PHÚC BẤT TẬN HƯỞNG ( nguồn:Kimca.net)
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục dành cho việc xem lá số tử vi. Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức tử vi.
Không được đính kèm lá số của trang web khác. Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
Đây là chuyên mục dành cho việc xem lá số tử vi. Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức tử vi.
Không được đính kèm lá số của trang web khác. Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
TL: PHÚC BẤT TẬN HƯỞNG ( nguồn:Kimca.net)
BỒ TÁT SỢ NHÂN, CHÚNG SINH SỢ QUẢ.
(PLO) - Tạo nghiệp là nhân, thọ báo là quả. Quy luật của sự luân hồi là “nhân quả”. Lăn lộn trong ba cõi sáu đường đều tùy thuộc nhân quả. Mình đã gây “nhân” nhất định mình phải chịu “quả”, “quả” khổ hay “quả” vui là do gây “nhân” khổ vui.
Theo quan niệm của đạo Phật, “nhân quả” là lẽ công bằng chân thật, bởi mỗi cá nhân gây tạo khác nhau, nên sự thọ nhận cũng sai biệt, không giống nhau. Sự công bằng từ “nhân” đến “quả”, không phải sự công bằng do ai khác áp đặt cho mình. Ngày nay mỗi người tạo “nhân” thì ngày mai chính mình thọ “quả”, rõ ràng, rành mạch.
Thắc mắc với … “Nhân quả”
“Đạo Phật nói “nhân quả” là căn cứ trên thời gian suốt cả quá khứ đến hiện tại vào kéo dài tới vị lai; trong quá khứ có cái gần có cái xa, trong vị lai cũng thế, khiến có những kết quả xảy đến mà đương sự không bao giờ nhớ. Lại có những sự kiện gây “nhân” mà không thấy kết “quả”, do đó “nhân quả” trở thành rắc rối, làm nhiều người khó tin, khó nhận”. Nhưng sự thật lúc nào cũng là thật, nếu mỗi người nhận hiểu sâu về lý “nhân quả” thì cuộc sống này rõ ràng đã có tiêu chuẩn nhắm đến và an ổn vô cùng vì mọi kết quả hiện chịu trong đời đều do “nhân” gây ra từ thuở trước, nên khổ không oán hờn, vui không ngạo mạn, mình làm mình chịu, chỉ cần ngay giờ đây phải biết chọn lấy “nhân” tốt mà làm, để mai kia khỏi phải thọ “quả” đau khổ.
Những kẻ gây tạo nghiệp ác, ắt phải thọ quả khổ trong ba đường dữ địa ngục, ma quỷ, súc sinh. Nghiệp ác là mình làm cho kẻ khác khổ, cân xứng với “nhân” mình gây, thọ “quả” khổ một nơi trong ba đường dữ. “Nhân” khổ có khi không thành “quả” do nửa chừng mình biết hối cải, hoặc chuyển đổi. Nhưng “nhân” khổ nhất định thọ “quả” khổ, do sự nuôi dưỡng một cách sung mãn. Ví dụ, có người uống rượu mà không ghiền, vì họ biết giới hạn chừa bỏ nhưng có người uống rượu nhất định phải ghiền rượu, vì họ mãi tiếp tục và say mê. Có “nhân” khổ mà không thọ “quả” khổ, cũng như thế.
Người gây nghiệp thiện ắt thọ “quả” vui trong cõi người, cõi A Tu La và cõi trời, cân xứng của nghiệp lành mình đã tạo, nhiều ít thấp cao thì kết quả cũng có hơn kém thấp cao. Có khi người ta nghiệp lành mà không hưởng “quả” lành, ví như một số sinh viên vào học y khoa, có người không đủ khả năng học hoặc lười biếng học, nên tuy học y khoa mà không thể thành bác sĩ; có người đủ khả năng lại cần cù học tập, nhất định một ngày kia sẽ thành bác sĩ.
Vì đâu “Bồ Tát sợ nhân”?
Trong kinh Phật có nói: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”, tại sao vậy? Bồ-tát (Bodhisavattu) là người giác ngộ, là người đã thấy tận cái manh nha, đầu mối của sự khổ đau và an lạc. Muốn hết khổ được vui, không gì hơn là mỗi người chớ gieo cái mầm đau khổ và ngược lại, biết cần mẫn gieo trồng cái mầm an vui. Không gieo nhân khổ thì không gặp quả khổ; luôn gieo trồng “nhân” vui thì “quả” vui không vời cũng đến. Đây là sự hiểu biết và hành động của người giác ngộ.
Bởi giác ngộ nên thấy rõ cái gì là “nhân” đau khổ liền sợ hãi, tìm mọi cách để diệt trừ. Thấy tham lam và keo kiệt là “nhân” đau khổ, Bồ-tát tu hạnh bố thí để tiêu diệt. Thấy buông lung ngạo mạn là “nhân” phá hoại đức hạnh, Bồ-tát tu trì giới để khử dẹp. Thấy nóng giận là “nhân” gây nhiều tội lỗi, Bồ-tát tu hạnh nhẫn nhục để dẹp. Thấy lười biếng bê tha là “nhân” hư thân mất công đức, Bồ-tát tu hạnh tinh tấn để đánh đuổi. Thấy tâm tán loạn là “nhân” điên đảo tối tăm, Bồ-tát tu thiền định để thu nhiếp. Thấy ngu si là “nhân” trầm luân sinh tử, Bồ-tát tu trí tuệ để chiếu phá.
Bồ-tát tu hạnh để diệt trừ sáu cái “nhân” xấu xa, tội lỗi, mù tối ,hiểm nguy vốn dẫn con người đi mãi trong trầm luân đau khổ. Khi sáu cái “nhân” ấy bị tiêu diệt hoàn toàn là giác ngộ giải thoát. Đó chính là tu Lục độ, đang hành hạnh Bồ-tát và đến khi giác ngộ thì là Bồ-tát thật sự.
Kẻ trí sợ “nhân”, người ngu thì sợ “quả”. Chúng sinh là những kẻ mê, chỉ nhìn trên cái “quả” mà sợ mà cầu. Luôn luôn sợ khổ cầu vui mà “nhân” đau khổ không tránh, nhân an vui không tạo thì một khi “quả” đau khổ đến dẫu cầu khẩn van xin cũng vô ích. Cầu mong, mơ ước “quả” an vui, nhưng “nhân” không chịu gieo, không chăm chút thì “quả” từ đâu mà đến? Đây là sự khác biệt giữa kẻ mê và người giác; tuy nhiên, cái mê này ai cũng có thể trừ bỏ, cái giác này ai cũng có thể làm. Chỉ là nhắm vào “nhân” là giác, không ai là không thể làm được việc đó.
Từ “nhân” đến “quả” còn cần có những sự kiện trợ giúp đầy đủ mới được viên mãn. Không có thể có nhận định tất nhiên rằng có “nhân” là có “quả” bởi vì thời gian từ “nhân” đến “quả” là giai đoạn biến động, hoặc được tăng trưởng, hoặc bị tiêu mòn, tùy theo những sự kiện trợ giúp. Biết rõ như thế, mỗi chúng ta có thể chuyển “nhân” xấu thành tốt, hoặc “nhân” tốt trở ra xấu.
Phá bỏ luân hồi - Cách nào?
Sự tất yếu của luân hồi tùy thuộc “nhân quả”, không có kẻ nào khác áp đặt khổ vui cho chúng ta, cũng không có bàn tay nào lôi kéo chúng ta phải đi đường này hay lối khác, mọi sự kết quả đều cân xứng với “nhân” mình gây tạo, như đã nói ở trên. Nắm vững yếu tố này, mới thấy mỗi chúng ta thật sự có trọn quyền định đoạt số phận của chính mình, chẳng cần phải dựa dẫm vào thế lực siêu nhiên nào khác. Cuộc đời của mỗi chúng ta hiện được tươi sáng hay đen tối đều do sự khéo léo hay vụng về của chính ta ngày xưa. Mỗi người phải can đảm nhận lấy trách nhiệm của mình, không oán trách kêu ca, không than thân tủi phận; gan dạ trong cuộc sống hiện tại song phải khôn ngoan chọn lối đi ở ngày mai.
Đạo Phật giải thích rõ lý luân hồi, nhưng không phải là để mỗi chúng ta mãi chịu luân hồi. Biết luân hồi tường tận rồi, Phật lại chỉ ra con đường… thoát ly luân hồi, cũng như đã biết đâu là khổ, chúng ta mới tìm cách thoát khổ. Luân hồi là vòng loanh quanh lẩn quẩn, nhào đi lộn lại không thể thoát ra. Chấp nhận cam chịu trong vòng quanh quẩn đó là do mỗi người không tìm được manh mối thoát ra, hoặc không đủ khả năng thoát ra.
Ví dụ, trước khi các nhà khoa học phát hiện ra sức hút của Trái đất, mọi người mọi vật đều cam chịu trong vòng “vọt lên rớt xuống”, không sao thoát ra ngoài được. Thế rồi khi chính các nhà khoa học chế tạo được phi thuyền đủ khả năng “vọt ra” khỏi lực hút của Trái đất, đi thám hiểm các hành tinh khác thì lực hút của Trái đất đâu còn trói buộc được chúng ta nữa. Cũng thế, Phật giải thích lý luân hồi rồi, mới dạy phương pháp thoát ly luân hồi mà mục đích của đạo Phật là thoát ly sinh tử luân hồi, không chấp nhận sự loanh quanh trong vòng sinh tử. Còn trong sinh tử - dù dài, ngắn, khổ, vui - đạo Phật đều kết luận là đau khổ vì cùng một số phận vô thường, chỉ thoát được luân hồi mới là an vui giải thoát.
Như vậy, đạo Phật nói lý luân hồi cũng là phát hiện một sự thật của vạn vật và con người. Con người nhận hiểu thấu đáo về lý luân hồi, nếu họ không có khả năng thoát khỏi lý luân hồi, tự chọn lựa cuộc luân hồi an vui và thoải mái. Nếu họ có khả năng thoát ly luân hồi, do hiểu luân hồi mà tiến tu đạo giải thoát. Biết được lý luân hồi, mỗi chúng ta biết được lẽ công bằng của con người, cũng nhận thấy sự tự do căn bản ở mỗi chúng ta. Mọi sự mê tín do đó đều tiêu tan do ta biết chính ta là người quyết định thân phận của mình.
