời kính nể khâm phục. Nói cách khác: Đấy là cách của người " Sinh thọ tử bất ninh thọ nhục "
XI- Bộ sao phò trợ
Quan niệm " phù thịnh không phù suy " là ý nghĩa của các nhóm sao phù trợ : Tả Phù, Hữu Bật, Lực Sĩ, Bác Sĩ, Hóa Quyền ... Nếu các vòng sao này
lọt vào trong vòng Thái Tuế, thì đúng là những " lương đống công thần " giúp cho đương số thăng tiến thành đạt ở đường đời, bằng trái lại, chúng nhảy sang vòng Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn (nhóm tả phái), thì chẳng khác nào thả cọp về rừng, sức tán hại càng phát triển, làm cho đương số trăm chiều vất vả (Đặc biệt nếu cung Mệnh có cách này, mà vòng Thái Tuế không tam hợp với cung Mệnh, thì rõ ràng là loại Hoàng Sào thảo khấu, ác bá côn đồ). Nhớ đây chỉ là cái chung nhất cần phải kết hợp thêm các dữ liệu sao trong bản số Tử-vi để mà diễn giải thì mới có kết luận thêm chính xác tới mức độ nào.
XII- Mệnh vô chính diệu : cách số của ma thuật
Nói chung những người có cung Mệnh vô chính diệu, thường là mẫu người sắc sảo, quyền biến có nhiều cảm ứng bén nhạy hơn người có chính diệu thủ cung Mệnh. Xem số Tử-vi những người Mệnh vô chính diệu rất khó, vỉ độ chuyển biến của các dữ kiện "sao" rất "Sensible" nghĩa là có cách số ma thuật huyền hoặc nhất. Càng nhiều hung tinh, bại tinh đắc địa tọa thủ Mệnh, càng có lợi cho đương số. Tuy nhiên vẫn cần vòng Thái Tuế tam hợp với cung an Mệnh hoặc cung an Thân để có thể hướng cái chánh nghĩa về cho nhóm ác tinh này, bằng không thì đương số sẽ trở thành những hồ ly tinh tu luyện thành người, bản tính dã thú ... khó phân biệt (!?) sẽ tạo ra những nghiệp ác để rồi đền tội một cách mau chóng (chết yểu).
XIII- TỔNG LUẬN
Nếu nắm vững mười dữ kiện căn bản nêu trên, lẽ tất nhiên khoa Tử-Vi không còn là bí truyền ân sủng cho một riêng ai; tất cả chỉ còn là toàn những tương quan ngũ hành sinh khắc hoặc chế hóa, chỉ còn là những lý giải minh bạch cho các dữ kiện được gọi là "sao" của bản số Tử-vi mà nhãn quan của con người nghiên cứu luôn luôn phải khách quan một cách thành khẩn.
Khoa lý học này sẽ có một ngày cởi bỏ cái "áo bí" của nó, để trở thành một khoa nhân văn chứa đựng tính thiện ác và thái độ vô cầu của người thâm cứu./.
Lê Trung Hưng
Đọc bài của giáo sư Lê Trung Hưng viết về các bí quyết để đóan về cung Mạng của lá số tử vi, quý bạn từng theo dõi KHHB chắc thấy rằng giáo sư Hưng thuộc lò Thiên Lương. Giáo sư Hưng có thể được kể là môn đồ sáng giá nhất của cụ Thiên Lương.
Chúng tôi đương sọan bài tóm tắt lại các kinh nghiệm tử vi đã được nêu lên trong năm ngóai trên giai phẩm KHHB thì vừa được bài này, xin đem cống hiến quý bạn đọc. Bài này đã nói trước một số kinh nghiệm mà chúng tôi sẽ khai triển.
I-Tử Vi dưới nhãn quan Huyền Cơ đạo thuật
Khoa học Tử Vi theo truyền thuyết thì phát sinh từ đời nhà Tống (Trung Hoa) và do Trần Đoàn hiền triết phát huy thành hệ thống lý học, để rồi sau đó được các thế hệ nối tiếp vừa đóng góp nghiên cứu, vừa quảng bá nhân gian như một khuynh hướng tiên tri các hoạt động của mỗi con người. Xã hội Á Đông xưa trọng kẻ sĩ hơn hết thảy :
- Dân hữu tử, sĩ vi chi tiên
Mẫu người đại nhân phải hội đủ các yếu tố hơn đời và hơn người qua sự tinh thông nho, y, lý số. Trong khi đại đa số quần chúng lo sinh nhai bằng cách sinh hoạt trên căn bản nông nghiệp, thì giới sĩ phu miệt mài bằng các suy tư nhân linh của đạo học Đông Phương, lấy tĩnh trạng làm căn bản biện chứng cho các động trạng. Hai chiều hướng trái ngược :
- Đa số : Động trạng - Tĩnh trạng
- Thiểu số : Tĩnh trạng - Động trạng
Làm cho khoa lý học Tử Vi trở thành huyền học và tệ hơn nữa là thành đạo thuật mưu sinh của của những " bậc đại nhân nửa chừng xuân " vì tham vọng cho cá nhân. Nhãn quan chung của nhân gian, xưa đến nay một phần bị mê hoặc bởi các thuật sĩ, một phần chịu ảnh hưởng triết lý nhị nguyên của Tây Phương (qua cố gắng nhiệt thành của các quan Tây Phương cai trị thời pháp thuộc), nhìn môn Tử Vi như một kiến thức của óc mê tín, chỉ một vài năm gần đây, giới trí thức mới đang kiếm các phục hồi cho khoa Tử Vi bằng những nổ lực của luận lý, là đem kỹ thuật của Tây Phương giải thích sáng tỏ một phần góc cạnh " áo bí " của khoa học nhân văn này. Trong tinh thần mới ấy, khoa Tử Vi không thể chỉ nghiên cứu bằng những mẫu chuyện truyền khẩu, bằng những câu phú thực nghiệm trải qua thời gian đã bị tam sao thất bổn : mà phải vận dụng tinh thần tinh tế của lý học hiện đại đồng thời vẫn lấy căn bản " dịch lý " của Đông Phương làm nền tảng phán đoán. Nếu ai cũng biết cái tinh hoa của quan niệm " ý tại ngôn ngoại " " của " lời vô ngôn " đẻ ra cung cách của Thuật Zen (Thiền) thì cái tinh túy mềm dẻo và thích nghi của Yoga càng phải nên áp dụng vào khoa Tử Vi để linh động biện chứng những tương quan của các dữ kiện (tạm gọi là sao trên lá số Tử Vi) chi phối đời người.
II-Kỹ thuật tiêu chuẩn để nhận biết lá số Tử-Vi
Trong phạm vi bài tham luận này, bỏ ra ngoài những giai đoạn lập lá số Tử -Vi mà tạm coi như việc hoàn thành lá số có đầy đủ. Người có bản số hãy theo theo dõi các dữ kiện " sao " sau đây :
1- Dữ kiện nghị lực : Sao Thiên Mã.
2- Dữ kiện sinh tồn :các sao vòng Tràng Sinh.
3- Dữ kiện hưng thịnh : các sao vòng Lộc-Tồn.
4- Dữ kiện tính khí : các sao vòng Thái Tuế.
