Chữ tâm

Trao đổi về phong tục, tín ngưỡng
lngovn
Mới gia nhập
Mới gia nhập
Bài viết: 9
Tham gia: 11:46, 03/07/23

Re: Chữ tâm

Gửi bài gửi bởi lngovn »

lngovn đã viết: 11:01, 17/07/23 Cám ơn KMD đã giải thích!

Như vậy "không" chính là không thật vì các pháp là do duyên sanh, nhưng mình vẫn chưa hiểu được là nếu "không thật" vì sao bồ tát lại phát nguyện cứu chúng sinh?

Pháp vốn không thường, có sanh sẽ có diệt, nếu vậy chư phật và bồ tát cứ để cho chúng sanh theo duyên mà sanh, theo duyên mà duyệt, theo duyên mà giải thoát vì sao phải phát nguyện độ tận chúng sanh?

Như ở trên câu chuyện trong video, nếu như cô gái kia không thật vì sao nhà sư phải cứu cô gái đó?

Mong KMD chia sẻ!
Trong Kinh Kim Cang có viết:

Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm [bằng cách nghĩ] như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sanh: hoặc sanh từ bào thai, hoặc sanh từ trứng, hoặc sanh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sanh ra, hoặc có sắc, hoặc không có sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc chẳng phải có tưởng chẳng phải không tưởng, ta đều độ cho nhập vào Vô dư Niết-bàn. Như vậy diệt độ vô số chúng sanh, nhưng thật không có chúng sanh nào được diệt độ.

Vì sao vậy? Tu-bồ-đề, nếu Bồ Tát có các tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả, thì chẳng phải là Bồ Tát

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ Tát theo đúng pháp, nên lấy tâm không chỗ trụ mà làm việc bố thí. Nghĩa là chẳng nên trụ nơi hình sắc mà bố thí, chẳng nên trụ nơi âm thanh, hương thơm, mùi vị, cảm xúc, pháp tướng mà bố thí.

Tu-bồ-đề! Bồ Tát nên bố thí như vậy đó, không trụ nơi tướng.


Tôi nghĩ như vầy:

Như vậy chư Phật và chư vị Bồ Tát nương theo nguyện của các ngài, độ vô số chúng sinh, nhưng thật ra không có chúng sinh nào được độ.

Vì sao vậy? Bởi vì chư pháp vốn không, chúng sinh vốn không, Bồ Tát cũng không, việc diệt độ chúng sinh cũng là không...

Nếu chấp có chúng sinh tức là chấp vào tướng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, còn phân biệt Bồ Tát và Chúng Sinh thì vẫn còn có cái ngã trong đó. Còn thấy ta là Bồ Tát, ta đang cứu chúng sinh thì "Ta" chính là Ngã, vậy thì vị Bồ Tát đó chưa phải là Bồ Tát theo kinh giảng giải.

Nếu như tất cả đều là "không" thì việc diệt độ có còn ý nghĩa gì nữa?

Vẫn còn ý nghĩa, bởi vì tuy là "không" nhưng vẫn có "có" gọi là "giả có", sắc tức thị không, không tức thị sắc... không chính là sắc, sắc chính là không.

Các ngài tuy không còn chấp ngã, nhân, chúng sinh nhưng lời nguyện thì vẫn còn đó, lời nguyện này tuỳ theo duyên mà hoá độ chúng sinh.

Và vì ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm nên việc hoá độ lúc này rộng khắp không có lựa chọn, không có phân biệt và cũng không có hoá độ.

Cũng giống như mặt trời chiếu ánh nắng sáng soi muôn vật vậy, ánh sáng chiếu đến không lựa chọn vật để chiếu mà là rộng khắp. Vạn vật tuỳ duyên mà hưởng ánh nắng này, có duyên thì sẽ hưởng, vô duyên thì không.

Có lẽ, đó chính là cách hành Bồ Tát Đạo theo Kinh Kim Cương.

Cầu chúc cho ai đọc được những dòng này đều đồng sanh về Tây Phương Cực Lạc với Phật A Di Đà. Cuộc sống Bình An, Hạnh Phúc, Vui Vẻ Khoẻ Mạnh.

Nam Mô A Di Đà Phật.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Được cảm ơn bởi: KMD, Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1742
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Re: Chữ tâm

Gửi bài gửi bởi KMD »

lngovn đã viết: 09:47, 29/08/23
lngovn đã viết: 11:01, 17/07/23 Cám ơn KMD đã giải thích!

Như vậy "không" chính là không thật vì các pháp là do duyên sanh, nhưng mình vẫn chưa hiểu được là nếu "không thật" vì sao bồ tát lại phát nguyện cứu chúng sinh?

Pháp vốn không thường, có sanh sẽ có diệt, nếu vậy chư phật và bồ tát cứ để cho chúng sanh theo duyên mà sanh, theo duyên mà duyệt, theo duyên mà giải thoát vì sao phải phát nguyện độ tận chúng sanh?

Như ở trên câu chuyện trong video, nếu như cô gái kia không thật vì sao nhà sư phải cứu cô gái đó?

Mong KMD chia sẻ!
Trong Kinh Kim Cang có viết:

Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm [bằng cách nghĩ] như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sanh: hoặc sanh từ bào thai, hoặc sanh từ trứng, hoặc sanh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sanh ra, hoặc có sắc, hoặc không có sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc chẳng phải có tưởng chẳng phải không tưởng, ta đều độ cho nhập vào Vô dư Niết-bàn. Như vậy diệt độ vô số chúng sanh, nhưng thật không có chúng sanh nào được diệt độ.

Vì sao vậy? Tu-bồ-đề, nếu Bồ Tát có các tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả, thì chẳng phải là Bồ Tát

Lại nữa, Tu-bồ-đề! Bồ Tát theo đúng pháp, nên lấy tâm không chỗ trụ mà làm việc bố thí. Nghĩa là chẳng nên trụ nơi hình sắc mà bố thí, chẳng nên trụ nơi âm thanh, hương thơm, mùi vị, cảm xúc, pháp tướng mà bố thí.

Tu-bồ-đề! Bồ Tát nên bố thí như vậy đó, không trụ nơi tướng.


Tôi nghĩ như vầy:

Như vậy chư Phật và chư vị Bồ Tát nương theo nguyện của các ngài, độ vô số chúng sinh, nhưng thật ra không có chúng sinh nào được độ.

Vì sao vậy? Bởi vì chư pháp vốn không, chúng sinh vốn không, Bồ Tát cũng không, việc diệt độ chúng sinh cũng là không...

Nếu chấp có chúng sinh tức là chấp vào tướng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, còn phân biệt Bồ Tát và Chúng Sinh thì vẫn còn có cái ngã trong đó. Còn thấy ta là Bồ Tát, ta đang cứu chúng sinh thì "Ta" chính là Ngã, vậy thì vị Bồ Tát đó chưa phải là Bồ Tát theo kinh giảng giải.

Nếu như tất cả đều là "không" thì việc diệt độ có còn ý nghĩa gì nữa?

Vẫn còn ý nghĩa, bởi vì tuy là "không" nhưng vẫn có "có" gọi là "giả có", sắc tức thị không, không tức thị sắc... không chính là sắc, sắc chính là không.

Các ngài tuy không còn chấp ngã, nhân, chúng sinh nhưng lời nguyện thì vẫn còn đó, lời nguyện này tuỳ theo duyên mà hoá độ chúng sinh.

Và vì ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm nên việc hoá độ lúc này rộng khắp không có lựa chọn, không có phân biệt và cũng không có hoá độ.

Cũng giống như mặt trời chiếu ánh nắng sáng soi muôn vật vậy, ánh sáng chiếu đến không lựa chọn vật để chiếu mà là rộng khắp. Vạn vật tuỳ duyên mà hưởng ánh nắng này, có duyên thì sẽ hưởng, vô duyên thì không.

Có lẽ, đó chính là cách hành Bồ Tát Đạo theo Kinh Kim Cương.

Cầu chúc cho ai đọc được những dòng này đều đồng sanh về Tây Phương Cực Lạc với Phật A Di Đà. Cuộc sống Bình An, Hạnh Phúc, Vui Vẻ Khoẻ Mạnh.

Nam Mô A Di Đà Phật.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Cám ơn bạn rất nhiều đã chia sẻ.

Thật là hoan hỷ, chúng ta tiến lên "Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm."

Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô A Di Đà Phật
Được cảm ơn bởi: lngovn, Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1742
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Chữ tâm

Gửi bài gửi bởi KMD »

Đoạn Kinh Kim Cang dưới đây được dịch bởi Hòa Thượng Thích Thanh Từ để mọi người tham khảo.

Kinh Kim Cang Giảng giải
Đoạn 3: Đại Thừa Chánh Tông

ÂM:

ĐẠI THỪA CHÁNH TÔNG

Phật cáo Tu-bồ-đề:

- Chư Bồ-tát ma-ha-tát ưng như thị hàng phục kỳ tâm. Sở hữu nhất thiết chúng sanh chi loại, nhược noãn sanh, nhược thai sanh, nhược thấp sanh, nhược hóa sanh, nhược hữu sắc, nhược vô sắc, nhược hữu tưởng, nhược vô tưởng, nhược phi hữu tưởng phi vô tưởng, ngã giai linh nhập Vô dư Niết-bàn nhi diệt độ chi. Như thị diệt độ vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh, thực vô chúng sanh đắc diệt độ giả. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề, nhược Bồ-tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng tức phi Bồ-tát.

DỊCH:

CHÁNH TÔNG CỦA ĐẠI THỪA

Phật bảo Tu-bồ-đề:

- Các vị Bồ-tát lớn nên như thế mà hàng phục tâm kia. Có tất cả các loài chúng sanh hoặc loài sanh bằng trứng, hoặc loài sanh bằng thai, hoặc sanh chỗ ẩm ướt, hoặc hóa sanh, hoặc có hình sắc, hoặc không hình sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc chẳng có tưởng chẳng không tưởng, ta đều khiến vào Vô dư Niết-bàn mà được diệt độ đó. Diệt độ như thế vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh mà thật không có chúng sanh được diệt độ. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả tức chẳng phải là Bồ-tát.


GIẢNG:

“Chín loài chúng sanh” chỉ trùm tất cả chúng sanh.

Niết-bàn nghĩa là vô sanh. Niết-bàn có Hữu dư y Niết-bàn và Vô dư y Niết-bàn. Những vị chứng quả A-la-hán, được vô sanh nhưng còn thân hình tướng thì gọi là Hữu dư Niết-bàn; được Niết-bàn sau khi xả thân nghĩa là được vô sanh sau khi không còn thân tướng thì gọi là Vô dư Niết-bàn.

Bốn tướng:

Tướng ngã: thấy có mình thật.

Tướng nhân: thấy có người thật.

Tướng chúng sanh: thấy tất cả loài có thật.

Tướng thọ giả: thấy có mạng sống tiếp nối trong một thời gian.

Đây là đến phần Phật trả lời hai câu hỏi trước của ngài Tu-bồ-đề. Câu hỏi đầu là an trụ tâm, câu hỏi thứ hai là hàng phục tâm, nhưng khi trả lời đức Phật đổi lại trả lời câu hỏi hàng phục tâm trước và câu hỏi an trụ tâm sau. Trong đoạn này Phật dạy cách hàng phục tâm tức chỉ phương pháp tu hành. Đức Phật dạy: Đối với tất cả loài chúng sanh ta đều đưa họ vào chỗ Niết-bàn không còn hình tướng để họ được diệt độ. Diệt độ như thế không biết bao nhiêu chúng sanh mà thật không có một chúng sanh nào được diệt độ. Đó là hàng phục được tâm, quí vị làm được điều đó không? Phật lại bảo tiếp: Tại sao thế? - Vì nếu Bồ-tát còn một tướng ngã hay tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả thì không phải là Bồ-tát.

Phật trả lời khó hiểu quá, thấy như lạc đề. Đây là chỗ chánh yếu nhưng vừa mở đầu chúng ta thấy ngỡ ngàng, chúng ta mong Phật trả lời làm sao hàng phục tâm mà đức Phật trả lời như thế này thì làm sao hàng phục tâm được! Tôi không nói loài sanh bằng trứng, những loài sanh chỗ ẩm ướt, những loài sanh do biến hóa, những loài có sắc, không sắc v.v… mà chỉ nói những loài thai sanh và trong loài sanh bằng thai, tôi hạn chế trong loài người thôi. Chừng nào chúng ta độ tất cả loài người vào Vô dư Niết-bàn mà không thấy họ được diệt độ, chừng đó chúng ta mới hàng phục được tâm. Vậy chừng nào chúng ta làm được việc đó? Nếu như không làm được việc đó thì hàng phục tâm không được. Tại sao hỏi hàng phục tâm mà Phật dạy độ chúng sanh ở ngoài? Đó là điều khó, từ xưa đến giờ chính khi chúng tôi học, đến chỗ này chúng tôi cũng lắc đầu, điều Phật dạy rất khó áp dụng trong việc tu hành. Nếu chúng ta hiểu theo lời theo chữ thì sẽ có hai điểm không thể thực hiện được. Điểm thứ nhất là chúng ta thấy Phật chưa thành Phật. Tại sao? Vì khi đức Phật thành Phật, thử hỏi tất cả người - chỉ nói là người thôi - ở Ấn Độ, Phật đã độ được vào Vô dư Niết-bàn hết chưa? Chúng ta thấy rõ rằng lúc đó còn ngoại đạo rất nhiều, Ngài chỉ độ một số mấy ngàn vị thôi chớ đâu phải tất cả, vậy tại sao Ngài được thành Phật? Nếu hàng phục tâm chưa được thì làm sao thành Phật? Điểm thứ hai là Phật dạy chúng ta làm một việc mà không bao giờ chúng ta làm nổi. Thử hỏi tất cả quí vị cũng như chúng tôi, ai đã được Vô dư Niết-bàn? Thế mà chúng ta phải đưa tất cả chúng sanh vào Vô dư Niết-bàn, chừng đó mình mới hàng phục được tâm. Vậy đến bao giờ chúng ta mới làm được việc đó? Chỗ mình chưa đạt tới mà Phật bảo mình độ người đạt được chỗ đó, làm sao chúng ta làm được? Cũng như chúng ta còn dốt mà bảo dạy tất cả người đậu tiến sĩ hết, chừng đó mới được làm quan thì thật là vô lý. Thế nên nếu học kinh Phật, nhất là kinh Đại thừa, mà hiểu theo chữ, theo lời thì không làm sao giải thích được.

