DỊCH CAN CHI

Các bài viết học thuật về dịch lý, thái ất, kỳ môn...
Trả lời bài viết
Hà Uyên
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 607
Tham gia: 14:20, 02/05/09

DỊCH CAN CHI

Gửi bài gửi bởi Hà Uyên »

CHU KỲ 1



............................. LY


........TỐN..................................KHÔN


...CHẤN.....................+...................ĐOÀI


.......CẤN...................................CÀN


.............................KHẢM


1. Giáp Tý – Thuần Càn, hào 1
- “Sơ Cửu, tiềm long vật dụng”.
- “Chín Đầu, rồng lớn ẩn mình dưới nước, tạm thời chưa thi thố được tài năng.”

2. Ất Sửu – Thuần Khôn, hào 4
- “Lục Tứ, quát nang, vô cữu vô dự.”
- “Sáu Bốn, thắt chặt miệng túi, tránh được tội lỗi (cữu hại) mà không cầu được khen”.
- Tượng “quát nang vô cữu, thận bất hại dã” - Hào Sáu Bốn tất phải thận trọng, cẩn thận mới có thể không gây ra tai họa.

3. Bính Dần - Thuần Cấn, hào 6
- “Thượng Cửu, đôn cấn, cát”.
- “Hào Chín Trên, lấy phẩm chất đôn hậu để ghìm chặn tà dục, tốt lành.”
- Tượng “đôn cấn chi cát, dĩ hậu chung dã” – Hào Chín Trên với bản chất tốt đẹp đã giữ vững đến lúc cuối.

4. Đinh Mão – Thuần Đoài, hào 2
- “Cửu Nhị, phu đoài, cát, hối vong”
- “Hào Chín Hai, thành tín mà vui vẻ với mọi người, tốt lành, hối hận mất hết.”
- Tượng “phu đoài chi cát, tín chí dã” – Chín Hai chí nằm ở sự thành tín trung thực.

5. Mậu Thìn - Thuần Khảm, hào 2
- “Cửu Nhị, khảm hữu hiểm, cầu tiểu đắc”
- “Chín Hai, Ở nơi hiểm nạn khốn cùng trong hố bẫy, từ nơi nhỏ hẹp mưu cầu thoát hiểm, tất có được điều mong muốn”.
- Tượng “cầu tiểu đắc, vị xuất trung dã” – Hào Chín Hai lúc này còn chưa thoát khỏi chỗ hiểm.

6. Kỷ Tị - Thuần Ly, hào 6
- “Thượng Cửu, vương dụng xuất chinh, hữu gia chiết thủ hoạch phỉ kỳ xú, vô cữu”
- “Chín Trên, nhà Vua xuất quân chinh phạt, lập được công lớn, chém đầu quân địch, bắt những kẻ “dị kỷ” không chựu lệ thuộc, không có lỗi.
- Tượng “Vương dụng xuất chinh, dĩ chính bang dã” – hào Chín Trên làm như vậy để cho đất nước được yên ổn, trị vì được thiên hạ.

7. Canh Ngọ - Thuần Chấn, hào 4
- “Cửu Tứ, chấn toại nê”
- “Chín Bốn, lúc sấm động kinh hoàng thất thố, rơi vào đống bùn lấy”.
- Tượng “chấn toại nê, vị quang dã” – hào Chín Bốn đức dương cứng chưa thể sáng lớn. Sa vào nơi đồi trụy.

8. Tân Mùi - Thuần Tốn, hào 4
- “Lục Tứ, hối vong, điền hoạch tam phẩm”
- “Sáu Bốn, hối hận mất hết, vật săn được chia làm ba loại (để làm vật tế tự, đãi khách, và dâng lên bếp Vua).
- Tượng “điền hoạch tam phẩm, hữu công dã” – hào Sáu Bốn tuân theo mệnh Vua, lập được công lao.

9. Nhâm Thân - Thuần Càn, hào 5
- “Cửu Ngũ, phi long tại thiên, lợi hiện đại nhân”
- “Chín Năm, rồng lớn bay cao trên trời, lợi về sự xuất hiện đại nhân”.

10. Quý Dậu – Thuần Khôn, hào 6
- “Thượng Lục, long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng”
- “Sáu Trên, rồng giao hợp trên cánh đồng, chảy máu đen máu vàng”.
- Tượng “long chiến vu dã, kỳ đạo cùng dã” - Đạo thuần âm của hào Sáu Trên đã phát triển đến cùng tận.

11. Giáp Tuất – Thuần Càn, hào 6
- “Thượng Cửu, cang long hữu hối”
- “Chín Trên, rồng lớn bay cao đến cùng cực, cuối cùng sẽ có sự hối hận”.

12. Ất Hợi – Thuần Khôn, hào 5
- “Lục Ngũ, hoàng thường, nguyên cát”
- “Sáu Năm, xiêm váy mầu vàng, hết sức tốt lành”.
- Tượng “hoàng thường nguyên cát, văn tại trung dã” - Sáu Năm lấy đức ôn hòa nhã nhặn để giữ vững đạo “trung”.

13. Bính Tý - Thuần Cấn, hào 5
- “Lục Ngũ, cấn kỳ phụ, ngôn hữu tự, hối vong”
- “Sáu Năm, ghìm chặn miệng mình, không để nói càn, nói phải rành mạch đâu ra đấy, hối hận sẽ mất.
- Tượng “Cấn kỳ phụ, dĩ trung chính dã” – Sáu Năm có thể ở ngôi giữa giữ chính. Giữ chính là thừa.

14. Đinh Sửu – Thuần Đoài, hào 3
- “Cửu Tam, lai đoài hung”
- “Chín Ba, quay lại để cầu vui, có hung hiểm”.
- Tượng “Lai đoài chi hung, vị bất đáng dã” – Sáu Ba ngôi vị không chính đáng.

15. Mậu Dần - Tập Khảm, hào 1
- “Sơ Lục, tập khảm, nhập vu khảm tãm, hung”
- “Sáu Đầu, ở nơi chất chồng hiểm họa cạm bẫy, rơi sâu vào hố bẫy, có hung hiểm”.
- Tượng “tập khảm nhập khảm, thất đạo hung dã” – hào Sáu Đầu lạc đường rơi thêm vào chỗ hiểm nên tất có hung hiểm.

16. Kỷ Mão – Thuần Ly, hào 1
- "Sơ Cửu, lý thác nhiên, kính chi, vô cữu”
- “Chín Đầu, làm việc cẩn trọng không cẩu thả, giữ thái độ cung kính, cẩn thận thì tất không tội lỗi.”
- Tượng “lý thác chi kính, dĩ tị cữu dã” – Ý hào Sáu Đầu có như vậy mới tránh được tội lỗi.

17. Canh Thìn – Thuần Chấn, hào 3
- "Lục Tam, chấn tô tô, chấn hành vô sảnh”
- “Sáu Ba, lúc sấm động kinh hãi không yên, do sấm động mà biết sợ, thì đi lên sẽ không gặp họa hoạn.”
- Tượng “chấn tô tô, vị bất đáng dã” – Ngôi vị hào Sáu Ba không thỏa đáng.

18. Tân Tị - Thuần Tốn, hào 5
- “Cửu Ngũ, trinh cát, hối vong, vô bất lợi, vô sơ hữu chung; tiên canh tam nhật, hậu canh tam nhật, cát”
- “Chín Năm, giữ vững chính bền thì được tốt lành, hối hận mất hết, không gì không lợi ; lại ban mệnh lệnh, mới đầu không thuận lợi, nhưng cuối cùng tất sẽ thông thuận ; dự định ban bố lệnh mới vào ba ngày trước ngày Canh, là ngày tượng trưng cho sự “biến canh” (thay đổi), và thi hành mệnh lệnh mới, vào ba ngày sau ngày Canh, như vậy mà trên dưới thuận theo, tất được tốt lành.”
- Tượng “cửu ngũ chi cát, vị chính trung dã” – hào Chín Năm được như vậy là do ngôi hào này chính mà giữ vững được đạo “trung”.

19. Nhâm Ngọ - Thuần Càn, hào 4
- “Cửu Tứ, hoặc dược tại uyên, vô cữu”
- “Chín Bốn, hoặc bay vượt lên trước, hoặc lui lại nằm trong vực, tất không tội lỗi.”

20. Quý Mùi – Thuần Khôn, hào 1
- “Sơ Lục, lý sương, kiên băng chí.”
- “Sáu Đầu, dẫm lên sương mỏng là sẽ đón đợi băng dày.”
- Tượng “lý sương kiên băng, âm thủy ngưng dã ; tuần chí kỳ đạo, chí kiện băng dã” – Khí Âm đã bắt đầu ngưng tụ, theo như quy luật thì băng dày tất sẽ đến.

21 Giáp Thân – Thuần Càn, hào 5
- “Cửu Ngũ, phi long tại thiên, lợi hiện đại nhân”
- "Chín Năm, rồng lớn bay cao trên trời, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”

22. Ất Dậu – Thuần Khôn, hào 6
- “Thượng Lục, long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng”
- “Sáu Trên, rồng giao hợp trên cánh đồng, chảy máu đen máu vàng.”
- Tượng “long chiến vu dã, kỳ đạo cùng dã” - Đạo thuần âm của hào Sáu Trên đã phát triển đến cùng tận.

23. Bính Tuất - Thuần Cấn, hào 4
- “Lục Tứ, cấn kì thân, vô cữu”
- "Sáu Bốn, ghìm chặn ở phần thân mình, không để vọng động, tất không tội lỗi.”
- Tượng “cấn kì thân, chỉ chư cung dã” – hào Sáu Bốn có thể tự ghìm chặn, yên giữ ngôi mình.

24. Đinh Hợi – Thuần Đoài, hào 4
- “Cửu Tứ, thương đoài vị ninh, giới tật hữu thỉ”
- "Chín Bốn, cân nhắc về sự vui nhưng trong lòng chưa yên, nếu cắt đứt hẳn với sự “tà tật” của bạn xiểm nịnh thì thật đáng mừng.
- Tượng “cửu tứ chi hỷ, hữu khánh dã” - Điềm mừng của hào Chín Bốn, là vì có tượng đáng chúc mừng vậy.

25. Mậu Tý - Thuần Khảm, hào 6
- “Thượng Lục, hệ dụng huy mặc, chỉ vu tùng cức, tam tuế bất đắc, hung”
- “Sáu Trên, bị trói bằng dây thừng, giam hãm trong bụi gai, ba năm không được giải thoát, có hung hiểm.
- Tượng “thượng lục thất đạo, hung tam tuế dã” – hào Sáu Trên lạc chính đạo đi vào nơi hiểm, hung hiểm sẽ kéo dài suốt ba năm.

26. Kỷ Sửu – Thuần Ly, hào 2
- “Lục Nhị, hoàng ly, nguyên cát”
- “Sáu Hai, giữ được sắc vàng trung chính phụ bám vào vật, cực tốt.”
- Tượng “hoàng ly nguyên cát, đắc trung đạo dã” – hào Sáu Hai đạo hợp giữa không lệch.

27. Canh Dần - Thuần Chấn, hào 2
- “Lục Nhị, chấn lai lệ; ức táng bối, tê vu cửu lăng, vật trục, thất nhật đắc”
- “Sáu Hai, sấm sét ập tới, có nguy hiểm; mất nhiều tiền, nên lánh xa và trèo lên đỉnh đồi cao, không cần truy tìm, quá không đầy bảy ngày thì tiền mất lại tìm thấy.”
- Tượng “chấn lai lệ, thặng cương dã” – hào Sáu Hai cưỡi trên hào dương cứng mà nguy.

28. Tân Mão - Thuần Tốn, hào 6
- “Thượng Cửu, tốn tại sàng hạ, táng kì tư phủ; trinh hung”
- “Chín Trên, thuận theo quá mức, nép ở dưới giường, giống như mất búa sắc cứng rắn, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm.”
- Tượng “tốn tại sàng hạ, thượng cùng dã ; táng kì tư phủ, chính hồ hung dã” – hào Chín Trên ở ngôi cuối của sự khốn cùng ; hào Chín Trên nên giữ vững sự chính của dương cứng để phòng hung hiểm.

29. Nhâm Thìn – Thuần Càn, hào 3
- “Cửu Tam, quân tử trung nhật càn càn, tịch thích nhược, lệ vô cựu”
- “Chín Ba, người quân tử suốt ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn cảnh giác thận trọng, như vậy dù gặp nguy hiểm cũng không bị cữu hại.”

30. Quý Tị - Thuần Khôn, hào 2
- “Lục Nhị, trực phương đại, bất tập vô bất lợi.”
- “Sáu Hai, ngay thẳng, vuông vắn, to lớn, không học tập cũng vị tất là không có lợi.”
- Tượng “lục nhị chi động, trực dĩ phương dã ; ‘bất tạp vô bất lợi’, địa đạo quang dã” - Sự biến động của hào Sáu Hai theo hướng ngay thẳng và vuông vắn ; ‘không học tập vị tất là không có lợi’ là đạo nhu thuận của Đất phát ra hào quang.

31. Giáp Ngọ - Thuần Càn, hào 4
- “Cửu Tứ, hoặc dược tại uyên, vô cữu”
- “Chín Bốn, hoặc bay vượt lên trước, hoặc lui lại nằm trong vực, tất không cữu hại tội lỗi.”

32. Ất Mùi – Thuần Khôn, hào 1
- “Sơ Lục, lý sương, kiên băng chí”
- “Sáu Đầu, dẫm lên sương mỏng là sẽ đón đợi băng dày.”
- Tượng “lý sương kiên băng, âm thủy ngưng dã ; tuần chí kỳ đạo, chí kiện băng dã” – Khí Âm đã bắt đầu ngưng tụ, theo như quy luật thì băng dày tất sẽ đến.

33. Bính Thân - Thuần Cấn, hào 3
- “Cửu Tam, cấn kì hạn, liệt kì di, lệ huân tâm.”
- “Chín Ba, ghìm chặn sự vận động của lưng, đến nỗi đứt cả nơi chỗ thăn lưng (chỗ trên dưới giao nhau), nguy hiểm như cháy ruột.”
- Tượng “cấn kì hạn, nguy huân tâm dã” - Sự nguy hiểm của hào Chín Ba sẽ như cháy ruột.

34. Đinh Dậu – Thuần Đoài, hào 5
- “Cửu Ngũ, phu vu bác, hữu lệ.”
- “Chín Năm, tin kẻ tiểu nhân âm mềm, mà tiêu mòn hết đức dương cứng (bị nó lôi kéo mà cùng vui), có nguy hiểm.”
- Tượng “phu vu bác, vị chính đáng dã” - Thật đáng tiếc cho hào Chín Năm lại ở vào ngôi chính đáng mà thôi !

35. Mậu Tuất - Thuần Khảm, hào 5
- “Cửu Ngũ, khảm bất doanh, chỉ kí bình, vô cữu.”
- “Chín Năm, hố bẫy hiểm nạn còn trưa tràn đầy, thì gò nhỏ đã bị san bằng, tất không cữu hại.”
- Tượng “khảm bất doanh, trung vị đại dã” – hào Chín Năm tuy ở ngôi giữa, nhưng công sức làm cho phẳng chỗ hiểm còn được chưa sáng lớn.

36. Kỷ Hợi – Thuần Ly, hào 3
- “Cửu Tam, nhật trắc chi ly, bất cổ phẫu nhi ca, tác đại điệt chi ta, hung.”
- “Chín Ba, mặt trời sắp lặn, ngả dần “bám” về phía trời tây, lúc này nếu không gõ vò, vui vẻ ca hát tự vui, tất sẽ than thân già nua, ốm yếu, có hung hiểm.”
- Tượng “nhật trắc chi ly, hà khả cữu dã” – Ngả dần bám về phía trời Tây, tình trạng này thì làm sao mà giữ cho được lâu dài !

37. Canh Tý - Thuần Chấn, hào 1
- “Sơ Cửu, chấn lai khích khích, hậu tiếu ngôn nha nha, cát.”
- “Chín Đầu, sấm sét ập tới mà biết mà biết kinh hãi khiếp sợ, thì sau sẽ biết thận trọng hành động, giữ phúc để được nói cười râm ran, tốt lành.”
- Tượng “chấn lai khích khích’, khủng chí phúc dã ; ‘tiếu ngôn nha nha’ hậu hữu tắc dã” – hào Chín Đầu kinh sợ thận trọng, thì có thể đưa phúc trạch đến ; hào Chín Đầu sau khi kinh sợđã biết tuân thủ phép tắc.

38. Tân Sửu - Thuần Tốn, hào 1
- “Sơ Lục, tiến thoái, lợi vũ nhân chi trinh.”
- “Sáu Đầu, thấp thuận quá mức, tiến thoái do dự, lợi về sự kẻ vũ dũng giữ vững chính bền.”
- Tượng “tiến thoái chí nghi dã ; lợi vũ nhân chi trinh, chí trị dã” – hào Sáu Đầu ý chí nhu nhược nghi sợ ; ‘lợi về sự kẻ vũ dũng giữ vững chính bền’ là để khuyến khích Sáu Đầu sửa trị và tạo lập ý chí kiên cường.

39. Nhâm Dần – Thuần Càn, hào 2
- “Cửu Nhị, hiện long tại điền, lợi hiện đại nhân.”
- “Chín Hai, rồng lớn đã xuất hiện ở cánh đồng, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”

40. Quý Mão – Thuần Khôn, hào 3
- “Lục Tam, hàm chương khả trinh ; hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung.”
- “Sáu Ba, ngậm chứa sự sáng đẹp của Dương cứng thì giữ được chính bền ; hoặc giúp dập cho sự nghiệp của đắng quân vương, khi thành công không quy công về mình, mà kính cẩn làm hết chức trách của kẻ bề tôi cho đến cùng.”
- Tượng “hàm chương khả trinh, dĩ thời phát dã ; hoặc tòng vương sự, tri quang đại dã” – hào Sáu Ba cần căn cứ vào thời cơ mà phát huy tác dụng ; hào Sáu Ba trí tuệ sáng láng, sâu rộng.

41. Giáp Thìn – Thuần Càn, hào 3
- “Cửu Tam, quân tử trung nhật càn càn, tịch thích nhược, lệ vô cựu”
- “Chín Ba, người quân tử suốt ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn cảnh giác thận trọng, như vậy dù gặp nguy hiểm cũng không bị cữu hại.”

42. Ất Tị - Thuần Khôn, hào 2
- “Lục Nhị, trực phương đại, bất tập vô bất lợi. ”
- “Sáu Hai, ngay thẳng, vuông vắn, to lớn, không học tập cũng vị tất là không có lợi.”
- Tượng “lục nhị chi động, trực dĩ phương dã ; ‘bất tạp vô bất lợi’, địa đạo quang dã” - Sự biến động của hào Sáu Hai theo hướng ngay thẳng và vuông vắn ; ‘không học tập vị tất là không có lợi’ là đạo nhu thuận của Đất phát ra hào quang.

