Những cây cảnh trong nhà có tác dụng chữa bệnh

Trao đổi về y học, võ thuật cổ truyền, thiền, Yoga
Đổng Lâm
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 181
Tham gia: 11:51, 26/06/09

TL: Những cây cảnh trong nhà có tác dụng chữa bệnh

Gửi bài gửi bởi Đổng Lâm »

Ớt
Tên khoa học là Capsicum frutescens L. Quả có vị cay, tính nóng có tác dụng ôn trung tán hàn, kiện vị tiêu thực.
Quả ớt dùng trị tiêu chảy hắc loạn, tích trệ, sốt rét. Nếu quả dùng trong thì kích thích chung và lợi tiểu; dùng ngoài làm thuốc chuyển máu và gây xung huyết. Rễ có tác dụng hoạt huyết, tán thũng. Lá ớt có vị đắng, tính mát, tác dụng thanh nhiệt, giải độc, sát trùng, lợi tiểu. trị sốt, chữa trúng phong bất tỉnh và phù thũng.

Hình ảnh

Thành phần hóa học: Vỏ ớt chứa alcaloid chính là capsaicine (0,2%) và sắc tố carotenoid là capsanthine (0,4), adenine, betaine và choline. Quả chín đỏ chứa một lượng lớn vitamin C lên tới 200-400 mg%.
Ở Thái lan, quả ớt được dùng làm thuốc long đờm trị giun ký sinh cho trẻ em và thuốc hạ nhiệt. Ở Trung quốc, quả dùng trị tỳ vị hư lạnh, dạ dày và ruột trướng khí, ăn uống không tiêu. Rễ dùng ngoài trị nẻ da. Lá trị thủy thũng. Hạt trị phong thấp.
Trong Tây y, thường chỉ định dùng trong chứng khó tiêu do mất trương lực, lên men ruột, tiêu chảy, kiết lỵ, nôn mửa không cầm được, xuất huyết tử cung, thấp khớp, thống phong, thủy thũng, viêm thanh quản. Dùng ngoài chữa ho co cứng, một số chứng bại liệt, đau dây thần kinh do khớp, đau lưng, thống phong.
Cách dùng: Quả dùng uống trong với liều thấp. Có thể dùng bột với lượng từ 0,30g-1g trong 1 ngày, dạng viên, hoặc dùng cồn thuốc tươi (1 phần ớt, 2 phần cồn 33, hoặc duifng 1-4g hàng ngày trong một pixiô, hoặc dùng nấu ăn). Nếu dùng ngoài, dùng cồn thuốc tươi để bó hoặc dùng bông mỡ sinh nhiệt trong chứng đau thần kinh do thấp khớp hay ngộ lạnh.
Lá cây giã nát vắt lấy nước cốt uống trị sốt, trúng phong bất tỉnh và trị rắn cắn (dùng bã đắp ngoài). Lá sao vàng sắc uống trị phù thũng, mỗi ngày dùng từ 20-30g.
Đầu trang

Đổng Lâm
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 181
Tham gia: 11:51, 26/06/09

TL: Những cây cảnh trong nhà có tác dụng chữa bệnh

Gửi bài gửi bởi Đổng Lâm »

Cây hòe
Hòe còn có tên hòe hoa, hòe mễ, lài luồng (Tày), tên khoa học là Sophora japonica L.
Hoa hòe có màu vàng, vị hơi đắng, dài 0,5-0,8 cm, rộng từ 0,2-0,3 cm, cánh hoa vàng nâu, đài hoa vàng xám. Nụ hòe có thể dùng sống hoặc sao cháy. Các bộ phận khác cũng có thể dùng làm thuốc như: hòe đã nở, quả, lá đã được phơi hoặc sấy khô. Lá cũng có thể dùng tươi.
Nụ hoa đã phơi hoặc sấy nhẹ đến khô dùng làm dược liệu có tên khoa học là Flos Styphnolobii japonici imaturi. Nụ hòe có vị đắng nhạt, mùi thơm, tính bình; quả Hòe có vị đắng, tính mát, đều có tác dụng hạ nhiệt, mát huyết, cầm máu, làm sáng mắt, bổ não. Ngày nay người ta còn biết thêm các tác dụng làm giảm tính thẩm thấu của mao quản, kháng chiếu xạ, hạ huyết áp.
Ngoài ra, hoa hòe có tác dụng lượng huyết, tăng cường sức đề kháng, giảm tính thẩm thấu của mao mạch, hồi phục tính thẩm thấu của mao mạch đã bị tổn thương. Thêm vào đó là tác dụng chống viêm, bảo vệ cơ thể chống chiếu xạ, hạ huyết áp, hạ cholesterol máu, cầm máu, chống kết tập tiểu cầu, quercetin làm giãn mạch vành, cải thiện tuần hoàn tim.