Điểm thứ nhất ta thấy mâu thuẫn với Phật, điểm thứ hai mâu thuẫn với chúng ta, như thế làm sao có thể áp dụng trong việc tu hành? Nhưng đến sau này khi tu thiền và đọc sách thiền rồi, chúng tôi mới giật mình, không ngờ mình không hiểu lời Phật nói. Kinh nói trong chúng ta có đủ cả Thập pháp giới, đó là Tứ thánh và Lục phàm. Quí vị thấy có khi chúng ta phát lòng từ bi giống như Phật, như Bồ-tát, có khi chúng ta xấu xa như con heo, con bò, có khi chúng ta hung dữ như con cọp, con sói. Trong chúng ta có đủ trăm thứ nghĩ, tốt xấu lẫn lộn. Thế nên mỗi một dấy niệm về người thì đó là một chúng sanh thai sanh, một dấy niệm về chim chóc thì đó là chúng sanh noãn sanh, một dấy niệm về con bướm, con ong thì đó là hóa sanh, một dấy niệm về con đom đóm đó là thấp sanh, nghĩ đến hư không đó là chúng sanh vô sắc, dấy niệm về con người có tưởng, đó là chúng sanh có tưởng, dấy niệm buông hết vọng tưởng, buông hết cả những tâm tưởng đó là chúng sanh vô tưởng… dấy niệm là sanh. Tại sao? Bởi vì khi lặng thì không có niệm, mà niệm dấy lên là do duyên với cảnh hoặc người, hoặc vật. Vọng thức bên trong duyên theo bóng dáng của vọng trần, cả hai phối hợp nhau mà sanh nên gọi là chúng sanh. Mỗi một niệm dấy lên như vậy là một chúng sanh. Những chúng sanh do niệm vừa dấy lên đó chúng ta liền độ vào Vô dư Niết-bàn. Làm sao độ? Chúng sanh đó dấy lên, ta biết chúng sanh này giả tức nhiên nó lặng xuống chỗ không sanh và khi nó lặng xuống không còn thấy tăm dạng nên gọi là Vô dư Niết-bàn. Như thế chúng ta thấy đức Phật độ hết chúng sanh, Ngài hàng phục được tâm, Ngài thành Phật. Như thế mới có lý, mới đúng sự thật.

Cũng thế nếu những vọng tưởng của chúng ta đang điên cuồng chạy ngược, chạy xuôi theo có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng… theo tất cả hình tướng bên ngoài, bây giờ chúng ta đưa nó vào Vô dư Niết-bàn, vào chỗ lặng lẽ không sanh diệt, tâm chúng ta không còn loạn nữa, đó là chúng ta hàng phục được tâm. Hiểu như vậy chúng ta mới tu được. Như thế chúng ta mới thấy rõ đức Phật thành Phật trong khi tất cả chúng sanh vẫn còn. Ngài hàng phục được tâm của Ngài nên mới được đến chỗ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như bây giờ chúng ta vừa phát tâm tu thì chúng ta cũng hàng phục như vậy, lần lần tâm an định chúng ta mới tiến bộ được. Nếu cứ lo độ chúng sanh ở ngoài trong khi chính mình chưa độ được mình thì độ được ai?

Hiểu như vậy rồi chúng ta thấy kinh Phật rất cao siêu, lời lẽ diễn tả những hình ảnh mà chúng ta không hiểu là những hình ảnh đó qui về mình rồi chúng ta cứ tưởng là việc bên ngoài. Khi chúng ta tưởng như thế chúng ta sẽ thối chí không biết làm sao thực hành. Thế nên ngày xưa chính tôi đã từng nói rằng: Kinh Đại thừa chắc chỉ để trên gác thờ, không thể áp dụng trong việc tu hành, nhưng nay chúng ta hiểu rõ rồi, mới thấy chính đoạn này trả lời rất sát câu hỏi của ngài Tu-bồ-đề. Ngài Tu-bồ-đề hỏi làm sao hàng phục được tâm, Phật dạy: Một niệm dấy lên là một chúng sanh, đưa những niệm đó vào chỗ vô sanh là hàng phục tâm. Đây là Tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ. Rõ ràng là Phật trả lời việc hàng phục tâm. Nếu nói độ tất cả chúng sanh thì ta thấy như là người hỏi việc bên trong mà Phật trả lời việc bên ngoài, không dính dáng gì với nhau. Nhưng ở đây, chúng ta đã thấy rõ ý nghĩa độ tất cả chúng sanh, đó là đưa tất cả niệm vào chỗ không còn sanh diệt. Khi nào thực hành quí vị mới thấy rõ. Một niệm dấy lên nghĩ về người, chúng ta liền nói niệm đó giả dối không thật, không theo. Khi biết nó giả, ta không theo thì nó lặng xuống, lặng xuống chỗ không còn thấy tướng mạo, đó là Vô dư Niết-bàn. Không sanh là Niết-bàn, không còn tướng mạo là vô dư. Bao nhiêu niệm đều đưa vào đó nên nói độ tất cả chúng sanh mà không thấy có chúng sanh nào được diệt độ, nghĩa là đưa tất cả vào đó hết mà không còn thấy có một người nào hay một niệm nào thật. Quí vị thấy thật là khó, khó ngay ở buổi đầu.

Thế nên Phật nói tiếp: Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, thì không phải là Bồ-tát. Tại sao vậy? - Bởi vì một niệm dấy lên tức là có chấp ngã trong đó. Quí vị nhớ từ cái chấp ngã của Đại thừa đi lần đến chấp ngã sâu kín vi tế của Thiền tông. Hai cái tương ưng nhau. Chấp ngã của Đại thừa là chấp thân làm ngã và chấp tâm làm ngã. Từ cái chấp thân, tâm làm ngã đến niệm dấy lên chấp niệm đó là mình, đó cũng là chấp ngã. Niệm dấy lên cho là mình nghĩ, đó là chấp ngã. Tại sao? Dấy niệm là suy nghĩ về người, suy nghĩ về cảnh, thử hỏi ai nghĩ, ai nghĩ về người, ai nghĩ về cảnh? Thô thì chấp thân này, tế thì chấp một niệm, vì vậy còn thấy một niệm thật là còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả; nếu đưa hết những niệm vào Vô dư Niết-bàn rồi thì đâu còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả. Người làm được như vậy, đức Phật nói: Đó là Bồ-tát độ chúng sanh.

Quí vị thấy mỗi ngày chúng ta ngồi ở tảng đá chơi, hoặc ngồi ở trước hành lang nhà, hoặc ngồi trong vườn, nếu chúng ta cứ lo độ chúng sanh như vậy, nghĩa là mỗi chúng sanh dấy lên chúng ta đưa vào Vô dư Niết-bàn, đó cũng là Bồ-tát độ chúng sanh rồi. Tại sao gọi là Bồ-tát? Vì Bồ-tát là một chúng Hữu tình giác ngộ và đem sở giác của mình giáo hóa kẻ khác, tức là tự giác và giác tha. Niệm dấy lên chúng ta biết nó là hư giả, đó là giác; giác rồi đưa nó vào chỗ vô sanh, đó là độ chúng sanh. Như vậy quí vị thấy giờ nào mà không độ chúng sanh? Chúng ta độ chúng sanh đó thì sẽ đi đến chỗ an trụ Niết-bàn. Tóm lại đức Phật chủ yếu dạy chúng ta đối với tất cả niệm khởi về người về vật v.v… muôn ngàn hình tướng đều cho lặng xuống hết, lặng vào chỗ không còn sanh diệt, khi đó là hàng phục tâm. Tâm chúng ta không còn loạn động nữa, mà hết loạn động tức là chúng ta hàng phục được tâm thuần thục. Như thế câu trả lời rất là xác đáng. Và như vậy mới hết tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả. Hiện giờ có nhiều người không hiểu, cho thân này là ngã nên bảo: “thôi tôi xả thân, tôi không nghĩ gì đến tôi hết, tôi bố thí tất cả thức ăn, thức mặc, cái gì tôi cũng không kể”, nhưng niệm của họ vẫn còn khởi thì cái xả đó vẫn chưa sạch. Tỉ dụ cứ nghĩ ta là người bố thí, ta là người nhẫn nhục tức là còn ngã chớ gì? Cho nên còn một niệm là còn ngã, cái ngã tế nhị như vậy. Thành ra có nhiều người làm việc coi như xả ngã mà chính là nuôi cái ngã thêm to, đó là cái ngã vọng tưởng ở tâm. Thế nên khi hiểu rồi quí vị mới thấy ở đây đức Phật bảo: Độ tất cả chúng sanh mà không thấy có một chúng sanh nào được diệt độ. Tại sao? - Vì nếu Bồ-tát còn bốn tướng đó không phải là Bồ-tát. Còn bốn tướng là còn dấy niệm thấy có mình tức có ngã, mà có ngã tức là có nhân, có chúng sanh, có thọ giả… Có dấy niệm mới chấp, mới nghĩ ta phải người quấy, mới thấy ta hay người dở v.v… nếu không dấy niệm thì chấp cái gì? Đó là chỗ cứu kính trong việc tu hành. Hiểu được rồi chúng ta thấy rõ ràng vừa bước vào đoạn thứ nhất là đã biết được phương pháp tu hành.
Được cảm ơn bởi: lngovn, Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

lngovn
Mới gia nhập
Mới gia nhập
Bài viết: 9
Tham gia: 11:46, 03/07/23

Re: Chữ tâm

Gửi bài gửi bởi lngovn »

KMD đã viết: 10:55, 29/08/23 Đoạn Kinh Kim Cang dưới đây được dịch bởi Hòa Thượng Thích Thanh Từ để mọi người tham khảo.

Kinh Kim Cang Giảng giải
Đoạn 3: Đại Thừa Chánh Tông

ÂM:

ĐẠI THỪA CHÁNH TÔNG

Phật cáo Tu-bồ-đề:

- Chư Bồ-tát ma-ha-tát ưng như thị hàng phục kỳ tâm. Sở hữu nhất thiết chúng sanh chi loại, nhược noãn sanh, nhược thai sanh, nhược thấp sanh, nhược hóa sanh, nhược hữu sắc, nhược vô sắc, nhược hữu tưởng, nhược vô tưởng, nhược phi hữu tưởng phi vô tưởng, ngã giai linh nhập Vô dư Niết-bàn nhi diệt độ chi. Như thị diệt độ vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh, thực vô chúng sanh đắc diệt độ giả. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề, nhược Bồ-tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng tức phi Bồ-tát.

DỊCH:

CHÁNH TÔNG CỦA ĐẠI THỪA

Phật bảo Tu-bồ-đề:

- Các vị Bồ-tát lớn nên như thế mà hàng phục tâm kia. Có tất cả các loài chúng sanh hoặc loài sanh bằng trứng, hoặc loài sanh bằng thai, hoặc sanh chỗ ẩm ướt, hoặc hóa sanh, hoặc có hình sắc, hoặc không hình sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc chẳng có tưởng chẳng không tưởng, ta đều khiến vào Vô dư Niết-bàn mà được diệt độ đó. Diệt độ như thế vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh mà thật không có chúng sanh được diệt độ. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả tức chẳng phải là Bồ-tát.


GIẢNG:

“Chín loài chúng sanh” chỉ trùm tất cả chúng sanh.

Niết-bàn nghĩa là vô sanh. Niết-bàn có Hữu dư y Niết-bàn và Vô dư y Niết-bàn. Những vị chứng quả A-la-hán, được vô sanh nhưng còn thân hình tướng thì gọi là Hữu dư Niết-bàn; được Niết-bàn sau khi xả thân nghĩa là được vô sanh sau khi không còn thân tướng thì gọi là Vô dư Niết-bàn.

Bốn tướng:

Tướng ngã: thấy có mình thật.

Tướng nhân: thấy có người thật.

Tướng chúng sanh: thấy tất cả loài có thật.

Tướng thọ giả: thấy có mạng sống tiếp nối trong một thời gian.