43. Bính Ngọ - Thuần Cấn, hào 2
- “Lục Nhị, cấn kì phì, bất chửng kì tùy, kì tâm bất khoái.”
- “Sáu Hai, ghìm chặn sự cử động của cẳng chân, chưa thể bước lên đội kẻ vốn nên đi theo, trong lòng không được khoan khoái.”
- Tượng “bất chửng kì tùy, vị thoái chính dã” – hào Sáu Hai không thể bước lên đội kẻ vốn nên đi theo, lại không có cách nào lùi lại để nghe theo mệnh lệnh đang ghìm chặn (vì vậy trong long không khoan khoái).

44. Đinh Mùi – Thuần Đoài, hào 6
- “Thượng Lục, dẫn đoài.”
- “Sáu Trên, dụ dỗ người ta cùng vui.”
- Tượng “thượng lục dẫn đoài, vị quang dã” – hào Sáu Trên đạo vui vẻ chưa thể (không thể) sáng lớn.

45. Mậu Thân - Thuần Khảm, hào 4
- “Lục Tứ, tôn tửu, quỹ nhị, dụng phẫu, nạp ước tự dũ, chung vô cữu”
- “Sáu Bốn, một chén riệu nhạt, hai rá thức ăn đạm bạc, dùng vò sành thô lậu đựng các thứ trên (thành kính dâng biếu bậc tôn quý), nộp ước qua cửa sổ sáng, cuối cùng tránh được cữu hại.”
- Tượng “tôn tửu quỹ nhị, cương nhu tế dã” – Ý hào Chín Năm dương cứng và hào Sáu Bốn âm mềm giao tiếp với nhau.

46. Kỷ Dậu – Thuần Ly, hào 4
- “Cửu Tứ, đột như kì lai như, phần như, tử như, khí như”
- “Chín Bốn, đột nhiên hiện lên ráng bình minh đỏ rực, giống như ngọn lửa mạnh đang thiêu đốt, nhưng chỉ trong phút chốc sẽ bị tiêu tán, diệt vong, bị vứt bỏ trạch trơn.”
- Tượng “đột như kì lai như, vô sở dụng dã” – Cái hư thế của hào Chín Bốn, tất sẽ làm nó không nơi phụ bám, chứa chấp.

47. Canh Tuất - Thuần Chấn, hào 6
- “Thượng Lục, chấn tác tác, thị quắc quắc, chinh hung ; chấn bất vu kì cung, vu kì lân, vô cữu ; hôn cấu hữu ngôn”
- “Sáu Trên, lúc sấm động sợ đến nỗi hai chân co rúm lại không đi được, hai mắt nhớn nhác, cứ mạo hiểm tiến lên tất gặp hung hiểm ; nếu có thể khi sấm động còn chưa tới bản thân mình, mới tới nhà hàng xóm đã đề phòng trước, thì không gặp cữu hại ; nhưng nếu mong có được âm dương hôn phối, thì sẽ đi đến tranh cãi nhau.”
- Tượng “chấn tác tác, trung vị đắc dã ; tuy hung vô cữu, úy lân giới dã” – Hào Sáu Trên chưa ở được vào vị trí có thể ứng xử thích hợp được với đạo “trung” ; mặc dù có hung hiểm nhưng không có cữu hại gì, là do biết sợ tiếng sấm chấn động từ bên hàng xóm nên đã đề phòng trước.

48. Tân Hợi - Thuần Tốn, hào 2
- “Cửu Nhị, tốn tại sàng hạ, dụng sử, vu phân nhược cát, vô cữu”
- “Chín Hai, thuận theo nép ở dưới giường, nếu có thể noi theo thầy bói, thầy cúng, lấy sự khiêm nhún mà phụng sự thần linh thì sẽ được nhiều tốt lành, tất không cữu hại.”
- Tượng “phân nhược chi cát, đắc trung dã” - Sẽ được nhiều tốt lành, là vì hào Chín Hai có thể giữ giữa không lệch.

49. Nhâm Tý – Thuần Càn, hào 1
- “Sơ Cửu, tiềm long vật dụng.”
- “Chín Đầu, rồng lớn ẩn mình dưới nước, tạm thời chưa thi thố được tài năng.

50. Quý Sửu – Thuần Khôn, hào 4
- “Lục Tứ, quát nang, vô cữu vô dự.”
- “Sáu Bốn, thắt chặt miệng túi, tránh được tội lỗi (cữu hại) mà không cầu được khen.”
- Tượng “quát nang vô cữu, thận bất hại dã” - Hào Sáu Bốn tất phải thận trọng, cẩn thận mới có thể không gây ra tai họa.

51. Giáp Dần – Thuần Càn, hào 2
- “Cửu Nhị, hiện long tại điền, lợi hiện đại nhân”
- “Chín Hai, rồng lớn đã xuất hiện ở cánh đồng, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”

52. Ất Mão – Thuần Khôn, hào 3
- “Lục Tam, hàm chương khả trinh ; hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung”
- “Sáu Ba, ngậm chứa sự sáng đẹp của Dương cứng thì giữ được chính bền ; hoặc giúp dập cho sự nghiệp của đắng quân vương, khi thành công không quy công về mình, mà kính cẩn làm hết chức trách của kẻ bề tôi cho đến cùng.”
- Tượng “hàm chương khả trinh, dĩ thời phát dã ; hoặc tòng vương sự, tri quang đại dã” – hào Sáu Ba cần căn cứ vào thời cơ mà phát huy tác dụng ; hào Sáu Ba trí tuệ sáng láng, sâu rộng.

53. Bính Thìn - Thuần Cấn, hào 1
- “Sơ Lục, cấn kì chỉ, vô cữu, lợi vĩnh trinh”
- “Sáu Đầu, biết ghìm chặn ở ngón chân khi cất bước, tất vô cữu hại, lợi về sự giữ vững chính bề lâu dài.”
- Tượng “cấn kì chỉ, vị thất chính dã” – hào Sáu Đầu chưa từng vi phạm chính đạo.

54. Đinh Tị - Thuần Đoài, hào 1
- “Sơ Cửu, hòa duyệt, cát.”
- “Chín Đầu, dựu dàng, vui vẻ với người, tốt lành.”
- Tượng “hòa duyệt chi cát, hành vị nghi dã” – Hành vi của Chín Đầu đứng đắn mà không bị người ta nghi kị.

55. Mậu Ngọ - Thuần Khảm, hào 3
- “Lục Tam, lai chi khảm khảm, hiểm thả chẩm, nhập vu khảm tãm, vật dụng”
- “Sáu ba, tới lui đều ở trong vòng hiểm hãm, đi tới là hiểm lui lại khó an, rơi xuống hố sâu không thể thi thố tài dụng.”
- Tượng “lai chi khảm khảm, chung vô công dã” – hào Sáu Ba cuối cùng khó thành công trong sự “hành hiểm”.

56. Kỷ Mùi – Thuần Ly, hào 5
- “Lục Ngũ, xuất thế đà nhược, thích ta nhược, cát”
- “Sáu Năm, nước mắt chảy ròng ròng, ngậm ngùi than thở, (ở nơi tôn quý, được giúp dập, về cuối sẽ) tốt lành.”
- Tượng “lục ngũ chi cát, ly vương công dã” – hào Sáu Năm được phụ bám vào ngôi tôn quý của đấng vương công.

57. Canh Thân - Thuần Chấn, hào 5
- “Lục Ngũ, chấn vãng lai , lệ, ức vô táng, hữu sự”
- “Sáu Năm, khi sấm động thì bất kể là đi lên hay đi xuống đều có nguy hiểm ; nếu có thể thận trọng giữ đạo “trung” thì vạn lần cũng không thất thố một lần, có thể giữ lâu dài được việc trọng đại là việc tế tự.”
- Tượng “chấn vãng lai lệ, nguy hành dã ; kì sự tại trung, đại vô táng dã” – hào Sáu Năm cần thấy rõ sự nguy sợ mà thận trọng tiến lên, sử sự nên thận trọng giữ đạo “trung”.

58. Tân Dậu - Thuần Tốn, hào 3
- “Cửu Tam, tần tốn, lận.”
- “Chín Ba, ưu sầu không vui, miễn cưỡng thuận theo, sẽ có thẹn tiếc.”
- Tượng “tần tốn chi lân, chí cùng dã” – Tâm chí Chín Ba khốn cùng không hăng hái.

59. Nhâm Tuất – Thuần Càn, hào 6
- “Thượng Cửu, cang long hữu hối”
- “Chín Trên, rồng lớn bay cao đến cùng cực, cuối cùng sẽ có sự hối hận

60. Quý Hợi – Thuần Khôn, hào 5
- “Lục Ngũ, hoàng thường, nguyên cát.”
- “Sáu Năm, xiêm váy mầu vàng, hết sức tốt lành.”
- Tượng “hoàng thường nguyên cát, văn tại trung dã” – hào Sáu Năm lấy đức ôn hòa nhã nhặn để giữ vững đạo “trung”
Đầu trang

Hà Uyên
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 607
Tham gia: 14:20, 02/05/09

TL: DỊCH CAN CHI

Gửi bài gửi bởi Hà Uyên »

CHU KỲ 2


................................LỮ


....TIỂU SÚC................................PHỤC


...DỰ........................+......................KHỐN


.......BÍ..........................................CẤU


...............................TIẾT


1. Giáp Tý – Thiên Phong Cấu, hào 1
- “Sơ Lục, hệ vu kim nê, trinh cát ; hữu du vãng, kiến hung, luy thỉ phu trịnh trục”
- “Sáu Đầu, chặn ngay nó lại bằng cái “phanh” nhạy, cứng chắc, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; nếu vội đi lên thì tất nhiên sẽ có hung hiểm, giống như lợn cái nhảy nhót lung tung không thể ở yên.”
- Tượng viết “Hệ kim vu nê, nhu đạo khiên dã” – hào Sáu Đầu phải giữ đạo nhu thuận, chựu sự khống chế của dương cứng.

2. Ất Sửu - Địa Lôi Phục, hào 4
- “Lục Tứ, trung hàng độc phục”
- “Sáu Bốn, ở giữa hàng chính, một lòng trở lại.”
- Tượng viết “Trung hàng độc phục, dĩ tòng đạo dã” – hào Sáu Bốn theo về chính đạo.

3. Bính Dần – Sơn Hỏa Bí, hào 6
- “Thượng Cửu, bạch bí, vô cữu”
- “Chín Trên, văn sức bằng mầu trắng không diêm dúa, không có cữu hại”
- Tượng “Bạch bí vô cữu, thượng đắc chí dã” – hào Chín Trên hết sức toại chí do đạo văn sức chuộng về chất.

4. Đinh Mão - Trạch Thủy Khốn, hào 2
- “Cửu Nhị, khốn vu tửu thực, chu phất phương lai, lợi dụng hưởng tự ; chinh hung, vô cữu”
- “Chín Hai, riệu thịt mà nghèo nàn, cùng khốn, vinh lộc sẽ tới, lợi về sự chủ trì đại lễ tế tự nơi tông miếu ; lúc này tiến thủ tuy nhiều hung hiểm, nhưng không có gì cữu hại”
- Tượng “Khốn vu tửu thực, trung hữu khánh dã” – hào Chín Hai chỉ cần giữ vững đạo giữa thì sẽ có phúc khánh.

5. Mậu Thìn - Thủy Trạch Tiết, hào 2
- “Cửu Nhị, bất xuất môn đình, hung”
- “Chín Hai, (cố chấp mà tiết chế) không ra khỏi sân nhà, có hung hiểm.
- Tượng “Bất xuất môn đình, thất thời cực dã” – hào Chín Hai lỡ mất thời cơ thích hợp.

6. Kỷ Tị - Hỏa Sơn Lữ, hào 6
- “Thượng Cửu, điểu phần kì sào, lữ nhân tiên tiếu, hậu hào đào ; táng ngưu vu dị, hung”
- “Chín Trên, tổ chim trên cành cao bị cháy, kẻ lữ khách trước được ngôi cao vui mừng cười nói, sau bị tai ương kêu gào khóc lóc ; giống như mất trâu nơi bơt ruộng hoang xa, có hung hiểm”
- Tượng “Dĩ lữ tại thượng, kì nghĩa phần dã ; táng ngưu vu dị, chung mạc chi văn dã” – Làm một kẻ lữ khách, mà lại ở cao ngôi trên, về lý thì tất gặp họa cháy tổ ; mất trâu nơi cánh đồng hoang xa, nói lên hào Chín Trên ăn nhờ ở đậu gặp họa, cuối cùng sẽ không người hay biết.

7. Canh Ngọ - Lôi Địa Dự, hào 4
- “Cửu Tứ, do dự, đại hữu đắc ; vật nghi, bằng hạp trâm”
- “Chín Bốn, người khác nhờ ta mà vui, ta có thể thành công lớn được ; cứ thẳng thắn đừng nghi ngờ gì, bè bạn sẽ tụ tập lại theo ta, như cả đám tóc được gài lại nơi chiếc châm cài đầu”.
- Tượng “Do dự đại hữu đắc, chí đại hành dã” – Chí dương cứng của hào Chín Bốn được thực hành nhiều.

8. Tân Mùi – Phong Thiên Tiểu súc, hào 4
- “Lục Tứ, hữu phu ; huyết khứ thích xuất, vô cữu”
- “Sáu Bốn, nếu có sự thành tín với dưới thì sẽ tránh được sự buồn phiền, thoát được sự sợ hãi, như vậy tất sẽ “vô cữu hại”.
- Tượng “Hữu phu thích xuất, thượng hợp chí dã” – hào Sáu Bốn có ý chí tương hợp với bậc tôn thượng dương cứng.

9. Nhâm Thân – Thiên Phong Cấu, hào 5
- “Cửu Ngũ, dĩ khởi bao qua ; hàm chương, hữu vẫn tự nhiên”
- “Chín Năm, lấy cành lá cây khởi bao bọc che chở cây dưa hấu ở dưới ; trong lòng ngậm chứa sự sáng đẹp, tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trên trời xuống”.
- Tượng “Cửu Ngũ hàm chương, trung chính dã ; hữu vẫn tự nhiên, chí bất xả mệnh dã” – Trong lòng hào Chín Năm ngậm chứa sự sáng đẹp, là do ở ngôi giữa, giữ chính ; tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trời xuống, nói lên tâm chí Chín Năm không đi ngược mệnh trời.

10. Quý Dậu – Địa Lôi Phục, hào 6
- “Thượng Lục, mê phục, hung, hữu tai sảnh. Dụng hành sư, chung hữu đại bại ; dĩ kì quốc, quân hung: chí vu thập niên bất khắc chính”
- “Sáu Trên, mê lạc nhầm bước không biết đường trở lại, có hung hiểm, có tai ương họa hoạn. Nếu như dùng vào việc đem binh giao chiến, thì cuối cùng sẽ thảm bại ; dùng vào việc trị nước, điều hành chính sự, tất làm cho nước loạn, vua gặp hung hiểm, cho đến mười năm sau cũng không thể chấn hưng phát triển”.
- Tượng “Mê phục chi hung, phản quân đạo dã” – Do bởi Sáu Trên đi ngược với con đường, của đạo quân chủ dương cứng.

11. Giáp Tuất – Thiên Phong Cấu, hào 6 (11 = 59)
- “Thượng Cửu, cấu kỳ giác ; lận, vô cữu”
- “Chín Trên, gặp nơi trống vắng ; lòng có hối tiếc, nhưng không gặp cữu hại”.
- Tượng “Cấu kỳ giác, thượng cùng lận dã” – hào Chín Trên ở cao nơi cùng cực, nên dẫn đến sự hối tiếc là tương ngộ mà không người.

12. Ất Hợi - Địa Lôi Phục, hào 5 (12 = 60)
- “Lục Ngũ, đôn phục, vô hối”
- “Sáu Năm, đôn hậu, dốc lòng thành trở lại, không có gì phải hối hận”.
- Tượng “Đôn phục vô hối, trung dĩ tự khảo dã” – Ý nghĩa hào Sáu Năm ở ngôi giữa không lệch, đồng thời có thể tự xét mình, để thành được đạo phục thiện.

13. Bính Tý – Sơn Hỏa Bí, hào 5
- “Lục Ngũ, bí vu khâu viên, thúc bạch tiển tiển ; lận, chung cát”
- “Sáu Năm, văn sức ở gò vườn, mang một bó dải lụa mỏng (lễ vật đến mời kẻ hiền sỹ), mặc dù hào dưới không ứng mà có sự hối tiếc, nhưng hào trên lại ứng, cuối cùng sẽ tốt lành”.
- Tượng “Lục Ngũ chi cát, hữu hỷ dã” - Sự tốt lành của Sáu Năm nói lên tất có sự mừng.

14. Đinh Sửu - Trạch Thủy Khốn, hào 3
- “Lục Tam, khốn vu thạch, cứ vu tật lê ; nhập vu kỳ cung, bất kiến kỳ thê, hung”
- “Sáu Ba, khốn ở dưới đá lớn (đá rắn khó vào), dựa vào cây tật lê (nhiều gai khó dẫm) ; dù có chạy về nhà cũng không thấy vợ, có hung hiểm.
- Tượng “Cứ vu tật lê, thặng cương dã ; nhập vu kỳ cung, bất kiến kỳ thê, bất tường dã” - Dựa vào cây tật lê, nhiều gai khó dẫm, nói lên hào Sáu Ba lấy chất âm mềm cưỡi trên kẻ cương cường ; dù có chạy về nhà cũng không thấy vợ, đây là hiện tượng chẳng lành.

15. Mậu Dần - Thủy Trạch Tiết, hào 1
- “Sơ Cửu, bất xuất hộ đình, vô cữu”
- “Chín Đầu, (tiết chế thận trọng giữ gìn), không ra khỏi sân cổng nhà, tất không có cữu hại”.
- Tượng “Bất xuất hộ đình, tri thông tắc dã” – Không ra khỏi sân cổng nhà, nói lên hào Chín Đầu rất biết lẽ đường thông thì đi, đường bị ngăn thì dừng.

16. Kỷ Mão - Hỏa Sơn Lữ, hào 1
- “Sơ Lục, lữ tỏa tỏa, tư kỳ sở thủ tai”
- “Sáu Đầu, người lữ khách ngay từ đầu đã có hành động nhỏ nhen, ti tiện, ấy là tự chuốc lấy họa”.
- Tượng “Lữ tỏa tỏa, chí cùng tai dã” – Ngay từ đầu đã có hành động nhỏ nhen ti tiện, nói lên hào Sấu Đầu ý chí quẫn bách, tự chuốc lấy tai họa.