5- Dữ kiện thời vận : các sao Tuần và Triệt.
6- Dữ kiện bẩm chất : các sao Thiên Không, Đào Hoa, Hồng Loan.
7- Dữ kiện hoạt động : các sao Vòng Mệnh và vòng Thân.
8- Dữ kiện thú tính : các sao Địa Không, Địa Kiếp, Đà La, Kình Dương, Hỏa-Tinh, Linh-Tinh.
9- Dữ kiện phù trợ : các sao Tả-Phù, Hữu-Bật, Lực Sĩ, Bác-Sĩ, Hóa Quyền, Hóa Khoa.
10- Dữ kiện ma thuật : Mệnh vô chính diệu.
Ngoài các dữ kiện sao vừa nói, ta hãy nói sơ lược lại nền tảng phối hợp ngũ hành, để thích nghi luận lý :
a- Tương sinh : Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thủy-Mộc.
b- Tương khắc: Mộc-Thổ-Thủy-Hỏa-Kim-Mộc.
c- Bình Hòa : Thổ gặp Thổ (dù là loại Thổ gì cũng vậy)
d- Bất cập : Hỏa gặp Hỏa (dù là loại Hỏa gì cũng vậy)
e- Thái quá : Thủy gặp Thủy (dù là loại Thủy gì cũng vậy)
f- Phát triển :Kim gặp Kim và Mộc gặp Mộc.
Có nhiều sách ghi thêm tính chất của nhiều loại Thổ, nhiều loại Hỏa để cố gắng phân tích sự tiết giảm xung đột hay tăng thêm hòa hợp; điều này có phần biện bác để an ủi cho những người gặp cảnh ngộ xấu hoặc là tâng bốc những người ưa nghe điều tốt mà thôi. Vì đã ở thế cùng hành tất phải ở tình trạng ngưng đọng hơn là ảnh hưởng với nhau (lý thuyết nhất nguyên tính trạng) Do đó, chủ ý của bài viết này là nhằm cái biến dịch của ngũ hành trên 12 cung số của bản số Tử Vi mà luận giải.
III- Sao Thiên Mã
Người Đông Phương ưa cảm thông sự vật hơn phát biểu sự vật nên việc dùng từ ngữ chỉ có ý nghĩa tượng trưng (chứ không có tính cách mô tả chủ quan như Tây Phương) cho nên dữ kiện được gọi là " sao Thiên Mã " chỉ nên hiểu là cái nghị lực của con người trong bản số Tử Vi. Tùy theo vị trí của 4 cung : Dần, Tỵ, Thân, Hợi mà sao Thiên Mã đóng, ta hiểu như sau :
a- Thiên Mã ở cung Dần : đứng ở cung Mộc rất hợp với người mạng Mộc bạc nhược với người mạng Kim, vất vả với người mạng Thủy, làm hại người mạng Thổ, làm lợi người mạng Hỏa.
b- Thiên Mã ở cung Tỵ : đứng ở cung Hỏa rất hợp với người mạng Hỏa, làm lợi người mạng Thổ, vất vả người mạng Mộc, làm hại người mạng Kim, bạc nhược với người mạng Thủy.
c- Thiên Mã ở cung Thân : đứng ở cung Kim rất hợp với người mạng Kim, làm lợi người mạng Thủy, vất vả người mạng Thổ, làm hại người mạng Mộc, bạc nhược với người mạng Hỏa.
d- Thiên Mã ở cung Hợi : đứng ở cung Thủy rất hợp với người mạng Thủy, làm lợi cho người mạng Mộc, vất vả với người mạng Kim, làm hại người mạng Thổ.
IV- Vòng Tràng Sinh
Vòng Tràng sinh có 12 sao đóng đủ trên 12 cung Tử Vi, ý nghĩa của vòng sao này ta nên coi là dữ kiện sinh tồn của đương số, do đó, khi cung an Mệnh, cung Phước đức (tiền kiếp) và cung Tật Ách (hậu kiếp) có những sao cùng hành với bản mệnh thì luận ra tính cách thọ, yểu, mạnh, khỏe, hay đau yếu :
a- Đối với saoTràng Sinh (là Thủy) Cung Mệnh sinh sao, sao sinh bản Mệnh là đắc cách. Thí dụ : Người hành Mộc, mệnh an tại Dậu (Tuổi Âm Nam, Dương Nữ) thuộc Kim có các Sao Trường Sinh là Thủy (Kim-Thủy) sao Trường sinh sinh ra hành Mộc. Cung Mệnh sinh sao, sao khắc bản mệnh là sống không khỏe mạnh. Cung Mệnh khắc sao, sao sinh bản Mệnh bất đắc kỳ tử. Cung Mệnh khắc sao, sao khắc bản mệnh : chết non.
b- Đối với sao Thai (Thổ) thì cần phải đóng ở cung Phúc Đức để chứng tỏ tiền kiếp đã kết tụ tinh anh, phát kết ra kiếp hiện tại, thì lý tự nhiên cuộc sống phải bền, để ý nghĩa của " Thai " hiện hữu như một căn bản không phản hồi được. Trường hợp này, cung Mệnh có sao Mộ, cung Quan có Trường Sinh, Cung Tài có Đế Vượng, (ngu si hưởng thái bình!?)
c- Đối với sao Đế Vượng (là Kim) cần phải tụ hội ở cung Tật ách (hậu kiếp) để minh chứng ngày ra đi sang kiếp sau được tiếp đón như một thành tích vẻ vang tuyệt đỉnh (vì trong chu kỳ sinh thái của Vòng Tràng-Sinh, thì giai đoạn Đế Vượng coi như điểm cực đại của hàm số Parabole, biểu diễn vòng luân hồi của con người). Trường hợp này là người có sao Tuyệt ở cung Mệnh (khôn ngoan ở đời).
V- Vòng Lộc Tồn
Sống ở đời, người ta ai cũng cần có phương tiện thuận lợi tối đa để hưởng hạnh phúc (dù là hạnh phúc tạm), nên trong khoa Tử-Vi có vòng sao Lộc Tồn được coi là những dữ kiện của sự hưng thịnh. Vòng Lộc Tồn cũng có 12 sao an đủ 12 cung trên bản số. Tuy nhiên ta lưu ý 4 cung : Dần, Mão, Thân, Dậu nhiều nhất :
a- Tuổi Giáp : Lộc tồn ở Dần.
b- Tuổi Ất : Lộc tồn ở Mão
c- Tuổi Canh : Lộc tồn ở Thân.
d- Tuổi Tân : Lộc tồn ở Dậu.