Cũng bởi thế mà tất cả oán hờn, tủi hận đều sạch hết, vì có ai áp đặt sự đau khổ cho mình mà than thở. Dù chưa giải thoát nhưng biết lý luân hồi, mỗi chúng ta cũng sáng suốt và yên ổn trong đời sống này. Mọi tương lai vẫn nằm trong tay mỗi chúng ta, chúng ta trọn quyền lựa chọn lấy một tương lai nào theo sở thích của mình thôi…
Thích Thanh Từ
( báophapluat.vn)
(PLO) - Tạo nghiệp là nhân, thọ báo là quả. Quy luật của sự luân hồi là “nhân quả”. Lăn lộn trong ba cõi sáu đường đều tùy thuộc nhân quả. Mình đã gây “nhân” nhất định mình phải chịu “quả”, “quả” khổ hay “quả” vui là do gây “nhân” khổ vui.
Theo quan niệm của đạo Phật, “nhân quả” là lẽ công bằng chân thật, bởi mỗi cá nhân gây tạo khác nhau, nên sự thọ nhận cũng sai biệt, không giống nhau. Sự công bằng từ “nhân” đến “quả”, không phải sự công bằng do ai khác áp đặt cho mình. Ngày nay mỗi người tạo “nhân” thì ngày mai chính mình thọ “quả”, rõ ràng, rành mạch.
Thắc mắc với … “Nhân quả”
“Đạo Phật nói “nhân quả” là căn cứ trên thời gian suốt cả quá khứ đến hiện tại vào kéo dài tới vị lai; trong quá khứ có cái gần có cái xa, trong vị lai cũng thế, khiến có những kết quả xảy đến mà đương sự không bao giờ nhớ. Lại có những sự kiện gây “nhân” mà không thấy kết “quả”, do đó “nhân quả” trở thành rắc rối, làm nhiều người khó tin, khó nhận”. Nhưng sự thật lúc nào cũng là thật, nếu mỗi người nhận hiểu sâu về lý “nhân quả” thì cuộc sống này rõ ràng đã có tiêu chuẩn nhắm đến và an ổn vô cùng vì mọi kết quả hiện chịu trong đời đều do “nhân” gây ra từ thuở trước, nên khổ không oán hờn, vui không ngạo mạn, mình làm mình chịu, chỉ cần ngay giờ đây phải biết chọn lấy “nhân” tốt mà làm, để mai kia khỏi phải thọ “quả” đau khổ.
Những kẻ gây tạo nghiệp ác, ắt phải thọ quả khổ trong ba đường dữ địa ngục, ma quỷ, súc sinh. Nghiệp ác là mình làm cho kẻ khác khổ, cân xứng với “nhân” mình gây, thọ “quả” khổ một nơi trong ba đường dữ. “Nhân” khổ có khi không thành “quả” do nửa chừng mình biết hối cải, hoặc chuyển đổi. Nhưng “nhân” khổ nhất định thọ “quả” khổ, do sự nuôi dưỡng một cách sung mãn. Ví dụ, có người uống rượu mà không ghiền, vì họ biết giới hạn chừa bỏ nhưng có người uống rượu nhất định phải ghiền rượu, vì họ mãi tiếp tục và say mê. Có “nhân” khổ mà không thọ “quả” khổ, cũng như thế.
Người gây nghiệp thiện ắt thọ “quả” vui trong cõi người, cõi A Tu La và cõi trời, cân xứng của nghiệp lành mình đã tạo, nhiều ít thấp cao thì kết quả cũng có hơn kém thấp cao. Có khi người ta nghiệp lành mà không hưởng “quả” lành, ví như một số sinh viên vào học y khoa, có người không đủ khả năng học hoặc lười biếng học, nên tuy học y khoa mà không thể thành bác sĩ; có người đủ khả năng lại cần cù học tập, nhất định một ngày kia sẽ thành bác sĩ.
Vì đâu “Bồ Tát sợ nhân”?
Trong kinh Phật có nói: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”, tại sao vậy? Bồ-tát (Bodhisavattu) là người giác ngộ, là người đã thấy tận cái manh nha, đầu mối của sự khổ đau và an lạc. Muốn hết khổ được vui, không gì hơn là mỗi người chớ gieo cái mầm đau khổ và ngược lại, biết cần mẫn gieo trồng cái mầm an vui. Không gieo nhân khổ thì không gặp quả khổ; luôn gieo trồng “nhân” vui thì “quả” vui không vời cũng đến. Đây là sự hiểu biết và hành động của người giác ngộ.
Bởi giác ngộ nên thấy rõ cái gì là “nhân” đau khổ liền sợ hãi, tìm mọi cách để diệt trừ. Thấy tham lam và keo kiệt là “nhân” đau khổ, Bồ-tát tu hạnh bố thí để tiêu diệt. Thấy buông lung ngạo mạn là “nhân” phá hoại đức hạnh, Bồ-tát tu trì giới để khử dẹp. Thấy nóng giận là “nhân” gây nhiều tội lỗi, Bồ-tát tu hạnh nhẫn nhục để dẹp. Thấy lười biếng bê tha là “nhân” hư thân mất công đức, Bồ-tát tu hạnh tinh tấn để đánh đuổi. Thấy tâm tán loạn là “nhân” điên đảo tối tăm, Bồ-tát tu thiền định để thu nhiếp. Thấy ngu si là “nhân” trầm luân sinh tử, Bồ-tát tu trí tuệ để chiếu phá.
Bồ-tát tu hạnh để diệt trừ sáu cái “nhân” xấu xa, tội lỗi, mù tối ,hiểm nguy vốn dẫn con người đi mãi trong trầm luân đau khổ. Khi sáu cái “nhân” ấy bị tiêu diệt hoàn toàn là giác ngộ giải thoát. Đó chính là tu Lục độ, đang hành hạnh Bồ-tát và đến khi giác ngộ thì là Bồ-tát thật sự.
Kẻ trí sợ “nhân”, người ngu thì sợ “quả”. Chúng sinh là những kẻ mê, chỉ nhìn trên cái “quả” mà sợ mà cầu. Luôn luôn sợ khổ cầu vui mà “nhân” đau khổ không tránh, nhân an vui không tạo thì một khi “quả” đau khổ đến dẫu cầu khẩn van xin cũng vô ích. Cầu mong, mơ ước “quả” an vui, nhưng “nhân” không chịu gieo, không chăm chút thì “quả” từ đâu mà đến? Đây là sự khác biệt giữa kẻ mê và người giác; tuy nhiên, cái mê này ai cũng có thể trừ bỏ, cái giác này ai cũng có thể làm. Chỉ là nhắm vào “nhân” là giác, không ai là không thể làm được việc đó.
Từ “nhân” đến “quả” còn cần có những sự kiện trợ giúp đầy đủ mới được viên mãn. Không có thể có nhận định tất nhiên rằng có “nhân” là có “quả” bởi vì thời gian từ “nhân” đến “quả” là giai đoạn biến động, hoặc được tăng trưởng, hoặc bị tiêu mòn, tùy theo những sự kiện trợ giúp. Biết rõ như thế, mỗi chúng ta có thể chuyển “nhân” xấu thành tốt, hoặc “nhân” tốt trở ra xấu.
Phá bỏ luân hồi - Cách nào?
Sự tất yếu của luân hồi tùy thuộc “nhân quả”, không có kẻ nào khác áp đặt khổ vui cho chúng ta, cũng không có bàn tay nào lôi kéo chúng ta phải đi đường này hay lối khác, mọi sự kết quả đều cân xứng với “nhân” mình gây tạo, như đã nói ở trên. Nắm vững yếu tố này, mới thấy mỗi chúng ta thật sự có trọn quyền định đoạt số phận của chính mình, chẳng cần phải dựa dẫm vào thế lực siêu nhiên nào khác. Cuộc đời của mỗi chúng ta hiện được tươi sáng hay đen tối đều do sự khéo léo hay vụng về của chính ta ngày xưa. Mỗi người phải can đảm nhận lấy trách nhiệm của mình, không oán trách kêu ca, không than thân tủi phận; gan dạ trong cuộc sống hiện tại song phải khôn ngoan chọn lối đi ở ngày mai.
Đạo Phật giải thích rõ lý luân hồi, nhưng không phải là để mỗi chúng ta mãi chịu luân hồi. Biết luân hồi tường tận rồi, Phật lại chỉ ra con đường… thoát ly luân hồi, cũng như đã biết đâu là khổ, chúng ta mới tìm cách thoát khổ. Luân hồi là vòng loanh quanh lẩn quẩn, nhào đi lộn lại không thể thoát ra. Chấp nhận cam chịu trong vòng quanh quẩn đó là do mỗi người không tìm được manh mối thoát ra, hoặc không đủ khả năng thoát ra.
Ví dụ, trước khi các nhà khoa học phát hiện ra sức hút của Trái đất, mọi người mọi vật đều cam chịu trong vòng “vọt lên rớt xuống”, không sao thoát ra ngoài được. Thế rồi khi chính các nhà khoa học chế tạo được phi thuyền đủ khả năng “vọt ra” khỏi lực hút của Trái đất, đi thám hiểm các hành tinh khác thì lực hút của Trái đất đâu còn trói buộc được chúng ta nữa. Cũng thế, Phật giải thích lý luân hồi rồi, mới dạy phương pháp thoát ly luân hồi mà mục đích của đạo Phật là thoát ly sinh tử luân hồi, không chấp nhận sự loanh quanh trong vòng sinh tử. Còn trong sinh tử - dù dài, ngắn, khổ, vui - đạo Phật đều kết luận là đau khổ vì cùng một số phận vô thường, chỉ thoát được luân hồi mới là an vui giải thoát.