17. Canh Thìn – Lôi Địa Dự, hào 3
- “Lục Tam, vu dự hối ; trì hữu hối”
- “Hào Sáu Ba, xun xoe với trên để cầu vui, tất hối hận ; nếu tỉnh ngộ chậm tất lại sinh hối hận”.
- Tượng “Vu dự hữu hối, vị bất đáng dã” – Xun xoe tất có hối hận, nói lên hào Sáu Ba ngôi vị không chính đáng.

18. Tân Tị - Phong Thiên Tiểu súc, hào 5
- “Cửu Ngũ, hữu phu loan như, phú dĩ kỳ lân”
- “Chín Năm, có lòng thành tín, liên kết cả bầy dương cùng có lòng thành tín với một âm, dùng cái cứng của dương để làm giầu cho làng giềng”
- Tượng “Hữu phu loan như, bất độc phú dã” – Liên kết bầy dương thành tín với một âm, nói lên hào Chín Năm không riêng hưởng sự giầu có dương cứng.

19. Nhâm Ngọ - Thiên Phong Cấu, hào 4 (19 = 31)
- “Cửu Tứ, bào hữu ngư, khởi hung”
- “Chín Bốn, trong bếp mất một con cá, nổi lên sự cãi nhau, tất có hung hiểm”.
- Tượng “Vô ngư chi hung, viễn dân dã” - Mất một con cá là có hung hiểm, nói lên hào Chín Bốn ở quẻ trên, cũng như xa cách hạ dân, mất lòng dân.

20. Quý Mùi - Địa Lôi Phục, hào 1. (20 = 32)
- “Sơ Cửu, bất viễn phục, vô chỉ hối, nguyên cát”
- “Chín Đầu, chưa được bao xa đã quay trở lại đường chính, tất không gặp tai họa, không phải hối hận, hết sức tốt lành.
- Tượng “Bất viễn chi phục, dĩ tu thân dã” - Khởi đầu không xa đã quay trở lại, nói lên hào Chín Đầu khéo về việc sửa đẹp bản thân.

21. Giáp Thân – Thiên Phong Cấu, hào 5 (9 = 21)
- “Cửu Ngũ, dĩ khởi bao qua ; hàm chương, hữu vẫn tự nhiên”
- “Chín Năm, lấy cành lá cây khởi bao bọc che chở cây dưa hấu ở dưới ; trong lòng ngậm chứa sự sáng đẹp, tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trên trời xuống”.
- Tượng “Cửu Ngũ hàm chương, trung chính dã ; hữu vẫn tự nhiên, chí bất xả mệnh dã” – Trong lòng hào Chín Năm ngậm chứa sự sáng đẹp, là do ở ngôi giữa, giữ chính ; tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trời xuống, nói lên tâm chí Chín Năm không đi ngược mệnh trời.

22. Ất Dậu - Địa Lôi Phục, hào 6 (10 = 22)
- “Thượng Lục, mê phục, hung, hữu tai sảnh. Dụng hành sư, chung hữu đại bại ; dĩ kì quốc, quân hung: chí vu thập niên bất khắc chính”
- “Sáu Trên, mê lạc nhầm bước không biết đường trở lại, có hung hiểm, có tai ương họa hoạn. Nếu như dùng vào việc đem binh giao chiến, thì cuối cùng sẽ thảm bại ; dùng vào việc trị nước, điều hành chính sự, tất làm cho nước loạn, vua gặp hung hiểm, cho đến mười năm sau cũng không thể chấn hưng phát triển”.
- Tượng “Mê phục chi hung, phản quân đạo dã” – Do bởi Sáu Trên đi ngược với con đường, của đạo quân chủ dương cứng.

23. Bính Tuất – Sơn Hỏa Bí, hào 4
- “Lục Tứ, bí như, bà như, bạch mã hàn như ; phỉ khấu, hôn cấu”
- “Sáu Bốn, văn đức được đẹp đẽ thanh bạch đến nhường ấy, toàn thân một mầu trắng toát tới nhường ấy, ngồi trên con ngựa trắng lại thuần khiết vô tạp thanh bạch tới nhường ấy ; phía trước không có giặc mạnh, mà là lễ ăn hỏi của đôi giai ngẫu”.
- Tượng “Lục Tứ đương vị, nghi dã ; ‘phỉ khấu hôn cấu’, chung vô vưu dã” – hào Sáu Bốn đáng ngôi được chính, nhưng trong lòng mang mối nghi ngờ, sợ hãi ; Không phải giặc mạnh mà là lễ ăn hỏi, nói lên Sáu Bốn cứ bắt chấp đi đến và rút cục trong lòng không có sự oán trách gì.

24. Đinh Hợi - Trạch Thủy Khốn, hào 4
- “Cửu Tứ, lai từ từ, khốn vu kim xa, lận, hữu chung”
- “Chín Bốn, bị một cỗ xe sắt chặn lại, có điều ân hận ; nhưng cuối cùng được phối ngẫu như nguyện”.
- Tượng “Lai từ từ, chí tại hạ dã, tuy bất đương vị, hữu dư dã” - Đến một cách từ từ nghi ngại, tâm chí Chín Bốn ở nơi cầu hợp với hào Sáu Đầu ở dưới ; mặc dầu ngôi vị không thỏa đáng, nhưng do đến một cách khiêm cẩn, nên tất có thể đẹp lòng như nguyện.

25. Mậu Tý - Thủy Trạch Tiết, hào 6
- “Thượng Lục, khổ tiết ; trinh hung, hối vong”
- “Sáu Trên, tiết chế quá mức, khiến người ta quá khổ sở ; nên giữ vững chính bền để phòng hung hiểm, thì hối hận có thể tiêu vong”.
- Tượng “Khổ tiết trinh hung, kỳ đạo cùng dã” - Tiết chế quá mức khiến người ta quá khổ sở, nói lên đạo tiết chế của Sáu Trên đã khốn cùng.

26. Kỷ Sửu - Hỏa Sơn Lữ, hào 2
- “Lục Nhị, lữ tức thứ, hoài kỳ tư, đắc đồng bộc, trinh”
- “Sáu Hai, kẻ lữ khách thuê ở nơi quán trọ, giữ được tiền bạc, lại có đầy tớ, nên giữ vững chính bền”.
- Tượng “Đắc đồng bộc trinh, chung vô vưu dã” – hào Sáu Hai cuối cùng sẽ không có gì phải quá oán.

27. Canh Dần – Lôi Địa Dự, hào 2
- “Lục Nhị, giới vu thạch, bất chung nhật, trinh cát”.
- “Sáu Hai, chí vững như đá, không đợi đến hết ngày (mà biết được rằng sự vui phải có mức độ), giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng “Bất chung nhật trinh cát, dĩ trung chính dã” – Không đợi ngày mà biết, vì Sáu Hai đã trung, lại chính.

28. Tân Mão – Phong Thiên Tiểu súc, hào 6
- “Thượng Cửu, ký vũ ký xử, thượng đức tái ; phụ trinh lệ, nguyệt cơ vọng, quân tử chinh hung”.
- “Chín Trên, mây dầy đã đổ mưa, dương cứng đã bị ngăn cản, dương đức ở cực cao bị khí âm tích chứa ; lúc này người vợ phải giữ vững chính bền, để đề phòng nguy hiểm, phải như trăng sáng sắp tròn mà không quá đầy, người quân tử nếu cứ thẳng tiến sẽ gặp hung”.
- Tượng “Ký vũ ký xử, đức tính tái dã ; ‘quân tử chinh hung’, hữu sở nghi dã” - Thẳng tiến sẽ gặp hung, nếu cứ đi lên trước, thì sẽ khiến chất dương bị âm khí ngưng tụ làm cho biến hóa hết.

29. Nhâm Thìn – Thiên Phong Cấu, hào 3 (29 = 41)
- “Cửu Tam, đôn vu phu, kỳ hành tư thư ; lệ, vô đại cữu”
- “Chín Ba, mông mất da, đi lại chập chững khó tiến ; có nguy hiểm, nhưng không có cữu hại lớn”.
- Tượng “Kỳ hành tư thư, hành vi khiên dã” – Đi lại khó tiến, nói lên Chín Ba chưa từng khống chế được kẻ khác (vì vậy tuy không gặp được ai mà không bị hại về kẻ âm tà).

30. Quý Tị - Địa Lôi Phục, hào 2 (30 = 42)
- “Lục Nhị, hưu phục, cát”
- “Hào Sáu Hai, sự trở lại đẹp đẽ, tốt lành”.
- Tượng “Hưu phục chi cát, dĩ hạ nhân dã” – hào Sáu Hai có thể cúi xuống thân cận với người có đức nhân.

31. Giáp Ngọ - Thiên Phong Cấu, hào 4 (31 = 19)
- “Cửu Tứ, bào hữu ngư, khởi hung”
- “Chín Bốn, trong bếp mất một con cá, nổi lên sự cãi nhau, tất có hung hiểm”.
- Tượng “Vô ngư chi hung, viễn dân dã” - Mất một con cá là có hung hiểm, nói lên hào Chín Bốn ở quẻ trên, cũng như xa cách hạ dân, mất lòng dân.

32. Ất Mùi - Địa Lôi Phục, hào 1 (32 = 20)
- “Sơ Cửu, bất viễn phục, vô chỉ hối, nguyên cát”
- “Chín Đầu, chưa được bao xa đã quay trở lại đường chính, tất không gặp tai họa, không phải hối hận, hết sức tốt lành.
- Tượng “Bất viễn chi phục, dĩ tu thân dã” - Khởi đầu không xa đã quay trở lại, nói lên hào Chín Đầu khéo về việc sửa đẹp bản thân.

33. Bính Thân – Sơn Hỏa Bí, hào 3
- “Cửu Tam, bí như, nhu như, vĩnh trinh cát”
- “Chín Ba, văn sức được đẹp đẽ đến nhường ấy, nhiều lần ban huệ trạch cho người, giữ vững sự chính bền được lâu dài, sẽ được sự tốt lành”.
- Tượng “Vĩnh trinh chi cát, chung mạc chi lăng dã” – ‘Giữ vững chính bền được lâu dài, sẽ được sự tốt lành’, nói lên Chín Ba có thể làm được như vậy, thì không bao giờ bị kẻ khác lấn nhờn.

34. Đinh Dậu - Trạch Thủy Khốn, hào 5
- “Cửu Ngũ, tị ngoạt, khốn vu xích phất ; nãi từ hữu thoát, lợi dụng tế tự”
- “Chín Năm, dùng hình phạt xẻo mũi, chặt chân, để trị chúng dân, đến nỗi ở ngôi tôn quý mà bị khốn cùng ; nhưng có thể dần dần thoát khỏi cảnh khốn, lợi về sự làm lễ tế”.
- Tượng “Tị ngoạt, chí vị đắc dã ; nãi từ hữu thoát, dĩ trung trực dã ; lợi dụng tế tự, thụ phúc dã” – Dùng hình phạt để trị chúng dân, nói lên tâm chí vượt khốn của Chín Năm chưa thể gọi là đạt ; ‘dần thoát khỏi cảnh khốn’, đây là kết quả của sự giữ vững đạo cương trung, chính trực ; ‘lợi làm tế lễ’, như vậy thì có thể thừa hưởng phúc trạch của thần linh ban giáng.

35. Mậu Tuất - Thủy Trạch Tiết, hào 5
- “Cửu Ngũ, cam tiết, cát ; vãng hữu thượng”
- “Chín Năm, tiết chế một cách thích đáng, khiến người ta cảm thấy đẹp đẽ vừa phải, tốt lành ; tiến về phía trước, tất được tôn sùng”.
- Tượng “Cam tiết chi cát, vị cư trung dã” – Do bởi vậy là vì Chín Năm ở cao ngôi giữa, được chính.

36. Kỷ Hợi - Hỏa Sơn Lữ, hào 3
- “Cửu Tam, lữ phần kỳ thứ, táng kỳ đồng bộc, trinh lệ”
- “Chín Ba, kẻ lữ khách (quá cứng nóng vội), bị cháy nhà trọ, lạc mất đầy tớ ; nên giữ vững chính bề đề phòng hung hiểm”.
- Tượng “Lữ phần kỳ thứ, diệc dĩ thương hỹ ; dĩ lữ dữ hạ, kỳ nghĩa táng dã” - Bị cháy nhà trọ, cũng do vậy mà Chín Ba bị tổn thương ; kẻ lữ khách mà chuyên gia ơn cho kẻ dưới, lẽ tất nhiên sẽ dẫn đến táng vong.

37. Canh Tý – Lôi Địa Dự, hào 1
- “Sơ Lục, minh dự, hung”
- “Sáu Đầu, quá vui mà reo mừng đắc ý, có hung hiểm”.
- Tượng “Sơ lục minh dự, chí cùng hung dã” – Quá vui, chí cùng cực của sự vui vẻ sẽ đưa đến hung hiểm.

38. Tân Sửu – Phong Thiên Tiểu súc, hào 1
- “Sơ Cửu, phục tự đạo, hà kỳ cữu ? cát”
- “Chín Đầu, trở về đạo dương cứng của mình, có cữu hại gì đâu ? Tốt lanh”.
- Tượng “Phục tự đạo, kỳ nghĩa cát dã” – Quay trở về đạo dương cứng của mình, hành vi của Chín Đầu là thích hợp, có được sự tốt lành.

39. Nhâm Dần – Thiên Phong Cấu, hào 2 (39 = 51)
- “Cửu nhị, bao hữu ngư, vô cữu ; bất lợi tân”.
- “Chín Hai, trong bếp có một con cá, không có gì cữu hại ; nhưng bất lợi nếu cứ tự tiện dùng nó để mời tiếp khách”.
- Tượng “Bào hữu ngư, nghĩa bất cập tân dã” – Trong bếp thấy có một con cá, xét theo ý nghĩa về sự không tương ứng giữa Chín Hai và Sáu Đầu, thì không thể tự tiện dùng (cá) để mời khách đến ăn.

40. Quý Mão - Địa Lôi Phục, hào 3 (40 = 52)
- “Lục Tam, tần phục, lệ vô cữu”.
- “Sáu Ba, nhăn mày gắng gượng trở lại, tuy có nguy hiểm nhưng không có cữu hại”.
- Tượng “Tần phục chi lệ, nghĩa vô cữu dã” - Sự nguy hiểm của việc nhăn mày gắng gượng trở lại, xét về nghĩa của vật hào Sáu Ba cố gắng phục thiện thì không có cữu hại.

41. Giáp Thìn – Thiên phong Cấu, hào 3 (41 = 29)
- “Cửu Tam, đôn vu phu, kỳ hành tư thư ; lệ, vô đại cữu”
- “Chín Ba, mông mất da, đi lại chập chững khó tiến ; có nguy hiểm, nhưng không có cữu hại lớn”.
- Tượng “Kỳ hành tư thư, hành vi khiên dã” – Đi lại khó tiến, nói lên Chín Ba chưa từng khống chế được kẻ khác (vì vậy tuy không gặp được ai mà không bị hại về kẻ âm tà).

42. Ất Tị - Địa Lôi Phục, hào 2 (42 = 30)
- “Lục Nhị, hưu phục, cát”
- “Sáu Hai, sự trở lại đẹp đẽ, tốt lành”.
- Tượng “Hưu phục chi cát, dĩ hạ nhân dã” – hào Sáu Hai có thể cúi xuống thân cận với người có đức nhân.

43. Bính Ngọ - Sơn Hỏa Bí, hào 2
- “Lục Nhị, bí kỳ tu”
- “Sáu Hai, văn sức bộ râu đẹp cho bậc tôn quý”.
- Tượng “Bí kỳ tu, dĩ thưỡng hưng dã” – hào Sáu Hai và Chín Ba đồng tâm một lòng dấy lên văn sức cho nhau, Dựa theo ngôi vị chỗ đứng, được ngôi mà không ứng.

44. Đinh Mùi - Trạch Thủy Khốn, hào 6
- “Thượng Lục, khốn vu cát lũy, vu niết ngột ; viết động hối hữu hối, chinh cát”.
- “Sáu Trên, bị khốn trong đám sắn dây chằng chịt, lại bị khốn ở nơi lung lay nghiêng ngả, nên suy nghĩ một chút ; đã động rồi sau hối thì sẽ biết hối ngay, như vậy nếu đi lên tất được tốt lành.
- Tượng “Khốn vu cát lũy, vị đáng dã ; ‘động hối hữu hối’, cát hành dã” - Khốn trong đám sắn dây, nói lênđịa vị của Sáu Trên chưa từng ổn đáng. ‘động rồi sau hối’, nói lên cứ làm ngay đi thì có thể giải trừ khốn mà được tốt lành.

45. Mậu Thân - Thủy trạch Tiết, hào 4
- “Lục Tứ, an tiết, hanh”
- “Sáu Bốn, yên lòng tự tiết chế, hanh thông”.
- Tượng “An tiết chi hanh, thừa tượng đạo dã” – hào Sáu Bốn nghiêm cẩn giữ đạo “thuận thừa” bậc tôn trưởng.

46. Kỷ Dậu - Hỏa Sơn Lữ, hào 4
- “Cửu Tứ, lữ vu xử, đắc kỳ tư phủ, ngã tâm bất khoái”
- “Chín Bốn, kẻ lữ khách chưa được yên ổn tại nơi ở tạm, như được búa sắc chặt bỏ gai góc, nhưng trong long ta chẳng sướng”.
- Tượng “Lữ vu xử, vị đắc vị dã” – Chín Bốn chưa thể được ở ngôi chính đáng.

47. Canh Tuất – Lôi Địa Dự, hào 6
- “Thượng Lục, minh dự thành, hữu du vô cữu”
- “Sáu Trên, đã thành hậu qủa xấu, vì mê muội trong hoan lạc, sửa lỗi sớm thì không nguy hại”.
- Tượng “Minh dự tại thượng, hà khả trường dã” - Mê muội trong hoan lạc ở ngôi trên, sự vui vẻ này làm sao có thể giữ được lâu dài !.

48. Tân Hợi – Phong Thiên Tiểu súc, hào 2
- “Cửu Nhị, khiên phục, cát”
- “Chín Hai, được dắt quay trở lại đạo dương cứng, tốt lành”.
- Tượng “Khiên phục tại trung, diệc bất tự thất dã” - được quay trở lại đạo dương cứng, ở ngôi giữa, nói lên hào Chín Hai cũng có thể không để tự mất dương đức.