Đây là đến phần Phật trả lời hai câu hỏi trước của ngài Tu-bồ-đề. Câu hỏi đầu là an trụ tâm, câu hỏi thứ hai là hàng phục tâm, nhưng khi trả lời đức Phật đổi lại trả lời câu hỏi hàng phục tâm trước và câu hỏi an trụ tâm sau. Trong đoạn này Phật dạy cách hàng phục tâm tức chỉ phương pháp tu hành. Đức Phật dạy: Đối với tất cả loài chúng sanh ta đều đưa họ vào chỗ Niết-bàn không còn hình tướng để họ được diệt độ. Diệt độ như thế không biết bao nhiêu chúng sanh mà thật không có một chúng sanh nào được diệt độ. Đó là hàng phục được tâm, quí vị làm được điều đó không? Phật lại bảo tiếp: Tại sao thế? - Vì nếu Bồ-tát còn một tướng ngã hay tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả thì không phải là Bồ-tát.

Phật trả lời khó hiểu quá, thấy như lạc đề. Đây là chỗ chánh yếu nhưng vừa mở đầu chúng ta thấy ngỡ ngàng, chúng ta mong Phật trả lời làm sao hàng phục tâm mà đức Phật trả lời như thế này thì làm sao hàng phục tâm được! Tôi không nói loài sanh bằng trứng, những loài sanh chỗ ẩm ướt, những loài sanh do biến hóa, những loài có sắc, không sắc v.v… mà chỉ nói những loài thai sanh và trong loài sanh bằng thai, tôi hạn chế trong loài người thôi. Chừng nào chúng ta độ tất cả loài người vào Vô dư Niết-bàn mà không thấy họ được diệt độ, chừng đó chúng ta mới hàng phục được tâm. Vậy chừng nào chúng ta làm được việc đó? Nếu như không làm được việc đó thì hàng phục tâm không được. Tại sao hỏi hàng phục tâm mà Phật dạy độ chúng sanh ở ngoài? Đó là điều khó, từ xưa đến giờ chính khi chúng tôi học, đến chỗ này chúng tôi cũng lắc đầu, điều Phật dạy rất khó áp dụng trong việc tu hành. Nếu chúng ta hiểu theo lời theo chữ thì sẽ có hai điểm không thể thực hiện được. Điểm thứ nhất là chúng ta thấy Phật chưa thành Phật. Tại sao? Vì khi đức Phật thành Phật, thử hỏi tất cả người - chỉ nói là người thôi - ở Ấn Độ, Phật đã độ được vào Vô dư Niết-bàn hết chưa? Chúng ta thấy rõ rằng lúc đó còn ngoại đạo rất nhiều, Ngài chỉ độ một số mấy ngàn vị thôi chớ đâu phải tất cả, vậy tại sao Ngài được thành Phật? Nếu hàng phục tâm chưa được thì làm sao thành Phật? Điểm thứ hai là Phật dạy chúng ta làm một việc mà không bao giờ chúng ta làm nổi. Thử hỏi tất cả quí vị cũng như chúng tôi, ai đã được Vô dư Niết-bàn? Thế mà chúng ta phải đưa tất cả chúng sanh vào Vô dư Niết-bàn, chừng đó mình mới hàng phục được tâm. Vậy đến bao giờ chúng ta mới làm được việc đó? Chỗ mình chưa đạt tới mà Phật bảo mình độ người đạt được chỗ đó, làm sao chúng ta làm được? Cũng như chúng ta còn dốt mà bảo dạy tất cả người đậu tiến sĩ hết, chừng đó mới được làm quan thì thật là vô lý. Thế nên nếu học kinh Phật, nhất là kinh Đại thừa, mà hiểu theo chữ, theo lời thì không làm sao giải thích được.

Điểm thứ nhất ta thấy mâu thuẫn với Phật, điểm thứ hai mâu thuẫn với chúng ta, như thế làm sao có thể áp dụng trong việc tu hành? Nhưng đến sau này khi tu thiền và đọc sách thiền rồi, chúng tôi mới giật mình, không ngờ mình không hiểu lời Phật nói. Kinh nói trong chúng ta có đủ cả Thập pháp giới, đó là Tứ thánh và Lục phàm. Quí vị thấy có khi chúng ta phát lòng từ bi giống như Phật, như Bồ-tát, có khi chúng ta xấu xa như con heo, con bò, có khi chúng ta hung dữ như con cọp, con sói. Trong chúng ta có đủ trăm thứ nghĩ, tốt xấu lẫn lộn. Thế nên mỗi một dấy niệm về người thì đó là một chúng sanh thai sanh, một dấy niệm về chim chóc thì đó là chúng sanh noãn sanh, một dấy niệm về con bướm, con ong thì đó là hóa sanh, một dấy niệm về con đom đóm đó là thấp sanh, nghĩ đến hư không đó là chúng sanh vô sắc, dấy niệm về con người có tưởng, đó là chúng sanh có tưởng, dấy niệm buông hết vọng tưởng, buông hết cả những tâm tưởng đó là chúng sanh vô tưởng… dấy niệm là sanh. Tại sao? Bởi vì khi lặng thì không có niệm, mà niệm dấy lên là do duyên với cảnh hoặc người, hoặc vật. Vọng thức bên trong duyên theo bóng dáng của vọng trần, cả hai phối hợp nhau mà sanh nên gọi là chúng sanh. Mỗi một niệm dấy lên như vậy là một chúng sanh. Những chúng sanh do niệm vừa dấy lên đó chúng ta liền độ vào Vô dư Niết-bàn. Làm sao độ? Chúng sanh đó dấy lên, ta biết chúng sanh này giả tức nhiên nó lặng xuống chỗ không sanh và khi nó lặng xuống không còn thấy tăm dạng nên gọi là Vô dư Niết-bàn. Như thế chúng ta thấy đức Phật độ hết chúng sanh, Ngài hàng phục được tâm, Ngài thành Phật. Như thế mới có lý, mới đúng sự thật.

Cũng thế nếu những vọng tưởng của chúng ta đang điên cuồng chạy ngược, chạy xuôi theo có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng… theo tất cả hình tướng bên ngoài, bây giờ chúng ta đưa nó vào Vô dư Niết-bàn, vào chỗ lặng lẽ không sanh diệt, tâm chúng ta không còn loạn nữa, đó là chúng ta hàng phục được tâm. Hiểu như vậy chúng ta mới tu được. Như thế chúng ta mới thấy rõ đức Phật thành Phật trong khi tất cả chúng sanh vẫn còn. Ngài hàng phục được tâm của Ngài nên mới được đến chỗ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như bây giờ chúng ta vừa phát tâm tu thì chúng ta cũng hàng phục như vậy, lần lần tâm an định chúng ta mới tiến bộ được. Nếu cứ lo độ chúng sanh ở ngoài trong khi chính mình chưa độ được mình thì độ được ai?

Hiểu như vậy rồi chúng ta thấy kinh Phật rất cao siêu, lời lẽ diễn tả những hình ảnh mà chúng ta không hiểu là những hình ảnh đó qui về mình rồi chúng ta cứ tưởng là việc bên ngoài. Khi chúng ta tưởng như thế chúng ta sẽ thối chí không biết làm sao thực hành. Thế nên ngày xưa chính tôi đã từng nói rằng: Kinh Đại thừa chắc chỉ để trên gác thờ, không thể áp dụng trong việc tu hành, nhưng nay chúng ta hiểu rõ rồi, mới thấy chính đoạn này trả lời rất sát câu hỏi của ngài Tu-bồ-đề. Ngài Tu-bồ-đề hỏi làm sao hàng phục được tâm, Phật dạy: Một niệm dấy lên là một chúng sanh, đưa những niệm đó vào chỗ vô sanh là hàng phục tâm. Đây là Tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ. Rõ ràng là Phật trả lời việc hàng phục tâm. Nếu nói độ tất cả chúng sanh thì ta thấy như là người hỏi việc bên trong mà Phật trả lời việc bên ngoài, không dính dáng gì với nhau. Nhưng ở đây, chúng ta đã thấy rõ ý nghĩa độ tất cả chúng sanh, đó là đưa tất cả niệm vào chỗ không còn sanh diệt. Khi nào thực hành quí vị mới thấy rõ. Một niệm dấy lên nghĩ về người, chúng ta liền nói niệm đó giả dối không thật, không theo. Khi biết nó giả, ta không theo thì nó lặng xuống, lặng xuống chỗ không còn thấy tướng mạo, đó là Vô dư Niết-bàn. Không sanh là Niết-bàn, không còn tướng mạo là vô dư. Bao nhiêu niệm đều đưa vào đó nên nói độ tất cả chúng sanh mà không thấy có chúng sanh nào được diệt độ, nghĩa là đưa tất cả vào đó hết mà không còn thấy có một người nào hay một niệm nào thật. Quí vị thấy thật là khó, khó ngay ở buổi đầu.

Thế nên Phật nói tiếp: Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, thì không phải là Bồ-tát. Tại sao vậy? - Bởi vì một niệm dấy lên tức là có chấp ngã trong đó. Quí vị nhớ từ cái chấp ngã của Đại thừa đi lần đến chấp ngã sâu kín vi tế của Thiền tông. Hai cái tương ưng nhau. Chấp ngã của Đại thừa là chấp thân làm ngã và chấp tâm làm ngã. Từ cái chấp thân, tâm làm ngã đến niệm dấy lên chấp niệm đó là mình, đó cũng là chấp ngã. Niệm dấy lên cho là mình nghĩ, đó là chấp ngã. Tại sao? Dấy niệm là suy nghĩ về người, suy nghĩ về cảnh, thử hỏi ai nghĩ, ai nghĩ về người, ai nghĩ về cảnh? Thô thì chấp thân này, tế thì chấp một niệm, vì vậy còn thấy một niệm thật là còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả; nếu đưa hết những niệm vào Vô dư Niết-bàn rồi thì đâu còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả. Người làm được như vậy, đức Phật nói: Đó là Bồ-tát độ chúng sanh.

Quí vị thấy mỗi ngày chúng ta ngồi ở tảng đá chơi, hoặc ngồi ở trước hành lang nhà, hoặc ngồi trong vườn, nếu chúng ta cứ lo độ chúng sanh như vậy, nghĩa là mỗi chúng sanh dấy lên chúng ta đưa vào Vô dư Niết-bàn, đó cũng là Bồ-tát độ chúng sanh rồi. Tại sao gọi là Bồ-tát? Vì Bồ-tát là một chúng Hữu tình giác ngộ và đem sở giác của mình giáo hóa kẻ khác, tức là tự giác và giác tha. Niệm dấy lên chúng ta biết nó là hư giả, đó là giác; giác rồi đưa nó vào chỗ vô sanh, đó là độ chúng sanh. Như vậy quí vị thấy giờ nào mà không độ chúng sanh? Chúng ta độ chúng sanh đó thì sẽ đi đến chỗ an trụ Niết-bàn. Tóm lại đức Phật chủ yếu dạy chúng ta đối với tất cả niệm khởi về người về vật v.v… muôn ngàn hình tướng đều cho lặng xuống hết, lặng vào chỗ không còn sanh diệt, khi đó là hàng phục tâm. Tâm chúng ta không còn loạn động nữa, mà hết loạn động tức là chúng ta hàng phục được tâm thuần thục. Như thế câu trả lời rất là xác đáng. Và như vậy mới hết tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả. Hiện giờ có nhiều người không hiểu, cho thân này là ngã nên bảo: “thôi tôi xả thân, tôi không nghĩ gì đến tôi hết, tôi bố thí tất cả thức ăn, thức mặc, cái gì tôi cũng không kể”, nhưng niệm của họ vẫn còn khởi thì cái xả đó vẫn chưa sạch. Tỉ dụ cứ nghĩ ta là người bố thí, ta là người nhẫn nhục tức là còn ngã chớ gì? Cho nên còn một niệm là còn ngã, cái ngã tế nhị như vậy. Thành ra có nhiều người làm việc coi như xả ngã mà chính là nuôi cái ngã thêm to, đó là cái ngã vọng tưởng ở tâm. Thế nên khi hiểu rồi quí vị mới thấy ở đây đức Phật bảo: Độ tất cả chúng sanh mà không thấy có một chúng sanh nào được diệt độ. Tại sao? - Vì nếu Bồ-tát còn bốn tướng đó không phải là Bồ-tát. Còn bốn tướng là còn dấy niệm thấy có mình tức có ngã, mà có ngã tức là có nhân, có chúng sanh, có thọ giả… Có dấy niệm mới chấp, mới nghĩ ta phải người quấy, mới thấy ta hay người dở v.v… nếu không dấy niệm thì chấp cái gì? Đó là chỗ cứu kính trong việc tu hành. Hiểu được rồi chúng ta thấy rõ ràng vừa bước vào đoạn thứ nhất là đã biết được phương pháp tu hành.
Cám ơn KMD đã chia sẻ.