Như vậy, đạo Phật nói lý luân hồi cũng là phát hiện một sự thật của vạn vật và con người. Con người nhận hiểu thấu đáo về lý luân hồi, nếu họ không có khả năng thoát khỏi lý luân hồi, tự chọn lựa cuộc luân hồi an vui và thoải mái. Nếu họ có khả năng thoát ly luân hồi, do hiểu luân hồi mà tiến tu đạo giải thoát. Biết được lý luân hồi, mỗi chúng ta biết được lẽ công bằng của con người, cũng nhận thấy sự tự do căn bản ở mỗi chúng ta. Mọi sự mê tín do đó đều tiêu tan do ta biết chính ta là người quyết định thân phận của mình.
Cũng bởi thế mà tất cả oán hờn, tủi hận đều sạch hết, vì có ai áp đặt sự đau khổ cho mình mà than thở. Dù chưa giải thoát nhưng biết lý luân hồi, mỗi chúng ta cũng sáng suốt và yên ổn trong đời sống này. Mọi tương lai vẫn nằm trong tay mỗi chúng ta, chúng ta trọn quyền lựa chọn lấy một tương lai nào theo sở thích của mình thôi…
Thích Thanh Từ
( báophapluat.vn)
Được cảm ơn bởi: hoavan004, hysshu, lananh230815
TL: PHÚC BẤT TẬN HƯỞNG ( nguồn:Kimca.net)
Lòng tin là mẹ của tất cả Công đức
Trong mọi tôn giáo, “Lòng Tin” hay còn gọi là “Đức Tin” là chìa khóa để mở cánh cửa vào Đạo. Người đời nghe qua cho là tầm thường, chớ thực ra lòng tin có tánh cách vô cùng trọng yếu. Bởi thế Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là bước đầu vào đạo, là mẹ của của tất cả công đức. Lòng tin hay nuôi lớn các căn lành. Lòng tin thành tựu quả Bồ Đề của Phật.”
Thế nên đối với người tu, đức tin có tính cách rất trọng yếu. Nếu mất đức tin, chẳng những nền tảng tiến đạo phải bị sụp đổ, mà tất cả công hạnh giải thoát cũng không thành.
Người thế gian do chướng nghiệp ngăn che nên phần đông không gặp được chánh pháp, dẫu có gặp cũng chẳng khởi được đức tin. Vậy nên người Phật tử nếu chẳng thể khuyên người thân học đạo, cũng nên buông cho nhẹ thân tâm, đừng cố cưỡng cầu dễ phát sanh chướng ngại. Đường giải thoát nhiều hiểm nạn chướng duyên, chỉ cần ta chí tâm hành trì, một mai nghiệp tiêu trí rạng, chướng tận phước tăng; cuộc sống và thân tâm thay đổi; lúc ấy, do dùng thân giáo nên chẳng cầu mà người thân tự theo mình học Đạo.
Còn như vẫn một hai cưỡng cầu thì cần phải biết rằng: Sức che chướng của nghiệp lực vô cùng khủng khiếp. Người ta đã chẳng tin thì dù đức Phật hiện thân thuyết pháp, cũng không cách chi xoay chuyển được. Câu chuyện sau đây trong Kinh Pháp-cú-dụ là một điển hình:
Không có Lòng Tin đức Phật cũng không thể cứu độ
“Khi đức Phật ở tại nước Xá-vệ, trong thành có một người Bà-la-môn, tuổi gần tám mươi, giàu có vô số. Ông ta là người cứng đầu, không biết đạo lý, không kể sống chết, quanh năm chỉ lo xây cất mái trước nhà sau. Nào đài cao hóng mát, nào phòng kín sưởi ấm. Riêng hai phía đông tây, hành lang gồm mười dãy. Bấy giờ chỉ còn lại chái trước dùng để che nắng, đang xây dựng chưa xong. Một mình ông ta gánh vác lo toan mơi chuyện.
Đức Phật dùng pháp nhãn nhìn thấy ông ta sẽ chết trong ngày hôm ấy, nhưng ông ta không hề hay biết, vẫn thản nhiên xây cất. Động lòng Từ bi, đức Phật dắt A-nan đến nhà, hỏi rằng: “Cụ già có mệt nhọc không? Ngôi nhà đang xây này, chỗ nào yên ổn nhất?”
Trong mọi tôn giáo, “Lòng Tin” hay còn gọi là “Đức Tin” là chìa khóa để mở cánh cửa vào Đạo. Người đời nghe qua cho là tầm thường, chớ thực ra lòng tin có tánh cách vô cùng trọng yếu. Bởi thế Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là bước đầu vào đạo, là mẹ của của tất cả công đức. Lòng tin hay nuôi lớn các căn lành. Lòng tin thành tựu quả Bồ Đề của Phật.”
Thế nên đối với người tu, đức tin có tính cách rất trọng yếu. Nếu mất đức tin, chẳng những nền tảng tiến đạo phải bị sụp đổ, mà tất cả công hạnh giải thoát cũng không thành.
Người thế gian do chướng nghiệp ngăn che nên phần đông không gặp được chánh pháp, dẫu có gặp cũng chẳng khởi được đức tin. Vậy nên người Phật tử nếu chẳng thể khuyên người thân học đạo, cũng nên buông cho nhẹ thân tâm, đừng cố cưỡng cầu dễ phát sanh chướng ngại. Đường giải thoát nhiều hiểm nạn chướng duyên, chỉ cần ta chí tâm hành trì, một mai nghiệp tiêu trí rạng, chướng tận phước tăng; cuộc sống và thân tâm thay đổi; lúc ấy, do dùng thân giáo nên chẳng cầu mà người thân tự theo mình học Đạo.
Còn như vẫn một hai cưỡng cầu thì cần phải biết rằng: Sức che chướng của nghiệp lực vô cùng khủng khiếp. Người ta đã chẳng tin thì dù đức Phật hiện thân thuyết pháp, cũng không cách chi xoay chuyển được. Câu chuyện sau đây trong Kinh Pháp-cú-dụ là một điển hình:
Không có Lòng Tin đức Phật cũng không thể cứu độ
“Khi đức Phật ở tại nước Xá-vệ, trong thành có một người Bà-la-môn, tuổi gần tám mươi, giàu có vô số. Ông ta là người cứng đầu, không biết đạo lý, không kể sống chết, quanh năm chỉ lo xây cất mái trước nhà sau. Nào đài cao hóng mát, nào phòng kín sưởi ấm. Riêng hai phía đông tây, hành lang gồm mười dãy. Bấy giờ chỉ còn lại chái trước dùng để che nắng, đang xây dựng chưa xong. Một mình ông ta gánh vác lo toan mơi chuyện.
Đức Phật dùng pháp nhãn nhìn thấy ông ta sẽ chết trong ngày hôm ấy, nhưng ông ta không hề hay biết, vẫn thản nhiên xây cất. Động lòng Từ bi, đức Phật dắt A-nan đến nhà, hỏi rằng: “Cụ già có mệt nhọc không? Ngôi nhà đang xây này, chỗ nào yên ổn nhất?”
Ông ta đáp: “Mái trước kiếp khách, nhà sau để ở. Hai chái đông tây dành cho con cháu, chất chứa của cải và bọn người làm. Riêng ta, mùa hạ lên đài cao hóng mát, mùa đông vào phòng kín sưởi ấm”.
Đức Phật bảo: “Nghe tiếng ông cụ đã lâu, ta muốn đến bàn luận nhiều điều. Có bài kệ liên quan đến vận mạng sống chết, ta muốn đem tặng. Ông cụ hãy dừng tay một lát, cùng ta đàm luận, được không?”
Ông ta đáp: “Hôm nay bận quá, không rảnh chút nào. Xin bữa khác hãy đến đàm luận. Còn bài kệ, có thể đọc liền bây giờ”.
Đức Phật đọc kệ rằng:
*
Có con, có của
Kẻ ngu lăng xăng.
Ta chẳng phải ta,
Nói gì con, của!
Nắng ở chỗ này,
Lạnh ở chỗ kia.
Kẻ ngu lo nhiều,
Chẳng biết tai họa.
Ngu che, ngu lấp
Tự cho là khôn,
Ngu mà nói khôn
Ngu ơi là ngu!
Ông già Bà-la-môn nói: “Ngài nói bài kệ thật hay, nhưng hôm nay bận quá, bữa khác sẽ bình luận”.
Đức Phật thương xót ra về. Lát sau, ông ta một mình gác cái đòn tay, vô ý rơi xuống, đập vỡ đầu chết ngay. Cả nhà òa khóc lớn. Vang động xóm làng. Đức Phật đi chưa xa, biết tai họa đã ập đến. Đầu làng có mấy chục vị phạm chí hỏi đức Phật: “Ngài đi đâu về?”
Đức Phật đáp: “Vừa đến thuyết pháp trong nhà ông cụ mới chết. Ông không tin lời ta, không biết lý vô thường. Bấy giờ đã hóa kiếp khác”.
Nói xong, đức Phật đọc cho các vị ấy nghe bài kệ trước đó. Nghe qua, tất cả đều vui mừng hiểu được chánh pháp.”
( theo kinhnghiemhocphat.com)
Trong mọi tôn giáo, “Lòng Tin” hay còn gọi là “Đức Tin” là chìa khóa để mở cánh cửa vào Đạo. Người đời nghe qua cho là tầm thường, chớ thực ra lòng tin có tánh cách vô cùng trọng yếu. Bởi thế Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là bước đầu vào đạo, là mẹ của của tất cả công đức. Lòng tin hay nuôi lớn các căn lành. Lòng tin thành tựu quả Bồ Đề của Phật.”
Thế nên đối với người tu, đức tin có tính cách rất trọng yếu. Nếu mất đức tin, chẳng những nền tảng tiến đạo phải bị sụp đổ, mà tất cả công hạnh giải thoát cũng không thành.
Người thế gian do chướng nghiệp ngăn che nên phần đông không gặp được chánh pháp, dẫu có gặp cũng chẳng khởi được đức tin. Vậy nên người Phật tử nếu chẳng thể khuyên người thân học đạo, cũng nên buông cho nhẹ thân tâm, đừng cố cưỡng cầu dễ phát sanh chướng ngại. Đường giải thoát nhiều hiểm nạn chướng duyên, chỉ cần ta chí tâm hành trì, một mai nghiệp tiêu trí rạng, chướng tận phước tăng; cuộc sống và thân tâm thay đổi; lúc ấy, do dùng thân giáo nên chẳng cầu mà người thân tự theo mình học Đạo.