49. Nhâm Tý – Thiên Phong Cấu, hào 1 (1= 49)
- “Hệ vu kim nê, trinh cát ; hữu du vãng, kiến hung, luy thỉ phu trịnh trục”
- “Sáu Đầu, chặn ngay nó lại bằng cái “phanh” nhạy, cứng chắc, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; nếu vội đi lên thì tất nhiên sẽ có hung hiểm, giống như lợn cái nhảy nhót lung tung không thể ở yên”.
- Tượng viết “Hệ kim vu nê, nhu đạo khiên dã” – hào Sáu Đầu phải giữ đạo nhu thuận, chựu sự khống chế của dương cứng.

50. Quý Sửu - Địa Lôi Phục, hào 4 (2 = 50)
- “Lục Tứ, trung hàng độc phục”
- “Sáu Bốn, ở giữa hàng chính, một lòng trở lại”
- Tượng “Trung hàng độc phục, dĩ tòng đạo dã” – hào Sáu Bốn theo về chính đạo.

51. Giáp Dần – Thiên Phong Cấu, hào 2 (51 = 39)
- “Cửu Nhị, bao hữu ngư, vô cữu ; bất lợi tân”.
- “Chín Hai, trong bếp có một con cá, không có gì cữu hại ; nhưng bất lợi nếu cứ tự tiện dùng nó để mời tiếp khách”.
- Tượng “Bào hữu ngư, nghĩa bất cập tân dã” – Trong bếp thấy có một con cá, xét theo ý nghĩa về sự không tương ứng giữa Chín Hai và Sáu Đầu, thì không thể tự tiện dùng (cá) để mời khách đến ăn.

52. Ất Mão - Địa Lôi Phục, hào 3 (52 = 40)
- “Lục Tam, tần phục, lệ vô cữu”.
- “Sáu Ba, nhăn mày gắng gượng trở lại, tuy có nguy hiểm nhưng không có cữu hại”.
- Tượng “Tần phục chi lệ, nghĩa vô cữu dã” - Sự nguy hiểm của việc nhăn mày gắng gượng trở lại, xét về nghĩa của vật hào Sáu Ba cố gắng phục thiện thì không có cữu hại.

53. Bính Thìn – Sơn Hỏa Bí, hào 1
- “Sơ Cửu, bí kỳ chỉ, xả xa nhi đồ”
- “Chín Đầu, văn sức cho ngón chân của mình, bỏ xe lớn mà cam lòng đi bộ”
- Tượng “Xả xa nhi đồ, nghĩa phất thừa dã” – Cam lòng đi bộ, là do xét về ngôi vị mà hào Chín Đầu đang ở thì không nên đi xe lớn. Bỏ thuyền xuống nước. Bỏ chỗ ích lợi mà tìm đến nơi tổn hại.

54. Đinh Tị - Trạch Thủy Khốn, hào 1
- “Sơ Lục, đồn khốn vu châu mộc, nhập vu u cốc, tam tuế bất dịch”
- “Sáu Đầu, mông bị khốn ở dưới gốc cây, không thể ở yên, chỉ lui vào nơi sơn cốc u tối, ba năm không thấy ló mặt.
- Tượng “Nhập u vu cốc, u bất minh dã” - Chỉ còn cách lui vào nơi sơn cốc u tối, nói lên hào Sáu Đầu ẩn thân tạm bợ nơi u ám, không sáng sủa.

55. Mậu Ngọ - Thủy Trạch Tiết, hào 3
- “Lục Tam, bất tiết nhược, tắc ta nhược, vô cữu”
- “Sáu Ba, không tiết chế được, nhưng biết than vãn tự hối, thì có thể tránh được cữu hại”.
- Tượng “Bất tiết chi ta, hựu thùy cữu dã” – Không tiết chế được, nhưng biết tự hối, hỏi còn kẻ nào dám đổ lỗi cho nữa !

56. Kỷ Mùi - Hỏa Sơn Lữ, hào 5
- “Lục Ngũ, xạ trĩ, nhất thỉ vong ; chung dĩ dự mệnh”
- “Sáu Năm, bắn con chim trĩ, mất một mũi tên (mặc dù có tổn thất nhưng), sau được tiếng khen và được ban tước lệnh.
- Tượng “Chung dĩ cư mệnh, thượng đãi dã” - Được khen và ban tước mệnh, nói lên Sau Năm có thể theo kịp người trên.

57. Canh Thân – Lôi Địa Dự, hào 5
- “Lục Ngũ, trinh tật, hằng bất tử”
- “Sáu Năm, giữ chính phòng bệnh, tất sẽ khỏe lâu không chết”
- Tượng “Lục Ngũ trinh tật, thừa cương dã ; hằng bất tử, trung vị vong dã” – Hào Sáu Năm tất phải giữ chính phòng bệnh, nói lên âm mềm đội dương cứng khó tránh nguy hiểm hoạn nạn ; ‘Khỏe lâu không chết’, là vì ở giữa không lệch, thì vị tất đã bại vong.

58. Tân Dậu – Phong Thiên Tiểu súc, hào 3
- “Cửu Tam, dư thoát bức, phu thê phản mục”
- “Chín Ba, nan hoa bánh xe đứt hết, vợ chồng ly dị mỗi người một hướng”.
- Tượng “Phu thê phản mục, bất năng chính thất dã” - Vợ chồng ly dị, hào Chín Ba không làm cho nhà cửa được nghiêm chỉnh.

59. Nhâm Tuất – Thiên Phong Cấu, hào 6 (59 = 11)
- “Cấu kỳ giác ; lận, vô cữu”
- “Chín Trên, gặp nơi trống vắng ; lòng có hối tiếc, nhưng không gặp cữu hại”.
- Tượng “Cấu kỳ giác, thượng cùng lận dã” – hào Chín Trên ở cao nơi cùng cực, nên dẫn đến sự hối tiếc là tương ngộ mà không người.

60. Quý Hợi - Địa Lôi Phục, hào 5 (60 = 12)
- “Lục Ngũ, đôn phục, vô hối”
- “Sáu Năm, đôn hậu, dốc lòng thành trở lại, không có gì phải hối hận”.
- Tượng “Đôn phục vô hối, trung dĩ tự khảo dã” – Ý nghĩa hào Sáu Năm ở ngôi giữa không lệch, đồng thời có thể tự xét mình, để thành được đạo phục thiện.
Đầu trang

Hà Uyên
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 607
Tham gia: 14:20, 02/05/09

TL: DỊCH CAN CHI

Gửi bài gửi bởi Hà Uyên »

CHU KỲ 3



................................ĐỈNH


......GIA NHÂN................................LÂM


...GIẢI........................+.........................TỤY


......ĐẠI SÚC..................................ĐỘN


................................TRUÂN


1. Giáp Tý – Thiên Sơn Độn, hào 1 (G. Tý – N. Tý) (1 = 49)
- “Sơ lục, độn vỹ ; lệ, vật dụng hữu du vãng”
- “Sáu Đầu, trốn tránh không kịp mà lại rơi vào phần đuôi, có nguy hiểm, không nên có sự đi”.
- Tượng “Độn vỹ chi lệ, bất vãng, hà tai dã” - Trốn tránh lại rơi vào phần đuôi có nguy hiểm, nhưng lúc này, nếu không đi lên phía trước, thì có tai họa gì đâu !

2. Ất Sửu - Địa Trạch Lâm, hào 4 (2 = 50)
- “Lục Tứ, chí lâm, vô cữu”
- “Sáu Bốn, hết sức gìn giữ để tới gần giám sát mọi người, tất vô cữu hại”.
- Tượng “Chí lâm vô cữu, vị đáng dã” – hào này ở ngôi chính đáng.

3. Bính Dần – Sơn Thiên Đại súc, hào 6
- “Thượng Cửu, hà thiên chi cù, hanh”
- “Chín Trên, đường trời sao mà thông suốt đến vậy, hanh thông”
- “Tượng “Hà thiên chi cù, đạo đại hành dã” – nói rằng, đạo chứa đức của Chín Trên hết sức thông suốt”.

4. Đinh Mão - Trạch Địa Tụy, hào 2
- “Lục Nhị, dẫn cát, vô cữu ; phu nãi lợi dụng Thược”
- “Sáu Hai, được người dẫn dắt mà tụ hội với nhau thì được tốt lành, không dẫn đến cưu hại ; chỉ cần trong lòng thành tín, thì sẽ làm cho lễ “tế Thược” đơn sơ cũng lợi về sự dâng hiến cho thần linh”
- Tượng “Dẫn cát vô cữu, trung vị biến dã” – Tâm chí ở ngôi giữa giữ chính đạo của Sáu Hai chưa từng biến đổi.

5. Mậu Thìn - Thủy Lôi Truân, hào 2
- “Lục Nhị, Truân như, chiên như. Thừa mã ban như, phỉ khấu hôn cấu, nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự”
- “Sáu Hai, thời khai sáng buổi đầu rất nhiều gian nan, dùng dằng loanh quanh chẳng tiến. Người cưỡi ngựa dập dừu tới, nhưng họ không phải là bọn cường đạo, mà là những người đến cầu hôn ; Người con gái giữ vững chính bền không vội lấy chồng, chờ mười năm sau mới kết lương duyên”
- Tượng “Lục nhị chi nan, thừa cương dã ; thập niên nãi tự, phản thường dã” – Sáu Hai khó đi không tiến, là do âm mềm cưỡi trên dương cứng. Chờ mười năm là để nói ý “nan cực thì đến lúc thông”, mọi việc lại quay trở lại bình thường.

6. Kỷ Tị - Hỏa Phong Đỉnh, hào 6
- “Thượng Cửu, đỉnh ngọc huyễn, đại cát, vô bất lợi”
- "Chín Trên, vạc có đòn bằng ngọc, hết sức tốt lành, không gì không lợi”
- Tượng “Ngọc huyễn tại thượng, cương nhu tiết dã” – Đòn vạc bằng ngọc ở cao phía trên, là chỉ Chín Trên dương cứng có thể điều tiết bằng âm mềm.

7. Canh Ngọ - Lôi Thủy Giải, hào 4
- “Cửu tứ, giải nhi mẫu, bằng chí tư phu”
- “Chín Bốn, lìa bỏ kẻ tiểu nhân dính bám, giống như thư giải cái tật kín ở ngón chân cái, sau đó bạn bè mới tới mà ứng với lòng thành tín”
- Tượng “Giải nhi mẫu”, vị đáng vị dã” - rằng ngôi của Chín Bốn còn chưa thỏa đáng.

8. Tân Mùi – Phong Hỏa Gia nhân, hào 4
- “Lục Tứ, phú gia, đại cát”
- “Sáu Bốn, làm giầu cho nhà, hết sức tốt lành”
- Tượng “Phú gia đại cát, thuận tại vị” – Làm giâu cho nhà, là do Sáu Bốn thụân, đội hào dương cứng ở ngôi tôn quý.

9. Nhâm Thân – Thiên Sơn Độn, hào 5 (9 = 21)
- “Cửu Ngũ, gia độn, trinh cát”
- “Chín Năm, kịp thời làm đẹp mà trốn lánh, giữ vững chính bền thì được tốt lành”
- Tượng “Gia độn trinh cát, dĩ chính chí dã” – Chín Năm có tâm chí lánh trốn chính đính.

10- Quý Dậu – Địa Trạch Lâm, hào 6 (10 = 22)
- “Thượng Lục, đôn lâm, cát, vô cữu”
- “Sáu Trên, ôn nhu đôn hậu mà tới với mọi người, tốt lành, tất vô cữu hại”
- Tượng “Đôn lâm chi cát, chí tại nội dã” – Ý tâm chí của Sáu Trên gắn bó với đất nước, thiên hạ.

11. Giáp Tuất – Thiên Sơn Độn, hào 6 (11 = 59)
- “Thượng Cửu, phì đôn, vô bất lợi”
- “Chín Trên, cao chạy xa bay, không có gì không lợi”.
- Tượng “Phì độn vô bất lợi” – Chín Trên không hoài nghi lưu luyến gì.

12. Ất Hợi – Địa Trạch Lâm, hào 5 (12 = 60)
- “Lục Ngũ, tri lâm, đại quân chi nghi, cát”
- “Lục Ngũ, đến với mọi người bằng sự thông tuệ minh trí ; bậc đại quân vương nên như vậy, tốt lành”
- Tượng “Đại quân chi nghi, hành trung chi vị dã” - Bậc đại quân vương nên như vậy, nói lên Lục Ngũ tất phải đi theo trung đạo.

13. Bính Tý – Sơn Thiên đại súc, hào 5
- “Lục Ngũ, phần thỉ chi nha, cát”
- “Sáu Năm, bẻ nanh con lợn thiến, tốt lành”.
- Tượng “Lục Ngũ chi cát, hữu khánh dã” - cái tốt lành của Sáu Năm nói lên ý “ngăn kẻ mạnh” đúng phép, đáng được chúc mừng.

14. Đinh Sửu – Trạch Địa Tụy, hào 3
- “Lục Tam, tụy như ta như, vô du lợi ; vãng vô cữu, tiểu lận”.
- “Sáu Ba, (muốn) tụ hội (mà) không người, nên luôn miệng ca thán, không được lợi gì ; đi lên sẽ không có cữu hại, nhưng có sự đáng tiếc nhỏ”.
- Tượng “Vãng vô cữu, thượng tốn dã” – Đi lên trước không có cữu hại, nói lên Sáu Ba có thể hướng lên trên, thuận theo với dương cứng.

15. Mậu Dần – Thủy Lôi Truân, hào 1
- “Sơ Cửu, bàn hoàn, lợi cư trinh, lợi kiến hầu”.
- “Chín Đầu, loanh quanh, lợi về sự ở yên, giữ vững chính bền, lợi về việc kiến lập chư hầu”.
- Tượng “Tuy bàn hoàn, chí hành chính dã ; ‘dĩ quý hạ tiện’ đại đắc dân dã” - Mặc dầu loanh quanh, nhưng hành vi tâm chí đều giữ được đoan chính ; thân phận tôn quý mà lại ở ngôi thấp, nói lên Chín Đầu sẽ rất được lòng dân.

16. Kỷ Mão – Hỏa Phong Đỉnh, hào 1
- “Sơ Lục, đỉnh điên chỉ, lợi xuất bĩ ; đắc thiếp dĩ kỳ tử, vô cữu”
- “Sáu Đầu, vạc đổ chổng chân, lợi về sự đổ đồ phế bỏ ; như lấy được người thiếp sinh ra con, đỡ đần người vợ cả, tất không cữu hại”.
- Tượng “Đỉnh điên chỉ, vị bội dã ; ‘lợi xuất bĩ’ dĩ tòng quý dã” - Vạc đổ chổng chân, vị tất đã là trái lẽ ; ‘Lợi về sự đổ đồ phế bỏ’ nói lên Sáu Đầu nên theo lên với bậc tôn quý (đợi đưa vật phẩm mới vào). Thải đồ phế bỏ để nhận vật mới.

17. Canh Thìn – Lôi Thủy Giải, hào 3
- “Lục Tam, phụ thả thừa, chí khấu chí ; trinh lận”.
- “Sáu Ba, mang đội vật nặng mà ngồi xe lớn, tất xúi bọn cướp đến cướp ; giữ vững chính bền để phòng hối tiếc”.
- Tượng “Phụ thử thừa, diệc khả xú dã, tự ngã chí nhung, hữu thùy cữu dã” – Mang đội vật nặng mà ngồi xe lớn, ấy là nói hành vi của Sáu Ba rất xấu xa, do bản thân không có đức, trộm ngôi mà đưa nạn binh nhung đến, như vậy thì còn quy lỗi vào ai được ?

18. Tân Tị - Phong Hỏa Gia nhân, hào 5
- “Cửu Ngũ, vương cách hữu gia, vật tuất, cát”.
- “Chín Năm, đấng quân vương lấy đức đẹp cảm cách chúng dân, sau đó bảo vệ nhà mình, không phải lo lắng, tốt lành”.
- Tượng “Vương cách hữu gia, giao tương ái dã” - Lấy đức đẹp cảm cách chúng dân, nói lên lúc này người người đều thân ái, hòa mục với nhau.

19. Nhâm Ngọ - Thiên Sơn Độn, hào 4 (19 = 31)
- “Cửu Tứ, hiếu độn, quân tử cát, tiểu nhân bĩ”
- “Chín Bốn, trong lòng lưu luyến mà thân mình thì đã trốn lánh, người quân tử đương tốt lành, kẻ tiểu nhân không thể làm được”.
- Tượng “Quân tử hiếu độn, tiểu nhân bĩ dã” - Người quân tử trong lòng lưu luyến, mà thân thì đã trốn lánh, kẻ tiểu nhân không thể làm được. Cái “thần” của sự “tri cơ”, ai là người sẽ làm được vậy.

20. Quý Mùi – Địa Trạch Lâm hào 1 (20 = 32)
- “Sơ Cửu, hàm lâm, trinh cát”
- “Chín Đầu, cảm ứng với bậc tôn quý mà thực hiện việc “giám lâm”, giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng “Hàm lâm trinh cát, chí hành chính dã” – Tâm chí và hành vi chí hướng của Chín Đầu đoan chính không a dua.

21. Giáp Thân – Thiên Sơn Độn, hào 5 (21 = 9)
- “Cửu Ngũ, gia độn, trinh cát”
- “Chín Năm, kịp thời làm đẹp mà trốn lánh, giữ vững chính bền thì được tốt lành”
- Tượng “Gia độn trinh cát, dĩ chính chí dã” – Chín Năm có tâm chí lánh trốn chính đính.

22. Ất Dậu – Địa Trạch Lâm, hào 6 (22 = 10)
- “Thượng Lục, đôn lâm, cát, vô cữu”
- “Sáu Trên, ôn nhu đôn hậu mà tới với mọi người, tốt lành, tất vô cữu hại”
- Tượng “Đôn lâm chi cát, chí tại nội dã” – Ý tâm chí của Sáu Trên gắn bó với đất nước, thiên hạ.

23. Bính Tuất – Sơn Thiên Đại súc, hào 4
- “Lục Tứ, đồng ngưu chi cốc, nguyên cát”.
- “Sáu Bốn, buộc gông lên đầu nghé không sừng, hết sức tốt lành”.
- Tượng “Lục Tứ nguyên cát, hữu hỷ dã” – Sáu Bốn hết sức tốt lành, nói lên ý “ngăn kẻ mạnh” có phương pháp, đáng được vui mừng.

24. Đinh Hợi – Trạch Địa Tụy, hào 4
- “Cửu Tứ, đại cát, vô cữu”
- “Chín Bốn, hết sức tốt lành, tất không có cữu hại”.
- Tượng “Đại cát vỗ cữu, vị bất đáng dã” – Đã quá tốt lành, lại phải ‘tất không cữu hại’, nói lên ngôi vị của Chín Bốn còn rất không thỏa đáng.