Hình ảnh

Theo y học hiện đại, nụ hòe và rutin được dùng làm thuốc cầm máu trong các trường hợp xuất huyết, đề phòng tai biến do xơ vữa mạch máu, tổn thương mao mạch, xuất huyết dưới da, xuất huyết có liên quan đến xơ vữa động mạch, xuất huyết võng mạc, tăng huyết áp.
Theo y học cổ truyền, hòe điều trị trường phong tiện huyết (đi ngoài ra máu tích phong nhiệt), niệu huyết, huyết lãm, băng lậu, trĩ ra máu, chảy máu cam, nôn ra máu, tăng huyết áp.
Được cảm ơn bởi: PhongPhong29
Đầu trang

Đổng Lâm
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 181
Tham gia: 11:51, 26/06/09

TL: Những cây cảnh trong nhà có tác dụng chữa bệnh

Gửi bài gửi bởi Đổng Lâm »

Ngọc lan
Còn có tên ngọc lan hoa vàng, sứ hoa vàng hay hoàng lan. Tên khoa học là Michelia champaca L.
Rễ và quả cây có vị đắng tính mát có tác dụng khư phong thấp, lợi hầu họng, kiện vị chỉ thống. Rễ khô và vỏ rễ có tính xổ, điều kinh. Vỏ thân có tác dụng giải nhiệt, hưng phấn, khư đàm, thu liềm. Hoa và quả có tác dụng làm phấn chấn, trấn kinh, khư phong, kiên vị, lợi niệu. Lá có tác dụng giải độc.
Vỏ cây ngọc lan làm thuốc trị sốt, ho, điều kinh, có thể dùng làm thuốc trị sốt rét cách nhật. Rễ khô và vỏ rễ dùng tươi dạng thuốc hãm làm thuốc uống để điều kinh và dùng sắc rồi thêm sữa đông đắp trị áp xe. Hoa và quả chữa đầy hơi, buồn nôn và sốt lại có tác dụng lợi tiểu. Dùng như thuốc lợi tiểu trong chứng đau thận và trong bệnh lậu phối hợp với dầu vừng làm thuốc đắp ngoài trị chóng mặt. Hạt và quả dùng trị nứt nẻ ở chân, hạt cũng dùng làm thuốc trị giun.

Hình ảnh

Ở Malaysia và Philippines, người ta dùng thịt quả trộn với các loại thuốc khác trị bệnh phong thấp đau nhức. Tại Vân Nam (Trung Quốc), rễ và quả được làm trị hóc xương, phong thấp, đau dạ dày. Lá dùng súc miệng làm thuốc trị đau yết hầu. Ở Thái Lan dùng lá trị rối loạn thần kinh. Người Ấn Độ dùng dịch lá trộn lẫn mật ong dùng trị đau bụng. Tinh dầu được dùng làm hương liệu, làm thuốc đắp trị đau đầu, viêm mắt và thống phong.
Thành phần hóa học: Hoa chứa tinh dầu có giá trị ngang với tinh dầu hoa hồng. Lá cũng chứa tinh dầu. Vỏ chứa một alcaloid ít độc.
Đầu trang

Đổng Lâm
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 181
Tham gia: 11:51, 26/06/09