Cho nên, những người sanh năm Dần-Ngọ-Tuất mà tuổi Giáp (Giáp Dần, Giáp Ngọ, Giáp Tuất) thì hưởng cái lộc này lâu dài (đúng nghĩa Lộc tồn) những người tuổi Ất Mão, Ất Hợi và Ất Mùi; Canh Thân, Canh Tý và Canh Thìn; Tân Tỵ, Tân Dậu, và Tân Sửu cũng được hưởng may mắn nói trên. Kỳ dư các tuổi khác nếu, cung Mệnh, cung Quan hoặc cung Tài mà có Lộc tồn, thì Lộc tuy có nhưng không tồn được (hưởng trong giai đoạn ngắn mà thôi !? )
VI. Vòng Thái Tuế
Có lẽ đây vòng sao hệ trọng nhất đối với người nghiên cứu khoa tử vi lý học . Bởi vòng này diễn tả cái tính khí, phẩm hạnh của đương số cũng như nó cho biết cái chu kỳ thăng trầm của cuộc đời . Cho nên ta phân 12 sao của ngũ hành là :
- Dần Ngọ Tuất : Hành Hỏa
- Tỵ Dậu Sửu : Hành Kim
- Hợi Mão Mùi : Hành Mộc
- Thân Tý Thìn : Hành Thủy
Thành ra 4 nhóm mệnh danh như sau :
a-Nhóm chánh phái : Thái tuế, Quan Phù, Bạch Hổ.
b-Nhóm tả phái : Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn.
c-Nhóm thiên hữu : Long Đức, Thiếu Âm, Trực Phù.
d-Nhóm thiên tả : Thiếu dương, Tử Phù, Phúc Đức.
Cung An Mệnh thuộc nhóm nào, thì giúp ta nhìn thấy cái cá tính chung của đương số ngay, Ví dụ như :
- Những người tuổi Dần, Ngọ, Tuất, cung Mệnh, cung Quan Lộc và Tài Bạch cũng đóng ở 3 cung Dần, Ngọ, Tuất (có nhóm chánh phái đóng) thì là những người đảm lược, lương hảo, anh hùng.
- Những người tuổi Tỵ, Dậu, Sửu có 3 cung Mệnh, Quan và Tài đóng ở 3 cung Tỵ, Dậu, Sửu (có nhóm chánh phái đóng) thì hiển hách hơn người, được kính nể;
- Ta tiếp tục lý luận như trên cho các người tuổi Thân, Tý, Thìn. Mệnh, Quan và Tài cũng đóng Thân, Tý, Thìn. Những người tuổi Hợi, Mão Mùi mà 3 cung Hợi, Mão, Mùi đều là chánh phái cả. Cộng thêm các dữ liệu sao có trong bản số của đương số thì kết luận thêm cho chính xác.
Giai đoạn tuổi ở 1 trong 3 cung của nhóm: Thái Tuế-Quan Phù-Bạch Hổ, đều là thời vận tốt nhất cho người có lá số tử vi. Khi cung Mệnh của của bản số tử-vi thuộc nhóm tả phái đó là người bất mãn, lang bạt và đau khổ. Cung Mệnh thuộc nhóm thiên hữu là người bẩm chất hiền lành nhưng nhu nhược, cung Mệnh thuộc nhóm thiên tả, là người khôn vặt, lanh lợi những chuyện tầm thường.
VII- Luật của sao TUẦN & TRIỆT
Kiếp nhân sinh ví như cái xe lăn trên đường đời, Sao Triệt được coi như cái Thắng đầu của xe, còn sao Tuần coi như bộ thắng sau của xe. Thắng đầu cần mới nguyên, rất hữu hiệu trong việc cản bánh xe lăn (đôi khi còn tạo ra nguy hiểm ! làm cho xe lật) nên dưới 30 tuổi ảnh hưởng của sao Triệt thật đậm đà. Sao Tuần ít bộc phát ảnh hưởng rõ rệt, nhưng lại bền vững suốt đời người (thắng của bánh xe sau tác dụng điều hòa tốc độ của xe chạy). Luật hóa giải TUẦN-TRIỆT được đặc biệt cho những ai có bản số Tử vi mà cung Mệnh bị một trong hai sao Triệt và Tuần trấn đóng, thì đi đến giai đoạn cung có sao còn lại đóng, là vận hên đã tới.
Thí dụ : Mệnh đóng tại Tỵ có sao Triệt, cung Phúc đức có sao Tuần , vậy đi đến giai đoạn cung Phúc đức thì phát huy được danh phận (dù không thuộc vòng Thái Tuế-Quan Phù-Bạch Hổ). Lý giải điều này cũng tự nhiên. Vi khi xe chạy mà người tài xế điều hành được hai bộ thắng thì tất nhiên phải an toàn bảo đảm như ý muốn.
VIII- Bộ ba Thiên Không, Đào Hoa và Hồng Loan
Người biết coi Tử vi, ai cũng biết :Thiên Không (Hành Hỏa), Đào Hoa (Hành Mộc) và Hồng Loan (thuộc hành Thủy). Bản chất của Hỏa Tinh là tàn phá, là gieo rắc tai ương (Thần chiến tranh) : cho nên khi ba cung Mệnh, Quan và Tài của bản số tử vi có :
a- Thiên Không, Đào Hoa nghĩa là Mộc dưỡng hỏa, để Hỏa tàn phá thêm mạnh dạn, thêm khốc liệt, ý tượng trưng cho sự khôn ngoan quá quắt của đương số. Người có cách này là mẫu người muốn chiếm đọat, muốn lấn tới để ăn người.
b- Thiên Không Hồng Loan : Nghĩa là lửa đã bị Thủy trấn áp, bó tay qui hàng, nên cung Mệnh có cách này là mẫu người thoát tục, thích cảnh tịnh hơn cảnh động.
c- Thiên Không độc thủ (ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi có Hồng Đào chiếu) bụng dạ thất thường người Âm Nam, Âm Nữ là lửa ngầm, người Dương Nam, Dương Nữ là lửa bùng : tất cả đều thủ đoạn vặt hoặc không bộc lộ hoặc phát tiết ra ngòai.
IX- Vòng Mệnh và Vòng Thân
Căn cứ của Luật Tam hạp :
- Dần Ngọ Tuất là Hỏa.
- Thân Tý Thìn là Thủy.
- Hợi Mão Mùi là Mộc.
- Tỵ Dậu Sửu là Kim.
Thì khi cung an Mệnh đứng ở vị trí nào so với vòng Thái Tuế, ta phải nhìn thế tam hợp của cung an Mệnh như Vòng tha nhân đối với Vòng bẩm tính đương số là vòng Thái Tuế tam hợp của cung an Thân là Vòng hành động của đương số. Biện chứng qua Luật ngũ hành tiêu-trưởng, ta vạch trần được tác phong đường số một các dễ dàng.
Ví dụ : Người tuổi Tỵ (Vòng Thái Tuế là Tỵ-Dậu-Sửu : Kim), cung an Mệnh đóng ở Tuất (Vòng tha nhân là Dần-Ngọ-Tuất : Hỏa), cung an Thân ở Tý (Vòng hành động là Thân-Tý-Thìn : Thủy). Ta lý giải ngay : số người này là mẫu người ra đời bị người ta chèn ép (do Hỏa khắc Kim), chịu nhiều thua thiệt, vất vả (vì Kim sinh Thủy)
X- Nhóm hung tinh chiến lược
Ta gọi là hung tinh chiến lược, vì các sao Địa không, Địa Kiếp, Đà La, Kình Dương, Hỏa Tinh, Linh Tinh, có những bộ mặt thú tính man dã nhưng hóa giải được khi điều hướng đúng chỗ.
a- Hai sao Địa Kiếp, Địa Không khi đứng trong nhóm tam hợp của vòng Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ, thì dù đắc địa (Tỵ, Hợi) hay hãm địa, cũng vẫn mất hiệu lực phá hại của nó, để trở nên ý nghĩa của người có tài mà không có thời. Mặt khác, nếu đương số thuộc hành Thổ thì đã làm cho tính chất Hỏa của Không Kiếp bị tiết khí : nên vẫy vùng yếu kém hẳn.