Thật hoan hỷ.
Được cảm ơn bởi: KMD, Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1742
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Chữ tâm

Gửi bài gửi bởi KMD »

Hòa Thượng Thích Thanh Từ chỉ thẳng chân tâm trong bài giảng "Truyền Tâm Pháp Yếu".

https://www.youtube.com/watch?v=MEd0OeK ... 5BPPUD%5D
Được cảm ơn bởi: lngovn, Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1742
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Chữ tâm

Gửi bài gửi bởi KMD »

Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1742
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Chữ tâm

Gửi bài gửi bởi KMD »

佛心歌

佛佛佛不可見,
心心心不可說。
若心生時是佛生,
若佛滅時是心滅。
滅心存佛是處無,
滅佛存心何時歇。
欲知佛心生滅心,
直待當來彌勒決。

昔無心,
今無佛,
凡聖人天如電拂。
心體無是亦無非,
佛性非虛又非實。

忽時起,
忽時止,
往古來今徒擬擬。
豈惟埋沒祖宗乘,
更起妖魔自家祟。

欲求心,
休外覓,
本體如如似空寂。
涅槃生死漫羅籠,
煩惱菩提閑對敵。

心即佛,
佛即心,
妙旨明明達古今。
春來自是春花笑,
秋到無非秋水深。

捨妄心,
守真性,
似人尋影而忘鏡。
豈知影現鏡中來,
不覺妄從真裏蹦。
妄來非實亦非虛,
鏡受無邪亦無正。

也無罪,
也無福,
錯比摩尼兼白玉。
玉有瑕兮珠有纇,
性底無紅也無綠。

亦無得,
亦無失,
四十九來是七七。
六度萬行海上波,
三毒九情空裏日。

默默默,
沈沈沈,
萬法之心即佛心。
佛心卻與我心合,
法爾如然亙古今。

行亦禪,
坐亦禪,
一朵紅爐火裏蓮。
沒意氣時添意氣,
得安便處且安便。

咦咦咦,
咄咄咄,
大海中漚閑出沒。
諸行無常一切空,
何處先師覓靈骨。

醒醒著,
著醒醒,
四稜踏地勿欹傾。
阿誰於此信得及,
高步毗盧頂上行。
喝!



Phật tâm ca
Tuệ Trung Thượng Sĩ

Phật Phật Phật bất khả kiến,
Tâm tâm tâm bất khả thuyết.
Nhược Tâm sinh thì thị Phật sinh,
Nhược Phật diệt thì thị Tâm diệt.
Diệt Tâm tồn Phật thị xứ vô,
Diệt Phật tồn Tâm hà thì yết.
Dục tri Phật Tâm, sinh diệt Tâm,
Trực đãi đương lai Di Lặc quyết.

Tích vô Tâm,
Kim vô Phật,
Phàm thánh nhân thiên như điện phất.
Tâm thể vô thị diệc vô phi,
Phật tính, phi hư hựu phi thật (thực).

Hốt thì khỉ (khởi),
Hốt thì chỉ,
Vãng cổ lai kim đồ nghĩ nghĩ.
Khởi duy mai một tổ tông thừa,
Cánh khởi yêu ma tự gia tuý.

Dục cầu tâm,
Hưu ngoại mịch,
Bản thể như như tự không tịch.
Niết bàn sinh tử mạn la lung,
Phiền não bồ-đề nhàn đối địch.

Tâm tức Phật,
Phật tức Tâm,
Diệu chỉ minh minh đạt cổ câm (kim).
Xuân lai tự thị xuân hoa tiếu,
Thu đáo vô phi thu thuỷ thâm.

Xả vọng tâm,
Thủ chân tính,
Tự nhân tầm ảnh nhi vong kính.
Khởi tri ảnh hiện kính trung lai,
Bất giác vọng tòng chân lý bính.
Vọng lai phi thực diệc phi hư,
Kính thụ vô tà diệc vô chính.

Dã vô tội,
Dã vô phúc,
Thác tỷ ma-ni kiêm bạch ngọc.
Ngọc hữu hà hề, châu hữu lỗi,
Tính để vô hồng dã vô lục.

Diệc vô đắc,
Diệc vô thất,
Tứ thập cửu lai thị thất thất.
Lục độ vạn hạnh hải thượng ba,
Tam độc cửu tình không lý nhật.

Mặc mặc mặc,
Trầm trầm trầm,
Vạn pháp chi tâm tức Phật tâm.
Phật tâm khước dữ ngã tâm hợp,
Pháp nhĩ như nhiên cắng cổ câm (kim).

Hành diệc thiền,
Toạ diệc thiền,
Nhất đoá hồng lô hoả lý liên.
Một ý khí thì thiêm ý khí,
Đắc an tiện xứ thả an tiên.

Di di di,
Đốt đốt đốt,
Đại hải trung âu nhàn xuất một.
Chư hành vô thường nhất thiết không,
Hà xứ tiên sư mịch linh cốt.

Tinh tinh trước,
Trước tinh tinh,
Tứ lăng đạp địa vật khi khuynh.
A thuỳ ư thử tín đắc cập,
Cao bộ tỳ-lư đính thượng hành.
Hát!



Dịch nghĩa
Bài ca về Phật và tâm

Phật, Phật, Phật không thể thấy được,
Tâm, tâm, tâm không thể nói được.
Khi Tâm sinh thì Phật sinh,
Khi Phật diệt thì Tâm diệt.
Không có chỗ nào diệt Tâm mà còn Phật,
Diệt Phật mà còn Tâm thì bao giờ cho hết.
Muốn biết Tâm Phật và Tâm sinh diệt,
Phải đợi sau này Phật Di Lặc mới giải đáp được.

Xưa không có Tâm,
Nay không có Phật,
Phàm, thánh, người, trời nhanh như chớp giật.
Tâm thể không phải cũng không trái,
Phật tính không hư cũng không thực.

Chợt nổi lên,
Chợt ngừng lại,
Xưa qua nay lại luống những bắt chước nhau.
Chẳng những chôn vui mất giáo pháp của tổ tông,
Mà còn làm cho yêu ma nổi dậy, tự mình lại ám ảnh cả mình.

Muốn tìm Tâm,
Đừng tìm ở bên ngoài,
Bản thể của nó cứ như thế và không tịch.
Niết-bàn và sinh tử ràng buộc lỏng lẻo thôi,
Phiền não và bồ-đề coi thường cả sự đối nghịch của chúng.

Tâm là Phật,
Phật là Tâm,
Tính huyền diệu thì sáng linh và thông suốt xưa nay.
Mùa xuân tới, hoa xuân cười,
Mùa thu về, không chỗ nào là nước thu không sâu.

Bỏ vọng tâm,
Tìm chân tính,
Giống như người tìm bóng quên gương.
Nào có biết bóng từ trong gương mà ra,
Nào có biết cái vọng dẫn đến từ trong cái thực.
Cái vọng đến thì chẳng thực cũng chẳng hư,
Cái gương tiếp nhận không tà cũng không chính.

Không có tội,
Không có phúc,
Lẫn cả hạt trai và ngọc trắng.
Ngọc thì có vết mà hạt trai thì có tỳ,
Còn “tính” thì không đỏ cũng không xanh.

Cũng không được,
Cũng không mất,
Bốn mươi chín là bảy nhân với bảy.
Lục độ vạn hạnh là sóng trên mặt bể,
Tam độc cửu tình là mặt trời trên không.

Lặng, lặng, lặng!
Trầm, trầm, trầm!
Tâm của vạn pháp là tâm của Phật.
Tâm Phật cũng phù hợp với Tâm ta,
Pháp là như thế đấy suốt xưa nay.

Đi cũng thiền,
Ngồi cũng thiền,
Một đoá hoa sen trong lò lửa hồng.
Khi không có ý khí thì tăng thêm ý khí,
Được nơi an định hãy cứ an định.

Ôi, ôi, ôi!
Chà, chà, chà!
Bọt trong biển lớn lênh đênh ẩn hiện.
Mọi hiện tượng đều biến diệt không ngừng, hết thảy là không,
Biết tiên sư ở chỗ nào mà tìm linh cốt.

Tỉnh táo lên!
Tỉnh táo lên!
Bàn chân dẫm trên mặt đất chớ có ngã nghiêng.
Ấy ai tin được tới chỗ đó,
Cất cao bước đi trên đầu Tỳ-lư.
Hét!
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1742
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Chữ tâm

Gửi bài gửi bởi KMD »

TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

Thi Ca 1

Dịch:

BÀI CA TÂM PHẬT

Phật! Phật! Phật! Không thể thấy
Tâm! Tâm! Tâm! Không thể nói.
Nếu khi tâm sanh là Phật sanh
Nếu khi Phật diệt là tâm diệt.
Diệt tâm còn Phật chuyện không đâu
Diệt Phật còn tâm khi nào hết?
Muốn biết Phật tâm, sanh diệt tâm
Đợi đến sau này Di-lặc quyết.

Xưa không tâm, nay không Phật
Phàm, Thánh, người, trời như điện chớp.
Tâm thể không thị cũng không phi
Phật tánh chẳng hư cũng chẳng thật.
Bỗng dưng dấy, bỗng dưng dừng
Xưa qua nay lại luống nghĩ bàn.
Đâu chỉ chôn vùi thừa Tổ tông
Lại khiến yêu ma nhà mình lộng.

Muốn tìm tâm, đừng tìm ngoài
Bản thể như nhiên tự rỗng lặng.
Niết-bàn sanh tử buộc ràng suông
Phiền não Bồ-đề đối địch rỗng.
Tâm tức Phật, Phật tức tâm
Diệu chỉ sáng ngời suốt cổ kim.
Xuân đến, tự nhiên hoa xuân nở
Thu về, hiện rõ nước thu sâu.

Bỏ vọng tâm, giữ Chân tánh
Như người tìm bóng mà quên kính.
Đâu biết bóng có từ nơi gương
Chẳng rõ vọng từ trong chân hiện.
Vọng đến không thật cũng không hư
Gương nhận không cong cũng không thẳng.

Cũng không tội, cũng không phước
Lầm sánh ma-ni cùng bạch ngọc.
Ngọc có vết chừ châu có tỳ
Tánh vốn không hồng cũng không lục.
Cũng không được, cũng không mất,
Bảy lần bảy là bốn mươi chín.
Tam độc cửu tình nhật trong không
Lục độ vạn hạnh sóng trên biển.

Lặng, lặng, lặng, chìm, chìm, chìm
Cái tâm muôn pháp là tâm Phật.
Tâm Phật lại cùng tâm ta hợp
Lẽ ấy như nhiên suốt cổ kim.
Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền
Trong lò lửa rực, một hoa sen.
Ý khí mất thì thêm ý khí
Được nơi an tiện hãy an tiện.

Chao! Chao! Chao! Ối! Ối! Ối!
Bọt trong biển cả nổi chìm rỗng.
Các hạnh vô thường tất cả không
Linh cốt Tiên sư chỗ nào thấy?
Tỉnh tỉnh thức, thức tỉnh tỉnh
Bốn góc đạp đất chớ chinh nghiêng.
Người nào nơi đây tin được đến
Trên đảnh Tỳ-lô cất bước đi
Hét!

Giảng:

Thiền tông nói tâm tức Phật, Phật tức tâm. Nghĩa là Phật chính là tâm, tâm chính
là Phật. Theo con mắt nhà Thiền thì Phật hay tâm có sẵn nơi mỗi người, không hai. Bây
giờ quí vị kiểm lại coi có người nào không có tâm không? - Ai cũng có tâm Phật hết, vậy
ai cũng là Phật, thế mà không ai chịu nhận mình là Phật, cứ cho mình là chúng sanh!
Trước khi giảng Bài Ca Tâm Phật của Thượng Sĩ, tôi nói rộng về nghĩa này để quí vị thấy
được lẽ thật đó. Bây giờ chúng ta phải hiểu từng chữ một; Tâm là gì? - Tâm là biết. Phật
là gì? - Phật là Giác. Vậy, nơi mỗi người chúng ta ai cũng có tri giác, ai cũng có tâm Phật
hết; tri là biết, giác là tâm, tri giác là thấy biết đúng như thật. Vậy có giác nào không tri
và có tri nào không giác? Tri không rời giác, giác không rời tri, dường như hai mà không
phải hai. Nếu thấy được lẽ thật đó, chúng ta mới hiểu được nghĩa tâm tức Phật hay Phật
tức tâm.

Bây giờ tôi nói lẽ thật mà các Thiền sư chứng nghiệm. Ở đoạn trước có nói Thiền
sư Trí Thông trong hội ngài Qui Tông. Một hôm, nửa đêm Trí Thông la lên: “Tôi ngộ rồi!
Tôi ngộ rồi!” Hôm sau ngài Qui Tông gọi lên hỏi: “Hôm qua ông nói ông ngộ là ông ngộ
cái gì?” Trí Thông đáp: “Ni cô nguyên là cô gái.” Ngài Qui Tông gật đầu. Ngộ gì lạ lùng
vậy? Cô gái và Ni cô là một hay là hai? - Nói một thì không được, vì vóc dáng Ni cô khác
với cô gái; lúc cô gái còn tóc sao không gọi Ni cô? Khi cạo tóc ở chùa mới gọi Ni cô?
Song, nói khác cũng không được, vì không có cô gái thì không có Ni cô. Câu chuyện này
nói lên ý nghĩa ngộ lý “Phật tức là tâm”. Mới nghe qua thấy rất dễ, nhưng kỳ thật rất
thâm thúy.

Lại, có một vị Tăng, một hôm cũng nói: “Tôi ngộ rồi! Tôi ngộ rồi!” Ông thầy kêu
hỏi: “Ông ngộ cái gì?” Tăng đáp: “Nếu biết đèn là lửa, cơm chín đã lâu rồi!” Nấu cơm
cần lửa, có cây đèn để trên bàn Phật, mà không nhớ, chạy xin lửa ở hàng xóm, quên lửa ở
cây đèn trên bàn Phật. Nếu nhớ lửa ở cây đèn trên bàn Phật thì đâu có chạy đi xóm làng
để xin lửa quá lâu. Nên nói: “Nếu biết đèn là lửa, cơm chín đã lâu rồi!” Đó là ý nghĩa
“tức tâm tức Phật”. Như vậy chúng ta phải hiểu tâm Phật không hai thứ. Nhưng hiện tại
thì chúng ta thấy có hai, vì khi nói tới tâm ai cũng nghĩ tới tâm phân biệt của phàm phu
mê loạn và nói tới Phật là nghĩ tới tâm giác ngộ sáng suốt. Do nghĩ như thế mới thấy
chúng sanh và Phật khác nhau.