25. Mậu Tý – Thủy Lôi Truân, hào 6
- “Thượng Lục, thừa mã ban như, khấp huyết liên như”.
- “Sáu Trên, người cưỡi ngựa muốn cầu hôn phối (nhưng lại không có được sự cảm ứng), nên thương tâm khóc đến nỗi máu mắt chảy đầm đìa”.
- Tượng “Khấp huyết liên như, hà khả trường dã” – Khóc đến nỗi nước mắt chảy đầm đìa, nói lên Sáu Trên làm sao mà có thể trường cửu như vậy được.

26. Kỷ Sửu – Hỏa Phong Đỉnh, hào 2
- “Cửu Nhị, đỉnh hữu thực ; ngã cừu hữu tật, bất khả năng tức, cát”
- “Chín Hai, trong vạc chứa đầy vật phẩm ; người phối ngẫu với ta, thân có tật bệnh, tạm thời không đến làm tăng gánh nặng cho ta, tốt lành”.
- Tượng “Đỉnh hữu thực, thận sở chi dã ; ‘ngã cừu hữu tật’, chung vô vưu dã” – Trong vạc chứa đầy vật phẩm, ý nói rằng Chín Hai phải cẩn thận khi đi lên ; ‘người phối ngẫu với ta thân có tật bệnh’, nói lên Chín Hai tạm thời chưa ứng được với Sáu Năm, cuối cùng không có điều gì phải trách cứ.

27. Canh Dần – Lôi Thủy Giải, hào 2
- “Cửu Nhị, điền hoạch tam hồ, đắc hoàng thỉ ; trinh cát”.
- “Chín Hai, đi săn bắt được ba con cáo, được mũi tên mầu vàng (tượng trưng cho đức trung thực) ; giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng “Cửu Nhị trinh cát, đắc trung đạo dã” – Chín Hai giữ vững chính bền thì được tốt lành, nói lên được đạo ở giữa không lệch.

28. Tân Mão – Phong Hỏa Gia nhân, hào 6
- “Thượng Cửu, hữu phu, uy như, chung cát”
- “Chín Trên, lấy lòng chí thành, uy nghiêm để trị nhà, cuối cùng sẽ được tốt lành”.
- Tượng “Uy như chi cát, phản thân chi vị dã” – Uy nghiêm trị nhà thì được tốt lành, ý trước tiên Chín Trên phải tu tỉnh mình, đòi hỏi phải nghiêm khắc ở chính bản thân mình.

29. Nhâm Thìn – Thiên Sơn Độn, hào 3 (29 = 41)
- “Cửu Tam, hệ độn, hữu tật lệ ; súc thần thiếp, cát”
- “Chín Ba, trong lòng chựu sự ràng buộc, lưu luyến, không thể trốn lánh, sẽ bị tật bệnh, nguy hiểm ; nếu nuôi đầy tớ, nàng hầu thì được tốt lành”.
- Tượng “Hệ độn, chi lệ, hữu tật bị dã ; ‘súc thần thiếp cát’, bất khả đại sự dã” - Sự ràng buộc trong lòng dẫn đến nguy hiểm, nói lên Chín Ba sẽ gặp tật bệnh, cực kỳ gầy yếu ; ‘nuôi đầy tớ nàng hầu thì tốt’, nói lên Chín Ba không thể làm việc lớn như việc trị nước.

30. Quý Tị - Địa Trạch Lâm, hào 2 (30 = 42)
- “Cửu Nhị, hàm lâm cát, vô bất lợi”
- “Chín Hai, cảm ứng với bậc tôn quý mà thực hiện sự “giám lâm”, tốt lành, không gì không lợi”.
- Tượng “Hàm lâm cát vô bất lợi, vị thuận mệnh dã” - Thực hiện sự giám lâm, nói lên Chín Hai thật ra không phải là do thuận theo mệnh vua.

31. Giáp Ngọ - Thiên Sơn Độn, hào 4 (31 = 19)
- “Cửu Tứ, hiếu độn, quân tử cát, tiểu nhân bĩ”
- “Chín Bốn, trong lòng lưu luyến mà thân mình thì đã trốn lánh, người quân tử đương tốt lành, kẻ tiểu nhân không thể làm được”.
- Tượng “Quân tử hiếu độn, tiểu nhân bĩ dã” - Người quân tử trong lòng lưu luyến, mà thân thì đã trốn lánh, kẻ tiểu nhân không thể làm được. Cái “thần” của sự “tri cơ”, ai là người sẽ làm được vậy.

32. Ất Mùi – Địa Trạch Lâm, hào 1 (32 = 20)
- “Sơ Cửu, hàm lâm, trinh cát”
- “Chín Đầu, cảm ứng với bậc tôn quý mà thực hiện việc “giám lâm”, giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng “Hàm lâm trinh cát, chí hành chính dã” – Tâm chí và hành vi chí hướng của Chín Đầu đoan chính không a dua.

33. Bính Thân – Sơn Thiên Đại súc, hào 3
- “Cửu Tam, lương mã trục, lợi gian trinh ; nhật nhàn dư vệ, lợi hữu du vãng”
- “Chín Ba, ngựa tốt hay rong ruổi, lợi về nhớ kỹ sự gian nan, giữ vững chính bền ; không ngừng rèn luyện kỹ năng phòng vệ của ngựa xe ; lợi về có sự đi”.
- Tượng “Lợi hữu du vãng, thượng hợp chí dã” - Lợi về có sự đi, nói lên ý Chín Ba hợp chí với Chín Trên.

34. Đinh Dậu – Trạch Địa Tụy, hào 5
- “Cửu Ngũ, tụy hữu vị, vô cữu, phỉ phu ; nguyên vĩnh trinh, hối vong”.
- “Chín Năm, ở thời hội tụ, ở nơi cao tôn quý không bị cữu hại, nhưng còn chưa được sự tin rộng của chúng dân ; là một vị quân trưởng có đức, nên giữ vững chính bền mãi mãi không đổi thay, thì sự hối hận tất sẽ mất”.
- Tượng “Tụy hữu vị, chí vị quang dã” - Thời hội tụ ở cao ngôi tôn quý, nói lên tâm chí hội tụ thiên hạ của Chín Năm còn chưa sáng lớn.

35. Mậu Tuất – Thủy Lôi Truân, hào 5
- “Cửu Ngũ, truân kỳ cao. Tiểu, trinh cát ; đại, trinh hung.
- “Chín Năm, muốn khắc sự gian nan thời khai sáng buổi đầu, cần rộng ban bố ân trạch. Việc nhỏ, giữ được chính bền thì tốt ; việc lớn, giữ được chính bền để phòng hung hiểm”.
- Tượng “Truân kỳ cao, thi vị quang dã” - Cần rộng ban bố ân trạch, ý nói đức trạch của Chín Năm ban bố còn chưa tỏa sáng.

36. Kỷ Hợi – Hỏa Phong Đỉnh, hào 3
- “Cửu Tam, đỉnh nhĩ cách, kỳ hành tắc ; phương vũ khuy hối, chung cát”
- Chín Ba, tai vạc đang bị biến dạng, chỗ xỏ gậy để khênh ở tai vạc bị tịt ; món trĩ hầm thơm ngon, tinh khiết chưa đem ra cho người ăn được, đợi đến khi có trận mưa dầm âm dương điều hòa, tất sẽ không còn hối hận nữa, về cuối sẽ được tốt lành”.
- Tượng “Đỉnh nhĩ cách, thất kỳ nghĩa dã” – Tai vạc bị biến dạng, nói lên Chín Ba mất sự thích nghi ở khoảng trống giữa.

37. Canh Tý – Lôi Thủy Giải, hào 1
- “Sơ Lục, vô cữu”.
- “Sáu Đầu, (hiểm nạn mới bắt đầu được giải) không có gì cữu hại”.
- Tượng “Cương nhu chi tế, nghĩa vô cữu dã” – Sáu Đầu giao tiếp cùng Chín Bốn, tương ứng với nhau, xét về lẽ thư giải hiểm nạn, thì tất nhiên không có gì cữu hại.

38. Tân Sửu – Phong Hỏa Gia nhân, hào 1
- “Sơ Cửu, nhàn hữu gia, hối vong”.
- “Chín Đầu, phòng ngừa tà ác, sau đó bảo vệ gia đình mình, hối hận sẽ tiêu vong”.
- Tượng “Nhàn hữu gia, chí vị biến dã” – Phòng ngừa tà ác, bảo vệ gia đình mình, đó là nói lên Chín Đầu cần phòng ngừa khi ý chí còn chưa thay đổi.

39. Nhâm Dần – Thiên Sơn Độn, hào 2 (39 = 51)
- “Lục Nhị, chấp chi dụng hoàng ngưu chi cách, mạc chi thắng thoát”.
- “Sáu Hai, bị dây da bò trói chặt, không ai có thể cởi được”.
- Tượng “Chấp dụng hoàng ngưu, cố chí dã” - Bị dây da bò trói chặt, nói lên ý Sáu Hai có ý chí bền vững giúp cho thời, không lui.

40. Quý Mão – Địa Trạch Lâm, hào 3 (40 = 52)
- “Lục Tam, cam lâm, vô du lợi ; ký ưu chi, vô cữu”.
- “Sáu Ba, dựa vào lời nói ngọt mà tới với mọi người thì không có lợi, nhưng nếu đã lo sửa lỗi của mình thì không cữu hại”.
- Tượng “Cam lâm, vị bất đáng dã, ‘ký ưu chi’, cữu bất trường dã” - Bằng lời nói ngọt mà tới với người, chỉ để bộc lộ ngôi vị của Sáu Ba không chính đáng ; ‘đã lo và biết sửa lỗi’, nói lên sự cữu hại không thể lâu dài.

41. Giáp Thìn – Thiên Sơn Độn, hào 3 (41 = 29)
- “Cửu Tam, hệ độn, hữu tật lệ ; súc thần thiếp, cát”
- “Chín Ba, trong lòng chựu sự ràng buộc, lưu luyến, không thể trốn lánh, sẽ bị tật bệnh, nguy hiểm ; nếu nuôi đầy tớ, nàng hầu thì được tốt lành”.
- Tượng “Hệ độn, chi lệ, hữu tật bị dã ; ‘súc thần thiếp cát’, bất khả đại sự dã” - Sự ràng buộc trong lòng dẫn đến nguy hiểm, nói lên Chín Ba sẽ gặp tật bệnh, cực kỳ gầy yếu ; ‘nuôi đầy tớ nàng hầu thì tốt’, nói lên Chín Ba không thể làm việc lớn như việc trị nước.

42. Ất Tị - Địa Trạch Lâm, hào 2 (42 = 30)
- “Cửu Nhị, hàm lâm cát, vô bất lợi”
- “Chín Hai, cảm ứng với bậc tôn quý mà thực hiện sự “giám lâm”, tốt lành, không gì không lợi”.
- Tượng “Hàm lâm cát vô bất lợi, vị thuận mệnh dã” - Thực hiện sự giám lâm, nói lên Chín Hai thật ra không phải là do thuận theo mệnh vua.

43. Bính Ngọ - Sơn Thiên Đại súc, hào 2
- “Cửu Nhị, dư thoát phúc”.
- “Chín Hai, xe long moayơ không đi được”.
- Tượng “Dư thoát phúc, trung vô vưu dã” – nói lên ý Chín Hai ở ngôi giữa mà không nóng vội tiến lên, cho nên không phạm lỗi lầm.

44. Đinh Mùi – Trạch Địa Tụy, hào 6
- “Thượng Lục, tê tư thế di, vô cữu”.
- “Sáu Trên, ta thán buồn than, lại đau đớn khóc lóc nước mắt nước mũi dàn dụa, có thể tránh được cữu hại”.
- Tượng “Tê tư thế di, vị an thượng dã” - Buồn than, lại đau đớn khóc lóc, nói lên hào Sáu Trên mong “tụ” không được, chưa thể ở yên tại ngôi trên cùng.

45. Mậu Thân – Thủy Lôi Truân, hào 4
- “Lục Tứ, thừa mã ban như, cầu hôn cấu ; vãng cát, vô bất lợi”.
- “Sáu Bốn, cưỡi ngựa dập dừu tới, muốn cầu hôn ; đi lên tất sẽ tốt lành, không gì là không lợi.”
- Tượng “Cầu nhi vãng, minh dã” - Muốn cầu hôn ở phí dưới mà tiến lên, nói lên Sáu Bốn là kẻ sáng suốt, hiểu biết.

46. Kỷ Dậu – Hỏa Phong Đỉnh, hào 4
- “Cửu Tứ, giải nhi mẫu, bằng chí tư phu”.
- “Chín Bốn, lìa bỏ kẻ tiểu nhân dính bám, giống như thư giải cái tật kín ở ngón chân cái anh, sau đó bạn bè mới tới mà ứng với lòng thành tín”.
- Tượng “Giải nhi mẫu, vị đáng vị dã” – nói lên ngôi của Chín Bốn còn chưa thỏa đáng.

47. Canh Tuất – Lôi Thủy Giải, hào 6
- “Thượng Lục, công dụng xạ chuẩn vu cao dung chi thượng, hoạch chi, vô bất lợi”.
- “Sáu Trên, vương công bắn chim cắt đậu trên thành cao, một phát bắn trúng, không gì không lợi”.
- Tượng “Công dụng xạ chuẩn, dĩ giải bội dã” – Vương công bắn chim cắt đậu trên thành cao, nói lên Sáu Trên giải trừ hiểm nạn do kẻ bội nghịch gây nên.

48. Tân Hợi – Phong Hỏa Gia nhân, hào 2
- “Lục Nhị, vô du toại, tại trung quỹ, trinh cát”.
- “Sáu Hai, không có thành tựu gì, coi sóc việc nấu nướng trong nhà, giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng “Lục Nhị chi cát, thuận dĩ tốn dã” - Sự tốt lành của Sáu Hai là do sự nhu thuận, ôn hòa, khiêm tốn đưa đến.

49. Nhâm Tý – Thiên Sơn Độn, hào 1 (49 = 1)
- “Sơ lục, độn vỹ ; lệ, vật dụng hữu du vãng”
- “Hào Sáu Đầu, trốn tránh không kịp mà lại rơi vào phần đuôi, có nguy hiểm, không nên có sự đi”.
- Tượng “Độn vỹ chi lệ, bất vãng, hà tai dã” - Trốn tránh lại rơi vào phần đuôi có nguy hiểm, nhưng lúc này, nếu không đi lên phía trước, thì có tai họa gì đâu !

50. Quý Sửu – Địa Trạch Lâm, hào 4 (50 = 2)
- “Lục Tứ, chí lâm, vô cữu”
- “Hào Sáu Bốn, hết sức gìn giữ để tới gần giám sát mọi người, tất vô cữu hại”.
- Tượng “Chí lâm vô cữu, vị đáng dã” – hào này ở ngôi chính đáng.

51. Giáp Dần – Thiên Sơn Độn, hào 2 (51 = 39)
- “Lục Nhị, chấp chi dụng hoàng ngưu chi cách, mạc chi thắng thoát”.
- “Sáu Hai, bị dây da bò trói chặt, không ai có thể cởi được”.
- Tượng “Chấp dụng hoàng ngưu, cố chí dã” - Bị dây da bò trói chặt, nói lên ý Sáu Hai có ý chí bền vững giúp cho thời, không lui.

52. Ất Mão – Địa Trạch Lâm, hào 3 (52 = 40)
- “Lục Tam, cam lâm, vô du lợi ; ký ưu chi, vô cữu”.
- “Sáu Ba, dựa vào lời nói ngọt mà tới với mọi người thì không có lợi, nhưng nếu đã lo sửa lỗi của mình thì không cữu hại”.
- Tượng “Cam lâm, vị bất đáng dã, ‘ký ưu chi’, cữu bất trường dã” - Bằng lời nói ngọt mà tới với người, chỉ để bộc lộ ngôi vị của Sáu Ba không chính đáng ; ‘đã lo và biết sửa lỗi’, nói lên sự cữu hại không thể lâu dài.

53. Bính Thìn – Sơn Thiên Đại súc, hào 1
- “Sơ Cửu, hữu lệ, lợi dĩ”
- “Chín Đầu, có nguy hiểm, lợi về sự tạm dừng không tiến”.
- Tượng “Hữu lệ tắc dĩ, bất phạm tai dã” – Ý nói không thể cứ dấn thân vào tai biến, hoạn nạn mà đi.

54. Đinh Tị - Trạch Địa Tụy hào 1
- “Sơ Lục, hữu phu bất chung, nãi loạn nãi tụy ; nhược hào, nhất ác vi tiếu: Vật tuất, vãng vô cữu”.
- “Sáu Đầu, nếu không giữ được đến cùng sự thành tín trong lòng, tất sẽ làm loạn mà tụ họp bừa bãi với mọi người ; nếu chuyên tình mà kêu gọi mọi người ở trên, thì có thể chỉ một cái bắt tay với người bạn dương cứng là lại vui cười được ngay: Không phải lo nghĩ, đi lên tất không gặp cữu hại”.
- Tượng “Nãi loạn nãi tụy, kỳ chí loạn dã” – Làm loạn mà tụ họp bừa bãi với mọi người, nói lên tâm chí Sáu Đầu có sự mê loạn.

55. Mậu Ngọ - Thủy Lôi Truân, hào 3
- “Lục Tam, tức lộc vô ngu, duy nhập vu lâm trung ; quân tử cơ, bất như xả, vãng lận”.
- “Sáu Ba, đuổi hiêu không có ngu nhân dẫn đường, thì chỉ đi sâu vào rằng rậm vô ích ; người quân tử cần kiến có hành sự, lúc này bỏ không đuổi nữa là hơn cả, nếu cứ nhất mực tiến nữa, tất sẽ hối tiếc”.
- Tượng “Tức lộc vô ngu, dĩ tòng cầm dã ; quân tử xả chi, vãng lận, cùng dã” – Không có người dẫn đường, mà vẫn đuổi bắt, nói lên Sáu Ba lòng tham đã thái quá. Người quân tử bỏ không đuổi nữa, nếu cứ đuổi mãi thì sẽ cùng khốn.

56. Kỷ Mùi – Hỏa phong Đỉnh, hào 5
- “Lục Ngũ, đỉnh hoàng nhĩ kim huyễn, lợi trinh”.
- “Sáu Năm, vạc có tai mầu vàng, đòn vạc cứng rắn, lợi về sự giữ vững chính bền”.
- Tượng “Đỉnh hoàng nhĩ, trung dĩ vi thực dã” - Vạc có tai mầu vàng, nói lên Sáu Năm ở ngôi giữa mà được tính cứng đặc.