TL: Những cây cảnh trong nhà có tác dụng chữa bệnh

Gửi bài gửi bởi Đổng Lâm »

Thiên lý
Còn có tên thiên lý, hoa thiên lý, hoa lý; Tên khoa học là Telosma cordata (Burm. f.) Merr.
Rễ và hoa thiên lý có vị ngọt nhạt, tính bình có tác dụng bình can, tiêu viêm mắt, làm tan màng mộng, làm chóng lên da non và thanh nhiệt giải độc. Hoa có tác dụng giải nhiệt, an thần, gây ngủ và còn dùng để trị giun kim.

Hình ảnh

Người ta thường dùng hoa thiên lý xào hay nấu canh ăn rất bổ và mát, giúp giấc ngủ ngon không trằn trọc, bớt đi Đới đêm và đỡ mệt mỏi, đau lưng.
Ở Thái Lan, hoa và lá đều dùng ăn. Hoa và lá còn được dung trị viêm kết mạc cấp và mạn, viêm giác mạc, mờ đục màng mắt, viêm kêt mạc do bệnh sởi. Lá cây dùng ngoài giã đắp lên các mụn nhọt, vết loét, trị lòi đom và sa dạ con. Rễ được dùng để chế mứt và chữa Đới buốt hoặc có cặn trắng.
Cách dùng: Ngày dùng 3-5g hoa hoặc lá dạng thuốc sắc. Có thể dùng một quả thay cho hoa. Để đắp ngoài, lấy lá tươi giã nát đắp. Để trị lòi dom và bệnh sa dạ con lấy 30-50g lá với 5% muối, giã nhỏ, vắt lấy nước cốt tẩm bông đắp rịt vào hậu môn hay âm hộ (sau khi đã rửa sạch chỗ đau bằng nước muối), mỗi ngày thay một lần, sau 3-4 ngày thấy rõ kết quả. Rễ dùng 12-20g, dạng thuốc sắc.
Đầu trang

Đổng Lâm
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 181
Tham gia: 11:51, 26/06/09

TL: Những cây cảnh trong nhà có tác dụng chữa bệnh

Gửi bài gửi bởi Đổng Lâm »

Cây sống đời
Sống đời còn gọi là cây thuốc bỏng, lạc địa sinh căn, thổ tam thất, trường sinh, tên khoa học là Kalanchoe pinnata (Lam.) Pers.
Toàn thân cây có vị nhạt, chát, hơi chua, tính mát, có tác dụng giải độc, tiêu thũng, hoạt huyết chỉ thống, bạt độc sinh cơ.
Ngọn và lá sống đời non có thể thái nhỏ nấu canh ăn và dùng làm thuốc giải độc, chữa bỏng, đắp vết thương, đắp mắt đỏ sưng đau, đắp mụn nhọt và cầm máu. Do có tác dụng kháng khuẩn nên sống đời còn được dùng trị một số bệnh đường ruột và bệnh nhiễm trùng khác như viêm loét dạ dày, viêm ruột, trĩ nội, đi ngoài ra máu.

Hình ảnh

Ở Ấn Độ, người ta dùng lá cây này đắp trị bỏng, vết thương, mụn nhọt và các vết cắn đốt của côn trùng. Ở Trung Quốc, toàn cây được dùng chữa ung sang thũng độc, viêm tuyến vú, đan độc, ngoại thương xuất huyết, đòn ngã, tổn thương, gãy xương, bỏng, viêm tai giữa.
Cách dùng: Lá tươi giã nát đắp hoặc vắt lấy nước bôi hàng ngày. Có thể dùng lá tươi 40g rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước hoặc hòa với nước chín rồi lọc lấy nước cốt để uống. Ngoài ra lá tươi giã nát vắt lấy nước, nhỏ vào tai chữa được bệnh viêm tai giữa cấp tính. Cũng nước lá tươi, thêm rượu và đường uống chữa bị ngã, bị thương thổ huyết.
Đầu trang

Đổng Lâm
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 181
Tham gia: 11:51, 26/06/09

TL: Những cây cảnh trong nhà có tác dụng chữa bệnh

Gửi bài gửi bởi Đổng Lâm »

Tầm xuân

Còn có tên khác hồng choắt hay hồng roi, tên khoa học là Rosa cymosa Tratt.