Còn như vẫn một hai cưỡng cầu thì cần phải biết rằng: Sức che chướng của nghiệp lực vô cùng khủng khiếp. Người ta đã chẳng tin thì dù đức Phật hiện thân thuyết pháp, cũng không cách chi xoay chuyển được. Câu chuyện sau đây trong Kinh Pháp-cú-dụ là một điển hình:
Không có Lòng Tin đức Phật cũng không thể cứu độ
“Khi đức Phật ở tại nước Xá-vệ, trong thành có một người Bà-la-môn, tuổi gần tám mươi, giàu có vô số. Ông ta là người cứng đầu, không biết đạo lý, không kể sống chết, quanh năm chỉ lo xây cất mái trước nhà sau. Nào đài cao hóng mát, nào phòng kín sưởi ấm. Riêng hai phía đông tây, hành lang gồm mười dãy. Bấy giờ chỉ còn lại chái trước dùng để che nắng, đang xây dựng chưa xong. Một mình ông ta gánh vác lo toan mơi chuyện.
Đức Phật dùng pháp nhãn nhìn thấy ông ta sẽ chết trong ngày hôm ấy, nhưng ông ta không hề hay biết, vẫn thản nhiên xây cất. Động lòng Từ bi, đức Phật dắt A-nan đến nhà, hỏi rằng: “Cụ già có mệt nhọc không? Ngôi nhà đang xây này, chỗ nào yên ổn nhất?”
Trong mọi tôn giáo, “Lòng Tin” hay còn gọi là “Đức Tin” là chìa khóa để mở cánh cửa vào Đạo. Người đời nghe qua cho là tầm thường, chớ thực ra lòng tin có tánh cách vô cùng trọng yếu. Bởi thế Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là bước đầu vào đạo, là mẹ của của tất cả công đức. Lòng tin hay nuôi lớn các căn lành. Lòng tin thành tựu quả Bồ Đề của Phật.”
Thế nên đối với người tu, đức tin có tính cách rất trọng yếu. Nếu mất đức tin, chẳng những nền tảng tiến đạo phải bị sụp đổ, mà tất cả công hạnh giải thoát cũng không thành.
Người thế gian do chướng nghiệp ngăn che nên phần đông không gặp được chánh pháp, dẫu có gặp cũng chẳng khởi được đức tin. Vậy nên người Phật tử nếu chẳng thể khuyên người thân học đạo, cũng nên buông cho nhẹ thân tâm, đừng cố cưỡng cầu dễ phát sanh chướng ngại. Đường giải thoát nhiều hiểm nạn chướng duyên, chỉ cần ta chí tâm hành trì, một mai nghiệp tiêu trí rạng, chướng tận phước tăng; cuộc sống và thân tâm thay đổi; lúc ấy, do dùng thân giáo nên chẳng cầu mà người thân tự theo mình học Đạo.
Còn như vẫn một hai cưỡng cầu thì cần phải biết rằng: Sức che chướng của nghiệp lực vô cùng khủng khiếp. Người ta đã chẳng tin thì dù đức Phật hiện thân thuyết pháp, cũng không cách chi xoay chuyển được. Câu chuyện sau đây trong Kinh Pháp-cú-dụ là một điển hình:
Không có Lòng Tin đức Phật cũng không thể cứu độ
“Khi đức Phật ở tại nước Xá-vệ, trong thành có một người Bà-la-môn, tuổi gần tám mươi, giàu có vô số. Ông ta là người cứng đầu, không biết đạo lý, không kể sống chết, quanh năm chỉ lo xây cất mái trước nhà sau. Nào đài cao hóng mát, nào phòng kín sưởi ấm. Riêng hai phía đông tây, hành lang gồm mười dãy. Bấy giờ chỉ còn lại chái trước dùng để che nắng, đang xây dựng chưa xong. Một mình ông ta gánh vác lo toan mơi chuyện.
Đức Phật dùng pháp nhãn nhìn thấy ông ta sẽ chết trong ngày hôm ấy, nhưng ông ta không hề hay biết, vẫn thản nhiên xây cất. Động lòng Từ bi, đức Phật dắt A-nan đến nhà, hỏi rằng: “Cụ già có mệt nhọc không? Ngôi nhà đang xây này, chỗ nào yên ổn nhất?”
Ông ta đáp: “Mái trước kiếp khách, nhà sau để ở. Hai chái đông tây dành cho con cháu, chất chứa của cải và bọn người làm. Riêng ta, mùa hạ lên đài cao hóng mát, mùa đông vào phòng kín sưởi ấm”.
Đức Phật bảo: “Nghe tiếng ông cụ đã lâu, ta muốn đến bàn luận nhiều điều. Có bài kệ liên quan đến vận mạng sống chết, ta muốn đem tặng. Ông cụ hãy dừng tay một lát, cùng ta đàm luận, được không?”
Ông ta đáp: “Hôm nay bận quá, không rảnh chút nào. Xin bữa khác hãy đến đàm luận. Còn bài kệ, có thể đọc liền bây giờ”.
Đức Phật đọc kệ rằng:
*
Có con, có của
Kẻ ngu lăng xăng.
Ta chẳng phải ta,
Nói gì con, của!
Nắng ở chỗ này,
Lạnh ở chỗ kia.
Kẻ ngu lo nhiều,
Chẳng biết tai họa.
Ngu che, ngu lấp
Tự cho là khôn,
Ngu mà nói khôn
Ngu ơi là ngu!
Ông già Bà-la-môn nói: “Ngài nói bài kệ thật hay, nhưng hôm nay bận quá, bữa khác sẽ bình luận”.
Đức Phật thương xót ra về. Lát sau, ông ta một mình gác cái đòn tay, vô ý rơi xuống, đập vỡ đầu chết ngay. Cả nhà òa khóc lớn. Vang động xóm làng. Đức Phật đi chưa xa, biết tai họa đã ập đến. Đầu làng có mấy chục vị phạm chí hỏi đức Phật: “Ngài đi đâu về?”
Đức Phật đáp: “Vừa đến thuyết pháp trong nhà ông cụ mới chết. Ông không tin lời ta, không biết lý vô thường. Bấy giờ đã hóa kiếp khác”.
Nói xong, đức Phật đọc cho các vị ấy nghe bài kệ trước đó. Nghe qua, tất cả đều vui mừng hiểu được chánh pháp.”
( theo kinhnghiemhocphat.com)
Được cảm ơn bởi: PhươngLe
- thanhthanh2013
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 1249
- Tham gia: 19:01, 05/07/13
TL: PHÚC BẤT TẬN HƯỞNG ( nguồn:Kimca.net)
Được cảm ơn bởi: hysshu
TL: PHÚC BẤT TẬN HƯỞNG ( nguồn:Kimca.net)
Còn khoảng 1 tuần nữa là đến ngày lễ của Phật A Di Đà, ngày cuối cùng trong năm.
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc, hysshu
TL: PHÚC BẤT TẬN HƯỞNG ( nguồn:Kimca.net)
CON LÀ NGƯỜI CUỐI ĐỂ ĐƯA PHẬT VỀ
Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát - Vị Bồ tát tiếp nối hạnh nguyện mười phương chư Phật, mang hình tướng vị tu sỹ “xuất thế mà nhập thế” đã đi vào tâm thức của hành giả Phật giáo Bắc truyền.
Hơn hết, Bồ tát Địa Tạng còn là hiện thân của tinh thần vô uý dấn thân vào cảnh khổ Địa ngục để bắt một nhịp cầu tri âm giữa hai bờ âm dương với đủ chất liệu hiểu - thương và khích lệ chúng sinh hồi tâm hướng thiện quay về bờ giác. Ngài còn là chất liệu xây dựng nên lòng Hiếu thảo tuyệt đối với cha mẹ hiện đời và cha mẹ nhiều kiếp.”
Trước thực trạng đầy biến động của thế giới và con người đang sống trong cơn khổ nạn của đại dịch Covid 19, chúng ta có cơ hội thực tập sâu hơn lời phát nguyện của Ngài.
“Lạy đức Bồ Tát Địa Tạng, chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, tìm cách có mặt ở bất cứ nơi nào mà bóng tối, khổ đau, tuyệt vọng và áp bức còn đang trấn ngự, để có thể mang đến những nơi ấy ánh sáng, niềm tin, hy vọng và giải thoát. Chúng con nguyện không bao giờ quên lãng và bỏ rơi những người còn đang bị kẹt trong những tình uống tuyệt vọng, nguyện cố gắng thiết lập liên lạc với những ai đang không còn lối thoát, những ai bị bưng bít không vó phương tiện lên tiếng kêu gọi công bình, nhân phẩm và quyền được làm người.”
Chưa bao giờ chúng ta lại chứng kiến cảnh địa ngục trần gian một cách rõ ràng, tang thương, thảm khốc như hiện tại. Sự bất an, bế tắc trong những ngày giãn cách, nỗi khổ đau, tuyệt vọng chồng chất trước cảnh sinh ly tử biệt mà không có cơ hội thắp cho nhau nén hương tiễn đưa nhìn mặt nhau lần cuối như nét đẹp văn hoá của người Việt.
Nhưng cũng chính giữa lúc chuyện sinh tử mong manh chỉ tính bằng một hơi thở chúng ta mới thấy sự hy sinh thầm lặng của lực lượng tuyến đầu, các y bác sĩ và tình nguyện viên đã gác lại tình riêng, không ngại nguy hiểm kể cả thân mạng để nguyện đi vào “địa ngục trần gian” cứu lấy tính mạng đồng bào mình, trong cuộc chiến chưa hẹn ngày về, nhưng trong lòng đã nở đóa hoá từ bi nguyện phụng sự tiếp nối lời phát nguyện cao cả của Ngài.
“Chúng con biết đại ngục có mặt khắp nơi trên thế giới và chúng con nguyện sẽ không bao giờ tiếp sức xây dựng thêm những đại ngục trần gian như thế; trái lại, chúng con xin nguyện nỗ lực giải trừ những đại ngục còn đang có mặt. Chúng con nguyện tu học để đạt được đức vững chãi và kiên trì của Đất, để có thể trở thành trung kiên và không kỳ thị như Đất, và cũng đựơc như Đất có thể làm nơi nương tựa cho tất cả những ai cần đến chúng con.”