Tôi xin đặt một câu hỏi để quí vị nghiệm lại chỗ này. Muốn có tâm giác ngộ sáng
suốt thì phải làm sao? Có phải chuyển tâm phàm phu mê loạn thành tâm giác ngộ sáng
suốt không? Rời tâm mê loạn phàm phu đâu có tâm giác ngộ sáng suốt. Hiểu như vậy quí
vị mới nhận được ý nghĩa tức tâm tức Phật. Tức là dừng ngay tâm động loạn phàm phu
thì tâm thanh tịnh sáng suốt hiện. Tâm thanh tịnh sáng suốt là tâm giác, tâm Phật. Như
vậy, tâm mê hay tâm giác cũng là tâm, chỉ khác nhau ở chỗ mê và giác. Nói tâm mê hay
tâm giác là nói theo cái thấy phân biệt của phàm phu. Biết theo mê loạn thì gọi là tâm
phàm phu, biết theo giác ngộ thì gọi là tâm Phật. Vậy, đặt Phật và tâm riêng có được
không? - Riêng có Phật ngoài tâm, riêng có tâm ngoài Phật không thể được. Hiểu rõ chỗ
này chúng ta học Bài Ca Tâm Phật mới thấy cái đặc biệt của Thượng Sĩ.

Câu đầu của bài ca là “Phật! Phật! Phật! Không thể thấy”. Tại sao Ngài nói ba lần
Phật như vậy? - Có hai trường hợp: trường hợp thứ nhất là nhìn theo ý trước sau, Ngài
dùng ba chữ trùng điệp là nói mạnh, nhắc cho chúng ta thâm nhập cho được ý nghĩa này,
chớ không phải ba chữ Phật có ba nghĩa khác nhau, ba chữ Phật điệp khúc ba lần, để cho
chúng ta nhớ sâu “Phật không thể thấy”. Phật thờ trên bàn mỗi ngày chúng ta lễ lạy, sao
nói Phật không thể thấy? Phật ngồi trên bàn thờ và Phật tức tâm có khác nhau không? -
Phật ngồi trên bàn thờ là Phật tượng, Phật cốt, không phải nghĩa Phật tức tâm. Phật tức
tâm thì không thể thấy, song chúng ta tu ai cũng đều có sở nguyện thành Phật, mà Phật
không thể thấy làm sao thành? Nếu chúng ta thấy Phật, tức là thấy tâm giác ngộ, vậy thì
tâm giác ngộ là ai và ai thấy? Thấy tâm giác ngộ là người thấy và tâm giác ngộ là cái bị
thấy. Người thấy và cái bị thấy là hai, như vậy, đâu phải là mình. Không phải là mình thì
đâu có nghĩa Phật tức tâm. Thế nên Thượng Sĩ nói không thấy Phật nếu thấy là sai, vì
thấy Phật bên ngoài, không phải Phật tức tâm ở nơi mình. Phật tức tâm là chỉ Tánh giác ở
nơi mình thường lặng lẽ sáng suốt. Nếu mình thấy nó thì nó là cái bị thấy, là cảnh không
phải là mình. Chẳng hạn cái hoa này là cái bị mắt tôi thấy, mắt tôi thấy và cái hoa không
phải là một; vì hoa là cái bị thấy là đối tượng bên ngoài, mắt là cái hay thấy là cái bên
trong. Nếu Phật là tâm giác ngộ sáng suốt là cái bị thấy, thì Phật không phải là tâm giác
ngộ, cho nên nói: Phật! Phật! Phật! không thể thấy.

“Tâm! Tâm! Tâm! không thể nói.” Nãy giờ chúng ta nói rất nhiều về tâm, sao nói
tâm không thể nói? Quí vị thấy sao? Chúng ta nói, chỉ là diễn tả bằng ngôn ngữ để cho
người nghe mường tượng hiểu. Thật ra tâm là cái không thể nói tới được. Tại sao vậy?
Khởi nói năng là tâm khởi, vì tâm mới biết khởi. Nếu không tâm thì không khởi không
nói. Cái biết đó là động cơ sử dụng cái lưỡi phát ra ngôn ngữ, nó là chủ, còn ngôn ngữ
phát ra là cái bị sai khiến là tớ. Chủ sai tớ chớ tớ không sai chủ được, chẳng qua chỉ là
ngôn ngữ tạm nói ra cho người hiểu thôi. Tâm tự nó biết nói, chớ không phải cái nói biết
tâm. Mới nghe qua thì thấy rất khó hiểu. Nhưng đi sâu chúng ta mới thấy cái kỳ đặc của
lỗi diễn đạt này. Vậy, “Tâm, tâm, tâm, không thể nói” là ngôn ngữ không thể nói về tâm,
vì tâm là chủ khởi ra tiếng nói, chớ không phải tiếng nói biết nói về tâm. Đó là cái ý
nghĩa chủ yếu mà Thượng Sĩ dùng điệp ngữ chữ Phật và chữ tâm. Ngài dùng điệp ngữ là
nhắc chúng ta nhớ kỹ nhớ sâu, chớ không phải để cho chúng ta cắt nghĩa. Nếu lấy đây cắt
nghĩa thì ở dưới có câu “lặng, lặng, lặng, chìm, chìm, chìm” cắt nghĩa ra sao? Ba chữ
Phật có thể cắt nghĩa là Phật pháp thân, Phật hóa thân và Phật báo thân. Ba chữ tâm có
thể giải nghĩa A-lại-da thức là tâm chứa đựng, mạt-na thức là tâm chấp ngã, năm thức
trước là tâm phân biệt... Nhưng giải nghĩa như thế là mất hết ý nghĩa của bài ca. Lệ
thường chúng ta gặp chữ là cứ giải nghĩa, dùng mọi cách để giải, nhưng rốt cuộc rồi
không nắm được tinh thần trọn bài. Ở đây, những điệp ngữ này nhằm nhắc chúng ta nhớ
sâu, đánh mạnh khiến cho chúng ta thấy được tường tận ý chỉ của bài.

“Nếu khi tâm sanh là Phật sanh, nếu khi Phật diệt là tâm diệt.” Tâm là Phật, nên
tâm sanh tức là Phật sanh. Phật tức tâm, nên Phật diệt tâm cũng diệt. Đó là ý nghĩa tức
tâm tức Phật. “Diệt tâm còn Phật chuyện không đâu, diệt Phật còn tâm khi nào hết?”
Người tu kềm cho tâm lặng lẽ mất tri giác, mong có trí tuệ sáng suốt được không? Đó chỉ
là chuyện không đâu không thể nào được. Tại sao? Vì tâm tức là Phật, nếu chúng ta đoạn
cái nhân Phật thì làm sao có được quả Phật? Đã diệt nhân Phật thì không có quả Phật.
Hiện giờ chúng ta tu có diệt nhân Phật không? Nếu không, sao bảo bỏ hết vọng tưởng?
Vọng tưởng là tâm hay không phải tâm? Chúng ta phải nhìn cho thật kỹ, hiểu cho thật sâu
chỗ này kẻo lầm.

Tôi xin hỏi: Tất cả vọng tưởng có vọng tưởng nào không biết chăng? - Tuy là
vọng tưởng, nhưng có biết; biết vọng động sanh diệt. Tu là không theo cái biết vọng động
sanh diệt, mà hằng biết lặng lẽ thanh tịnh, không động. Cái hằng biết không động là cái
biết của nhân Phật, do tu hành thì cái biết đó càng ngày càng sáng đến viên mãn gọi là
quả Phật. Cho nên bỏ cái tâm (cái biết) là nhân Phật mà được quả Phật là chuyện không
có. Đâu bây giờ quí vị kiểm tra lại coi, nơi mình cái nào là cái biết nhân Phật bất động?
Chúng ta thử ngồi một phút, không khởi nghĩ, giả sử có con muỗi chích vô da, quí vị có
biết không? - Biết rõ ràng. Như vậy da thịt chúng ta có cái biết hằng hiển hiện, nên cái gì
chạm tới là biết liền. Và nếu chúng ta ngồi yên không khởi lên ý niệm nào, mắt có thấy,
tai có nghe không? - Vẫn thấy vẫn nghe. Vậy, mắt thấy, tai nghe, thân có cảm giác... đó là
hằng biết; hằng biết mà không động. Còn khởi suy nghĩ là cái biết động. Thế nên tu là
lặng cái biết động, để còn thuần cái biết không động.

Cái biết của thấy, của nghe, của cảm giác... tự nó không tốt không xấu, không phải
không quấy. Thấy thì cứ thấy, nói đẹp nói xấu là do khởi nghĩ mới nói đẹp xấu. Ví dụ tôi
nhìn cái hoa thấy rõ ràng là cái hoa. Bây giờ tôi muốn biết cái hoa này đẹp hay xấu, tôi
nhớ lại quá khứ có lần tôi thấy hoa hồng to, mới đem ra so sánh với cái hoa này, rồi nói
hoa này nhỏ hơn xấu hơn. Bây giờ tôi nói hoa này xấu là do trước tôi đã thấy hoa kia đẹp
hơn, nên mới nói hoa này xấu. Nếu từ trước tôi chưa từng thấy cái hoa, bây giờ mới thấy
thì đâu có so sánh hoa đẹp hoa xấu. Vậy, khi mở miệng nói đẹp xấu là có niệm so sánh
hình ảnh đã thấy trong ký ức với hình ảnh mới vừa thấy. Nên khi khởi niệm nghĩ là đã
sống với tâm phân biệt so sánh; phân biệt so sánh là vọng động. Thế nên cả ngày lúc nào
chúng ta cũng biết, nhưng mà biết vọng động, gọi là tâm sanh diệt, tâm tạo nghiệp. Khi
chúng ta thấy đẹp xấu liền khởi niệm yêu ghét, rồi tạo nghiệp, đã tạo nghiệp là đi trong
sanh tử. Vậy, nếu sống với tâm sanh diệt thì chúng ta tạo nghiệp, đã tạo nghiệp rồi thì
phải sanh tử luân hồi. Bây giờ muốn không luân hồi sanh tử thì đừng sống với tâm sanh
diệt, tâm không sanh diệt thì không tạo nghiệp, không có nghiệp thì cái gì dẫn đi luân hồi
sanh tử? Thế nên tu là Biết mà không được phân biệt. Mỗi ngày ngồi thiền năm sáu tiếng
đồng hồ, cốt để lặng niệm phân biệt, tâm vô phân biệt hằng hữu hiện tiền là thành Phật.
Tu đơn giản như vậy chớ không có gì lạ, thế mà chúng ta cứ đi tìm kiếm ông Phật đâu
đâu, thật là chuyện hoang đường vô ích.

Người biết tu thì ngay nơi tâm phân biệt sanh diệt nhận ra tâm vô phân biệt hằng
giác tri là Phật ở nơi mình. Song, nếu tu mà ngồi bất động vô tri như gỗ như đá không
biết gì hết là đã đoạn nhân Phật thì làm sao có được quả Phật, nên nói “Diệt tâm còn Phật
chuyện không đâu, diệt Phật còn tâm khi nào hết?” Chúng ta ngồi thiền không phải diệt
cái biết (tâm hay Phật), mà là không theo niệm loạn động, chỉ một bề theo cái biết thanh
tịnh là nhân Phật. Chúng ta huân tu lâu ngày thuần thục, nhân Phật tròn sáng, thấy người
thấy vật đúng như thật đó là giác ngộ thành tựu quả Phật.

“Muốn biết Phật tâm, sanh diệt tâm, đợi đến sau này Di-lặc quyết.” Nếu muốn biết
tâm Phật hay Phật tâm, mà căn cứ trên tướng sanh diệt của tâm thì phải chờ đức Phật Dilặc ra đời Ngài giải quyết cho, chớ bây giờ không ai giải quyết được. Nghĩa là tâm sanh
diệt là cái chạy theo cảnh vật có sanh có diệt. Tuy cũng là tâm, nhưng là tâm loạn động
tạo nghiệp. Vậy, nghe nói tâm tức Phật rồi cho rằng tâm tôi biết suy nghĩ là Phật, như thế
là sai, tu đến Phật Di-lặc ra đời cũng chưa chắc được thành.

“Xưa không tâm, nay không Phật, phàm, Thánh, người, trời như điện chớp.” Cái
biết hằng hữu nơi mỗi người là tâm là Phật. Tại sao Thượng Sĩ nói “xưa không tâm nay
không Phật”? Tâm là một danh từ, chỉ là giả danh, chớ cái biết hằng hữu thanh tịnh
không có tên tâm nên không có tên Phật. Chúng ta nhìn lại thời nguyên thủy nó chỉ là cái
biết, không có tên tâm thì tên Phật ngày nay cũng không có. Tóm lại do cái biết phân biệt
của con người gọi là tâm khi mê, gọi là Phật khi giác. Đó là do người đặt ra tạm gọi, nó
chỉ là cái tên giả không thật. Vậy, tất cả tên Phàm, Thánh, Người, Trời... do con người hư
dối đặt ra, nên nói như điện chớp, sao xẹt, tạm bợ không thật.

