Đoản luận tinh vị, ngũ hành, và khắc chế

Xem, hỏi đáp, luận giải về tử vi
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục dành cho việc xem lá số tử vi. Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức tử vi.
Không được đính kèm lá số của trang web khác. Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
kemomong
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1215
Tham gia: 06:54, 20/05/12

Đoản luận tinh vị, ngũ hành, và khắc chế

Gửi bài gửi bởi kemomong »

Bài viết này lấy cảm hứng và ví dụ từ các đoạn trích được phổ biến trên mạng của Đông A Di Sự. Do bản thân mình rất hứng thú với việc cử hiền triệt ác dựa theo tử vi nhưng lại không mang họ Trần, không được đọc Đông A Di Sự nên đành tự suy luận dựa vào những gì có sẵn để phát triển thêm về lý thuyết chế hóa theo Tử Vi. Trình độ có hạn, sách vở thiếu thốn, nên những suy luận trình bày dưới đây chỉ có tính chất tham khảo.

1. Chính tinh
Từ vị trí an sao ta có các mối liên hệ tương quan sau đây:
a. Lục hại: Nhật <-> Sát (hỏa khắc kim); Tử<->Cự (thổ khắc thủy)
b. Xung: Phá >< Tướng (đều là thủy), Phủ >< Sát (thủy sinh kim)
c. Nhị hợp: Lương-Liêm (hỏa sinh mộc); Vũ-Âm (kim sinh thủy); Nhật-Phủ (hỏa sinh thổ) ; Đồng-Tham (thủy-?)

Nhận xét:
- Người mệnh Thái Dương (sáng) có thể “trị” được người Thất Sát. Theo Tử Vi Đông A, người Thất Sát + Thiên Hình tính cô độc nên phải dùng đến người Thái Dương. Nhật hỏa trị Sát kim không phải đơn thuần vì hỏa chế được kim (đây chỉ là tiền đề theo ngũ hành) mà vì bản tính của Nhật là khoan dung, nhân ái, thân thiện - có thể hiểu đây là hỏa ở dụng chứ không phải ở thể, tức là “Nhân mộc + Lễ hỏa” - nên có thể gần gũi được Sát. Trong khi đó, những sao có tính chất tương đồng về mặt này như Thiên Đồng (vui vẻ, hòa nhã), Thiên Lương (trợ giúp, khuyên nhủ, thiện lương), Xương Khúc Đào Hồng (nhu mì, nhạy cảm, dễ tạo cảm tình) cũng được nhắc đến trong ĐADS là có công năng như Thái Dương trong việc chế hóa Thất Sát. Do đó phải nhìn phần dụng hoặc tính chất biểu lộ ra bên ngoài chứ không phải nhìn thấy Nhật hỏa thiêu đốt Sát kim mà lầm tưởng Nhật vì hung bạo hơn cả Sát mà chế được Sát. Tính chất dụng này của Nhật còn có thể giúp giải được tính cô khắc của Vũ, Cô Quả, Thiên Lương. Tuy nhiên Nhật không hẳn trị được Liêm Sát, Tử Sát nhưng có thể suy luận cũng “trị” được Vũ Sát (có lẽ nếu được Dương Lương thì lực hóa giải sẽ mạnh hơn).

- Người mệnh Cự môn (đắc/hãm) có thể “trị” được người mệnh Tử Vi. Tử Vi quang minh chính đại, Cự Môn thì đại biểu miệng lưỡi thị phi và ám khí. Cũng như lý thuyết về Thái Dương, Cự Môn áp chế TV không phải vì lý ngũ hành vì nếu xét ngũ hành thì Cự Môn phải thua vì thổ khắc thủy. Khi Cự Môn hãm thì cái dụng của nó sẽ khác khi đắc. Cự Môn hãm đã ám càng thêm ám, lời nói ra sẽ là gây mất đoàn kết nội bộ, hô hào tạo phản, v.v. Thêm XK thì chỉ càng làm lời nói có thêm mị lực. Cự Môn hãm đánh vào hình tượng, thanh danh của TV. Cự Môn đắc thì là khẩu tài, thêm XK thì lời nói sẽ có sức thuyết phục nhưng đối tượng bị thuyết phục lại chính là Tử Vi chứ không phải là lực lượng ủng hộ TV. Theo suy luận này, giám đốc mạng TV tránh xa hoàn toàn người có Cự hãm, và nên xem xét kỹ lưỡng lời khuyên của trợ lý có mệnh Cự đắc.