Ý thức được những khổ đau và bất an trong cơn khủng hoảng do thiên tai, dịch bệnh mang lại chúng con nguyện quay vào bên trong tự sám hối sáu căn, phát nguyện tu tập văn, tư, tu tuệ với chính mình để mang lại an lạc cho tự thân, gia đình và xã hội. Chỉ khi nào chúng ta tinh tấn tu tập để đạt được một phần nào hạnh nguyện bao dung và không kì thị như Đất thì con người mới biết thương yêu, chấp nhận và dần dần chuyển hoá tham, sân, sĩ trong mỗi người để biệt nghiệp mỗi người ngày một tốt hơn nhằm góp phần phát triển cộng nghiệp của xã hội theo cách ứng xử thiện lành giữa con người với môi trường sống.
Do vậy, thế gian tôn xưng Ngài là bậc “ đại bi, đại nguyện, đại thánh, đại từ” đủ để thấy hạnh nguyện vĩ đại và chan hoà của Bồ tát đối với chúng sinh, hay như câu bi nguyện : “Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật” thật hùng tráng.
Thế nên, Ngài đã thành tựu lý tưởng Bồ tát đạo chính trong lời phát nguyện của mình chứ không phải đợi đến lúc độ hết chúng sanh mới viên thành đạo quả, cũng như các sứ giả khoác áo Blue đã hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình một cách thiêng liêng nhất giữa tâm dịch chứ không cần đợi ngày kết thúc cuộc chiến này vì cuộc sống vốn vô thường. Xin cho con được cúi xuống để tỏ lòng tri ân sâu sắc nhất trước nghĩa tình đồng bào cao đẹp này, như một dấu son của lịch sử nước nhà!
Vì vậy, chúng sinh cõi Ta bà khi đã có duyên với Ngài qua việc viết chép, hành trì kinh Địa Tạng và đặc biệt là học theo hạnh của Bồ tát, hôm nay kỷ niệm ngày vía Ngài, chúng ta hữu duyên hãy làm các hạnh lành để tỏ lòng tôn kính tri ân Ngài. Mong góp được thêm nguyện lực với năng lượng an lạc đẩy lùi dịch bệnh, để cuộc sống bình yên sớm trở lại.
Chỉ khi nào con người chúng ta dùng tâm từ bi và trí tuệ để đối xử với muôn loài, muôn vật và hiện tại là ứng xử với virus corona mới mong ngày thế giới cân bằng trở lại nhờ con người tin sâu nhân quả; và cũng nhờ hiệu lực cầu nguyện này để những người đã mất trong đại dịch nương vào năng lực của Tam Bảo sớm tái sanh về cảnh giới an lành!
Sáng chớm thu, giữa tiết trời thơm mùi hương cốm mới, ngồi an yên bên hiên chùa nghe tiếng đồng bào vang vọng khắp không trung, ngắm dung nhan bậc Điều Ngự để tiếp nối lời nguyện xưa:
"Phật ơi ! Con đã trở về
Trần gian con giữ nguyện thề kiếp xưa
Chúng sinh độ thoát không chừa
Con là người cuối...để đưa Phật về."
Kính Lễ Đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương!
( nguồn: phatgiao.org)
Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát - Vị Bồ tát tiếp nối hạnh nguyện mười phương chư Phật, mang hình tướng vị tu sỹ “xuất thế mà nhập thế” đã đi vào tâm thức của hành giả Phật giáo Bắc truyền.
Hơn hết, Bồ tát Địa Tạng còn là hiện thân của tinh thần vô uý dấn thân vào cảnh khổ Địa ngục để bắt một nhịp cầu tri âm giữa hai bờ âm dương với đủ chất liệu hiểu - thương và khích lệ chúng sinh hồi tâm hướng thiện quay về bờ giác. Ngài còn là chất liệu xây dựng nên lòng Hiếu thảo tuyệt đối với cha mẹ hiện đời và cha mẹ nhiều kiếp.”
Trước thực trạng đầy biến động của thế giới và con người đang sống trong cơn khổ nạn của đại dịch Covid 19, chúng ta có cơ hội thực tập sâu hơn lời phát nguyện của Ngài.
“Lạy đức Bồ Tát Địa Tạng, chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, tìm cách có mặt ở bất cứ nơi nào mà bóng tối, khổ đau, tuyệt vọng và áp bức còn đang trấn ngự, để có thể mang đến những nơi ấy ánh sáng, niềm tin, hy vọng và giải thoát. Chúng con nguyện không bao giờ quên lãng và bỏ rơi những người còn đang bị kẹt trong những tình uống tuyệt vọng, nguyện cố gắng thiết lập liên lạc với những ai đang không còn lối thoát, những ai bị bưng bít không vó phương tiện lên tiếng kêu gọi công bình, nhân phẩm và quyền được làm người.”
Chưa bao giờ chúng ta lại chứng kiến cảnh địa ngục trần gian một cách rõ ràng, tang thương, thảm khốc như hiện tại. Sự bất an, bế tắc trong những ngày giãn cách, nỗi khổ đau, tuyệt vọng chồng chất trước cảnh sinh ly tử biệt mà không có cơ hội thắp cho nhau nén hương tiễn đưa nhìn mặt nhau lần cuối như nét đẹp văn hoá của người Việt.
Nhưng cũng chính giữa lúc chuyện sinh tử mong manh chỉ tính bằng một hơi thở chúng ta mới thấy sự hy sinh thầm lặng của lực lượng tuyến đầu, các y bác sĩ và tình nguyện viên đã gác lại tình riêng, không ngại nguy hiểm kể cả thân mạng để nguyện đi vào “địa ngục trần gian” cứu lấy tính mạng đồng bào mình, trong cuộc chiến chưa hẹn ngày về, nhưng trong lòng đã nở đóa hoá từ bi nguyện phụng sự tiếp nối lời phát nguyện cao cả của Ngài.
“Chúng con biết đại ngục có mặt khắp nơi trên thế giới và chúng con nguyện sẽ không bao giờ tiếp sức xây dựng thêm những đại ngục trần gian như thế; trái lại, chúng con xin nguyện nỗ lực giải trừ những đại ngục còn đang có mặt. Chúng con nguyện tu học để đạt được đức vững chãi và kiên trì của Đất, để có thể trở thành trung kiên và không kỳ thị như Đất, và cũng đựơc như Đất có thể làm nơi nương tựa cho tất cả những ai cần đến chúng con.”
Ý thức được những khổ đau và bất an trong cơn khủng hoảng do thiên tai, dịch bệnh mang lại chúng con nguyện quay vào bên trong tự sám hối sáu căn, phát nguyện tu tập văn, tư, tu tuệ với chính mình để mang lại an lạc cho tự thân, gia đình và xã hội. Chỉ khi nào chúng ta tinh tấn tu tập để đạt được một phần nào hạnh nguyện bao dung và không kì thị như Đất thì con người mới biết thương yêu, chấp nhận và dần dần chuyển hoá tham, sân, sĩ trong mỗi người để biệt nghiệp mỗi người ngày một tốt hơn nhằm góp phần phát triển cộng nghiệp của xã hội theo cách ứng xử thiện lành giữa con người với môi trường sống.
Do vậy, thế gian tôn xưng Ngài là bậc “ đại bi, đại nguyện, đại thánh, đại từ” đủ để thấy hạnh nguyện vĩ đại và chan hoà của Bồ tát đối với chúng sinh, hay như câu bi nguyện : “Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật” thật hùng tráng.
Thế nên, Ngài đã thành tựu lý tưởng Bồ tát đạo chính trong lời phát nguyện của mình chứ không phải đợi đến lúc độ hết chúng sanh mới viên thành đạo quả, cũng như các sứ giả khoác áo Blue đã hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình một cách thiêng liêng nhất giữa tâm dịch chứ không cần đợi ngày kết thúc cuộc chiến này vì cuộc sống vốn vô thường. Xin cho con được cúi xuống để tỏ lòng tri ân sâu sắc nhất trước nghĩa tình đồng bào cao đẹp này, như một dấu son của lịch sử nước nhà!
Vì vậy, chúng sinh cõi Ta bà khi đã có duyên với Ngài qua việc viết chép, hành trì kinh Địa Tạng và đặc biệt là học theo hạnh của Bồ tát, hôm nay kỷ niệm ngày vía Ngài, chúng ta hữu duyên hãy làm các hạnh lành để tỏ lòng tôn kính tri ân Ngài. Mong góp được thêm nguyện lực với năng lượng an lạc đẩy lùi dịch bệnh, để cuộc sống bình yên sớm trở lại.
Chỉ khi nào con người chúng ta dùng tâm từ bi và trí tuệ để đối xử với muôn loài, muôn vật và hiện tại là ứng xử với virus corona mới mong ngày thế giới cân bằng trở lại nhờ con người tin sâu nhân quả; và cũng nhờ hiệu lực cầu nguyện này để những người đã mất trong đại dịch nương vào năng lực của Tam Bảo sớm tái sanh về cảnh giới an lành!
Sáng chớm thu, giữa tiết trời thơm mùi hương cốm mới, ngồi an yên bên hiên chùa nghe tiếng đồng bào vang vọng khắp không trung, ngắm dung nhan bậc Điều Ngự để tiếp nối lời nguyện xưa:
"Phật ơi ! Con đã trở về
Trần gian con giữ nguyện thề kiếp xưa
Chúng sinh độ thoát không chừa
Con là người cuối...để đưa Phật về."
Kính Lễ Đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương!
( nguồn: phatgiao.org)
Được cảm ơn bởi: hysshu, hoavan004, Tudotutronghanhphuc
TL: PHÚC BẤT TẬN HƯỞNG ( nguồn:Kimca.net)
Em chúc anh Hysshu ngủ ngon 
Hy vọng có ngày gặp mặt để chúng ta giao lưu
Hy vọng có ngày gặp mặt để chúng ta giao lưu
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc, hysshu
TL: PHÚC BẤT TẬN HƯỞNG ( nguồn:Kimca.net)
VẦNG HÀO QUANG CỦA MỖI NGƯỜI
Tùy vào phước mà mỗi người đều có một vầng hào quang sáng hay tối bao chung quanh.