“Tâm thể không thị cũng không phi, Phật tánh chẳng hư cũng chẳng thật.” Đứng
về Thể chân thật thì không sanh không diệt, không phải không quấy. Nhưng lúc nào
chúng ta mở miệng ra cũng nói phải nói quấy, đó là chúng ta nói theo tâm phân biệt vọng
động. Người sống được với Thể chân thật nghe nói phải nói quấy hơn thua thì không can
dự vào, chỉ cười thôi, vì biết đó là cái nhân sanh tử luân hồi. Thế mà người đời ai cũng ưa
cãi lý, cả ngày cứ hơn thua, cái này phải cái kia quấy, không biết chán. Không ngờ, tu mà
cãi như thế là đã lạc đường rồi. Con đường mình đi là đường giải thoát sanh tử, thế mà
mình tranh chấp hơn thua phải quấy, dù có thắng một trăm phần trăm cũng không đạt
được mục đích giải thoát.

“Tâm thể không thị cũng không phi, Phật tánh chẳng hư cũng chẳng thật.” Thị là
phải, phi là quấy, hư là giả. Nói phải, nói quấy, nói giả, nói thật là nói theo niệm phân
biệt đối đãi. Tâm thể tức Phật tánh không đối đãi làm gì có phải có quấy có giả có thật?
“Bỗng dưng dấy, bỗng dưng dừng, xưa qua nay lại luống nghĩ bàn.” Chợt khởi nghĩ liền
lặng mất, cứ nghĩ suy, suy nghĩ chuyện xưa chuyện nay lăng xăng hoài, không dừng nghỉ.
Như vậy thì “đâu chỉ chôn vùi thừa Tổ tông, lại khiến yêu ma nhà mình lộng”. Nếu cứ
dấy niệm lăng xăng hoài thì chẳng những chúng ta làm mất tông chỉ nhà Thiền, lại còn
khiến cho yêu ma chui vào nhà làm não lộng nữa. Quí vị có thấy yêu ma chui vô nhà quí
vị làm não lộng không? Nếu có là do chủ nhà quá hời hợt. Đã là chủ, cái gì chân chánh
đứng đắn thì cho vào, còn đồ yêu ma bất chánh không cho vào; không cho vào thì đâu có
loạn! Vậy mà ai cũng rộng rãi hời hợt, mở cửa thoải mái cho yêu ma vào làm loạn trong
nhà, rồi kêu trời, than: Tôi khổ quá! Trời nào tới cứu được cái khổ này? Chúng ta phải
biết rõ niệm nghĩ bàn chợt hiện chợt mất nó làm mất bản chất Thiền của mình. Yêu ma
làm mất bản chất Thiền tại sao không đuổi ra lại nuôi dưỡng trong nhà, làm cho mình
điên đảo? Tất cả chúng ta hiện giờ điên đảo cũng vì yêu ma đó. Tu rất đơn giản, chúng ta
chỉ làm một việc là đừng để những ý niệm chợt khởi chợt mất làm loạn động tâm, luôn
luôn phải giữ cho bản thể thanh tịnh sáng suốt hằng hiện nơi mình, thì không bao giờ yêu
ma có thể đột nhập, làm não loạn mình được. Đó là Thượng Sĩ dạy cho chúng ta thấy rõ
cách tu.

“Muốn tìm tâm, đừng tìm ngoài, bản thể như nhiên tự rỗng lặng.” Muốn tìm tâm
thể chân thật đừng tìm đâu hết, nó là bản thể tự rỗng lặng như nhiên có sẵn nơi mình, chớ
không có ở bên ngoài.

“Niết-bàn sanh tử buộc ràng suông.” Niết-bàn là vô sanh; vô sanh và sanh tử hai
cái buộc ràng suông. Niết-bàn và sanh tử buộc ràng như thế nào là buộc ràng suông? -
Khi chúng ta mới vào đạo, được quí thầy dạy “sanh tử là việc lớn, vô thường nhanh
chóng” để nhắc chúng ta nỗ lực tu hành; muốn dứt sanh tử là phải dẹp sanh tử để đạt
Niết-bàn. Một bên sanh tử là khổ, một bên Niết-bàn là vui. Có ai tu mà chẳng sợ sanh tử
khổ, thích Niết-bàn vui không? Vì sợ khổ cầu vui nên cố gắng tu, mong thoát khỏi sanh
tử, để được cái vui Niết-bàn. Đó là một lẽ thật mà người tu nào cũng đang mơ ước.
Nhưng tại sao ở đây Thượng Sĩ nói Niết-bàn sanh tử buộc ràng suông? Sanh tử từ đâu có?
Có phải từ tâm mê lầm sanh diệt mà ra không? - Song, tâm mê lầm sanh diệt không thật.
Cái nhân sanh diệt không thật thì cái quả sanh tử cũng không thật. Chúng ta đang ngồi
đây là thật hay giả? - Ai cũng nói thật một trăm phần trăm. Nếu không thật thì sao có
mình sống, mình đi, mình ăn, mình uống...? Tuy hiện giờ chúng ta có sống, nhưng sống
trong mê lầm, giống như kẻ ngủ mộng.

Trong giấc mộng có người làm việc tốt, có người làm việc xấu, việc tốt việc xấu
cũng đều là mộng. Còn đang ở trong mộng thì việc tốt ra việc tốt, việc xấu ra việc xấu,
đang mộng thì thấy thật, ai nói giả là không chịu. Nhưng khi thức rồi mới biết là mộng
không thật. Lúc ngủ mê giấc mộng dài nhất chừng nửa giờ, còn ngắn thì mười phút năm
phút. Giấc mộng dài nửa giờ sánh với cuộc sống bảy tám mươi năm, chúng ta nói là thật.
Nhưng nếu sánh với cuộc sống trên những tầng trời dục giới thời gian một ngày một đêm
bằng năm trăm năm ở cõi người thì, các vị tiên thấy cuộc sống con người như giấc mộng
thôi. Còn nếu sánh với những tầng trời sắc và vô sắc dài gấp ba gấp bảy lần thì thấy kiếp
người rõ là giấc mộng, thế mà loài người chúng ta đâu chịu là mộng. Cũng giống như con
phù du, hay gần nhất là con chó, kiếp sống con chó khoảng mười năm khá ngắn ngủi đối
với kiếp người. Nhưng nó thấy dài, vì cũng sanh ra, cũng trưởng thành, rồi già chết. Có
đủ tướng trạng của một kiếp sống như con người. Như vậy, tùy theo nghiệp của mỗi
chủng loại chúng sanh mà có cái nhìn khác nhau. Chư thiên nhìn kiếp sống con người
thấy ngắn như giấc mộng, loài người nhìn thấy kiếp sống của con phù du ngắn như giấc
mộng, mới thấy đó liền mất đó, không mộng là gì? Vậy, cuộc sống ngắn so với cuộc sống
dài thì cuộc sống dài là thật, cuộc sống ngắn là mộng. Và nếu sánh với các cõi trời thì
chúng ta ở cõi này cũng là mộng. Đã là mộng thì sanh tử có thật đâu? Sanh tử đã không
thật thì dứt sanh tử (Niết-bàn) cũng không thật. Vậy, sanh tử, Niết-bàn chỉ là những từ
ngữ, những khái niệm mà con người sợ và thích chớ không có thật thể.

“Phiền não Bồ-đề đối địch rỗng.” Tu cốt yếu là dứt phiền não để được Bồ-đề.
Song, đa số chúng ta đều sống với tướng sanh diệt nên mới thấy có phiền não có Bồ-đề
đối đãi nhau, nếu tướng sanh diệt không còn thì phiền não Bồ-đề chỉ đối địch rỗng mà
thôi. Phiền não Bồ-đề chỉ là những tướng rỗng thì, những chuyện được mất phải quấy tốt
xấu... càng rỗng hơn. Vậy mà cả ngày chúng ta cứ bàn những chuyện rỗng như thế thì
chúng ta đang sống trong thế giới rỗng. Nếu biết tu mới thấy những thứ mà thiên hạ gọi
là phiền não và cái gọi là Bồ-đề cũng không thật, chỉ là những danh từ rỗng. Vì mê chấp
nên thấy cái gì cũng thật, thấy mình thật, người thật, phiền não thật, Bồ-đề thật... Hết mê
chấp thì phiền não Bồ-đề như hoa đốm không thật. Giả sử bây giờ có người nhìn miệt
khinh, nói lời sỉ vả quí vị, quí vị có phiền não không? Nếu có phiền não, thì tôi xin hỏi tại
sao lúc họ chưa nhìn chưa nói, quí vị không phiền não, đợi họ nhìn họ nói mới phiền não?
Vậy phiền não đâu có thật. Nếu phiền não thật thì đã có tự bao giờ, đâu đợi ánh mắt
khinh khi câu nói nặng nề phiền não mới khởi lên! Phiền não không thật mà cứ chấp; nhớ
ông A khinh tôi, ông B nói nặng tôi, ông C ăn hiếp tôi... cứ nhớ những chuyện không đâu,
nên phiền não hoài. Ông A ổng ngó ngay thì con mắt ổng tốt, ổng ngó xéo thì mắt ổng lé,
có liên hệ gì tới mình mà phiền não? Những gì người ta làm là người ta chịu, mình không
dính dáng gì cả. Thế mà cứ ôm ấp những chuyện của người, rồi ôn tới ôn lui nên mới khổ,
sống không an ổn rồi than trời trách đất. Quí vị xét kỹ xem cái khổ đó phát nguồn từ chỗ
nào? Có phải từ chỗ chạy theo niệm sanh diệt không? Do khổ nên sanh bệnh, bệnh hoài
thì chết yểu. Nếu chết mà còn ôm giận hờn thì khổ mãi từ kiếp này sang kiếp kia, khổ
không cùng.

Nếu chúng ta thản nhiên nghe lời nói của người thấy như gió thổi ngang tai thì đâu
có phiền não. Giả sử có người gọi mình là con chó; mình là người bình thường mà họ nói
mình là con chó, như vậy họ đã mất bình thường rồi, nên thấy không đúng sự thật, giận
họ làm chi? Nếu giận họ mình cũng thành người mất bình thường như họ. Vậy là mọi
người cùng sống trong điên loạn như nhau, có ai tỉnh đâu? Xét kỹ thì chúng ta là những
người điên loạn đáng thương. Người này muốn cho người kia điên, chỉ cần chỉ vào mặt
nói “anh là thằng ngu”. Nghe xong là chúng ta phát điên lên liền, lòng bực tức, miệng nói
lảm nhảm, tay chân múa may... Cho nên mọi điên loạn gốc từ mê lầm mà ra. Vì vậy,
chúng ta phải biết sống, trước mọi thử thách thuận hoặc nghịch tâm tỉnh sáng bình thản,
thì không cái gì làm cho mình bất an được. Đó mới là hạng người khôn thứ thiệt. Chớ còn
bị người xúi giục hay gài bẫy đánh lừa, chúng ta vui theo người, buồn theo người là
chúng ta sống trong quyền sai sử của người khác. Đó là nỗi đau khổ mà lâu nay chúng ta
mắc phải. Qua những sự việc vừa nêu cho chúng ta thấy phiền não không thật. Phiền não
đã không thật thì Bồ-đề đối với phiền não có thật đâu, chỉ là những danh từ đối đãi suông.

“Tâm tức Phật, Phật tức tâm, diệu chỉ sáng ngời suốt cổ kim.” Diệu chỉ sáng ngời
đó là tâm tức Phật hay Phật tức tâm. Nếu nhận ra tâm tức Phật hay Phật tức tâm là chúng
ta đã nắm được diệu chỉ sáng ngời từ xưa tới nay không đổi dời sai chạy.

“Xuân đến, tự nhiên hoa xuân nở, thu về, hiện rõ nước thu sâu.” Muôn sự muôn
vật tùy theo thời tiết chuyển biến đổi thay, mùa xuân đến thì hoa nở, mùa thu sang thì
nước trong. Nước trong hoa nở tùy theo thời tiết nhân duyên, mọi cái nó đã sẵn vậy,
không do tâm người nghĩ tưởng mới có, mà đúng thời tiết đủ nhân duyên thì mọi cái nó
có.

Nơi mỗi người chúng ta ai sanh thân cũng muốn trẻ trung, sống mãi. Nhưng đến
lúc nào đó, đầu bạc răng rụng, lúc đó muốn trẻ trung cũng không được, muốn sống mãi
cũng không xong, phải đi đến chỗ bại hoại. Vậy, chúng ta biết rõ vô thường luôn luôn chi
phối kiếp người, không ai tránh khỏi thì, chúng ta có mừng khi sanh và có buồn khi già
chết không? Nếu mừng khi sanh thì buồn khi già chết. Biết rõ muôn vật tùy duyên
chuyển biến, khi duyên hợp cũng cười, khi duyên tan cũng vui; ngoại cảnh đổi thay mình
không chao đảo khổ sở, đó là biết sống với đạo. Hồi còn nhỏ mình vui với tuổi trẻ thơ,
lớn lên vui với tuổi thiếu niên, trung niên thì vui với tuổi trung niên, già rồi thì vui với
tuổi già và chết đi thì vui nhất. Ví dụ ở thế gian này có xứ nào mà mình chưa biết, bây
giờ có ai nói chỗ đó anh chưa biết, tôi sẽ tạo điều kiện anh đến cho biết, anh có thích
không? Lâu nay chúng ta sống mà chưa biết chết ra sao, bây giờ chết để biết là toại ý là
vui chớ gì? Vậy, kiếp sống hiện tại năm bảy mươi năm, cũ quá, quen quá rồi; bây giờ đi
tới chỗ mới thì vui có gì đâu mà buồn. Vậy thì mai mốt sửa soạn tắt thở ra đi, quí vị vui
cười nghe, vì bắt đầu một chuyến du lịch vào cõi mới lạ. Nếu hối tiếc cái cũ thì ra đi
không vui sướng đâu!