b- Hai sao Đà La đóng ở Dần Thân Tỵ Hợi và Kình Dương đóng ở tứ mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi ) lại có Vòng Thái Tuế ở đây thì không còn là sao tác họa mà trở thành bộ " hồi chánh tinh " đới công chuộc tội, phát võ hiển vinh, vượng phu ích tử.
c- Hai sao Hỏa tinh, Linh Tinh cũng là bộ Hỏa-Linh. Nếu đứng trong vòng Thái Tuế thì tạo thành những cái thất bại anh dũng của đương số. Người có cách này, dù " khí thiêng đã về thần" cũng được người đời kính nể khâm phục. Nói cách khác: Đấy là cách của người " Sinh thọ tử bất ninh thọ nhục "
XI- Bộ sao phò trợ
Quan niệm " phù thịnh không phù suy " là ý nghĩa của các nhóm sao phù trợ : Tả Phù, Hữu Bật, Lực Sĩ, Bác Sĩ, Hóa Quyền ... Nếu các vòng sao này
lọt vào trong vòng Thái Tuế, thì đúng là những " lương đống công thần " giúp cho đương số thăng tiến thành đạt ở đường đời, bằng trái lại, chúng nhảy sang vòng Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn (nhóm tả phái), thì chẳng khác nào thả cọp về rừng, sức tán hại càng phát triển, làm cho đương số trăm chiều vất vả (Đặc biệt nếu cung Mệnh có cách này, mà vòng Thái Tuế không tam hợp với cung Mệnh, thì rõ ràng là loại Hoàng Sào thảo khấu, ác bá côn đồ). Nhớ đây chỉ là cái chung nhất cần phải kết hợp thêm các dữ liệu sao trong bản số Tử-vi để mà diễn giải thì mới có kết luận thêm chính xác tới mức độ nào.
XII- Mệnh vô chính diệu : cách số của ma thuật
Nói chung những người có cung Mệnh vô chính diệu, thường là mẫu người sắc sảo, quyền biến có nhiều cảm ứng bén nhạy hơn người có chính diệu thủ cung Mệnh. Xem số Tử-vi những người Mệnh vô chính diệu rất khó, vỉ độ chuyển biến của các dữ kiện "sao" rất "Sensible" nghĩa là có cách số ma thuật huyền hoặc nhất. Càng nhiều hung tinh, bại tinh đắc địa tọa thủ Mệnh, càng có lợi cho đương số. Tuy nhiên vẫn cần vòng Thái Tuế tam hợp với cung an Mệnh hoặc cung an Thân để có thể hướng cái chánh nghĩa về cho nhóm ác tinh này, bằng không thì đương số sẽ trở thành những hồ ly tinh tu luyện thành người, bản tính dã thú ... khó phân biệt (!?) sẽ tạo ra những nghiệp ác để rồi đền tội một cách mau chóng (chết yểu).
XIII- TỔNG LUẬN
Nếu nắm vững mười dữ kiện căn bản nêu trên, lẽ tất nhiên khoa Tử-Vi không còn là bí truyền ân sủng cho một riêng ai; tất cả chỉ còn là toàn những tương quan ngũ hành sinh khắc hoặc chế hóa, chỉ còn là những lý giải minh bạch cho các dữ kiện được gọi là "sao" của bản số Tử-vi mà nhãn quan của con người nghiên cứu luôn luôn phải khách quan một cách thành khẩn.
Khoa lý học này sẽ có một ngày cởi bỏ cái "áo bí" của nó, để trở thành một khoa nhân văn chứa đựng tính thiện ác và thái độ vô cầu của người thâm cứu./.
Được cảm ơn bởi: Hồng Ân
TL: Hỏi về cách tính Đại hạn, tiểu hạn một lá số.
Bài trên mình có viết: Đó là mẫu số chung, giáo sư Lê Trung Hưng tóm lược lại theo quan điểm của cụ Thiên Lương, nếu chỉ cần xem Tử vi theo cách ấy thì....?
Trong bài trên có liệt kê các tuổi được hưởng Lôc tồn Trong ấy có Giáp (Dần Ngọ Tuất), vậy ta xem lắp ghép lời bình của Cụ Thiên Lương với một lá số Giáp Dần sẽ cho kết quả có hưởng Lôc tốn hay không, chưa nói tới hạn 10 năm tiếp vùi dập đương số:

Trong bài trên có liệt kê các tuổi được hưởng Lôc tồn Trong ấy có Giáp (Dần Ngọ Tuất), vậy ta xem lắp ghép lời bình của Cụ Thiên Lương với một lá số Giáp Dần sẽ cho kết quả có hưởng Lôc tốn hay không, chưa nói tới hạn 10 năm tiếp vùi dập đương số:

Được cảm ơn bởi: Hồng Ân
TL: Hỏi về cách tính Đại hạn, tiểu hạn một lá số.
Chẳng nhẽ Ông Vua Bảo Đại tuổi Quý Sửu, Mệnh Mộc không đươc hưởng Lộc tồn!
Trích dẫn:
CÁCH SỐ ĐẾ VƯƠNG TRONG MÔN TỬ VI VÀ CHUYỆN ĐỜI CỦA VUA BẢO ĐẠI
đăng 08:20 01-05-2015 bởi Hoàng Lê Vũ [ đã cập nhật 08:57 01-05-2015 ]
Thiên Lương
Người xưa thường nói: “Khôn chết, dại cũng chết, biết thì sống”. Chữ “biết”, được diễn giải như là sự thức ngộ, cách ứng xử trong đời bao hàm cả sự “tri” và “hành”. Nếu chỉ “tri” mà không “hành” sẽ là người nói suông, hão huyền và phù phiếm; còn cứ “hành” mà không biết “tri” lại như kẻ mù sờ voi, như đêm tối đi đường rừng mà không có đuốc đèn soi lối. Tử vi không chỉ là thuật tìm hiểu và dự báo vận mệnh một cá nhân, mà còn ẩn tàng đạo lý nhân sinh giúp ta hành xử thuận thế, hợp thời. Điều này đúng với tất cả mọi người, từ xưa đến nay, từ vua quan đến thường nhân. Lịch sử đã có nhiều vị quân vương khai cơ sáng nghiệp, xứng danh anh hùng dân tộc; nhưng cũng chẳng ít người kế ngôi là con cháu họ, do kém cỏi đớn hèn mà làm mất vương quyền, mất nước, gây ra những hệ lụy khôn lường cho cả một dân tộc.

Trong Tử vi, có cách số đế vương hay không?
Theo quan niệm “tam cương” của Nho giáo xưa, vua là người mang chân mệnh Thiên Tử, là “con Trời” để trị nước, an dân. Còn trong dân gian, cứ nghĩ rằng vua là người có quyền uy tối thượng trên cả muôn người, nên hẳn là phải có cách số Đế vương mới được làm vua?