57. Canh Thân – Lôi Thủy Giải, hào 5
- “Lục Ngũ, quân tử duy hữu giải, cát, hữu phu vu tiểu nhân”.
- “Sáu Năm, người quân tử có thể thư giải hiểm nạn, tốt lành, thậm chí còn có thể dùng đức thành tín để cảm hóa kẻ tiểu nhân”.
- Tượng “Quân tử hữu giải, tiểu nhân thoái dã” - Người quân tử có thể thư giải hiểm nạn, kẻ tiểu nhân tất sẽ sợ phục, lui bước.

58. Tân Dậu – Phong Hỏa Gia nhân, hào 3
- “Cửu Tam, gia nhân hạc hạc, hối lệ, cát ; phụ tử hy hy, chung lận”.
- “Chín Ba, người trong nhà sầu oán gào khóc, mặc dù có hối hận, có nguy hiểm, nhưng vẫn được tốt lành ; còn nếu là đàn bà trẻ con mà nô đùa hớn hở, thì cuối cùng sẽ thẹn tiếc”.
- Tượng “Gia nhân hạc hạc, vị thất dã ; ‘phụ tử hy hy’, thất gia tiết dã” - Người trong nhà sầu oán gào khóc, nói lên đây là thời chưa thể thoải mái nhàn vui ; ‘đàn bà trẻ con cười đùa hớn hở’, nói lên đã mất lễ tiết trong nhà.

59. Nhâm Tuất – Thiên Sơn Độn, hào 6 (59 = 11)
- “Thượng Cửu, phì đôn, vô bất lợi”
- “Chín Trên, cao chạy xa bay, không có gì không lợi”.
- Tượng “Phì độn vô bất lợi” – Chín Trên không hoài nghi lưu luyến gì.

60. Quý Hợi – Địa Trạch Lâm, hào 5 (60 = 12)
- “Lục Ngũ, tri lâm, đại quân chi nghi, cát”
- “Lục Ngũ, đến với mọi người bằng sự thông tuệ minh trí ; bậc đại quân vương nên như vậy, tốt lành”
- Tượng “Đại quân chi nghi, hành trung chi vị dã” - Bậc đại quân vương nên như vậy, nói lên Lục Ngũ tất phải đi theo trung đạo.
Đầu trang

Hà Uyên
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 607
Tham gia: 14:20, 02/05/09

TL: DỊCH CAN CHI

Gửi bài gửi bởi Hà Uyên »

CHU KỲ 4


..............................VỊ TẾ


........ÍCH....................................THÁI


...HẰNG.....................+.....................HÀM


.......TỔN......................................BĨ


..............................KÝ TẾ


1. Giáp Tý – Thiên Địa Bĩ, hào 1 (1 = 49)
- “Sơ Lục, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; trinh cát, hanh”.
- “Sáu Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra ; giữ vững chính bền thì được tốt lành, hanh thông”.
- Tượng viết: “Bạt mao trinh dã, chí tại quân dã” - Nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, nói lên ý chí Sáu Đầu giữ chính không muốn tiến, là do nghĩ tới người Trên, không dám nghĩ đến việc dùng xiểm nịnh mà tiến bừa. Cho nên tốt và hanh thông.

2. Ất Sửu – Địa Thiên Thái, hào 4
- “Lục Tứ, phiên phiên, bất phú, dỹ kỳ lân bất giới dỹ phu”.
- “Sáu Bốn, dập dừu đi xuống, rỗng không chẳng giầu, với hàng xóm chẳng cần bảo nhau mà đều một lòng thành tín”.
- Tượng viết: “Phiên phiên bất phú, giai thất thực dã ; ‘bất giới dĩ phu’ trung tâm nguyện dã” – “Dập dừu đi xuống, rỗng không chẳng giầu”, nói lên các hào âm ở quẻ trên đều mất đi cái thực của mình ; “chẳng cần phải bảo nhau mà đều một lòng thành tín”, nói lên trong lòng các hào âm đều mang ý nguyện ứng với dưới.

3. Bính Dần – Sơn Trạch Tổn, hào 6
- “Thượng Cửu, phất tổn ích chi ; vô cữu, trinh cát, hữu du vãng, đắc thần vô dã”.
- “Chín Trên, mình không tổn gì mà làm ích được cho mọi người ; tất không có cữu hại, giữ vững chính bền thì được tốt lành, nếu có sự đi, tất sẽ được quảng đại thần dân ủng hộ, chẳng phải chỉ một nhà”.
- Tượng viết: “Phất tổn ích chi, đại đắc chi dã” – “Mình không tổn gì mà làm ích được cho người, nói lên Chín Trên đắc chí lớn về sự ban ân cho thiên hạ.

4. Đinh Mão – Trạch Sơn Hàm, hào 2
- “Lục Nhị, hàm kỳ phì, hung ; cư cát”
- “Sáu Hai, giao cảm ở bụng chân, có hung hiểm ; ở yên tĩnh thì được tốt lành”.
- Tượng viết: “Tuy hung cư cát, thuận bất hại dã” – Sáu Hai mặc dù có hung hiểm, nhưng nếu ở yên giữ tĩnh thì được tốt lành, nói lên ý thuận theo chính đạo “giao cảm” thì có thể tránh gặp phải sự họa hại.

5. Mậu Thìn – Thủy Hỏa Ký tế, hào 2
- “Lục Nhị, phụ táng kỳ phất, vật trục, thất nhật đắc”.
- “Sáu Hai, người đàn bà đánh mất rèm xe (không đi được), không cần phải đi tìm, quá không đầy bảy ngày tất vật mất sẽ trở lại”.
- Tượng viết: “Thất nhật đắc, dĩ trung đạo dã” – “Quá không đầy bẩy ngày, tất vật mất sẽ quay trở lại”, nói lên Sáu Hai có thể giữ đạo trung chính không lệch.

6. Kỷ Tị - Hỏa Thủy Vị Tế, hào 6
- “Thượng Cửu, hữu phu vu ẩm tửu, vô cữu ; nhu kỳ thủ, hữu phu thất thị”.
- “Chín Trên, tin dùng kẻ khác, an nhàn uống riệu thì không có gì cữu hại ; nhưng (chơi bời quá độ) sẽ như con cáo nhỏ qua sông đánh (làm) ướt đầu, đó là quá tin người mà hại tới chính đạo.
- Tượng viết: “Ẩm tửu nhu thủ, diệc bất tri tiết dã” – “An nhàn uống riệu mà (như con cáo nhỏ qua sông) làm ướt đầu gặp phải tai họa”, nói lên Chín Trên nếu như vậy, thì thật là không biết tiết chế gì hết.

7. Canh Ngọ - Lôi Phong Hằng, hào 4
- “Cửu Tứ, điền vô cầm”
- “Chín Bốn, đi săn không được cầm thú”.
- Tượng viết: “Cửu phi kỳ vị, ân đắc cầm dã” – Chín Bốn ở lâu không đúng chỗ của mình, săn bắn làm sao mà bắt được cầm thú ?

8 . Tân Mùi – Phong Lôi Ích, hào 4
- “Lục Tứ, trung hàng cáo công tòng, lợi dụng vi y thiên quốc”.
- “Sáu Bốn, giữ điều trung, thận trọng sự hành, cung kính thăm hỏi bậc vương công, tất sẽ được lời nghe, kế theo, lợi về sự dựa vào bậc quân thượng trong việc dời đô, ích dân”.
- Tượng viết: “Cáo công tùng, dĩ ích chí dã” – “Cung kính thăm hỏi bậc vương công, tất sẽ được lời nghe, kế theo”, nói lên ý chí Sáu Bốn lấy sự tăng ích tâm chí thiên hạ để khuyên gián vương công.

9. Nhâm Thân – Thiên Địa Bĩ, hào 5 (9 = 21)
- “Cửu Ngũ, hưu bĩ, đại nhân cát ; kỳ vong kỳ vong, hệ vu bào tang”.
- “Chín Năm, làm cho tắt nghỉ sự “bĩ”, đó là điều tốt lành cho bậc đại nhân ; (trong lòng lúc nào cũng phải tự nhủ): có thể mất đấy, như vậy thì mới có thể giữ vững như buộc vào một bụi dâu (yên tâm, không phải lo lắng gì nữa).
- Tượng viết: “Đại nhân chi cát, vị chính đáng dã” – “Tốt lành cho bậc đại nhân”, nói lên Chín Năm ở ngôi vị trung chính, rất thích đáng.

10. Quý Dậu – Địa Thiên Thái, hào 6 (10 = 22)
- “Thượng Lục, thành phục vu hoàng ; vật dụng sư, tự ấp cáo mệnh, trinh lận”.
- “Sáu Trên, thành đổ xuống hào nước cạn khô ; không thể xuất binh chiến nữa, nên tự giảm bớt các phép tắc, bố cáo, chính lệnh đi, giữ vững chính bền để phòng những điều đáng tiếc”.
- Tượng viết: “Thành phục vu hoàng, kỳ mệnh loạn dã” – “Thành đổ sụp xuống hào nước khô cạn”, nói lên xu hướng phát triển của Sáu Trên đã trở lên hỗn loạn.

11. Giáp Tuất – Thiên Địa Bĩ, hào 6 (11 = 59)
- “Thượng Cửu, khuynh bĩ ; tiên bĩ hậu hỷ”
- “Chín Trên, đánh đổ được “bĩ bế” ; trước còn bĩ bế, sau thì “thông thái” mừng vui”.
- Tượng viết: “Bĩ chung tắc khuynh, hà khả trường dã” – Bĩ bế lúc cùng cực tất đi đến đổ, làm sao giữ được lâu dài !

12. Ất Hợi – Địa Thiên Thái, hào 5 (12 = 60)
- “Lục Ngũ, Đế Ất quy muội, dĩ chỉ nguyên cát”.
- “ Sáu Năm, vua Đế Ất cho em gái về nhà chồng, như thế là có phúc trạch, hết sức tốt lành”.
- Tượng viết: “Dĩ chỉ nguyên cát, trung dĩ hành nguyện dã” – “Như thế là có phúc trạch, hết sức tốt lành”, nói lên Sáu Năm ở ngôi giữa không thiên lệch, thực hiện ý nguyện ứng dưới.

13. Bính Tý – Sơn Trạch Tổn, hào 5
- “Lục Ngũ, hoặc ích chi thập bằng chi quy, phất khắc vi, nguyên cát”.
- “Sáu Năm, có người tiến dâng một con rùa lớn quý, có giá trị “mười bằng”, không thể từ tạ, hết sức tốt lành”.
- Tượng viết: “Lục Ngũ nguyên cát, tự thượng hựu dã” – Sáu Năm hết sức tốt lành, đây là Trời phù hộ.

14. Đinh Sửu – Trạch Sơn Hàm, hào 3
- “Cửu Tam, hàm kỳ cổ, chấp kỳ tùy, vãng lận”.
- “Chín Ba, cảm được tới đùi, khăng khăng nhắm mắt đi theo người ; như vậy tất sẽ thẹn tiếc”.
- Tượng viết: “Hàm kỳ cổ, diệc bất xử dã, ‘chí tại tùy nhân’, sở chấp hạ dã” – “Cảm được tới đùi”, nói lên Chín Ba không thể yên tĩnh lúc lùi ; “tâm chí ở chỗ nhắm mắt theo người”, nói lên Chín Ba cứ khăng khăng là thấp hèn.

15. Mậu Dần – Thủy Hỏa Ký tế, hào 1
- “Sơ Cửu, duệ kỳ luân, nhu kỳ vỹ, vô cữu”.
- “Chín Đầu, kéo ngược bánh xe về phía sau (để không đi nhanh), con cáo qua sông đánh (làm) ướt đuôi (để không đi nhanh), tất không có lỗi”.
- Tượng viết: “Duệ kỳ luân, nghĩa vô cữu dã” – “Kéo ngược bánh xe về phía sau (để không đi nhanh), nói lên hành vi của Chín Đầu hợp với ý nghĩa: cẩn thận giữ gìn mọi thành tựu mà không dẫn đến cữu hại.

16. Kỷ Mão – Hỏa Thủy Vị tế, hào 1
- “Sơ Lục, nhu kỳ vỹ, lận”.
- “Sáu Đầu, cáo nhỏ qua sông bị nước làm ướt đuôi, đáng thẹn tiếc”.
- Tượng viết: “Nhu kỳ vỹ, diệc bất chi cực dã” – “Cáo nhỏ qua sông bị nước làm ướt đuôi”, nói lên Sáu Đầu rất không biết cẩn thận giữ giữa.

17. Canh Thìn – Lôi Phong Hằng, hào 3
- “Cửu Tam, bất hằng kỳ đức, hoặc thừa chi tu ; trinh lận”
- “Chín Ba, không thường giữ được đức đẹp, có khi bị người làm cho hổ thẹn ; phải giữ vững sự chính bền để phong sự thẹn tiếc”.
- Tượng viết: “Bất hằng kỳ đức, vô sở dung dã” – “Không thường giữ được đức đẹp, ý nói Chín Ba sẽ không có chỗ dung thân.

18. Tân Tị - Phong Lôi Ích, hào 5
- “Cửu Ngũ, hữu phu huệ tâm, vật vấn nguyên cát: hữu phu huệ ngã đức”.
- “Chín Năm, có lòng chân thành tín thực ban ơn cho thiên hạ, không còn nghi ngờ gì là hết sức tốt đẹp ; Người trong thiên hạ tất sẽ chân thành tín thực cảm ân huệ và nghĩ tới sự báo đáp ân đức của ta”.
- Tượng viết: “Hữu phu huệ tâm, vật vắn chi hỹ ; ‘huệ ngã đức’ đại đắc chí dã” – “Có lòng chân thành tín thực ban ơn cho thiên hạ”, nói lên sự hết sức tốt lành là điều không cần phải hỏi ; “người trong thiên hạ tất báo đáp ân đức của ta”, nói lên Chín Năm được lớn chí “tổn thượng ích hạ”.

19. Nhâm Ngọ - Thiên Địa Bĩ, hào 4 (19 = 31)
- “Cửu Tứ, hữu mệnh vô cữu, trù ly chỉ”
- “Chín Bốn, mệnh trời xoay chuyển đạo Bĩ không có cữu hại, bạn mình nhờ cậy mình đều được hưởng phúc”.
- Tượng viết: “Hữu mệnh vô cữu, chí hành dã” - Mệnh trời xoay chuyển đạo “Bĩ”, không có cữu hại, nói lên chí vượt khỏi cuộc Bĩ của Chín Bốn đang được thực hiện.

20. Quý Mùi – Địa Thiên Thái, hào 1 (20 = 32)
- “Sơ Cửu, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; chinh cát”.
- “Chín Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra, thẳng tiến lên phía trước thì được tốt lành”.
- Tượng viết: “Bạt nhự chinh cát, chí tại ngoại dã” – “Nhổ cỏ mao thẳng tiến lên phía trước thì được tốt lành”, nói lên tâm chí của Chín Đầu là có hướng tiến thủ ra bên ngoài.

21. Giáp Thân – Thiên Địa Bĩ, hào 5 (21 – 9)
- “Cửu Ngũ, hưu bĩ, đại nhân cát ; kỳ vong kỳ vong, hệ vu bào tang”.
- “Chín Năm, làm cho tắt nghỉ sự “bĩ”, đó là điều tốt lành cho bậc đại nhân ; (trong lòng lúc nào cũng phải tự nhủ): có thể mất đấy, như vậy thì mới có thể giữ vững như buộc vào một bụi dâu (yên tâm, không phải lo lắng gì nữa).
- Tượng viết: “Đại nhân chi cát, vị chính đáng dã” – “Tốt lành cho bậc đại nhân”, nói lên Chín Năm ở ngôi vị trung chính, rất thích đáng.

22. Ất Dậu – Địa Thiên Thái, hào 6 (22 = 10)
- “Thượng Lục, thành phục vu hoàng ; vật dụng sư, tự ấp cáo mệnh, trinh lận”.
- “Sáu Trên, thành đổ xuống hào nước cạn khô ; không thể xuất binh chiến nữa, nên tự giảm bớt các phép tắc, bố cáo, chính lệnh đi, giữ vững chính bền để phòng những điều đáng tiếc”.
- Tượng viết: “Thành phục vu hoàng, kỳ mệnh loạn dã” – “Thành đổ sụp xuống hào nước khô cạn”, nói lên xu hướng đang phát triển của Sáu Trên đã trở lên hỗn loạn.

23. Bính Tuất – Sơn Trạch Tổn, hào 4
- “Lục Tứ, tổn kỳ tẳt xuyền hữu hỷ, vô cữu”
- “Sáu Bốn, tự ta giảm bớt tật tương tư, có thể nhanh chóng tiếp nhận dương cứng, tất có sự vui, không có cữu hại”.
- Tượng viết: “Tổn kỳ tật, diệc khả hỷ dã” – “Tự giảm bớt bệnh tương tư”, ý nói Sáu Bốn tiếp nhận hào dương cứng là việc rất đáng mừng. Bốn dựa vào hào Đầu, để nhanh chóng đến “ích”, là cái lý của hào.

24. Đinh Hợi – Trạch Sơn Hàm, hào 4
- “Cửu Tứ, trinh cát, hối vong ; đồng đồng vãng lai, bằng tòng nhĩ tư”.
- “Chín Bốn, giữ vững chính bền thì được tốt lành, hối hận sẽ mất hết ; lăng xăng qua lại, bạn bè cuối cùng sẽ thuận theo sự nghĩ của anh thôi”.
- Tượng viết: “Trinh cát hối vong, vị cảm hại dã ; đồng đồng vãng lai, vị quang đại dã” - Hối hận tất sẽ mất hết, nói lên Chín Bốn chưa từng vì giao cảm bất chính mà gặp điều hại ; ‘lăng xăng qua lại mà lòng ý bất đinh’, nói lên ý lúc này đạo giao cảm còn chưa sáng lớn.

25. Mậu Tý – Thủy Hỏa Ký tế, hào 6
- “Thượng Lục, nhu kỳ thủ, lệ”.
- “Sáu Trên, con cáo nhỏ qua sông đánh ướt đầu, có nguy hiểm”.
- Tượng viết: “Nhu kỳ thủ, lệ’, hà khả cửu dã” – “Con cáo nhỏ qua sông đánh ướt đầu, có nguy hiểm”, dụ chỉ sau khi việc thành, nếu không cẩn thận, thì làm sao bảo vệ sự thành công cho được lâu dài !

26. Kỷ Sửu – Hỏa Thủy Vị tế, hào 2
- “Cửu Nhị, duệ kỳ lân, trinh cát”.
- “Chín Hai, kéo ngược bánh xe về phía sau (để không đi mạnh), giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng viết: “Cửu Nhị trinh cát, trung dĩ hành chính dã” – Chín Hai giữ vững được tốt lành”, nói lên phải giữ giữa, mà làm việc đoan chính không lệch.