- Thiên bàn bố cục thế nào thì cặp Nhật-Sát và Cự-Tử vẫn cứ lục hại nên người có mạng là 1 trong 4 sao này tự biết kẻ thù tự nhiên của mình là ai và ai sẽ luôn thắng thế. Thế còn nếu mệnh là các sao khác thì sao? Vẫn theo lý lục hại là kẻ thù của ta chứ không phải đối cung - cung di (vì như bảng liệt kê ở trên về các vị trí vĩnh viễn xung chiếu thì các sao xung luôn đồng hành hoặc tương sinh tức là có lực tương hỗ). Do đó cứ nhìn vào vị trí lục hại với cung mệnh của mình, sao nào ở đó thì người có mạng mang sao đó chính là kẻ thù/đối thủ tự nhiên của ta. Mình không chắc nếu cung lục hại là cung VCD thì nên đoán thế nào. Thế làm thế nào để biết địch mạnh hay yếu hơn ta? Trước hết, xem trung tinh trong mệnh cung và cung lục hại cung nhị hợp với mệnh. Nếu không có cung có ưu thế vượt trội (nhiều hơn/đủ bộ hơn đối với các sao sau: Binh Hình Tướng Ấn, Mã Khốc, Hóa Quyền, Tả Hữu, Khôi Việt), thì xem cung nhị hợp vì theo bảng liệt kê trên về các sao vĩnh viễn nhị hợp, sao nhị hợp luôn tương sinh cho sao mệnh cho nên khái quat hóa thành nguyên lý khán cung nhị hợp). Ở trên có nhắc đến cung xung chiếu cũng là lực tương hỗ nhưng ở đây ta không xét đến nó như là yếu tố quyết định vì (1) nhớ rằng cung xung luôn nhị hợp với cung lục hại, (2) cung nhị hợp luôn luôn ở gần và ảnh hưởng cung mệnh hơn là cung xung (tính khoản cách theo số cung trên thiên bàn), do đó dùng cung nhị hợp hợp lý hơn.

- Trước đây có tranh cãi về việc liệu sao Tham Lang là hành mộc hay thủy. Theo quan sát về ngũ hành của sao vĩnh viễn nhị hợp với nhau ở trên, ngũ hành của 2 sao vĩnh viễn nhị hợp luôn tương sinh. Vì Thiên Đồng luôn nhị hợp với Tham Lang và đã được định ngũ hành là thủy, Tham Lang phải mang hành kim hoặc mộc. Loại bỏ kim vì trước giờ chưa nghe sách nào nói Tham hành Kim cả, do đó Tham phải mang hành mộc, đúng như trình an số của diễn đàn hiện nay.

- Theo thiển ý cá nhân, ngoài dựa vào chính tinh thủ cung lục hại để biết được đâu là kẻ thù tự nhiên theo ý trời, ta cũng có thể xem xét tính chất của chính tinh và phụ tinh trong cung mệnh để biết được đâu là yếu huyệt của mệnh, người mang chính phụ tinh nào có thể hại đến mệnh của ta. Không chỉ ở cung cố định, các sao ở cung đại vận cũng có thể được dùng để chọn người cộng sự và tránh kẻ tử thù. Với vấn đề này mình cũng có một số suy luận và phán đoán cụ thể nhưng hiện tại chỉ đang bàn về chính tinh nên có thể xong phần phụ tinh ta sẽ kết hợp lại để bàn chung. Thật ra mình vẫn đang xem xét có thể sẽ không bàn vấn đề này vi sẽ có người lợi dụng kiến thức TV làm điều xằng bậy. Thong thả xem xét vậy.
Đầu trang

kemomong
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1215
Tham gia: 06:54, 20/05/12

TL: Đoản luận tinh vị, ngũ hành, và khắc chế

Gửi bài gửi bởi kemomong »