Các sách cổ về Tử vi cũng nói đến điều này, gọi chung là “phi thường cách”. Và cũng do quan niệm đã là vua thì cái gì cũng phải nhất, nên đã gom tất cả những gì tốt đẹp nhất cho các cách số này. Nào là: âm dương thuận lý; Mệnh Cục tương sinh; cung Mệnh có hành sinh hành của chính tinh, chính tinh lại sinh bản Mệnh; bộ chính tinh thủ Mệnh- Thân nhất thiết phải sáng sủa tốt đẹp, hội đủ nhiều bộ trung tinh, cát tinh đắc cách nhất như: Tả Phù- Hữu Bật, Tam Thai- Bát Tọa, Ấn Quang- Thiên Quý, bộ Tứ Linh (Thanh Long, Phượng Các, Bạch Hổ, Hoa Cái), Thiên Khôi- Thiên Việt, được Tam Hóa (Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc) hội chiếu hay “liên châu” (3 sao ở 3 cung liền nhau, trong đó có cung Mệnh- Thân)…và còn phải lánh xa lục sát tinh (Địa Không- Địa Kiếp, Kình Dương- Đà La, Hỏa Tinh- Linh Tinh) và các hao bại tinh như: Thiên Khốc, Thiên Hư, Kiếp Sát, Tuyệt, Tử…
Cứ mở lá số ra là người ta xem ngay các bộ chính tinh, xem có được vào trong các cách “phi thường cách, quý cách” này hay không? Nào là “Tử Vi cư Ngọ”, “Quân thần khánh hội”, “Tử Phủ triều viên”, “Kim xán quang huy”, “Phủ tướng triều viên”…. Hay chí ít cũng là “Nhật xuất lôi môn”, “Nhật Nguyệt tịnh minh”, “Kim dư phù giá”, Nguyệt lãng thiên môn”… Trong số đó, người xưa thường tâm đắc nhất với kiểu lá số có: Mệnh hội Tử Vi- Thiên Phủ -Vũ Khúc – Thiên Tướng miếu địa, cung an Thân hội Thất Sát - Phá Quân - Tham Lang đắc cách, lại thêm các bộ Tả Phù - Hữu Bật, Thiên Khôi- Thiên Việt, Văn Xương – Văn Khúc, Thanh Long- Phượng Các, Đào Hoa - Hồng Loan…thêm Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc. Nghĩa là những gì tốt đẹp nhất thì quy tụ trong các cường cung, nhất là tam hợp Mệnh- Thân. Vậy, vấn đề liệu có chỉ giản dị như vậy hay không?
Thật ra, ai cũng như ai, một lá số cũng đủ từng ấy sao – như lẽ công bằng của thiên mệnh dành cho tất cả mọi hạng người. Nếu tam hợp Mệnh – Thân đã gom hết các sao tốt, ắt là các sao bất lợi (hay sao xấu) dồn về các cung khác. Và khi Đại vận, tiểu vận đến các cung này thì khó khăn bất lợi nhân lên, trở lực nhiều lên, nguy cơ thất bại tăng lên. Sự quân bình và chữ “thời” trong một lá số mới là quan trọng và bền vững nhất. Nếu không, khó có thể thành đại nghiệp, hay nếu có cũng chẳng được lâu bền gì. Thử hỏi một người có cung Mệnh quá tốt, nhưng 2 Đại vận tiếp theo (20 năm) lại quá xấu, như vậy thời tuổi trẻ đã gặp lắm thăng trầm, gian khó quá sức thì lúc trưởng thành liệu gặt hái được gì? Mất chữ “thời”, ai cũng dễ lâm vào cảnh ngộ “dã tràng xe cát” hay “có tài mà không đắc dụng”. Có nhiều lá số Mệnh- Thân rất đẹp, hội nhiều sao văn tinh, nhưng mà học hành gián đoạn, thi cử trượt lên trượt xuống, ấy là do vận đi đến những Đại vận, tiểu vận quá xấu mặc dù họ rất thông minh, sáng dạ. Cũng không thiếu người Mệnh được vào các cách tốt nêu trên, vì lỡ thời mà chẳng thành đạt lắm, cả đời không lãnh đạo được ai, luôn than thân trách phận là sinh bất phùng thời.
Thật ra, yếu tố “sao” chỉ là một phần, chỉ là yếu tố “nhân hòa” trong 3 điều kiện “thiên, địa, nhân” mà người viết đã trình bày nhiều lần trong các bài trước. Tất nhiên, người may mắn được các cách số trên chí ít là có “điều kiện cần” cho sự thành đạt, tối thiểu cũng khá giả và có quyền uy hơn người khác, dễ làm thủ lĩnh trong một nhóm, một lĩnh vực nào đó. Và nếu may gặp thời, lại nỗ lực và có ý chí phấn đấu (điều kiện đủ) thì sẽ tiến rất xa, thành công lớn.
Con người ta, sống ở thời nào cũng luôn gắn với vận nước, hoàn cảnh xã hội, gia tộc…tương ứng của thời ấy. Dù không có cách số cố định cho một ông vua, nhưng trong thời quân chủ cha truyền con nối kế tiếp nhau giữ ngôi, nên lá số của vua rất quan trọng. Các quyết sách của vua đều liên quan chặt chẽ, thậm chí quyết định đến vận nước. Xem lá số của một ông vua, nhất là Đại vận, tiểu vận lúc đang ở ngôi vị, có thể đoán định được phần nào sự thịnh suy của nước, hòa bình hay chiến tranh, dân tình ấm no hay đói kém. Các vị vua thường rất chăm lo việc tế cáo trời đất, xây cất đền chùa, cúng lễ tổ tiên, đặt phong thủy cả về âm trạch hay dương cơ…chính là nhằm tích thiện cho cung Phúc Đức của mình. Họ cầu cho quốc thái dân an, và cũng mong ơn trên gia hộ cho ngôi vua và dòng họ mình luôn bền vững.
Bảo Đại, ông vua thất vị và lỡ thời
Bảo Đại là ông vua cuối cùng của nhà Nguyễn, triều đại có công thống nhất giang sơn nước Việt từ Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau. Lá số của ông như phản ánh định mệnh nổi chìm của đất nước thời ấy. Ông sinh năm Quý Sửu (1913), ngày 23/9 âm lịch, giờ Dần. Là người mệnh Mộc, trong thế cục Mộc, cung Mệnh đóng ở cung Thân (dương Kim) là một điều bất ổn, nhiều trở lực về phần “địa lợi”. Ông lại là người “âm cư dương vị” (người âm, mệnh đóng cung dương) nên thường do dự, thiếu tính quyết đoán. Xét về phần “thiên thời”, tam hợp chính Mệnh (Thân)- Quan Lộc- Tài Bạch thuộc Thủy (Thân- Tý- Thìn) phù sinh mệnh Mộc. Tức là xét về đại cục thì thuận, tất nhiên với điều kiện là ông có nhìn ra và đủ tài năng, ý chí khai thác đại cục ấy cho non nước và vương nghiệp của mình hay không?