Người có vùng hào quang tỏa sáng là người có phước, thường họ là người sang trọng, giàu có. Ngược lại, người có vùng hào quang mờ tối là người ít phước và họ thường nghèo khổ. Những người có thần nhãn có thể nhìn thấy vùng hào quang của mọi người, họ dựa vào đó mà biết cuộc đời, số phận của người đó như thế nào.
Ví dụ, một người giàu có mặc bộ đồ rách rưới đến gặp thầy bói để xin quẻ. Ông thầy bói nhìn thấy vầng hào quang của người này tỏa sáng ra chung quanh, ông nói liền: “Anh đừng nói dối tôi. Anh là một người giàu. Tiền của anh không để đâu cho hết”.
Hoặc có người nghịch ngợm, là ông chủ mà mặc bộ đồ nghèo nàn, đi sau người nhân viên trong trang phục sang trọng. Vừa bước vào ông thầy đã nói: “Mấy anh gạt tôi à? Cái người đi trước mới là nhân viên, còn người đi sau đứng hầu mới là ông chủ”. Ông thầy bói này có đạo nhãn có thể nhìn thấy được hào quang. Người đi trước mặc đồ sang trọng mà hào quang tối, còn người đi sau mặc đồ rách nhưng hào quang sáng thì mới là chủ.
Vầng hào quang của mỗi người như sức mạnh bảo vệ người đó trước sự tác động của vong linh. Nếu nó mờ, tối thì vong linh dễ dàng áp tới. Còn nếu hào quang tỏa sáng thì vong linh không thể lại gần hay xâm nhập để tác động vào tâm người đó được.
Trích sách: "Con đường tâm" trang 70,71 - TT.TS. Thích Chân Quang.
Được cảm ơn bởi: hoavan004
TL: PHÚC BẤT TẬN HƯỞNG ( nguồn:Kimca.net)
HÀO QUANG CỦA MỖI NGƯỜI SÁNG, TỐI DO Ở ĐÂU?
Chúng ta cũng vậy, có thể ta đã theo Phật nhiều năm, đã làm được rất nhiều việc thiện nhưng chưa bao giờ thấy được sự mầu nhiệm nào từ cõi trên.
Cũng vài người thi thoảng được mách bảo trước một tai ương sắp đến, ví dụ có người nằm mộng thấy ai đó đến báo rằng ngày mai đừng ra đường kẻo gặp tai nạn. Tuy nhiên, số đó rất ít. Còn đa phần dù chúng ta tu hành rất chân chính, nghiêm túc, tinh tấn và sống rất tử tế độ lượng, ta vẫn không nhận được tín hiệu nào từ cõi trên. Mọi chuyện diễn ra rất bình thường, rất thực tế. Trong đời sống đôi khi ta vẫn phạm sai lầm, làm việc vẫn thất bại, lâu lâu vẫn nổi sân một chút, hoặc ta tính toán công việc vẫn sai... giống như không nhận được sự chỉ dạy nào từ trên cao cả. Nhưng đừng tưởng là không có, sự thật là chư thiên vẫn đang âm thầm dõi theo ta từng giờ từng phút.
Có người sẽ hỏi: “Nếu chư thiên luôn quan sát thế gian này thì tại sao rất nhiễu người sống gian ác, tội lỗi mà không ai nhắc nhở họ?” Hãy biết rằng, cõi trời có một tính chất nữa là dân số trên đó không nhiều, trong khi dân số của cõi người này quá đông, hơn 7 tỷ người.
Một gia đình có vài người con thôi mà cha mẹ đã nuôi dạy cực kỳ vất vả, than trời than đất rồi, huống hồ trên thế gian này có đến hơn 7 tỷ con người thì chư thiên trên trời không thể nào theo dõi được tất cả. Chỉ những ai thực sự có thiện tâm thì chư thiên mới chú ý và thường dõi theo, bởi người đó đang phát ra ánh sáng. Phát ra ánh sáng là sao? Tức là có những người đi đến đâu là hào quang tỏa ra đến đó, đến chùa thì hào quang tỏa sáng ở chùa, về nhà hào quang cũng sáng lên, hoặc đi trên đường vắng hào quang cũng di chuyển theo họ. Vì mắt thường không nhìn thấy nên chúng ta thấy ai cũng như ai, nhưng chư thiên trên trời thì thấy rất rõ người đó có hào quang. Còn những người sống tầm thường, ích kỷ và tội lỗi thì tự nhiên họ tối lại, chư thiên nhìn xuống không thấy, chỉ thấy loi nhoi lúc nhúc như một đám dòi. Đây là một đặc điểm của chư thiên.
Nhưng hào quang ấy từ đâu mà có? Từ những lần lễ Phật với trọn niềm tôn kính, từ lòng thương xót chúng sinh, từ một nội tâm thánh thiện, một đời sống đức hạnh, từ những thời thiền vất vả, hay những việc thiện mà họ tận tụy quên mình... Chính những điểu này làm tâm họ sáng ra, tỏa hào quang rực rỡ, con người không biết nhưng chư thiên lại thấy rất rõ và sẽ dõi theo người đó mãi.
Thực sự trên cõi trời, ngoài việc tinh tấn tu hành, chư thiên tử cũng hay nhìn xuống cõi người vì bị những điểm sáng thu hút. Và các vị cũng thường bàn bạc với nhau: “Người đó kiếp trước như thế, kiếp này đang tu hành, vài trăm năm tới sẽ vấp phải cái lỗi kia nhưng rồi sẽ đứng dậy đi tiếp....
Bằng thiên nhãn của cõi trời các vị biết rõ về từng người, và luôn yêu thương, chú ý đến những người có tu hành, có thiện tâm. Và nếu người này cầu nguyện thì thường được linh ứng bởi chư thiên luôn dõi theo hộ trì. Còn người nào tối ngày gây gổ với hàng xóm, bất hiếu với cha mẹ, đố kỵ với bạn bè, hay khinh bỉ người khác... thì rất tối vì không có hào quang, và lúc gặp chuyện họ có than trời cầu xin cũng không ai cứu cả.
Trích: Những điều thú vị từ truyện tích Pháp cú - Đời sau còn nhiều hơn - Trang 87,88.
( nguồn: phatgiao.org)
Chúng ta cũng vậy, có thể ta đã theo Phật nhiều năm, đã làm được rất nhiều việc thiện nhưng chưa bao giờ thấy được sự mầu nhiệm nào từ cõi trên.
Cũng vài người thi thoảng được mách bảo trước một tai ương sắp đến, ví dụ có người nằm mộng thấy ai đó đến báo rằng ngày mai đừng ra đường kẻo gặp tai nạn. Tuy nhiên, số đó rất ít. Còn đa phần dù chúng ta tu hành rất chân chính, nghiêm túc, tinh tấn và sống rất tử tế độ lượng, ta vẫn không nhận được tín hiệu nào từ cõi trên. Mọi chuyện diễn ra rất bình thường, rất thực tế. Trong đời sống đôi khi ta vẫn phạm sai lầm, làm việc vẫn thất bại, lâu lâu vẫn nổi sân một chút, hoặc ta tính toán công việc vẫn sai... giống như không nhận được sự chỉ dạy nào từ trên cao cả. Nhưng đừng tưởng là không có, sự thật là chư thiên vẫn đang âm thầm dõi theo ta từng giờ từng phút.
Có người sẽ hỏi: “Nếu chư thiên luôn quan sát thế gian này thì tại sao rất nhiễu người sống gian ác, tội lỗi mà không ai nhắc nhở họ?” Hãy biết rằng, cõi trời có một tính chất nữa là dân số trên đó không nhiều, trong khi dân số của cõi người này quá đông, hơn 7 tỷ người.
Một gia đình có vài người con thôi mà cha mẹ đã nuôi dạy cực kỳ vất vả, than trời than đất rồi, huống hồ trên thế gian này có đến hơn 7 tỷ con người thì chư thiên trên trời không thể nào theo dõi được tất cả. Chỉ những ai thực sự có thiện tâm thì chư thiên mới chú ý và thường dõi theo, bởi người đó đang phát ra ánh sáng. Phát ra ánh sáng là sao? Tức là có những người đi đến đâu là hào quang tỏa ra đến đó, đến chùa thì hào quang tỏa sáng ở chùa, về nhà hào quang cũng sáng lên, hoặc đi trên đường vắng hào quang cũng di chuyển theo họ. Vì mắt thường không nhìn thấy nên chúng ta thấy ai cũng như ai, nhưng chư thiên trên trời thì thấy rất rõ người đó có hào quang. Còn những người sống tầm thường, ích kỷ và tội lỗi thì tự nhiên họ tối lại, chư thiên nhìn xuống không thấy, chỉ thấy loi nhoi lúc nhúc như một đám dòi. Đây là một đặc điểm của chư thiên.
Nhưng hào quang ấy từ đâu mà có? Từ những lần lễ Phật với trọn niềm tôn kính, từ lòng thương xót chúng sinh, từ một nội tâm thánh thiện, một đời sống đức hạnh, từ những thời thiền vất vả, hay những việc thiện mà họ tận tụy quên mình... Chính những điểu này làm tâm họ sáng ra, tỏa hào quang rực rỡ, con người không biết nhưng chư thiên lại thấy rất rõ và sẽ dõi theo người đó mãi.
Thực sự trên cõi trời, ngoài việc tinh tấn tu hành, chư thiên tử cũng hay nhìn xuống cõi người vì bị những điểm sáng thu hút. Và các vị cũng thường bàn bạc với nhau: “Người đó kiếp trước như thế, kiếp này đang tu hành, vài trăm năm tới sẽ vấp phải cái lỗi kia nhưng rồi sẽ đứng dậy đi tiếp....
Bằng thiên nhãn của cõi trời các vị biết rõ về từng người, và luôn yêu thương, chú ý đến những người có tu hành, có thiện tâm. Và nếu người này cầu nguyện thì thường được linh ứng bởi chư thiên luôn dõi theo hộ trì. Còn người nào tối ngày gây gổ với hàng xóm, bất hiếu với cha mẹ, đố kỵ với bạn bè, hay khinh bỉ người khác... thì rất tối vì không có hào quang, và lúc gặp chuyện họ có than trời cầu xin cũng không ai cứu cả.