2. Phụ tinh, hóa khí.
a. Theo Đông A Di Sự, có các cách chế hóa sát bại tinh như sau:
- Chế Không Kiếp: các sao vượng thủy như Đồng Âm cư Tý (không rõ là Thiên Đồng và Thái Âm tách biệt hoặc xung chiếu thì sao), Hóa Khoa, Khốc Hư, Xương Khúc. Các sao như Lộc Quyền, Tả Hữu, Mã Khách cũng góp lực cho các tinh đẩu trên chế giải KK. Các thế tương tác như sau được nói rõ là chế được: mệnh ở Hợi bại cục tức giáp Không Kiếp mà cung Tý giáp có Đồng Âm; vận Không Kiếp gặp Khoa/Đồng Âm tại vận cung hoặc nhờ sự giúp đỡ của người mệnh có Khoa/Đồng Âm. Nói chung là cần có chế giải tại tam hợp mệnh hoặc giáp mệnh, tại hạn, và tại mệnh của người được nhờ vả để giúp giải họa.
- Chế Tang Môn (đại biểu sự chết chóc, thương tật): Thái Dương miếu + Thiên Hình đắc
- Chế Tham Đào Hồng Hình (họa tới thân xác vì sắc tình): dùng Hóa Quyền để chế sắc dục tinh và Không Vong để giải Thiên Hình ().

Nhận xét: có thể thấy ngũ hành tương tác có vai trò quan trọng trong việc hóa giải sát bại tinh. Nhưng tại sao khi chế hỏa sát tinh KK thì dùng thủy tính tinh đẩu (thủy khắc hỏa) còn khi chế mộc bại tinh Tang Môn thì lại dùng hỏa tính tinh đẩu (hỏa làm mộc sinh tiết)? Vì chỉ có vài ví dụ ít oi nên quả thực khó có thể tìm ra nguyên lý cơ bản trong chế giải sát bại tinh.

Về cách giải họa Tham Đào Hồng Hình, Đông A Di Sự không giải thích rõ nguyên lý đằng sau nhưng bản thân mình suy đoán họa sắc tình là do thiếu lòng tự chế, cần có quyền; họa thân xác, luật pháp thì dùng Không Vong vì Không Vong tức là không có nhục thể nên thoát được họa tới thân, lại cũng có nghĩa bao dung vô lượng trong Phật Giáo nên giải được tội lỗi

Cách đây mấy hôm mình tình cờ đọc được bài Tuần Triệt Tác Âm Dương của tác giả minhgiac bên Tuvilyso, thấy tác giả đề xuất Hình, Tướng, Ấn, và Bạch Hổ có thể chế áp Không Kiếp dựa trên ý nghĩa quyền uy của các sao này. Tuy nhiên sau khi nghiên cứu các VD trong Đông A Di Sự, mình lại không đồng ý lắm với tác giả minhgiac về đề xuất này bởi vì: (1) xét ngũ hành, Hình tính cô, táo, hỏa nên tương hỗ KK, Tướng tính mộc nên sinh xuất cho KK, Hổ tính kim nên bị KK khắc chế, chỉ còn Ấn tính thổ có thể làm KK sinh xuất; không có sao nào có tính thủy để áp chế hỏa tính bạo liệt của KK; (2) minhgiac nêu các sao này vì chúng có tính quyền nhưng theo Đông A Di Sự muốn giải họa KK phải dùng đến phúc thiện tinh (tính thủy) làm lực lượng nòng cốt; Khốc Hư như gợi ý trong Đông A Di Sự không phản ánh tính quyền trực tiếp mặc dù có câu phú “Khốc Quyền đồng cung, minh danh vũ thế”; có lẽ Khốc Hư, vốn đại diện cho nước mắt, cũng mang ý nghĩa là nguồn cung cấp cho thủy để chế KK.

- Từ các lý luận trên, ta có thể suy rộng ra các phương pháp để đối phó với các sát bại tinh khác trong tử vi:
+ Chế Kình Dương (tính kim; đại diện bệnh tật, tính ưa hơn thua sát phạt, hình thương) thì dùng phúc thiện tinh hành hỏa như Khôi Việt, Thiên Hỷ, Thiên Nguyệt Đức, Thiên Giải
+ Chế Đà La (tính kim, ám, nham hiểm, không lường trước được) thì dùng các tinh đẩu hành hỏa có tính chất chiếu xạ, quang minh (Thái Dương, dùng Khôi nhưng không dùng Việt, Thiên Quan; Tam Minh)
+ Chế Linh, Hỏa (tính hỏa, minh/ám, khổ não, đoản thọ) thì dùng phúc thọ tinh hành thủy (Đồng, Âm, Tham Lang, Khoa, Thiên Y) nhưng phải tránh Khốc Hư vì 2 sao này đều có tính đau buồn, có thể cân nhắc phúc tinh hành thổ như Lộc Tồn, Thiên Phúc.
+ Chế Song Hao (tính hỏa, chỉ sự thua thiệt, ra vào, mất mát) thì cách 1 là dùng thủy tinh có tính lưu động, luân chuyển tiền bạc và lời nói (Lưu Hà, Cự Môn, Thái Âm). Với Thái Âm phải chú ý 1 điều, sao này chỉ sự tích lũy từ từ, nếu có Song Hao, có nguy cơ sự tích lũy không được thật sự tối ưu. Vì Song Hao cũng là bại tinh như Tang Môn nên cũng có cách thứ 2 là dùng thổ tinh chỉ tiền bạc (cách ứng dụng tương tự như dùng Thái Dương đối với Tang Môn) để làm Hao sinh xuất. Thổ tinh chỉ tiền bạc thì chỉ có Tử Vi và Thiên Phủ (Lộc Tồn không bao giờ đồng hoặc hội Song Hao).
+ Các bại tinh khác thì dùng lô-gíc tương tự để suy ra.