27. Canh Dần – Lôi Phong Hằng, hào 2
- “Cửu Nhị, hối vong”.
- “Chín Hai, hối hận tiêu hết”
- Tượng viết: “Cửu Nhị hối vong, năng cửu trung dã” – Chín Hai hối hận tiêu hết, nói lên có thể giữ đạo lâu dài không thiên lệch.

28. Tân Mão – Phong Lôi Ích, hào 6
- “Thượng Cửu, mạc ích chi, hoặc kích chi ; lập tâm vật hằng, hung”.
- “Chín Hai, không có ai làm ích cho anh ta, mà có người còn công kích anh ta nữa, là vì không thường giữ được sự yên ổn trong lòng (mà tham cầu không chán), có hung hiểm”.
- Tượng viết: “Mạc ích chi, thiên từ dã ; ‘hoặc kích chi’, tự ngoại lai dã” – Không có ai làm ích cho anh ta, nói lên Chín Hai đơn phương đưa ra lời cầu ích ; ‘có người công kích anh ta’, đây là sự hung hiểm từ bên ngoài, không vời gọi mà tự đến.

29. Nhâm Thìn – Thiên Địa Bĩ, hào 3 (29 = 41)
- “Lục Tam, bao tu”.
- “Sáu Ba, được che chở nên làn điều phi đạo lý, cuối cùng đi đến sự hổ nhục”.
- Tượng viết: “Bao tu, vị bất đáng dã” - Được che chở nên làm điều phi đạo lý, nói lên Sáu Ba ngôi vị không chính đáng.

30. Quý Tị - Địa Thiên Thái, hào 2 (30 = 42)
- “Cửu Nhị, bao hoang, dụng bằng hà, bất hà di, đắc thượng vu trung hàng”.
- “Chín Hai, có tấm lòng bao dung như sông lớn, có thể lội qua sông lớn, không bỏ những người ở xa ; và cũng không kết bè phái, có thể giúp đỡ vị quân chủ kiên trì đạo trung”.
- Tượng viết: “’Bao hoang’, ‘đắc thượng vu trung hoàng’, dĩ quang đại dã” – “Có tấm lòng bao dung như sông lớn”, “có thể giúp đỡ đấng quân chủ kiên trì đạo trung”, nói lên đạo đức Chín Hai chính đại quang minh.

31. Giáp Ngọ - Thiên Địa Bĩ, hào 4 (31 = 19)
- “Cửu Tứ, hữu mệnh vô cữu, trù ly chỉ”
- “Chín Bốn, mệnh trời xoay chuyển đạo Bĩ không có cữu hại, bạn mình nhờ cậy mình đều được hưởng phúc”.
- Tượng viết: “Hữu mệnh vô cữu, chí hành dã” - Mệnh trời xoay chuyển đạo “Bĩ”, không có cữu hại, nói lên chí vượt khỏi cuộc Bĩ của Chín Bốn đang được thực hiện.

32. Ất Mùi – Địa Thiên Thái, hào 1 (32 = 20)
- “Sơ Cửu, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; chinh cát”.
- “Chín Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra, thẳng tiến lên phía trước thì được tốt lành”.
- Tượng viết: “Bạt nhự chinh cát, chí tại ngoại dã” – “Nhổ cỏ mao thẳng tiến lên phía trước thì được tốt lành”, nói lên tâm chí của Chín Đầu là có hướng tiến thủ ra bên ngoài.

33. Bính Thân – Sơn Trạch Tổn hào 3
- Tượng viết: “Nhất nhân hành, tam tắc nghi dã” - Một người đi một mình, thì có thể chuyên nhất cầu, ba người cùng đi sẽ khiến cho đối phương nghi hoặc không có chủ.
- “Lục Tam, tam nhân hành tắc tổn nhất nhân ; nhất nhân hành tắc đắc kỳ hữu”.
- “Sáu Ba, ba người cùng đi đều muốn cầu một dương, tất sẽ bớt một người là dương cứng đó ; một người đi một mình mà một lòng cầu hợp, thì sẽ được những người bạn dương cứng”

34. Đinh Dậu – Trạch Sơn Hàm, hào 5
- “Cửu Ngũ, hàm kỳ mai, vô hối”.
- “Chín Năm, cảm tới thăn lưng, không đến nỗi hối hận”.
- Tượng viết: “Hàm kỳ hối, chí mạt dã” – “Cảm tới thăn lưng, nói lên chí hướng giao cảm của Chín Năm quá nông mỏng.

35. Mậu Tuất – Thủy Hỏa Ký tế, hào 5
- “Cửu Ngũ, đông lân sát ngưu, bất như tây lân chi Thược tế, thực thụ kỳ phúc”.
- “Chín Năm, nước láng giềng bên đông giết trâu tế lớn, chẳng bằng lễ “tế Thược” sơ sài của nước láng giềng bên tây, được thực hưởng nhiều phúc trạch của thần linh ban giáng hơn”.
- Tượng viết: “Đông lân sát ngưu, bất như tây lân chi thời dã ; ‘thực thụ kỳ phúc’ cát đại lai dã” – “Chẳng bằng “tế Thược” của nước láng giềng phía tây”, ý nói nước láng giềng phía tây tế lễ hợp thời ; “nước láng giềng phía tây càng được thực hưởng phúc trạch của thần linh ban giáng nhiều hơn”, dụ chỉ sự tốt lành nối tiếp nhau đến.

36. Kỷ Hợi – Hỏa Thủy Vị tế, hào 3
- “Lục Tam, vị tế, chinh hung, lợi thiệp đại xuyên”.
- “Sáu Ba, việc chưa thành, đã vội tiến lên tất có hung hiểm, nhưng lợi về sự vượt qua sông cả sóng lớn để thoát khỏi hiểm nạn”.
- Tượng viết: “Vị tế chinh hung, vị bất đáng dã” - Việc chưa thành đã vội tiến lên tất có hung hiểm, nói lên ngôi vị Sáu Ba không thích đáng.

37. Canh Tý – Lôi Phong Hằng, hào 1
- “Sơ Lục, tuấn hằng trinh hung, vô du lợi”
- “Sáu Đầu, quá mông được đạo hằng cửu, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm, nếu không thì không có lợi”.
- Tượng viết: “Tuấn hằng chi hung, thủy cầu thâm dã” - Sự hung hiểm của việc “quá mong cầu đạo hằng cửu”, nói lên Sáu Đầu ngay từ đầu đã cầu được quá sâu.

38. Tân Sửu – Phong Lôi Ích, hào 1
- “Sơ Cửu, lợi dụng vi đại tác, nguyên cát, vô cữu”.
- “Chín Đầu, lợi về sự làn việc lớn, hết sức tốt lành, tất không cữu hại”.
- Tượng viết: “Nguyên cát vô cữu, bất hậu sự dã” - Hết sức tốt lành mà không có cữu hại, nói lên Chín Đầu vốn không thể gánh vác được việc lớn (nhưng lúc này được ích, có thể làm việc lớn)

39. Nhâm Dần – Thiên Địa Bĩ, hào 2 (39 = 51)
- “Lục Nhị, bao thừa, tiểu nhân cát ; đại nhân phủ, hanh”.
- “Sáu Hai, phải chựu sự bao dung che trở và vâng thuận người trên, là tiểu nhân thì tốt lành ; là đại nhân mà phủ định đạo này thì hanh thông”.
- Tượng viết: “Đại nhân phủ, hanh, bất loạn quần dã” - Đại nhân mà phủ định đạo này thì hanh thông, nói lên ý không để cho bọn tiểu nhân làm loạn.

40. Quý Mão – Địa Thiên Thái hào 3 (40 = 52)
- “Cửu Tam, vô bình bất bì, vô vãng bất phục ; gian trinh vô cữu, vật tuất kỳ phu, vu thực hữu phúc”.
- “Chín Ba, không có nơi bằng phẳng nào mà không lồi lõm, không có sự ra đi nào mà không trở lại ; ghi lòng gian khổ, giữ vững chính bền thì sẽ không gặp phải điều cữu hại, không sợ không giữ được điều tín với người, tự sẽ có phúc khánh được thực hưởng bổng lộc”.
- Tượng viết: “Vô vãng bất phục, thiên địa tế dã” - Kẻ ra đi không thể không quay trở lại, nói lên Chín Ba ở ranh giới giao tiếp của “Trời Đất”

41. Giáp Thìn – Thiên Địa Bĩ, hào 3 (41 = 29)
- “Lục Tam, bao tu”.
- “Sáu Ba, được che chở nên làn điều phi đạo lý, cuối cùng đi đến sự hổ nhục”.
- Tượng viết: “Bao tu, vị bất đáng dã” - Được che chở nên làm điều phi đạo lý, nói lên Sáu Ba ngôi vị không chính đáng.

42. Ất Tị - Địa Thiên Thái, hào 2 (42 = 30)
- “Cửu Nhị, bao hoang, dụng bằng hà, bất hà di, đắc thượng vu trung hàng”.
- “Chín Hai, có tấm lòng bao dung như sông lớn, có thể lội qua sông lớn, không bỏ những người ở xa ; và cũng không kết bè phái, có thể giúp đỡ vị quân chủ kiên trì đạo trung”.
- Tượng viết: “’Bao hoang’, ‘đắc thượng vu trung hoàng’, dĩ quang đại dã” – “Có tấm lòng bao dung như sông lớn”, “có thể giúp đỡ đấng quân chủ kiên trì đạo trung”, nói lên đạo đức Chín Hai chính đại quang minh.

43. Bính Ngọ - Sơn Trạch Tổn, hào 2
- “Cửu Nhị, lợi trinh, chung hung ; phất tổn ích chi”.
- “Chín Hai lợi về sự giữ vững chính bền, vội tiến ngày sẽ có hung hiểm ; không làm tổn hại đức của mình thì có thể làm ích cho người trên”.
- Tượng viết: “Cửu Nhị lợi trinh, trung dĩ vi chí dã” – Chín Hai lợi về sự giữ vững chính bền, nói lên nên kiên trì giữ đạo trung làm hướng của mình.

44. Đinh Mùi – Trạch Sơn Hàm, hào 6
- “Thượng Lục, hàm kỳ phụ giáp thiệt”
- “Sáu Trên, cảm bằng lời nói”.
- Tượng viết: “Hàm kỳ phụ giáp thiệt, đằng khẩu thuyết dã” – “Cảm bằng lời nói”, nói lên Sáu Trên chẳng qua được tâng bốc lên bởi những lời rỗng tuếch mà thôi.

45. Mậu Thân – Thủy Hỏa Ký tế, hào 4
- “Lục Tứ, nhu hữu y như, chung nhật giới”
- “Sáu Bốn, quần áo đẹp rồi sẽ biến thành rách nát tả rơi, phải luôn đề phòng họa hoạn”.
- Tượng viết: “Chung nhật giới, hữu sở nghi dã” - Phải luôn đề phòng họa hoạn, nói lên Sáu Bốn đang có sự nghi sợ.

46. Kỷ Dậu – Hỏa Thủy Vị tế, hào 4
- “Cửu Tứ, chinh cát, hối vong ; chấn dụng phạt Quỷ Phương, tam niên hữu thưởng vu đại quốc”.
- “Chín Bốn, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; đánh nước Quỷ Phương với uy thế mạnh mẽ, qua ba năm chiến đấu công thành, được phong thưởng là chư hầu của nước lớn”.
- Tượng viết: “Trinh cát hối vong, chí hành dã” - Giữ vững chính bền hối hận mất hết, nói lên Chín Bốn đang thực hiện chí cầu “tế”.

47. Canh Tuất – Lôi Phong Hằng, hào 6
- “Thượng Lục, chấn hằng, hung”.
- “Sáu Trên, chấn động không yên ở nơi đạo hằng cửu, có hung hiểm”.
- Tượng viết: “Chấn hằng tại thượng, đại vô công dã” - Chấn động không yên ở nơi đạo hằng cửu, mà lại ở cao tại ngôi trên, nói lên Sáu Trên giải quyết mọi việc tất sẽ uổng công vô ích.

48. Tân Hợi – Phong Lôi Ích, hào 2
- “Lục Nhị, hoặc ích chi thập bằng chi quy, phất khắc vi, vĩnh trinh cát ; vương dụng hưởng vu đế, cát”.
- “Sáu Hai, có người cho một con rùa lớn quý đáng giá mười bằng, không từ tạ được, giữ vững chính bền lâu dài thì được tốt lành ; lúc này nhà vua đang tế trời cầu xin giáng phúc tốt lành”.
- Tượng viết: “Hoặc ích chi, tự ngoại lai dã” – “Có người cho (một con rùa lớn quý, đáng giá mười bằng), nói lên Sáu Hai được tăng ích là từ bên ngoài tự đến.

49. Nhâm Tý – Thiên Địa Bĩ, hào 1 (49 = 1)
- “Sơ Lục, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; trinh cát, hanh”.
- “Sáu Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra ; giữ vững chính bền thì được tốt lành, hanh thông”.
- Tượng viết: “Bạt mao trinh dã, chí tại quân dã” - Nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, nói lên ý chí Sáu Đầu giữ chính không muốn tiến, là do nghĩ tới Vua.

50. Quý Sửu – Địa Thiên Thái, hào 4 (50 = 2)
- “Lục Tứ, phiên phiên, bất phú, dỹ kỳ lân bất giới dỹ phu”.
- “Sáu Bốn, dập dừu đi xuống, rỗng không chẳng giầu, với hàng xóm chẳng cần bảo nhau mà đều một lòng thành tín”.
- Tượng viết: “Phiên phiên bất phú, giai thất thực dã ; ‘bất giới dĩ phu’ trung tâm nguyện dã” – “Dập dừu đi xuống, rỗng không chẳng giầu”, nói lên các hào âm ở quẻ trên đều mất đi cái thực của mình ; “chẳng cần phải bảo nhau mà đều một lòng thành tín”, nói lên trong lòng các hào âm đều mang ý nguyện ứng với dưới.

51. Giáp Dần – Thiên Địa Bĩ, hào 2 (51 = 39)
- “Lục Nhị, bao thừa, tiểu nhân cát ; đại nhân phủ, hanh”.
- “Sáu Hai, phải chựu sự bao dung che trở và vâng thuận người trên, là tiểu nhân thì tốt lành ; là đại nhân mà phủ định đạo này thì hanh thông”.
- Tượng viết: “Đại nhân phủ, hanh, bất loạn quần dã” - Đại nhân mà phủ định đạo này thì hanh thông, nói lên ý không để cho bọn tiểu nhân làm loạn.

52. Ất Mão – Địa Thiên Thái, hào 3 (52 = 40)
- “Cửu Tam, vô bình bất bì, vô vãng bất phục ; gian trinh vô cữu, vật tuất kỳ phu, vu thực hữu phúc”.
- “Chín Ba, không có nơi bằng phẳng nào mà không lồi lõm, không có sự ra đi nào mà không trở lại ; ghi lòng gian khổ, giữ vững chính bền thì sẽ không gặp phải điều cữu hại, không sợ không giữ được điều tín với người, tự sẽ có phúc khánh được thực hưởng bổng lộc”.
- Tượng viết: “Vô vãng bất phục, thiên địa tế dã” - Kẻ ra đi không thể không quay trở lại, nói lên Chín Ba ở ranh giới giao tiếp của “Trời Đất”

53. Bính Thìn – Sơn Trạch Tổn, hào 1
- “Sơ Cửu, dĩ sự xuyền vãng, vô cữu, chước tổn chi”.
- “Chín Đầu, hoàn thành việc tự tu dưỡng, liền mau chóng đi lên giúp cho người ở ngôi cao, tất không có cữu hại ; nên châm chước giảm bớt chất cứng của bản thân”.
- Tượng viết: “Dĩ sự xuyền vãng, thượng hợp chí dã” – Thành việc tu dưỡng bản thân rồi đi giúp người trên cao, nói lên Chín Đầu tâm chí hợp nhất với bậc tôn trưởng.

54. Đinh Tị - Trạch Sơn Hàm, hào 1
- “Sơ Lục, hàm kỳ mẫu”.
- “Sáu Đầu, giao cảm ở ngón chấn cái”.
- Tượng viết: “Hàm kỳ mẫu, chí tại ngoại dã” – Giao cảm ở ngón chân cái, nói lên chí hướng của Sáu Đầu phát triển ra phía ngoài.

55. Mậu Ngọ - Thủy Hỏa Ký tế, hào 3 (ý thông 46)
- “Cửu Tam, Cao Tông phạt Quỷ Phương, tam niên khắc chi ; tiểu nhân vật dụng”.
- “Sáu Ba, vua Ân Cao Tông đánh nước Quỷ Phương, kéo dài ba năm cuối cùng mới thắng ; không thể dùng kẻ tiểu nhân nóng vội gấp tiến”.
- Tượng viết: “Tam niên khắc chi, bị dã” – Kéo dài ba năm cuối cùng mới thắng, nói lên Chín Ba nỗ lực, bền bỉ tới mức sức lực cùng kiệt.

56. Kỷ Mùi – Hỏa Thủy Vị tế, hào 5
- “Lục Ngũ, trinh cát, vô hối ; quân tử chi quang, hữu phu cát”.
- “Sáu Năm, giữ vững chính bền thì được tốt lành, không có gì phải hối hận ; đây là do sự sáng của người quân tử, (lại thêm) trong lòng thành tín mà được tốt lành.
- Tượng viết: “Quân tử chi quang, kỳ huy cát dã” - Sự sáng của người quân tử, dụ chỉ sự rực lên những tia sáng của Sáu Năm, là thể hiện của sự tốt lành.

57. Canh Thân – Lôi Phong Hằng, hào 5
- “Lục Ngũ, hằng kỳ đức, trinh ; phụ nhân cát, phu tử hung”.
- “Sáu Năm, muốn thường giữ phẩm đức mềm đẹp, nên giữ vững chính bền ; đàn bà thì được tốt lành, đàn ông tất có hung hiểm”.
- Tượng viết: “Phụ nhân trinh cát, tòng nhất nhi chung dã ; phu tử chế nghĩa, tòng phụ hung dã” – “Đàn bà giữ vững chính bền thì được tốt lành”, nói lên cần suốt đời thuận tòng một bề theo một chồng ; đàn ông phải điều hành mọi việc sao cho thích hợp, nếu mềm thuận như đàn bà thì tất có hung hiểm.