Trích: Những điều thú vị từ truyện tích Pháp cú - Đời sau còn nhiều hơn - Trang 87,88.
( nguồn: phatgiao.org)
Sửa lần cuối bởi hysshu vào lúc 13:05, 05/12/22 với 1 lần sửa.
Được cảm ơn bởi: hoavan004, hysshu
TL: PHÚC BẤT TẬN HƯỞNG ( nguồn:Kimca.net)
Công Hạnh của Bồ-tát Địa Tạng
GNO - Bồ-tát Địa Tạng là vị Bồ-tát có nhân duyên sâu nặng với chúng sanh trong thế giới Ta-bà. Ngài là vị Bồ-tát được Đức Phật giao phó trọng trách làm giáo chủ cõi Ta-bà trong khoảng thời gian Đức Thế Tôn nhập diệt, Bồ-tát Di Lặc chưa thành Phật.
Trong kinh Địa Tạng, phẩm Phân thân tập hội thứ 2, Đức Phật Thích Ca trước khi nhập Niết-bàn đã có lời phó chúc: “Địa Tạng ghi nhớ! Hôm nay Ta ở cung trời Đao Lợi, trong đại hội có tất cả chư Phật, trời, rồng, bát bộ nhiều đến trăm ngàn muôn ức không thể nói, đem trời, người các chúng sanh chưa ra khỏi tam giới, còn ở trong nhà lửa giao phó cho ông. Ông chớ để các chúng sanh đó rơi vào đường ác cho dù trong một ngày đêm”. Lời huyền ký đó đã xác lập vị trí cũng như niềm tin tưởng vững chắc của Đức Phật đối với Bồ-tát Địa Tạng, bởi Phật biết rằng trong giai đoạn "tiền Phật-hậu Phật" này, khi Phật pháp ngày càng suy vong, chúng sanh cang cường khó độ, thì chỉ có bi tâm, nguyện lực kiên cố như Bồ-tát Địa Tạng mới có thể kham lãnh nổi việc giáo hóa độ sanh.
Danh xưng Địa Tạng theo các kinh luận giải thích đã toát lên được bi tâm, nguyện lực kiên cố của Bồ-tát. Bài Tựa kinh Địa Tạng nói: “Địa là dày chắc, Tạng chứa đủ”. Địa Tạng thập luận nói: “An nhẫn bất động như đại địa, vắng lặng sâu kín giống như kho tàng nên gọi là Địa Tạng”. Kinh Phương quảng thập luận nói: “Địa Tạng là kho báu giấu kín trong lòng đất”. Tóm thâu ý nghĩa của danh xưng Địa Tạng, Địa là đất, dụ cho bản thể chân tâm khéo làm nơi nương tựa và sanh trưởng vạn pháp. Tạng là hầm báu, kho báu. Địa Tạng ý nghĩa là trong bản thể chân tâm có chứa vô lượng báu vật Phật pháp, có thể đem bố thí khắp khiến chúng sanh đồng được vô lượng công đức.
Bồ-tát thường tùy nguyện ứng hiện vào thế giới Ta-bà bằng nhiều hình tướng sai khác để hóa độ chúng sanh. Tuy nhiên đa phần chúng ta biết đến Ngài qua hình ảnh một vị Tỳ-kheo thân tướng trang nghiêm, tay phải cầm tích trượng, tay trái cầm hạt minh châu, đầu đội mũ tỳ lư quán đảnh, đứng hoặc ngồi trên con Đế thính. Sở dĩ Ngài hiện thân tướng Tỳ-kheo, do vì bản nguyện của Ngài là cứu độ chúng sanh ra khỏi cảnh giới sanh tử, nên hình ảnh Ngài là một vị xuất gia giải thoát. Tay phải cầm tích trượng, trên đầu tích trượng có mười hai khoen để nói lên ý nghĩa Ngài luôn dùng pháp Thập nhị nhân duyên để giáo hóa chúng sanh. Tay trái Bồ-tát cầm hạt minh châu biểu thị trí tuệ. Bồ-tát với trí tuệ rộng lớn thường soi sáng tất cả chốn u minh khiến cho chúng sanh hiện đang bị giam cầm trong ngục tối trông thấy ánh sáng đều được thoát ngục hình. Bồ-tát cỡi con Đế thính là con linh thú, khi mọp xuống đất trong giây lát thì biết rõ tất cả sự vật trong trời đất, biểu trưng cho Ngài là vị đã nhiếp tâm thanh tịnh, an lập các pháp thức thành tựu cảnh giới thiền định.
Kinh Địa Tạng có nói đến tiền thân hành Bồ-tát đạo của Ngài. Có kiếp Bồ-tát là con một vị trưởng giả, vì muốn được thân tướng trang nghiêm tốt đẹp như chư Phật mà phát thệ nguyện độ tất cả chúng sanh bị khổ nạn. Hoặc có kiếp Ngài làm một cô gái dòng Bà la môn, có người mẹ bất tín Tam bảo, không tin nhân quả, Ngài đã thành tâm cầu thỉnh Phật cứu độ thân mẫu. Có kiếp Ngài làm vua một nước nhỏ kết bạn với vua nước lớn, hai vua thấy nhân dân làm ác mà phát thệ nguyện độ tận nỗi khổ chúng sanh. Hoặc có kiếp Ngài làm cô gái Quang Mục, vì muốn cứu độ mẹ thoát địa ngục mà phát tâm cúng dường vị La hán và phát đại thệ nguyện độ sanh để dẫn dắt mẹ từ cảnh địa ngục vào đạo Bồ đề. Qua tiền thân trong khi hành Bồ-tát đạo, phát thệ nguyện cứu khổ chúng sanh, chúng ta thấy được hạnh nguyện vĩ đại của Ngài. Hạnh nguyện nổi bật đó không ngoài hai điểm: tinh thần hiếu đạo và tâm nguyện độ tận pháp giới chúng sanh.
Nếu ngài Mục Kiền Liên được tôn xưng là đại hiếu, khi thấy mẹ đọa vào trong cảnh khổ địa ngục liền thỉnh Phật nói pháp Vu lan bồn, sắm sửa trai diên cung thỉnh chư Đại đức Tăng trong mười phương sau ba tháng an cư kiết hạ để nhờ thần lực chú nguyện của chúng Tăng mà mẹ được giải thoát thì việc thể hiện hiếu đạo của Bồ-tát Địa Tạng cao hơn, cứu độ cha mẹ bằng cách phát thệ nguyện độ tận tất cả những nỗi khổ chúng sanh. Phải chăng, qua sự báo hiếu bằng việc phát nguyện độ tận chúng sanh của Bồ-tát, Đức Phật muốn nói lên tinh thần báo hiếu của chư Phật, Bồ-tát khác với hàng Nhị thừa và mong mỏi chúng sanh trong đời sau nên thực hành tinh thần báo hiếu tối thượng này. Bồ-tát Địa Tạng sơ phát đại nguyện độ sanh cũng không ngoài tinh thần hiếu đạo. Qua bốn lần phát đại nguyện thì trong đó có đến hai lần Bồ-tát vì hiếu đạo cứu độ mẹ mà phát thệ nguyện.
Các vị Đại Bồ-tát trong khi tu tập đều phát lập thệ nguyện nhưng so với thệ nguyện của Bồ-tát Địa Tạng thì sâu dày hơn. Điều này đã được xác quyết trong kinh Địa Tạng, phẩm Thần đất Kiên Lao thứ mười một. Thần đất Kiên Lao đã đối trước Phật nói rõ điều này: “Bạch Thế Tôn, từ trước đến nay con đã từng đảnh lễ chiêm ngưỡng vô lượng vị Đại Bồ-tát, đều là những bậc trí tuệ thần thông lớn không thể nghĩ bàn, độ khắp tất cả loài chúng sanh. Tuy nhiên ngài Địa Tạng Bồ-tát đây so với các vị Bồ-tát khác chỗ thệ nguyện rộng sâu hơn”.
Bồ-tát Địa Tạng trong khi hành Bồ-tát đạo đã phát thệ nguyện vĩ đại. Nội dung bốn lần phát thệ nguyện của Bồ-tát trong khi hành Bồ-tát đạo đều tóm thâu trong: “Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ đề. Địa ngục vị không thệ bất thành Phật”. Do vì, Bồ-tát với trí tuệ rộng lớn như hư không và lòng từ bi bao la ngập tràn như đại dương vô tận, Ngài luôn thấy tất cả chúng sanh là cha mẹ trong hiện tại và chư Phật trong vị lai. Vì thế, trong khi hành Bồ-tát đạo, Ngài đã phát thệ nguyện độ hết nỗi khổ chúng sanh, khi nào trên cuộc đời này không còn một chúng sanh đau khổ, đều thành tựu Phật đạo thì Ngài mới yên tâm thọ dụng cảnh giới Niết-bàn.
Có thể nói, Bồ-tát Địa Tạng đã đến với thế giới Ta-bà ác trược này chỉ vì một tâm nguyện duy nhất là cứu vớt tất cả chúng sanh đang lặn hụp trong đại dương sanh tử đưa lên bờ Niết-bàn. Cho dù chúng sanh có cang cường, nan điều nan phục đến mấy, Bồ-tát vẫn kiên trì không thối chuyển tâm nguyện, không bao giờ xa lìa ý niệm cứu độ chúng sanh. Tâm nguyện độ sanh của Ngài vững chắc như núi cao, công hạnh lợi ích nhân thiên rộng sâu như biển cả. Chúng ta không thể tán thán hết được công hạnh của Bồ-tát, thật đúng như hai câu kệ trong bài tán Phật đã nói: “Xưng dương nhược tán thán, ức kiếp mạc năng tận”.
Mỗi khi niệm danh hiệu Bồ-tát, hàng Phật tử chúng ta lại nhớ đến hình ảnh và hạnh nguyện độ sanh vĩ đại của Ngài. Chúng ta hãy cùng nhau học và đồng phát lập thệ nguyện: “Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ đề. Địa ngục vị không thệ bất thành Phật”. Có phát lập được thệ nguyện như thế, chúng ta mới có thể biến Ta-bà thành Tịnh độ, khiến tất cả phàm phu đều thành tựu quả vị Vô thượng Bồ đề và để báo đáp thâm ân của Ngài trong muôn một.