Vậy, cuộc sống nếu chúng ta biết tùy duyên thì cuộc sống vui, không chướng ngại
không khổ. Ví dụ chúng ta đang nói chuyện, hồi lâu khô cổ, cần uống nước, mọi người có
mặt ở đây được mời mỗi người một ly nước cam, còn mình thì được mời một ly nước lã.
Chúng ta vì nhu cầu khát nước uống ngon lành, không thắc mắc gì cả. Nhưng nếu so sánh
ly nước cam ngon hơn ly nước lã thì buồn uống không ngon. Biết tùy duyên thì duyên gì
đến mình cũng hoan hỉ, nếu không tùy duyên khởi niệm so bì hơn thua thì buồn khổ.
Sống như thế là tu nhiều rồi đó. Đừng tưởng tụng kinh nhiều ngồi thiền giỏi, làm việc gì
cũng ưu hết mới là tu hay. Trong những hạnh nhỏ hằng ngày chúng ta biết tùy duyên
không tạo nghiệp có lúc nào không vui, không tự tại? Đó mới là đạo. Còn nếu mong ngồi
thiền cho có hào quang, không được hào quang thì buồn tự than tu mấy mươi năm mà
không có kết quả. Tu như thế thì khổ vì muốn mà không được. Chúng ta biết tùy duyên
thấy rõ lẽ thật, không mong cầu, không sợ chê, thích khen, lòng không dính mắc với mọi
việc bên ngoài, như thế mới thật tu. Còn nếu mình tu hay mà bị chê tu dở thì buồn, như
thế là mình đã chứng minh mình tu dở. Nếu mình tu hay, mà bị chê, hay được khen, vẫn
dửng dưng không buồn không vui, như thế mới hay thật. Quí vị chớ để vấp cái dở này.

“Bỏ vọng tâm, giữ chân tánh, như người tìm bóng mà quên kính.” Chỗ này đa số
chúng ta tu đều hiểu lầm và mắc kẹt. Quí vị tu có bỏ vọng tâm giữ chân tánh không? Tôi
có dạy quí vị tu như thế không? Pháp tu tri vọng là thấy vọng tưởng khởi không theo,
vọng tưởng tự lặng. Vọng tưởng lặng thì chân tánh hiện tiền. Đâu có bỏ đâu có giữ.
Chúng ta có cái bệnh hay kềm giữ. Chân tánh là cái hiện tại đang thấy đang nghe, đang
có cảm giác, đang biết vọng tưởng khởi và đang biết không có vọng tưởng khởi. Thể sáng
suốt hiển hiện linh hoạt như vậy giữ cái gì? Chân tánh chính là mình, mình là chân tánh.
Nếu giữ thì mình là người hay giữ, chân tánh là cái bị giữ đối đãi nhau. Vọng tưởng khởi,
biết là vọng tưởng, không theo, vọng tưởng tự lặng, chính đó là chân tánh. Vọng tưởng
đâu rời chân tánh, nếu bỏ vọng tưởng giữ chân tánh chẳng khác nào tìm bóng mà quên
kính.

Chỗ này tôi e một số người hiểu lầm tu sai. Quí vị hiện có mặt đây có ai hiểu lầm
tu sai không? Chắc là có! Thấy vọng tưởng là thứ quấy nhiễu làm cho mình khổ đau, cần
phải bỏ, ráng giữ chân tánh của mình để được yên. Vọng tưởng và chân tánh không phải
hai, bỏ một giữ một sao được? Tôi thường dụ vọng tưởng là sóng, chân tánh là mặt biển.
Sóng và mặt biển là một hay hai? Nói một cũng không được, nói hai cũng không được,
vì rời mặt biển không có sóng. Sóng không dấy động thì toàn là mặt biển lặng yên, chớ
không phải đùa sóng đi chỗ khác bỏ, giữ lại mặt biển yên lặng. Việc này có thể làm được
không? Đâu hôm nào quí vị xuống biển tắm, hễ có lượn sóng nào nổi lên đùa đến chỗ
khác bỏ, để giữ cho mặt biển phẳng lặng, xem coi kết quả ra sao? Chắc chắn là làm
không được. Sóng từ mặt biển nổi lên, rồi sóng lặng về mặt biển; không bỏ không giữ.
Bỏ và giữ là hai mà sóng và mặt biển không hai thì bỏ giữ sao được? Vậy nên chúng ta
phải nhìn cho thật kỹ thấy cho thật đúng thì sự tu của chúng ta mới không chướng ngại.
Nếu bỏ vọng tâm giữ chân tánh đó là người ngu, “đâu biết bóng có từ nơi gương, chẳng
rõ vọng từ trong chân hiện”. Đâu có ai nghĩ rằng bóng mà chúng ta thấy đó là từ nơi
gương hiện ra. Cũng vậy, vọng tưởng khởi lên là khởi từ chân tánh, cũng như sóng khởi
từ mặt biển; rời mặt biển làm gì có sóng, rời chân tâm làm gì có vọng tưởng? Vậy, vọng
tưởng đáng sợ hay không đáng sợ? Nếu không đáng sợ thì cứ để nó khởi liên tục phải
không? Đây là điều quan trọng, mọi người tu phải biết cho thật kỹ. Vọng tưởng là niệm
hư dối không đáng sợ, nhưng đừng theo. Nghe nói đừng theo nhẹ quá! Dễ quá! Tuy vọng
tưởng không đáng sợ, nhưng nếu theo thì nguy. Vì vậy không sợ mà cũng không theo,
nhớ kỹ là chỉ làm chừng đó thôi, không thêm mà cũng không bớt.

“Vọng đến không thật cũng không hư, gương nhận không cong cũng không thẳng.”
Vọng tưởng dấy khởi không phải thật không phải hư, vì nó không có cái gì để xác chứng
là thật hay hư, chẳng qua nó chỉ là một chuyển hóa tạm bợ. Nếu là thật thì phải hằng hữu,
không mất, mà vọng tưởng như bóng như mây, có đó rồi mất đó. Đây dụ tâm thể thanh
tịnh sáng suốt là cái gương không cong không thẳng, vọng tưởng là bóng hiện trong
gương thì thấy có cong có thẳng. Cũng vậy, chúng ta tu tuy vọng tưởng có dấy lên, biết
rõ nó không theo, hằng sống với tâm hiện hữu nơi mình, không chạy theo nó thì nó có
thật có hư gì đâu? Thể nó là an nhiên tự tại, sẵn vậy mà!

“Cũng không tội, cũng không phước, lầm sánh ma-ni cùng bạch ngọc.” Thượng Sĩ
nói không tội không phước, vậy tu tha hồ muốn làm gì làm sao? Ngài nói không tội
không phước là đứng trên tâm thể chân thật thanh tịnh mà nói. Nếu dấy niệm chạy theo
duyên theo cảnh tạo nghiệp thì có tội có phước rõ ràng. Tạo nghiệp thiện thì gọi đó là
phước, tạo nghiệp ác gọi đó là tội. Nếu tâm thể tỉnh sáng thanh tịnh không tạo nghiệp thì
nói gì tội phước? Ngài nói người đời nhận lầm; bạch ngọc là loại ngọc trai thường đem
sánh với ngọc ma-ni là loại bảo châu rất quí. Tội phước là tướng đối đãi tầm thường,
chân tánh không hình tướng vượt trên tướng đối đãi tội phước. Chân tánh dụ như hạt
châu như ý không có vật gì sánh được.

“Ngọc có vết chừ châu có tỳ, tánh vốn không hồng cũng không lục.” Tuy ngọc
ma-ni quí hơn bạch ngọc, nhưng nó vẫn là vật có hình tướng, có loại tướng tròn, có loại
tướng dẹp, có loại tướng vuông thành ra nó có tỳ có vết, nhưng thể của nó trong suốt, tùy
để vật màu hồng thì thấy ngọc màu hồng, để vật màu lục thì thấy ngọc màu lục... Đó là
màu của vật bên ngoài chiếu rọi, chớ không phải màu của hòn ngọc. Cũng vậy, tâm chân
thật thanh tịnh sáng suốt của chúng ta không có tội không có phước. Nhưng vì chúng ta
mê khởi niệm tạo nghiệp nên thấy có tội có phước, có khổ có vui, thực tế thì tâm chân
thật không có tất cả thứ ấy.

“Cũng không được, cũng không mất, bảy lần bảy là bốn mươi chín.” Tại sao
Thượng Sĩ đưa cửu chương vào đây? Ở đời cái gì đến với mình trong vui vẻ thì nói là
được, cái gì rời bỏ mình thì gọi là mất. Cái được cái mất là cái bên ngoài, nó không thật
mà chúng ta tưởng là thật, nên được thì vui, mất thì khổ. Vì vậy mà sống trong lo âu sợ
sệt. Nếu không còn thấy được, không còn thấy mất thì bảy lần bảy là bốn mươi chín.
Nghĩa là cái lẽ thật là như vậy, cũng như một với một là hai, hay đen là đen trắng là trắng
vậy. Người không bị được mất chi phối thì người đó sống trong lẽ chân thật, không còn
gì lay chuyển lôi kéo cuốn hút họ được.

“Tam độc cửu tình nhật trong không, lục độ vạn hạnh sóng trên biển.” Tam độc là
tham sân si, cửu tình là chín loài hữu tình. Đối với Thượng Sĩ thì tham, sân, si và chín
loài chúng sanh hữu tình hư dối không thật không làm ngăn ngại che mờ Ngài được.
Giống như mặt trời trong hư không tỏa ánh sáng khắp bầu trời không gì che đậy được. Sở
dĩ chúng ta thấy có ngăn che là vì chúng ta nhìn qua lớp mây nên không thấy mặt trời, nói
là che đậy, chớ có gì che đậy được mặt trời? Lục độ là bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục,
thiền định, trí tuệ. Vạn hạnh là hàng ngàn hạnh lành mà người tu ai cũng muốn thực hành
cho đầy đủ. Nhưng dưới mắt Thượng Sĩ thì lục độ vạn hạnh chỉ là sóng nổi trên mặt biển.
Tại sao? Đa số người tu chúng ta ai cũng cho rằng bố thí, trì giới, tinh tấn... là nền tảng
căn bản tu hành. Nhưng xét kỹ thì những hạnh đó là những phương pháp dụng công tu;
phương pháp dụng công tu thì có khởi có diệt, đó chỉ là tướng của dụng thôi. Cho nên lục
độ vạn hạnh chỉ là cái dụng trên bản thể, giống như sóng trên mặt biển. Vậy, dưới mắt
Thượng Sĩ xấu như tam độc, tốt như lục độ vạn hạnh, đều là tướng sanh diệt như sóng
trên mặt biển mà thôi. Nói như vậy là không tu sao? Trên Thể chân thật thì không có tu.
Xưa có vị quan họ Mã đến hỏi Thiền sư Triệu Châu:
- Hòa thượng có tu hành chăng?
Sư đáp:
- Lão tăng nếu tu hành là việc họa.
- Hòa thượng đã chẳng tu hành thì dạy người nào tu hành?
- Đại phu là người tu hành.
- Con sao bảo là tu hành?
- Nếu không tu hành thì đâu được đánh đập người, ở trong địa vị nhân vương đói
có cơm, lạnh có áo, không biết ngày ra khỏi.

Sao lạ vậy? Ngài khuyên người tu mà Ngài không tu, có mâu thuẫn không? Vì
chúng ta đang sống trong sanh diệt nên phải tu, có sợ tội mới không tạo nghiệp ác, mà tạo
nghiệp thiện để có phước, phải bỏ tham sân si, thực hành lục độ vạn hạnh... Nếu chúng ta
sống được với tâm thể bất sanh bất diệt thì tất cả chuyện hơn thua phải quấy, thấy như trò
huyễn thuật thì đâu cần tu, nếu khởi tu là khởi động niệm sanh diệt rồi! Ngài Triệu Châu
hằng sống được với tâm thể nhất như, việc tốt đến không mừng, việc xấu đến không buồn
lo, không động niệm, nếu Ngài tu là phải dụng công, dụng công tu là động niệm, nên
Ngài nói tu là họa. Đối với Ngài là như thế, còn chúng ta thì phải tu, bắt chước Ngài
không tu cũng là họa.