b. Xác định lại ngũ hành của Hóa Lộc, Khoa, Quyền.
- Hóa Lộc: Lộc tại tứ mộ địa (thổ - Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) thì bị chôn vùi. Thổ nhiều dẫn đến chôn vùi thì Hóa Lộc phải mang 1 trong 3 hành sau: Mộc, Thổ, Kim vì Thủy và Hỏa bởi đặc trưng tự nhiên của nó nên không bị Thổ vùi. Lại nói vì tứ mộ là mộ khố của ngũ hành nên bản chất là thổ và không tàng thêm thổ (Thìn Tuất Sửu Mùi lần lượt là Thủy, Hỏa, Kim, Mộc khố), do đó Hóa Lộc cũng không phải hành Thổ, chỉ còn 2 khả năng là Mộc hoặc Kim. Xét tính chất của Hóa Lộc thấy mạng có sao này thì râu tóc nhiều. Râu tóc là phần dư của huyết, là ngọn của thận thủy. Do đó râu tóc nhiều phản ánh thủy vượng tiết sinh mộc. Suy đoán Hóa Lộc hành Mộc.
- Hóa Quyền: quyền giải được họa sắc dục mà đại biểu chính là Tham Lang và Đào Hoa đều là mộc tinh. Suy ra Hóa Quyền phải mang hành kim hoặc hỏa. Vì Quyền hợp Khốc Hư như câu “Khốc Quyền đồng cung, minh danh vũ thế” nên Quyền ít có khả năng là hỏa mà nên mang hành Kim. Vì Khốc thể hiện ý chí, khi Quyền kim mạnh thì người có năng lực, quyền lực sẽ chuyển hóa năng lực, quyền lực đó thành ý chí. Kể ra cũng có lý.
- Hóa Khoa: Khoa giải được họa Không Kiếp hỏa tính nên Khoa phải mang hành thủy
- Hóa Kỵ: sao này rất hợp rơ với bộ Thanh Long-Lưu Hà và Thái Âm miếu đều là Thủy, nên đoán định là hành mộc, thủy hoặc kim. Bản thân Kỵ khi xung với Lộc Tồn thổ thì gây ra cảnh Cát Xứ Tàng Hung nên càng chắc đoán Kỵ phải mang hành Thủy hoặc Mộc để làm Lộc xung khắc với nó. Vậy Thủy hay Mộc? Thủy chủ trí, người có Hóa Kỵ thì tâm cơ đa đoan, ứng. Vả lại chỉ định hành Thủy cho Hóa Kỵ là phù hợp với phương pháp phổ biến hiện nay. Do đó, định Kỵ hành Thủy.

→ Lộc: mộc
Quyền: kim
Khoa: thủy
Kỵ: thủy
Đầu trang

kemomong
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1215
Tham gia: 06:54, 20/05/12

TL: Đoản luận tinh vị, ngũ hành, và khắc chế

Gửi bài gửi bởi kemomong »

3. Ứng dụng trong việc chọn bạn (đời)
- Tránh cưới người có sao thủ mệnh là sao ở cung lục hại với mệnh của ta
- Lựa người mà mệnh của họ có những cách những sao bổ khuyết được nhược điểm của ta, chế phục được sát bại tinh của ta.
- Lựa người mà vận hạn của họ trợ giúp được vận hạn của ta.