Thích Nguyên Liên/ Giác Ngộ Online
( theo Phatgiao.org)
GNO - Bồ-tát Địa Tạng là vị Bồ-tát có nhân duyên sâu nặng với chúng sanh trong thế giới Ta-bà. Ngài là vị Bồ-tát được Đức Phật giao phó trọng trách làm giáo chủ cõi Ta-bà trong khoảng thời gian Đức Thế Tôn nhập diệt, Bồ-tát Di Lặc chưa thành Phật.
Trong kinh Địa Tạng, phẩm Phân thân tập hội thứ 2, Đức Phật Thích Ca trước khi nhập Niết-bàn đã có lời phó chúc: “Địa Tạng ghi nhớ! Hôm nay Ta ở cung trời Đao Lợi, trong đại hội có tất cả chư Phật, trời, rồng, bát bộ nhiều đến trăm ngàn muôn ức không thể nói, đem trời, người các chúng sanh chưa ra khỏi tam giới, còn ở trong nhà lửa giao phó cho ông. Ông chớ để các chúng sanh đó rơi vào đường ác cho dù trong một ngày đêm”. Lời huyền ký đó đã xác lập vị trí cũng như niềm tin tưởng vững chắc của Đức Phật đối với Bồ-tát Địa Tạng, bởi Phật biết rằng trong giai đoạn "tiền Phật-hậu Phật" này, khi Phật pháp ngày càng suy vong, chúng sanh cang cường khó độ, thì chỉ có bi tâm, nguyện lực kiên cố như Bồ-tát Địa Tạng mới có thể kham lãnh nổi việc giáo hóa độ sanh.
Danh xưng Địa Tạng theo các kinh luận giải thích đã toát lên được bi tâm, nguyện lực kiên cố của Bồ-tát. Bài Tựa kinh Địa Tạng nói: “Địa là dày chắc, Tạng chứa đủ”. Địa Tạng thập luận nói: “An nhẫn bất động như đại địa, vắng lặng sâu kín giống như kho tàng nên gọi là Địa Tạng”. Kinh Phương quảng thập luận nói: “Địa Tạng là kho báu giấu kín trong lòng đất”. Tóm thâu ý nghĩa của danh xưng Địa Tạng, Địa là đất, dụ cho bản thể chân tâm khéo làm nơi nương tựa và sanh trưởng vạn pháp. Tạng là hầm báu, kho báu. Địa Tạng ý nghĩa là trong bản thể chân tâm có chứa vô lượng báu vật Phật pháp, có thể đem bố thí khắp khiến chúng sanh đồng được vô lượng công đức.
Bồ-tát thường tùy nguyện ứng hiện vào thế giới Ta-bà bằng nhiều hình tướng sai khác để hóa độ chúng sanh. Tuy nhiên đa phần chúng ta biết đến Ngài qua hình ảnh một vị Tỳ-kheo thân tướng trang nghiêm, tay phải cầm tích trượng, tay trái cầm hạt minh châu, đầu đội mũ tỳ lư quán đảnh, đứng hoặc ngồi trên con Đế thính. Sở dĩ Ngài hiện thân tướng Tỳ-kheo, do vì bản nguyện của Ngài là cứu độ chúng sanh ra khỏi cảnh giới sanh tử, nên hình ảnh Ngài là một vị xuất gia giải thoát. Tay phải cầm tích trượng, trên đầu tích trượng có mười hai khoen để nói lên ý nghĩa Ngài luôn dùng pháp Thập nhị nhân duyên để giáo hóa chúng sanh. Tay trái Bồ-tát cầm hạt minh châu biểu thị trí tuệ. Bồ-tát với trí tuệ rộng lớn thường soi sáng tất cả chốn u minh khiến cho chúng sanh hiện đang bị giam cầm trong ngục tối trông thấy ánh sáng đều được thoát ngục hình. Bồ-tát cỡi con Đế thính là con linh thú, khi mọp xuống đất trong giây lát thì biết rõ tất cả sự vật trong trời đất, biểu trưng cho Ngài là vị đã nhiếp tâm thanh tịnh, an lập các pháp thức thành tựu cảnh giới thiền định.
Kinh Địa Tạng có nói đến tiền thân hành Bồ-tát đạo của Ngài. Có kiếp Bồ-tát là con một vị trưởng giả, vì muốn được thân tướng trang nghiêm tốt đẹp như chư Phật mà phát thệ nguyện độ tất cả chúng sanh bị khổ nạn. Hoặc có kiếp Ngài làm một cô gái dòng Bà la môn, có người mẹ bất tín Tam bảo, không tin nhân quả, Ngài đã thành tâm cầu thỉnh Phật cứu độ thân mẫu. Có kiếp Ngài làm vua một nước nhỏ kết bạn với vua nước lớn, hai vua thấy nhân dân làm ác mà phát thệ nguyện độ tận nỗi khổ chúng sanh. Hoặc có kiếp Ngài làm cô gái Quang Mục, vì muốn cứu độ mẹ thoát địa ngục mà phát tâm cúng dường vị La hán và phát đại thệ nguyện độ sanh để dẫn dắt mẹ từ cảnh địa ngục vào đạo Bồ đề. Qua tiền thân trong khi hành Bồ-tát đạo, phát thệ nguyện cứu khổ chúng sanh, chúng ta thấy được hạnh nguyện vĩ đại của Ngài. Hạnh nguyện nổi bật đó không ngoài hai điểm: tinh thần hiếu đạo và tâm nguyện độ tận pháp giới chúng sanh.
Nếu ngài Mục Kiền Liên được tôn xưng là đại hiếu, khi thấy mẹ đọa vào trong cảnh khổ địa ngục liền thỉnh Phật nói pháp Vu lan bồn, sắm sửa trai diên cung thỉnh chư Đại đức Tăng trong mười phương sau ba tháng an cư kiết hạ để nhờ thần lực chú nguyện của chúng Tăng mà mẹ được giải thoát thì việc thể hiện hiếu đạo của Bồ-tát Địa Tạng cao hơn, cứu độ cha mẹ bằng cách phát thệ nguyện độ tận tất cả những nỗi khổ chúng sanh. Phải chăng, qua sự báo hiếu bằng việc phát nguyện độ tận chúng sanh của Bồ-tát, Đức Phật muốn nói lên tinh thần báo hiếu của chư Phật, Bồ-tát khác với hàng Nhị thừa và mong mỏi chúng sanh trong đời sau nên thực hành tinh thần báo hiếu tối thượng này. Bồ-tát Địa Tạng sơ phát đại nguyện độ sanh cũng không ngoài tinh thần hiếu đạo. Qua bốn lần phát đại nguyện thì trong đó có đến hai lần Bồ-tát vì hiếu đạo cứu độ mẹ mà phát thệ nguyện.
Các vị Đại Bồ-tát trong khi tu tập đều phát lập thệ nguyện nhưng so với thệ nguyện của Bồ-tát Địa Tạng thì sâu dày hơn. Điều này đã được xác quyết trong kinh Địa Tạng, phẩm Thần đất Kiên Lao thứ mười một. Thần đất Kiên Lao đã đối trước Phật nói rõ điều này: “Bạch Thế Tôn, từ trước đến nay con đã từng đảnh lễ chiêm ngưỡng vô lượng vị Đại Bồ-tát, đều là những bậc trí tuệ thần thông lớn không thể nghĩ bàn, độ khắp tất cả loài chúng sanh. Tuy nhiên ngài Địa Tạng Bồ-tát đây so với các vị Bồ-tát khác chỗ thệ nguyện rộng sâu hơn”.
Bồ-tát Địa Tạng trong khi hành Bồ-tát đạo đã phát thệ nguyện vĩ đại. Nội dung bốn lần phát thệ nguyện của Bồ-tát trong khi hành Bồ-tát đạo đều tóm thâu trong: “Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ đề. Địa ngục vị không thệ bất thành Phật”. Do vì, Bồ-tát với trí tuệ rộng lớn như hư không và lòng từ bi bao la ngập tràn như đại dương vô tận, Ngài luôn thấy tất cả chúng sanh là cha mẹ trong hiện tại và chư Phật trong vị lai. Vì thế, trong khi hành Bồ-tát đạo, Ngài đã phát thệ nguyện độ hết nỗi khổ chúng sanh, khi nào trên cuộc đời này không còn một chúng sanh đau khổ, đều thành tựu Phật đạo thì Ngài mới yên tâm thọ dụng cảnh giới Niết-bàn.
Có thể nói, Bồ-tát Địa Tạng đã đến với thế giới Ta-bà ác trược này chỉ vì một tâm nguyện duy nhất là cứu vớt tất cả chúng sanh đang lặn hụp trong đại dương sanh tử đưa lên bờ Niết-bàn. Cho dù chúng sanh có cang cường, nan điều nan phục đến mấy, Bồ-tát vẫn kiên trì không thối chuyển tâm nguyện, không bao giờ xa lìa ý niệm cứu độ chúng sanh. Tâm nguyện độ sanh của Ngài vững chắc như núi cao, công hạnh lợi ích nhân thiên rộng sâu như biển cả. Chúng ta không thể tán thán hết được công hạnh của Bồ-tát, thật đúng như hai câu kệ trong bài tán Phật đã nói: “Xưng dương nhược tán thán, ức kiếp mạc năng tận”.
Mỗi khi niệm danh hiệu Bồ-tát, hàng Phật tử chúng ta lại nhớ đến hình ảnh và hạnh nguyện độ sanh vĩ đại của Ngài. Chúng ta hãy cùng nhau học và đồng phát lập thệ nguyện: “Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ đề. Địa ngục vị không thệ bất thành Phật”. Có phát lập được thệ nguyện như thế, chúng ta mới có thể biến Ta-bà thành Tịnh độ, khiến tất cả phàm phu đều thành tựu quả vị Vô thượng Bồ đề và để báo đáp thâm ân của Ngài trong muôn một.
Thích Nguyên Liên/ Giác Ngộ Online
( theo Phatgiao.org)
Được cảm ơn bởi: hoavan004, hysshu