Về mặt “nhân hòa” tức là các bộ sao ở các cường cung, có nhiều điều đáng suy ngẫm. Tuy về hình thức, ông được bộ Tử- Phủ- Vũ- Tướng, nhưng không đủ làm nên tài năng và tính cách của một bậc quân vương: cung Mệnh đắc Tử Vi- Thiên Phủ, nhưng hai sao này đều hành Thổ, chỉ nói nên hình tướng (bệ vệ, đẹp đẽ, trắng trẻo) mà không làm nên tính cách của người mệnh Mộc. Cung an Thân (cư Quan Lộc) ở cung Tý (dương Thủy) sinh mệnh Mộc nên ông lên ngôi vua quá thuận lợi; có bộ Liêm Trinh – Thiên Tướng đắc cách, và người mệnh Mộc chịu ảnh hưởng của sao Thiên Tướng (Thủy) sinh mệnh. Tiếc rằng cung Quan, với sao Thiên Tướng gặp Triệt, cùng sát tinh Linh Tinh (Hỏa) thì bất lợi, ví như ông tướng mất đầu. Tiếng là làm vua gần 20 năm (1925- 1945) nhưng ông lên ngôi khi tuổi quá nhỏ, du học tại Pháp đến năm 1932 mới về nước chấp chính. Hơn 10 năm sau đó, dù có nhiều dự tính cho đất nước nhưng gặp thời bĩ cực nên cũng chẳng làm được gì nhiều. Chính quyền bảo hộ Pháp can thiệp vào chuyện triều chính, quan lại thân cận thì bậc lương đống quá ít, lũ cơ hội và bảo thủ lại nhiều. Ông chán nản và thất vọng triền miên, sa vào các cuộc vui thú, đi săn, chơi thể thao, bài bạc, thích rượu ngon gái đẹp và nhiều chuyện phù phiếm khác.
Xét kỹ ra, vào lúc ông về nước chấp chính là đại vận 23- 32 tuổi ở cung Ngọ (dương Hỏa), cũng trong tam hợp Hỏa (Dần- Ngọ- Tuất) là thiệt thòi với người mệnh Mộc. Mệnh phải sinh xuất, như đem củi gỗ mà nhóm lò. Nhưng nếu ông quyết đoán, có ý chí và chấp nhận hao tâm tận lực thì vẫn nên chuyện, dù chỉ có danh mà không có phận. Ấy là do được bộ Sát – Phá – Tham đắc cách, lại thêm Tả Phù - Hữu Bật chiếu, có Hóa Lộc đồng cung. Tiếc rằng do cung Nô Bộc quá yếu, tụ ít tán nhiều, lắm sát tinh (Kình Dương, Địa Kiếp, Hỏa Tinh), lại bị Triệt Không như cái lưới vây bọc nên ông đành vô kế sở thi, mà có kế cũng không có quần thần đắc lực trung tín để thi hành. Bi kịch của đời ông cũng nằm trong vận hạn tối tăm của đất nước thời ấy. Với sao Thiên Mã, tượng trưng cho nghị lực, sự linh động, tháo vát nằm ở cung Hợi, là thủy Mã nên rất hợp với người mệnh Mộc. Tiếc rằng, vào Đại vận 33- 42 tuổi lại gặp cách “Thiên Lương, Thiên Mã vi nhân phiêu đãng phong lưu”, nên ông bỏ bê mọi sự, sẵn sàng tuyên chiếu thoái vị vào tháng 8/1945 rồi chỉ ham thú phong trần, nhất là ở nước ngoài đến cuối đời cũng là vì thế.
Trong từ Hán – Việt, có chữ “Vị”, chỉ chỗ ngồi, vị trí, cũng hàm nghĩa “ngôi vị” và vị thế cho một ông vua. Suy rộng ra, với câu “y phục xứng kỳ đức”, bậc quân vương phải xứng với vị thế được đặt vào đó, cả tâm đức, ý chí, tài năng và tầm nhìn hợp thời đại. Đối với vua Bảo Đại, ngoài yếu tố thời thế bất lợi thì ý chí và tài năng của ông cũng bất xứng với ngôi vị ấy. Nhưng, ngẫm cho đến cùng thì đó cũng bởi vận nước lúc thịnh lúc suy. Những ông vua trong giai đoạn tàn mạt của các triều đại, dù đã từng rực rỡ vẻ vang nhất, như Đinh, Lý, Trần, Lê… đều có kết cục như vậy. Và nhà Nguyễn cũng không thể thoát khỏi cái quy luật thường hằng mà khắc nghiệt ấy…
Hà Nội, tháng Tư, năm 2015
Trích dẫn:
CÁCH SỐ ĐẾ VƯƠNG TRONG MÔN TỬ VI VÀ CHUYỆN ĐỜI CỦA VUA BẢO ĐẠI
đăng 08:20 01-05-2015 bởi Hoàng Lê Vũ [ đã cập nhật 08:57 01-05-2015 ]
Thiên Lương
Người xưa thường nói: “Khôn chết, dại cũng chết, biết thì sống”. Chữ “biết”, được diễn giải như là sự thức ngộ, cách ứng xử trong đời bao hàm cả sự “tri” và “hành”. Nếu chỉ “tri” mà không “hành” sẽ là người nói suông, hão huyền và phù phiếm; còn cứ “hành” mà không biết “tri” lại như kẻ mù sờ voi, như đêm tối đi đường rừng mà không có đuốc đèn soi lối. Tử vi không chỉ là thuật tìm hiểu và dự báo vận mệnh một cá nhân, mà còn ẩn tàng đạo lý nhân sinh giúp ta hành xử thuận thế, hợp thời. Điều này đúng với tất cả mọi người, từ xưa đến nay, từ vua quan đến thường nhân. Lịch sử đã có nhiều vị quân vương khai cơ sáng nghiệp, xứng danh anh hùng dân tộc; nhưng cũng chẳng ít người kế ngôi là con cháu họ, do kém cỏi đớn hèn mà làm mất vương quyền, mất nước, gây ra những hệ lụy khôn lường cho cả một dân tộc.

Trong Tử vi, có cách số đế vương hay không?
Theo quan niệm “tam cương” của Nho giáo xưa, vua là người mang chân mệnh Thiên Tử, là “con Trời” để trị nước, an dân. Còn trong dân gian, cứ nghĩ rằng vua là người có quyền uy tối thượng trên cả muôn người, nên hẳn là phải có cách số Đế vương mới được làm vua?