“Lặng, lặng, lặng, chìm, chìm, chìm, cái tâm muôn pháp là tâm Phật. Tâm Phật lại
cùng tâm ta hợp, lẽ ấy như nhiên suốt cổ kim.” Tất cả vọng tưởng vui buồn, thương ghét...
đang sôi nổi bồng bột cho lặng xuống hết, không phải lặng một lần, mà phải thường
xuyên lặng, lặng, lặng và phải cho nó chìm sâu, cho nó ngủ yên. Ngủ bằng cách nào? Có
phải ngủ gục không? Ngài Ngưỡng Sơn tới hỏi Thiền sư Trung Ấp:
- Làm sao thấy được nghĩa Phật tánh?
- Ta vì ông nói một ví dụ: “Như một nhà có sáu cửa, trong có một con khỉ, ngoài
có một con khỉ từ bên đông kêu ‘chóe! chóe!’. Bên trong cũng kêu ‘chóe! chóe!’ đáp lại,
sáu cửa đều kêu, đều đáp như thế.
Ngưỡng Sơn lễ tạ thưa:
- Vừa rồi nhờ Hòa thượng ví dụ, con đều biết rõ, lại có một việc: Ví như con khỉ ở
trong ngủ, con khỉ ở ngoài muốn gặp phải làm sao?
Thiền sư Trung Ấp bước xuống giường thiền, nắm tay Ngưỡng Sơn múa, nói:
- Chóe! Chóe! Cùng ông thấy nhau rồi!”

Khỉ ở ngoài dụ cho sáu trần. Khỉ ở trong nhà dụ cho tâm sanh diệt. Bên ngoài vừa
có sắc thanh... thì tâm sanh diệt liền dấy lên chạy theo, phản ứng liền liền. Đó là con khỉ
trong nhà đang thức nên kêu chóe chóe. Nếu con khỉ trong nhà ngủ sâu, khỉ ở ngoài nó
kêu mặc nó, không đáp lại, cứ nằm ngủ. Cũng vậy, khi tâm sanh diệt lặng rồi, dù có đối
trước bao nhiêu ngoại trần, tâm vẫn thấy biết tường tận mà không dính mắc. Muốn được
như vậy là phải “lặng, lặng, lặng, chìm, chìm, chìm”. Hiện tại chúng ta ngồi thiền là để
chi? Để cho vọng tưởng lặng chìm, ấy thế mà thân ngồi yên đó, ngoại trần không làm
động, nhưng ở trong tự nó cứ giãy giụa chạy nhảy lung tung, vẫn chưa chịu lặng chìm.
Vậy, mỗi lần lên bồ đoàn ngồi tréo chân, phải tự nhắc mình ba lần: Lặng, lặng, lặng.
Ngồi một hồi phải nhắc tiếp: Chìm, chìm, chìm. Lặng chìm mà phải sáng, biết, chớ không
được tối, không hôn trầm thùy miên chẳng biết gì. Đây Thượng Sĩ nói “cái tâm muôn
pháp là tâm Phật”. Nghĩa là tâm chạy theo muôn pháp lặng chìm, tức là tâm Phật nơi
mình, đó là lẽ thật từ xưa đến nay vốn là như vậy, nên nói “lẽ ấy như nhiên suốt cổ kim”.

“Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền, trong lò lửa rực, một hoa sen.” Nếu chúng ta sống
được với tâm Phật rồi thì đi là thiền, ngồi là thiền, nằm cũng thiền, tất cả mọi oai nghi
đều là thiền. Bởi lúc nào cũng ở trong thiền định nên tâm thể an nhiên không sanh không
diệt hiển hiện tròn sáng. Tâm thể hiện ngay nơi thân năm uẩn đang bị lửa vô thường thiêu
đốt này đây. Thân năm uẩn bị lửa vô thường thiêu đốt, tâm thể an nhiên thanh tịnh không
bị thiêu đốt, vẫn an nhiên tươi mát, nên nói “trong lò lửa rực, một hoa sen.” Lửa vô
thường đang cháy rực trong lò năm uẩn, vậy mà tâm thể không cháy vẫn tươi mát như
hoa sen. Đó là người đang sống trong sanh tử mà đã giải thoát sanh tử.

“Ý khí mất thì thêm ý khí, được nơi an tiện hãy an tiện.” Chúng ta tu, nếu thấy
mình lười mỏi thì phải phấn phát chấn chỉnh lên, đừng để chìm trong yếu đuối, thoái lui.
Chúng ta tu có lúc thì hăng hái phấn chấn lắm, có khi dã dượi lười mỏi, lúc đó là lúc ý chí
cùn lụt, cần phải phấn phát tăng thêm bằng cách đọc lại hành trạng của các Thiền sư,
nghe lại các bài giảng cho ý chí phấn phát mới có sức mạnh vươn lên. Chớ còn lười mỏi
mà buông xuôi nằm ì ngủ là không được, như thế sẽ đi tới chỗ chết chìm thoái bộ. Và,
nếu “được nơi an tiện hãy an tiện” tức là được chỗ đủ phương tiện thì an trụ trong chỗ
phương tiện an ổn đó, đừng đang có cái này đòi cái khác. Người đời hay có bệnh đứng
núi này trông núi nọ, không bằng lòng cái gì cả bởi tham muốn không dừng. Vì vậy mà
cả đời lao xao lộn xộn bất an, kiếp người có mấy mươi năm, cứ chạy hoài bao giờ mới
đạt đạo? Thế nên phải biết tùy nghi với hoàn cảnh hiện có để tu, để tiến đạo. Thượng Sĩ
nhắc nhở người tu khi cảm thấy mình mệt mỏi yếu đuối phải phấn phát tăng trưởng ý chí.
Và, gặp được cảnh an ổn thuận hợp thì ngay đó mà sống, chớ không tránh né, hoặc đòi
hỏi cảnh tốt hơn.

“Chao! Chao! Chao! Ối! Ối! Ối! Bọt trong biển cả nổi chìm rỗng.” Kiếp sống của
con người giống như hòn bọt trong biển vậy. Sóng dồn qua bọt nổi lên, sóng dập lại bọt
tan đi, cứ như thế mà nổi mà tan, bao nhiêu lần sanh tử nổi chìm không cùng. Thượng Sĩ
thương cho thân phận mỏng manh của kiếp người đang nổi chìm trong biển khổ, giống
như hòn bọt nổi tan trong chốc lát. Thế mà chúng ta bám chặt, thật là đáng thương và
cũng đáng sợ, nên Ngài có lời than Chao! Chao! Chao! Ối! Ối! Ối!

“Các hạnh vô thường tất cả không, linh cốt Tiên sư chỗ nào thấy?” Nếu chúng ta
cứ bám víu vào cái giả dối tạm bợ, mải chấp nhận sanh tử nổi chìm như bọt biển thì
chừng nào thoát khỏi cảnh vô thường? - Tất cả hành đều là vô thường, có rồi trở thành
không thì cái chân thật đó ở ngay nơi mình chừng nào mới nhận ra được? Câu “linh cốt
Tiên sư chỗ nào thấy” xuất xứ từ câu chuyện Thiền sư Đạo Ngô và đệ tử là Tiệm Nguyên
hai thầy trò đi đám tang một người Phật tử. Đứng tụng kinh gần quan tài, tụng xong,
Tiệm Nguyên vỗ quan tài hỏi thầy:
- Sanh ư? Tử ư?
Đạo Ngô nói:
- Sanh cũng chẳng nói, tử cũng chẳng nói.
- Tại sao chẳng nói?
- Chẳng nói, chẳng nói.
Khi về, ra khỏi nhà Phật tử, Tiệm Nguyên nhắc lại:
- Thầy nói cho con cái câu khi nãy, nếu Thầy không nói con đánh Thầy.
- Đánh mặc đánh, nói thì không nói.
Đi nửa đường Tiệm Nguyên lại nói với Đạo Ngô:
- Thầy phải nói, nếu không nói con đánh Thầy.
- Đánh mặc đánh, nói không nói.
Tiệm Nguyên thoi vào hông Đạo Ngô một thoi. Đi một đoạn đường, Đạo Ngô bảo
Tiệm Nguyên:
- Ông nên đi nơi khác, việc này nếu tới tai Tri sự thì ông ở không yên.
Tiệm Nguyên dọn tới chùa khác ở, một đêm nghe Phật tử ở trong chùa tụng kinh
tới câu “ưng hiện Tỳ-kheo thân đắc độ giả, tức hiện Tỳ-kheo thân nhi vị thuyết pháp”
Ngài bừng ngộ, rõ được ý “sanh cũng chẳng nói, tử cũng chẳng nói”.
Tiệm Nguyên trở về chùa cũ tìm thầy, nhưng Đạo Ngô đã tịch rồi. Bấy giờ ngài
Thạch Sương thay thế Đạo Ngô hoằng hóa. Tiệm Nguyên tìm tới Thạch Sương, hỏi lại
câu trước:
- Sanh ư? Tử ư?
Thạch Sương đáp:
- Chẳng nói! Chẳng nói!
- Tại sao chẳng nói?
- Chẳng nói! Chẳng nói!
Tiệm Nguyên ngộ sâu hơn nữa, Ngài bèn dừng lại đây. Một hôm ở trong pháp
đường Ngài dùng cái mai đi từ bên đông qua bên tây, từ bên tây qua bên đông. Thạch
Sương hỏi:
- Ông làm gì?
- Tôi tìm linh cốt của Tiên sư.
- Ta trong ấy nước dâng lênh láng, sóng dậy ngập trời, tìm cái gì là linh cốt của
Tiên sư?
- Nên khéo gắng sức!

Vậy là hai vị đã thông cảm nhau. Thạch Sương biết chỗ Tiệm Nguyên ngộ và
Tiệm Nguyên đã trình được sở ngộ của Ngài. Qua câu chuyện này, chúng ta thấy người
xưa có những cử chỉ thái độ dường như trái đạo. Nhưng sự thật thì hiểu nhau thông cảm
nhau giúp cho tiến tới chỗ giác ngộ, chớ không có ý xấu hại nhau.

“Tỉnh tỉnh thức, thức tỉnh tỉnh.” Thượng Sĩ lập tới lập lui từ “tỉnh”, “thức” nhằm
đánh mạnh vào tâm thức chúng ta, nhắc chúng ta luôn luôn phải thức tỉnh, chớ để mê lầm.
“Bốn góc đạp đất chớ chinh nghiêng.” Cái ghế có bốn chân, bốn chân đều sát đất thì ghế
vững khó ngã. Ghế có bốn chân nếu ba chân sát đất một chân hỏng đất thì ghế dễ ngã.
Ghế bốn chân hai chân sát đất, hai chân hỏng đất lại càng dễ ngã. Cũng vậy, chúng ta tu
luôn luôn phải sống với Thể chân thật không thiếu không lệch thì vững vàng không mê
lầm, không bị ngoại cảnh giả tạm chi phối làm cho lay động, chúng ta mới an ổn tự tại,
thế nên Thượng Sĩ nói “Người nào nơi đây tin được đến, trên đảnh Tỳ-lô cất bước đi.
Hét!” Những điều mà Thượng Sĩ nói từ trước tới đây ai mà tin rốt ráo thì bước đi trên
đảnh Tỳ-lô. Tỳ-lô là Phật Pháp thân. Bước đi trên đảnh Phật Pháp thân có tội không? Đa
số người đời đều nghĩ xâm phạm tới Phật là tội. Đó là đứng trên nghiệp tướng mà nói.

Còn Phật Pháp thân là cái Thể chân thật, nếu sống được với Thể chân thật an nhiên thì
mỗi bước mỗi bước đều đi trong thể Phật, chớ không có ở ngoài. Thơ của Phó Đại Sĩ có
câu “đêm đêm ôm Phật ngủ, ngày ngày cùng Phật đi”. Mình và Phật rất mật thiết không
rời nhau, đi cùng đi, ngủ cùng ngủ. Quí vị có dám xem thường mình không? Nơi mình có
Phật mà không chịu sống với Phật, cứ theo sống với ma, nên bị nó gạt gẫm làm lộng cả
ngày, điên đảo khổ đau không cùng. Thượng Sĩ nhắc chúng ta phải hằng sống với ông
Phật hằng tỉnh sáng nơi mình thì mới “trên đảnh Tỳ-lô cất bước đi” được.

Đó là Bài Ca Tâm Phật. Chỉ một bài ca này quí vị học thuộc rồi thực hành, sống
đúng như lời dạy của Thượng Sĩ, thì tôi cho quí vị ca trong lúc làm vườn làm công tác,
không ngăn cấm, không rầy. Mỗi người học hiểu nhắc tới nhắc lui cho nhớ, để ứng dụng
tu, chớ không phải ca suông. Những bài ca như thế này mới có diệu dụng làm cho người
ca luôn luôn tỉnh sáng.
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1742
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Chữ tâm

Gửi bài gửi bởi KMD »

Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1742
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Chữ tâm

Gửi bài gửi bởi KMD »

"Mẩu chuyện số 3"

Một người thợ mộc chặt một thân cây, làm thành ba chiếc thùng.
Một thùng đựng phân, gọi là thùng phân, mọi người đều xa lánh;
Một thùng đựng nước, gọi là thùng nước, mọi người đều dùng;
Một thùng đựng rượu, gọi là thùng rượu, mọi người đều thưởng thức!

Thùng là như nhau, bởi vì đựng đồ khác nhau mà vận mệnh khác nhau.

Bài học rút ra: Cuộc đời là như vậy, có quan niệm thế nào sẽ có cuộc đời như thế, có suy nghĩ thế nào sẽ có cuộc sống như thế!

(Trích từ 1 tờ báo)
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Phong tục - Tín ngưỡng”