Hình ảnh

Quả được dùng trị ho. Rễ, lá non dùng trị phong thấp, đòn ngã tổn thương, chữa kinh nguyệt không đều, sa tử cung, trĩ lở, thoát giang, lở độc và ngoại thương xuất huyết, rễ điều hòa kinh nguyệt, hạ lipid máu. Hoa tầm xuân cũng dùng trị kinh nguyệt quá nhiều, di tinh, đòn ngã tổn thương, lở miệng và đau răng, làm tóc đen trở lại.
Đầu trang

Đổng Lâm
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 181
Tham gia: 11:51, 26/06/09

TL: Những cây cảnh trong nhà có tác dụng chữa bệnh

Gửi bài gửi bởi Đổng Lâm »

Ngưu bàng

Tên khoa học là Arctium lappa L.
Quả ngưu bàng thường gọi là ngưu bàng tử có vị cay, đắng, tính hàn có tác dụng trừ phong, tán nhiệt, thông phổi làm mọc ban chẩn, tiêu thũng, giải độc, sát trùng. Rễ cây có vị đắng, cay, tính hàn có tác dụng lợi tiểu (loại được axit uric), khử lọc, làm ra mồ hôi, lợi mật, nhuận tràng, chống giang mai, trị Đới tháo đường, diệt trùng và chống nọc độc.
Cây ngưu bàng đã được sử dụng ở nước ta từ lâu. Trong Bản thảo Nam dược, lương y Nguyễn Hoành đã nói đến việc sử dụng lá ngưu bàng non gọi là rau cẩm bình nấu canh ăn rất tốt, hạt (quả) chữa phong lở, mày đay, sình bụng.

Hình ảnh

Trong y học phương Đông, quả của ngưu bàng dùng làm thuốc lợi tiểu, giải nhiệt, trị được phù thũng, đau họng, sưng họng, phế viêm, cảm cúm, tinh hồng nhiệt. Đối với mụn nhọt đã có mủ và viêm tuyến lâm ba, dùng quả cây có tác dụng thúc mủ nhanh, với đậu chẩn cũng làm cho chóng mọc bằng cách dùng 6-10g một ngày, dưới dạng thuốc sắc uống, dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.
Rễ ngưu bàng cũng dùng trị mụn nhọt, cụm nhọt, áp xe, nấm da, hắc lào, eczema, loét mất trương lục, viêm hạch, vết thương có mủ, dùng dưới dạng nước sắc với tỉ lệ 40g một lít nước. Bên ngoài dùng lá tươi giã đắp trị nọc độc rắn cắn, đắp trị bệnh về phổi mãn tính, cúm kéo dài và các chứng đau khác hoặc dùng tươi nấu nước rửa bên ngoài.
Tây y dùng rễ cây hái vào mùa xuân làm thuốc thông tiểu, trị chứng ra mồ hôi, tẩy máu dùng trong các bệnh tê thấp, đau và sưng khớp, bệnh ngoài da. Ngoài ra, còn dùng cho người bị Đới ra đường vì cao rễ ngưu bàng có tác dụng hạ glucoza trong máu. Cuống và thân cây dùng làm thức ăn làm tăng lượng glycogen trong gan.
Có thể dùng rễ cây với liều ổn định lâu dài để chữa mụn nhọt với liều 0,60g cao thuốc một lần, mỗi ngày dùng 3 lần. Ngoài ra, người Châu Âu còn dùng lá non và thân cây, có khi dùng cả rễ đem giã nhỏ rồi đắp vào nơi rắn độc, sâu bọ, ong, muỗi và rết cắn, có lẽ do tác dụng của men oxydaza có nhiều trong lá và thân.
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Y học - Võ thuật”