Các sách cổ về Tử vi cũng nói đến điều này, gọi chung là “phi thường cách”. Và cũng do quan niệm đã là vua thì cái gì cũng phải nhất, nên đã gom tất cả những gì tốt đẹp nhất cho các cách số này. Nào là: âm dương thuận lý; Mệnh Cục tương sinh; cung Mệnh có hành sinh hành của chính tinh, chính tinh lại sinh bản Mệnh; bộ chính tinh thủ Mệnh- Thân nhất thiết phải sáng sủa tốt đẹp, hội đủ nhiều bộ trung tinh, cát tinh đắc cách nhất như: Tả Phù- Hữu Bật, Tam Thai- Bát Tọa, Ấn Quang- Thiên Quý, bộ Tứ Linh (Thanh Long, Phượng Các, Bạch Hổ, Hoa Cái), Thiên Khôi- Thiên Việt, được Tam Hóa (Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc) hội chiếu hay “liên châu” (3 sao ở 3 cung liền nhau, trong đó có cung Mệnh- Thân)…và còn phải lánh xa lục sát tinh (Địa Không- Địa Kiếp, Kình Dương- Đà La, Hỏa Tinh- Linh Tinh) và các hao bại tinh như: Thiên Khốc, Thiên Hư, Kiếp Sát, Tuyệt, Tử…
Cứ mở lá số ra là người ta xem ngay các bộ chính tinh, xem có được vào trong các cách “phi thường cách, quý cách” này hay không? Nào là “Tử Vi cư Ngọ”, “Quân thần khánh hội”, “Tử Phủ triều viên”, “Kim xán quang huy”, “Phủ tướng triều viên”…. Hay chí ít cũng là “Nhật xuất lôi môn”, “Nhật Nguyệt tịnh minh”, “Kim dư phù giá”, Nguyệt lãng thiên môn”… Trong số đó, người xưa thường tâm đắc nhất với kiểu lá số có: Mệnh hội Tử Vi- Thiên Phủ -Vũ Khúc – Thiên Tướng miếu địa, cung an Thân hội Thất Sát - Phá Quân - Tham Lang đắc cách, lại thêm các bộ Tả Phù - Hữu Bật, Thiên Khôi- Thiên Việt, Văn Xương – Văn Khúc, Thanh Long- Phượng Các, Đào Hoa - Hồng Loan…thêm Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc. Nghĩa là những gì tốt đẹp nhất thì quy tụ trong các cường cung, nhất là tam hợp Mệnh- Thân. Vậy, vấn đề liệu có chỉ giản dị như vậy hay không?
Thật ra, ai cũng như ai, một lá số cũng đủ từng ấy sao – như lẽ công bằng của thiên mệnh dành cho tất cả mọi hạng người. Nếu tam hợp Mệnh – Thân đã gom hết các sao tốt, ắt là các sao bất lợi (hay sao xấu) dồn về các cung khác. Và khi Đại vận, tiểu vận đến các cung này thì khó khăn bất lợi nhân lên, trở lực nhiều lên, nguy cơ thất bại tăng lên. Sự quân bình và chữ “thời” trong một lá số mới là quan trọng và bền vững nhất. Nếu không, khó có thể thành đại nghiệp, hay nếu có cũng chẳng được lâu bền gì. Thử hỏi một người có cung Mệnh quá tốt, nhưng 2 Đại vận tiếp theo (20 năm) lại quá xấu, như vậy thời tuổi trẻ đã gặp lắm thăng trầm, gian khó quá sức thì lúc trưởng thành liệu gặt hái được gì? Mất chữ “thời”, ai cũng dễ lâm vào cảnh ngộ “dã tràng xe cát” hay “có tài mà không đắc dụng”. Có nhiều lá số Mệnh- Thân rất đẹp, hội nhiều sao văn tinh, nhưng mà học hành gián đoạn, thi cử trượt lên trượt xuống, ấy là do vận đi đến những Đại vận, tiểu vận quá xấu mặc dù họ rất thông minh, sáng dạ. Cũng không thiếu người Mệnh được vào các cách tốt nêu trên, vì lỡ thời mà chẳng thành đạt lắm, cả đời không lãnh đạo được ai, luôn than thân trách phận là sinh bất phùng thời.
Thật ra, yếu tố “sao” chỉ là một phần, chỉ là yếu tố “nhân hòa” trong 3 điều kiện “thiên, địa, nhân” mà người viết đã trình bày nhiều lần trong các bài trước. Tất nhiên, người may mắn được các cách số trên chí ít là có “điều kiện cần” cho sự thành đạt, tối thiểu cũng khá giả và có quyền uy hơn người khác, dễ làm thủ lĩnh trong một nhóm, một lĩnh vực nào đó. Và nếu may gặp thời, lại nỗ lực và có ý chí phấn đấu (điều kiện đủ) thì sẽ tiến rất xa, thành công lớn.
Con người ta, sống ở thời nào cũng luôn gắn với vận nước, hoàn cảnh xã hội, gia tộc…tương ứng của thời ấy. Dù không có cách số cố định cho một ông vua, nhưng trong thời quân chủ cha truyền con nối kế tiếp nhau giữ ngôi, nên lá số của vua rất quan trọng. Các quyết sách của vua đều liên quan chặt chẽ, thậm chí quyết định đến vận nước. Xem lá số của một ông vua, nhất là Đại vận, tiểu vận lúc đang ở ngôi vị, có thể đoán định được phần nào sự thịnh suy của nước, hòa bình hay chiến tranh, dân tình ấm no hay đói kém. Các vị vua thường rất chăm lo việc tế cáo trời đất, xây cất đền chùa, cúng lễ tổ tiên, đặt phong thủy cả về âm trạch hay dương cơ…chính là nhằm tích thiện cho cung Phúc Đức của mình. Họ cầu cho quốc thái dân an, và cũng mong ơn trên gia hộ cho ngôi vua và dòng họ mình luôn bền vững.
Bảo Đại, ông vua thất vị và lỡ thời
Bảo Đại là ông vua cuối cùng của nhà Nguyễn, triều đại có công thống nhất giang sơn nước Việt từ Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau. Lá số của ông như phản ánh định mệnh nổi chìm của đất nước thời ấy. Ông sinh năm Quý Sửu (1913), ngày 23/9 âm lịch, giờ Dần. Là người mệnh Mộc, trong thế cục Mộc, cung Mệnh đóng ở cung Thân (dương Kim) là một điều bất ổn, nhiều trở lực về phần “địa lợi”. Ông lại là người “âm cư dương vị” (người âm, mệnh đóng cung dương) nên thường do dự, thiếu tính quyết đoán. Xét về phần “thiên thời”, tam hợp chính Mệnh (Thân)- Quan Lộc- Tài Bạch thuộc Thủy (Thân- Tý- Thìn) phù sinh mệnh Mộc. Tức là xét về đại cục thì thuận, tất nhiên với điều kiện là ông có nhìn ra và đủ tài năng, ý chí khai thác đại cục ấy cho non nước và vương nghiệp của mình hay không?
Về mặt “nhân hòa” tức là các bộ sao ở các cường cung, có nhiều điều đáng suy ngẫm. Tuy về hình thức, ông được bộ Tử- Phủ- Vũ- Tướng, nhưng không đủ làm nên tài năng và tính cách của một bậc quân vương: cung Mệnh đắc Tử Vi- Thiên Phủ, nhưng hai sao này đều hành Thổ, chỉ nói nên hình tướng (bệ vệ, đẹp đẽ, trắng trẻo) mà không làm nên tính cách của người mệnh Mộc. Cung an Thân (cư Quan Lộc) ở cung Tý (dương Thủy) sinh mệnh Mộc nên ông lên ngôi vua quá thuận lợi; có bộ Liêm Trinh – Thiên Tướng đắc cách, và người mệnh Mộc chịu ảnh hưởng của sao Thiên Tướng (Thủy) sinh mệnh. Tiếc rằng cung Quan, với sao Thiên Tướng gặp Triệt, cùng sát tinh Linh Tinh (Hỏa) thì bất lợi, ví như ông tướng mất đầu. Tiếng là làm vua gần 20 năm (1925- 1945) nhưng ông lên ngôi khi tuổi quá nhỏ, du học tại Pháp đến năm 1932 mới về nước chấp chính. Hơn 10 năm sau đó, dù có nhiều dự tính cho đất nước nhưng gặp thời bĩ cực nên cũng chẳng làm được gì nhiều. Chính quyền bảo hộ Pháp can thiệp vào chuyện triều chính, quan lại thân cận thì bậc lương đống quá ít, lũ cơ hội và bảo thủ lại nhiều. Ông chán nản và thất vọng triền miên, sa vào các cuộc vui thú, đi săn, chơi thể thao, bài bạc, thích rượu ngon gái đẹp và nhiều chuyện phù phiếm khác.