Vd: vận của ta đến Liêm Tướng Đào Hồng gặp Địa Kiếp thì cần người có mạng / vận có Nguyệt + Mã, Tồn, Khoa Quyền, Tả Hữu, Xương Khúc.

Vd: nữ mạng có cách xấu nổi tiếng là Tham Lang Địa Kiếp. Mệnh cách này tham lam, biển lận, ích kỷ, mưu mô, xấu xa vô cùng. Để cải huấn mệnh này cần phải có người chồng có Thiên Đồng Khoa Xương Khúc để thiện hóa Tham Kiếp cùng lúc. Kỵ cưới chồng mệnh Tử Phủ hoặc Thái Âm vì Tử Phủ kỵ KK, người Thái Âm cũng khá ích kỷ, nặng vật chất trừ khi Thái Âm gia hội Xương Khúc vì lúc này người chồng sẽ có thiên hướng tinh thần cao quý hơn. Tuy nhiên, nếu mệnh người chồng không có Hóa Quyền hoặc Tướng Ấn thì không chừng tính thiện lương của Đồng/Âm Khoa XK sẽ vì dâm tính ẩn tàng mà bị sa đọa hóa. Nên cưới chồng tuổi Bính Đinh Mậu(Xương hóa Khoa, Đồng hóa Quyền, Âm hóa Quyền)
Đầu trang

Ungdung132
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2993
Tham gia: 21:09, 25/05/12

TL: Đoản luận tinh vị, ngũ hành, và khắc chế

Gửi bài gửi bởi Ungdung132 »

Từ vị trí an sao ta có các mối liên hệ tương quan sau đây:
a. Lục hại: Nhật <-> Sát (hỏa khắc kim); Tử<->Cự (thổ khắc thủy)
b. Xung: Phá >< Tướng (đều là thủy), Phủ >< Sát (thủy sinh kim)
c. Nhị hợp: Lương-Liêm (hỏa sinh mộc); Vũ-Âm (kim sinh thủy); Nhật-Phủ (hỏa sinh thổ) ; Đồng-Tham (thủy-?)
Đoạn này Phủ thuộc Thổ? Hỏa sinh Mộc?

Đông A Di Sự là 1 phái từng vô cùng thành công và đóng góp nhiều cho đất nước. Tiếc là cao nhân theo phái này ít chịu lộ cho người ngoài. Thành ra giới TV VN cứ đi vay mượn từ HongKong-Đài Cảng. Tiếc lắm thay.
Đầu trang

kemomong
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1215
Tham gia: 06:54, 20/05/12

TL: Đoản luận tinh vị, ngũ hành, và khắc chế

Gửi bài gửi bởi kemomong »

Hỏa sinh Mộc là cặp Lương Liêm. Hoả sinh thổ là cặp Thái Dương-Thiên Phủ.

Cũng khó trách dòng họ Đông A, toàn bí truyền cả mấy đời, lại còn nhiều chiêu thức rất dễ bị lợi dụng để mưu lợi cá nhân và hại người. Thôi thì thuận ý trời, cầu cho họ Đông A trợ giúp được cho nước nhà phục hưng.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Whitebear1
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2959
Tham gia: 06:28, 09/03/11
Liên hệ:

TL: Đoản luận tinh vị, ngũ hành, và khắc chế

Gửi bài gửi bởi Whitebear1 »

Đông A không dùng ngũ hành
Đầu trang

Ungdung132
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2993
Tham gia: 21:09, 25/05/12

TL: Đoản luận tinh vị, ngũ hành, và khắc chế

Gửi bài gửi bởi Ungdung132 »

Có 1 số thắc mắc cho bài viết này như sau
1/ Vẫn còn 1 cặp lục hại là Thiên Cơ-Thiên Tướng chưa thấy nói tới
2/ có lẽ Khốc Hư, vốn đại diện cho nước mắt, cũng mang ý nghĩa là nguồn cung cấp cho thủy để chế KK.
>>>Khốc Hư đồng cung với tuế Phá, tính Hỏa và tính bất mãn khó chịu của nó có thể làm mồi lửa cho KK bùng phát theo lý như trên@@
3/Chế Đà La (tính kim, ám, nham hiểm, không lường trước được) thì dùng các tinh đẩu hành hỏa có tính chất chiếu xạ, quang minh (Thái Dương...
>>>Đà la là 1 trong tam Ám. Các sách xưa đều nói Nhật Nguyệt đều rất kỵ?
4/Bài viết trên có vẻ rất chuộng sử dụng Ngũ Hành, còn cơ bản của Tử Vi trọng Âm Dương hơn Ngũ hành, không biết ý kiến chủ top sao
Đầu trang

kemomong
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1215
Tham gia: 06:54, 20/05/12