Xét kỹ ra, vào lúc ông về nước chấp chính là đại vận 23- 32 tuổi ở cung Ngọ (dương Hỏa), cũng trong tam hợp Hỏa (Dần- Ngọ- Tuất) là thiệt thòi với người mệnh Mộc. Mệnh phải sinh xuất, như đem củi gỗ mà nhóm lò. Nhưng nếu ông quyết đoán, có ý chí và chấp nhận hao tâm tận lực thì vẫn nên chuyện, dù chỉ có danh mà không có phận. Ấy là do được bộ Sát – Phá – Tham đắc cách, lại thêm Tả Phù - Hữu Bật chiếu, có Hóa Lộc đồng cung. Tiếc rằng do cung Nô Bộc quá yếu, tụ ít tán nhiều, lắm sát tinh (Kình Dương, Địa Kiếp, Hỏa Tinh), lại bị Triệt Không như cái lưới vây bọc nên ông đành vô kế sở thi, mà có kế cũng không có quần thần đắc lực trung tín để thi hành. Bi kịch của đời ông cũng nằm trong vận hạn tối tăm của đất nước thời ấy. Với sao Thiên Mã, tượng trưng cho nghị lực, sự linh động, tháo vát nằm ở cung Hợi, là thủy Mã nên rất hợp với người mệnh Mộc. Tiếc rằng, vào Đại vận 33- 42 tuổi lại gặp cách “Thiên Lương, Thiên Mã vi nhân phiêu đãng phong lưu”, nên ông bỏ bê mọi sự, sẵn sàng tuyên chiếu thoái vị vào tháng 8/1945 rồi chỉ ham thú phong trần, nhất là ở nước ngoài đến cuối đời cũng là vì thế.
Trong từ Hán – Việt, có chữ “Vị”, chỉ chỗ ngồi, vị trí, cũng hàm nghĩa “ngôi vị” và vị thế cho một ông vua. Suy rộng ra, với câu “y phục xứng kỳ đức”, bậc quân vương phải xứng với vị thế được đặt vào đó, cả tâm đức, ý chí, tài năng và tầm nhìn hợp thời đại. Đối với vua Bảo Đại, ngoài yếu tố thời thế bất lợi thì ý chí và tài năng của ông cũng bất xứng với ngôi vị ấy. Nhưng, ngẫm cho đến cùng thì đó cũng bởi vận nước lúc thịnh lúc suy. Những ông vua trong giai đoạn tàn mạt của các triều đại, dù đã từng rực rỡ vẻ vang nhất, như Đinh, Lý, Trần, Lê… đều có kết cục như vậy. Và nhà Nguyễn cũng không thể thoát khỏi cái quy luật thường hằng mà khắc nghiệt ấy…
Hà Nội, tháng Tư, năm 2015
Được cảm ơn bởi: Hồng Ân
TL: Hỏi về cách tính Đại hạn, tiểu hạn một lá số.
Ở bài trên như mình đã đưa ra 02 ví dụ phản biện, để các bạn tự chiêm nghiệm về mẫu số chung và đó đúng chỉ là nói chung chung.
Tiếp theo:
II-Kỹ thuật tiêu chuẩn để nhận biết lá số Tử-Vi
1- Dữ kiện nghị lực : Sao Thiên Mã. ==> dành cho nhóm nào ?
Tích đoạn trong TVNLTT của cụ Thiên lương, để thấy rằng người có thiên mã hợp vị là những người long đong lận đận, phải chiến đấu sống còn với đời.
"b) Thiên mã là sao hào hiệp, hình bóng một Tống Giang, một đơn Hùng Tín, dem lại nghị lực khả nằng giúp đời nơi đua trường tứ Sinh (Dần Thân Tỵ Hợi) chỉ phù suy không tơ hào đến người thịnh . Chỉ có Mệnh ở vị trí Tuế Phá, Tang môn, Điếu khách mới thấy xuất hiện Thiên mã để đương số chiếu đầu sống còn .
31
Nói tới kết quả thành công tới mức độ nào, còn tuỳ theo phong thổ nơi mã được chăn nuôi với chủ nhân hợp tình đồng cảnh mặc dầu hành chính cống của Mã là Hoả , nhưng một khi đã nhập tịch ở địa phương nào thì là công dân ở nơi đó phải hoà hợp dân chúng nơi cư ngụ mới đắc cách. Như Mã ở Dần là thanh mã, rộng bề sinh sống, phải gặp chủ nhân Mộc mệnh; ở Tỵ là Xích thố mã phải gặp chủ nhân Hoả mệnh, ở Thân là bạch mã phải gặp chủ nhân Kim mệnh, ở hợi là ô mã đắc cách là gặp chủ nhân thuỷ mệnh . Trên bước đường đời thầy trò sẽ thấy mọi sự dễ dàng tranh tài đoạt giải cùng vận hội thuận lợi hay không! Còn sự thua thiệt do mã mang đến phân độ nào cũng tuỳ trường hợp sinh khắc của chủ với mã, đừng tưởng cứ mã gặp tràng sinh là thanh vân đắc lộ và cũng đừng cho mã ở Hợi là mã cùng đường vô dụng ."
-
- Nhị đẳng
- Bài viết: 394
- Tham gia: 02:19, 02/02/12
TL: Hỏi về cách tính Đại hạn, tiểu hạn một lá số.
tiểu hạn 1 năm thì tính ở dưới . cung thì tính ở trên. như bạn năm nay là năm mùi năm ở cung mùi. năm sau năm thân nằm ở cung ngọ. tính tháng thì đã có rồi còn tính ngày thì vào tháng nào thi ngày mùng 1 khởi nguồn từ tháng đó. vd: tháng 1 thì ngày mùng 1 sẽ ở tháng 1 cứ theo chiều kim đồng hồ sẽ là ngày mùng 2 cung kế tiếp. vd : thang 4 của bạn ở cung quan thì ngày mùng 1 là ở cung quan . ngày mùng 2 sẽ ở cung nô cứ tiếp thế tính ngày.
TL: Hỏi về cách tính Đại hạn, tiểu hạn một lá số.
Anh Mộc Huynh.em đọc qua các bài trả lời của anh e thấy anh rất am hiểu tử vi và nhiệt tình giúp đỡ mọi người giải đáp khúc mắc.ls của em bị kỵ hình giáp ấn rất xấu+ đại vận 10 năm e đang rơi vào cung phu thê hạn thiên không làm gì cũng thất bại về 0 .e dự định 2016 chuyển nghề sang kinh doanh càfe+ kem..... hiện tại em đang làm cầu đường công vịêc lúc có lúc ko tìên thì ko có@@. Anh xem hộ em hạn năm 2016 lịêu có chuỷên nghề được ko có xấu lắm ko.và nếu anh rảnh thì coi sơ bộ qua ls của em xem như thế nào.em cảm ơn nhìêu.