TL: Đoản luận tinh vị, ngũ hành, và khắc chế

Gửi bài gửi bởi kemomong »

@ Ungdung132
1) Quên, không để ý cặp này
2) Hình như chỉ có Hư đồng cung với Tuế Phá, Khốc thì không. Còn về tính bất mãn khó chịu của Khốc Hư, cái này mình không rõ, chỉ biết là người Khốc Hư đa cảm, dư thuỷ (dưới mắt hay thâm, có mọng nước).
3) Cái này phải xem độ đắc hãm của Nhật và Đà cũng như vị trí tương đối của chúng. Cự cũng ám, nhưng Cự Nhật ở dần thì Nhật giải ám cự, Cự ở Hợi cũng được Nhật ở Tỵ giải ám, nhưng mà Cự ở Tỵ thì lại ám ngược lại Nhật ở Hợi (cũng vì Nhật hãm tại đây)
4) Cơ bản của TV dùng gì thì mình cho rằng không thể khẳng định là trọng cái nào hơn cái nào. Vả lại trong bài viết cũng đã nêu ra một số thắc mắc mà nếu chỉ dùng ngũ hành luận thì không tìm ra được câu trả lời thoả đáng.

@Whitebear1:
- Nếu TV Đông A không dùng ngũ hành thì phải chăng sự khắc hợp giữa ngũ hành của các sát tinh và phúc thiện tinh có khả năng chế hóa chúng là hoàn toàn ngẫu nhiên mà ứng?
- Nếu TV Đông A không dùng ngũ hành thì hẳn phải dùng đến âm dương, nguyên lý dịch học, bát quái, v.v.. Theo một bài viết mà mình từng đọc, có người trong phái Đông A đả kích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm năm xưa đã vận dụng thêm thắt quá mức thiên văn, địa lý, và dịch vào Tử Vi Đông A. Phải chăng phái Đông A quả thực đã ứng dụng nhiều nhánh huyền học đến thế?! Nếu như vậy, các bài phân tích như trên quả thực chưa chạm quá nước sơn bên ngoài của phái TV này. Hậu bối thiểu năng, thật xấu hổ.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Whitebear1
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2959
Tham gia: 06:28, 09/03/11
Liên hệ:

TL: Đoản luận tinh vị, ngũ hành, và khắc chế

Gửi bài gửi bởi Whitebear1 »

- Nếu TV Đông A không dùng ngũ hành thì hẳn phải dùng đến âm dương, nguyên lý dịch học, bát quái, v.v.. Theo một bài viết mà mình từng đọc, có người trong phái Đông A đả kích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm năm xưa đã vận dụng thêm thắt quá mức thiên văn, địa lý, và dịch vào Tử Vi Đông A. Phải chăng phái Đông A quả thực đã ứng dụng nhiều nhánh huyền học đến thế?! Nếu như vậy, các bài phân tích như trên quả thực chưa chạm quá nước sơn bên ngoài của phái TV này. Hậu bối thiểu năng, thật xấu hổ.
Nói thật là tôi không biết bài viết bác nói là bài viết nào, nên đành chịu.
Chuyện một người đả kích là chuyện bình thường, giống như sau này lại có một người nói "có một người ở trong nhánh lyso.vn đã đả kích kịch liệt em Thủy Top vì ăn mặc hở hang". Đâu có ý nghĩa gì, vì chắc chắn sẽ có nhiều người trong cùng nhánh ủng hộ.

Nhỡ họ cho đứa trẻ con tuyên bố này nọ, để thiên hạ thấy thế liền bám vào rồi suy diễn tẩu hỏa nhập ma chơi thì sao? Tin sao được bố con thằng nào?
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Whitebear1
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2959
Tham gia: 06:28, 09/03/11
Liên hệ:

TL: Đoản luận tinh vị, ngũ hành, và khắc chế

Gửi bài gửi bởi Whitebear1 »

Có câu hỏi đáng nhẽ hay hơn:
1-Họ khởi đại vận cách nào?
2-Họ an Hỏa Linh thế nào?
Đầu trang

Trả lời bài viết