58. Tân Dậu – Phong Lôi Ích, hào 3
- “Lục Tam, ích chi dụng hung sự, vô cữu ; hữu phu trung hàng, cáo công dụng khuê”
- “Sáu Ba, nhận “ích” phần lớn phải dấn thân để cứu người khỏi điều ác, giải trừ hiểm nguy (như vậy) mới không lỗi ; tất phải giữ lòng thành tín, giữ đạo trung, thận trọng trong công việc, lúc nào cũng phải như tay cầm Ngọc khuê tâu việc với bậc vương công”.
- Tượng viết: “Ích dụng hung sự, cố hữu chi dã” - Nhận “ích” rất nhiều nên nỗ lực dấn thân vào việc “cứu hung bình hiểm”. Như vậy Sáu Ba mới có thể giữ “ích” đã nhận được một cách chắc chắn.

59. Nhâm Tuất – Thiên Địa Bĩ, hào 6 (59 = 11)
- “Thượng Cửu, khuynh bĩ ; tiên bĩ hậu hỷ”
- “Chín Trên, đánh đổ được “bĩ bế” ; trước còn bĩ bế, sau thì “thông thái” mừng vui”.
- Tượng viết: “Bĩ chung tắc khuynh, hà khả trường dã” – Bĩ bế lúc cùng cực tất đi đến đổ, làm sao giữ được lâu dài.

60. Quý Hợi – Địa Thiên Thái, hào 5 (60 – 12)
- “Lục Ngũ, Đế Ất quy muội, dĩ chỉ nguyên cát”.
- “ Sáu Năm, vua Đế Ất cho em gái về nhà chồng, như thế là có phúc trạch, hết sức tốt lành”.
- Tượng viết: “Dĩ chỉ nguyên cát, trung dĩ hành nguyện dã” – “Như thế là có phúc trạch, hết sức tốt lành”, nói lên Sáu Năm ở ngôi giữa không thiên lệch, thực hiện ý nguyện ứng dưới.
Đầu trang

Hà Uyên
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 607
Tham gia: 14:20, 02/05/09

TL: DỊCH CAN CHI

Gửi bài gửi bởi Hà Uyên »

CHU KỲ 5



...............................MÔNG


.....VÔ VỌNG............................ĐẠI TRÁNG


...THĂNG...................+....................KIỂN


......KHUÊ...................................QUAN


...............................CÁCH


1. Giáp Tý – Phong Địa Quán, hào 1 (1 ~ 49)
- “Sơ Lục, đồng quán, tiểu nhân vô cữu, quân tử lận.”
- “Sáu Đầu, như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, tiểu nhân không nguy hại gì, quân tử tất có hối tiếc.”
- Tượng “Sơ Lục đồng quán, tiểu nhân đạo dã.” – Như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, đây là cái lẽ sự hiểu biết nông cạn của kẻ tiểu nhân.

2. Ất Sửu – Lôi Thiên Đại tráng, hào 4 (2 ~ 50)
- “Cửu Tứ, trinh cát, hối vong ; phiên quyết bất luy, tráng vu đại dư chi phúc.”
- “Chín Bốn, giữ vững chính bền thì được tốt lành, sự hối hận tất sẽ mất hết ; cũng như phên giậu dễ bị bật tung nên sừng dê không bị mắc vào nữa, như cỗ xe lớn trục xe vững vàng.”
- Tượng “Phiên quyết bất luy, thượng vãng dã.” – Phên giậu đã bị bật tung nên sừng không bị mắc vào nữa, nói lên Chín Bốn lợi về sự đi.

3. Bính Dần - Hỏa Trạch Khuê, hào 6
- “Thượng Cửu, khuê cô, kiến thỉ phụ đồ, tải quỷ nhất xa, tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ ; phỉ khấu, hôn cấu ; vãng ngộ vũ tắc cát.”
- “Chín Trên, trái lìa hết mức, cô độc hồ nghi, hoảng hốt như nhìn thấy con lợn lưng bám đầy bùn, lại thấy như một cỗ xe lớn chở đầy quỷ đang chạy, thoạt tiên thì dương cung muốn bắn, sau lại buông cung xuống ; thì ra không phải là giặc mạnh, mà là một cô gái đẹp tới kết hôn với mình ; lúc này mà đi gặp cơn mưa lành, hòa hợp âm dương thì được tốt lành.”
- Tượng “Ngộ vũ chi cát, quần nghi vong dã.” - Gặp cơn mưa lành, hòa hợp âm dương thì được tốt lành, nói lên mọi điều ức đoán, nghi ngờ của Chín Trên đều bị tiêu tan.

4. Đinh Mão - Thủy Sơn Kiển, hào 2
- “Lục Nhị, vương thần kiển kiển, phỉ cung chi cố.”
- “Sáu Hai, người bề tôi của đấng quân vương ra sức bôn tẩu để vượt qua “kiển nạn”, không phải vì bản thân.”
- Tượng “Vương thần kiển kiển, chung vô cữu dã.” - Người bề tôi của đấng quân vương ra sức bôn tẩu để vượt qua kiển nạn, nói lên Sáu Hai cuối cùng sẽ không lỗi.

5. Mậu Thìn - Trạch Hỏa Cách, hào 2
- “Lục Nhị, kỷ nhật nãi cách chi, chinh cát, vô cữu.”
- “Sáu Hai, vào “ngày Kỷ” phải chuyển biến gấp thì phải quả đoán mà tiến hành biến cách, tiến lên phía trước tất có sự tốt lành, không bị cữu hại.”
- Tượng “Kỷ nhật cách chi, hành hữu giai dã.” – Vào ngày Kỷ thì phải chuyển biến gấp, nói lên Sáu Hai gắng đi lên tất có công tốt đẹp.

6. Kỷ Tị - Sơn Thủy Mông – hào 6
- “Thượng Cửu, kích mông ; bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu.”
- “Chín Trên, làm mạnh để mở mang sự ngu tối ; không lợi về sự dùng cách thức quá dữ dằn, cách này chỉ nên dùng để ngừa giặc mạnh.”
- Tượng “Lợi dụng ngự khấu, thượng hạ thuận dã.” - Lợi nếu dùng cách ngừa giặc mạnh để trừ sự ngu tối, là nói rằng có thể khiến cho ý chí trên dưới hài hòa, ứng thuận.

7. Canh Ngọ - Địa Phong Thăng, hào 4
- “Lục Tứ, vương dụng hưởng vu Kỳ Sơn, cát, vô cữu.”
- “Sáu Bốn, nhà vua đến núi Kỳ Sơn tế thần linh, tốt lành, tất không cữu hại.”
- Tượng “Vương dụng hưởng vu Kỳ Sơn, thuận sự dã.” – Nhà Vua đến núi Kỳ Sơn tế thần linh, nói lên Sáu Bốn phải thuận theo nhà Vua lập công lập việc.

8. Tân Mùi – Thiên Lôi Vô vọng, hào 4
- “Cửu Tứ, khả trinh, vô cữu.”
- “Chín Bốn, có thể giữ vững chính bền, do đó tất không bị cữu hại.”
- Tượng “Khả trinh vô cữu, cố hữu chi dã.” – Có thể giữ vững chính bền, nói lên Chín Bốn phải nắm bắt được cái bền, giữ được cái chính, mới có thể bảo tồn được sự vô hại lâu dài.

9. Nhâm Thân – Phong Địa Quán, hào 5 (9 ~ 21)
- “Cửu Ngũ, quán ngã sinh, quân tử vô cữu.”
- “Chín Năm, được mọi người ngẩng trông đồng thời tự xét hành vi của mình, người quân tử tất vô cữu hại.”
- Tượng “Quán ngã sinh, quán dân dã.” - Được mọi người ngẩng trông và tự xét hành vi của mình, nói lên Chín Năm nên thông qua sự quan sát phong tục của dân mà từ xét mình.

10. Quý Dậu – Lôi Thiên Đại tráng, hào 6 (10 ~ 22)
- “Thượng Lục, đê dương xúc phiên, bất năng thoái, bất năng toại, vô du lợi ; gian tắc cát.”
- “Sáu Trên, dê lớn húc giậu, không thể lui, không thể tiến, không có gì là lợi ; tự giữ vững lòng trinh thì được tốt lành.”
- Tượng “Bất năng thoái, bất năng toại, bất tường dã ; gian tắc cát, cữu bất trường dã.” – Không thể lui không thể tiến, nói lên Sáu Trên giải quyết công việc không tường tận kỹ lưỡng ; Tự giữ vững lòng trinh thì được tốt lành, nói lên Sáu Trên gặp cữu hại không đến nỗi lâu dài.

11. Giáp Tuất – Phong Địa Quán, hào 6 (11 ~ 59)
- “Thượng Cửu, quán kỳ sinh, quân tử vô cữu.”
- “Chín Trên, mọi người đều ngẩng trông mọi hành vi của nó, người quân tử tất vô cữu hại.”
- Tượng “Quán kỳ sinh, chí vị bình dã.” - Mọi người đều ngẩng trông mọi hành vi của nó, nói lên tâm chí sửa đức của Chín Trên chưa thể yên vui thư thái được.

12. Ất Hợi – Lôi Thiên Đại tráng, hào 5 (12 ~ 60)
- “Lục Ngũ, táng dương vu dị, vô hối.”
- “Sáu Năm, mất dê ở bờ ruộng, không có gì hối hận.”
- Tượng “Táng dương vu dị, vị bất đáng dã.” - Mất dê ở bờ ruộng, nói lên ngôi của Sáu Năm không thích đáng.

13. Bính Tý - Hỏa Trạch Khuê, hào 5
- “Lục Ngũ, hối vong, quyết tông phệ phu, vãng hà cữu.”
- “Sáu Năm, hối hận mất hết, kẻ trong họ thân ứng với nó, cắn vào da mềm giòn của nó (như với ý hòa thuận mong được gặp gỡ), đi lên thì sao mà cữu hại được ?
- Tượng “Quyết tông phệ phu, vãng hữu khánh dã.” - Kẻ trong họ thân ứng với nó (như) cắn vào da mềm giòn của nó, nói lên lúc này Sáu Năm mà đi tất vui.

14. Đinh Sửu - Thủy Sơn Kiển, hào 3
- “Cửu Tam, vãng kiển, lai phản,”
- “Chín Ba, tiến lên thì gian nan, quay lại là trở về nơi chốn của mình.”
- Tượng “Vãng kiển lai phản, nội hỷ chi dã.” - Tiến lên thì gian nan, quay trở lại là trở về nơi chốn của mình, nói lên các hào âm mềm ở trong quẻ đều vui mừng thấy Chín Ba quay lại.

15. Mậu Dần - Trạch Hỏa Cách, hào 1
- “Sơ Cửu, củng dụng hoàng ngưu chi cách.”
- “Chín Đầu, nên bó chặt bằng da con bò vàng.”
- Tượng “Củng dụng hoàng ngưu, bất khả dĩ hữu vi dã.” – Bó chặt bằng da bò, nói lên Chín Đầu không thể bạ việc gì cũng làm bừa làm càn để biến cách.

16. Kỷ Mão – Sơn Thủy Mông, hào 1
- “Sơ Lục, phát mông, lợi dụng hình nhân, dụng thoát chất cốc ; dĩ vãng lận.”
- “Sáu Đầu, mở mang đầu óc, lợi ở chỗ tạo dựng ra khuôn mẫu để giáo dục người, khiến cho người ta không phạm tội ác ; nếu đi lên quá mức tất sẽ hối tiếc.”
- Tượng “Lợi dụng hình nhân, dĩ chính pháp dã.” - Lợi ở chỗ tạo dựng ra khuôn mẫu để giáo dục người, là để mọi người tuân theo các phép tắc đúng đắn.

17. Canh Thìn - Địa Phong Thăng, hào 3
- “Cửu Tam, thăng hư ấp.”
- “Chín Ba, lên cao dễ dàng như vào thẳng nơi thành ấp không người.”
- Tượng “Thăng hư ấp, vô sở nghi dã.” – Lên cao dễ dàng như vào nơi không người, nói lên lúc này Chín Ba “thượng thăng” sẽ không có điều gì phải nghi ngờ suy nghĩ.

18. Tân Tị - Thiên Lôi Vô vọng, hào 5
- “Cửu Ngũ, vô vọng chi tật, vật dược hữu hỷ.”
- “Chín Năm, không càn bậy mà bị bệnh nhẹ, không cần phải uống thuốc mà sẽ vui vì khỏi bệnh.”
- Tượng “Vô vọng chi dược, bất khả thí dã.” – Không càn bậy mà bị bệnh nhưng không cần phải uống thuốc, đó là vì không thể dùng thử linh tinh. “Bất khả thí” - tức không được thử thuốc. Thuốc công hiệu với những kẻ làm càn, mà không công hiệu với những ai không làm càn, cho nên nói “bất khả thí” vậy.

19. Nhâm Ngọ - Phong Địa Quán, hào 4 (19 ~ 31)
- “Lục Tứ, quán quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương.”
- “Sáu Bốn, ngẩng trông sự rực rỡ thịnh trị của vương triều, lợi khi thành quý khách của bậc quân vương.”
- Tượng “Quán quốc chi quang, thượng tân dã.” - Ngẩng trông sự rực rỡ thịnh trị của vương triều, nói lên ý thời này đất nước đã chính thức có lễ tỏ lòng chuộng hiền khách.

20. Quý Mùi – Lôi Thiên Đại tráng, hào 1 (20 ~ 32)
- “Sơ Cửu, tráng vu chỉ, chinh hung ; hữu phu.”
- “Chín Đầu, mạnh ở ngón chân, đi lên tất có hung hiểm ; nên lấy sự thành tín tự giữ.”
- Tượng “Tráng vu chỉ, kỳ phu cùng dã.” - Mạnh ở ngón chân, nói lên Chín Đầu nên lấy sự thành tín tự giữ, khéo sử lý sự cùng khốn.

21. Giáp Thân – Phong Địa Quán, hào 5 (21 ~ 9)
- “Cửu Ngũ, quán ngã sinh, quân tử vô cữu.”
- “Chín Năm, được mọi người ngẩng trông đồng thời tự xét hành vi của mình, người quân tử tất vô cữu hại.”
- Tượng “Quán ngã sinh, quán dân dã.” - Được mọi người ngẩng trông và tự xét hành vi của mình, nói lên Chín Năm nên thông qua sự quan sát phong tục của dân mà từ xét mình.

22. Ất Dậu – Lôi Thiên Đại tráng, hào 6 (22 ~ 10)
- “Thượng Lục, đê dương xúc phiên, bất năng thoái, bất năng toại, vô du lợi ; gian tắc cát.”
- “Sáu Trên, dê lớn húc giậu, không thể lui, không thể tiến, không có gì là lợi ; tự giữ vững lòng trinh thì được tốt lành.”
- Tượng “Bất năng thoái, bất năng toại, bất tường dã ; gian tắc cát, cữu bất trường dã.” – Không thể lui không thể tiến, nói lên Sáu Trên giải quyết công việc không tường tận kỹ lưỡng ; Tự giữ vững lòng trinh thì được tốt lành, nói lên Sáu Trên gặp cữu hại không đến nỗi lâu dài.

23. Bính Tuất - Hỏa Trạch Khuê, hào 4
- “Cửu Tứ, khuê cô ; ngộ nguyên phu, giao phu, lệ vô cữu.”
- “Chín Bốn, chống đối, chia lìa, thui thủi một mình ; gặp chàng trai tốt dương cứng mà đối xử thành tín với nhau, thì tuy có nguy hiểm nhưng tránh được cữu hại.”
- Tượng “Giao phu vô cữu, chí hành dã.” - Đối xử thành tín với nhau, thì tuy có nguy hiểm, nhưng lại tránh được cữu hại, nói lên chí hướng của Chín Bốn được thực hành để qua được thời khuê.

24. Đinh Hợi - Thủy Sơn Kiển, hào 4
- “Lục Tứ, vãng kiển, lai liên.”
- “Sáu Bốn, tiến lên thì gian nan, quay lại gặp gian nan.”
- Tượng “Vãng kiển lai liên, vị đáng thực dã.” - Tiến lên thì gặp kiển nạn, quay lại lại gặp gian nan, nói lên Sáu Bốn chính là đáng ngôi thật (kiển nạn không phải đưa lại một cách vu vơ)

25. Mậu Tý - Trạch Hỏa Cách, hào 6
- “Thượng Lục, quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện ; chinh hung, cư trinh cát.”
- “Sáu Trên, người quân tử như được con báo đốm giúp đã làm nên sự biến cách, kẻ tiểu nhân đua nhau thay đổi khuynh hướng thời trước ; lúc này nếu cứ tiếp tục tiến mạnh không thôi, tất có hung hiểm, ở yên giữ chính thì được tốt lành.”
- Tượng “Quân tử báo biến, kỳ văn úy dã ; tiểu nhân cách diện, thuận dĩ tòng quân dã.” - Người quân tử như được con báo đốm giúp đã làm nên sự biến cách, nói lên mỹ đức của Sáu Trên nhân vì vẻ tươi tắn sáng sủa của bậc đại nhân mà thành ra rực rỡ ; kẻ tiểu nhân đua nhau thay đổi khuynh hướng thời trước, đây là thuận tòng sự biến cách của nhà vua.

26. Kỷ Sửu – Sơn Thủy Mông, hào 2
- “Cửu Nhị, bao mông, cát. Nạp phụ, cát ; tử khắc gia.”
- “Chín Hai, được trẻ nhỏ vậy quanh, tốt lành. Như đón được người vợ hiền thục đẹp đẽ về nhà, tốt lành ; lại như người con coi sóc được việc nhà.”
- Tượng “Tử khắc gia, cương nhu tiếp dã.” - Người con coi sóc được việc nhà, nói lên Chín Hai dương cứng ứng với Sáu Năm âm mềm.

27. Canh Dần - Địa Phong Thăng, hào 2
- “Cửu Nhị, phu nãi lợi dụng Thược, vô cữu.”
- “Chín Hai, chỉ cần lòng giữ thành tín thì dù làm lễ “tế Thược” đơn sơ, cũng lợi về sự dâng tiến lên thần linh, không đến nỗi cữu hại.”
- Tượng “Cửu Nhị chi phu, hữu hỷ dã.” - Đức đẹp thành tín của Chín Hai tất sẽ đem lại sự vui mừng, phúc khánh.

28. Tân Mão – Thiên Lôi Vô vọng, hào 6
- “Thượng Cửu, vô vọng, hành hữu sảnh, vô du lợi.”
- “Chín Trên, tuy không làm bậy nhưng ở thế cùng mà đi thì tất gặp họa, không được lợi gì.”
- Tượng “Vô vọng chi hành, cùng chi tai dã.” – Chín Trên tuy không làm bậy nhưng nếu có sự đi, thì sẽ do thế cùng, khó thông mà gặp phải tai ương.

29. Nhâm Thìn – Phong Địa Quán, hào 3 (29 ~ 41)
- “Lục Tam, quán ngã sinh, tiến thoái.”
- “Sáu Ba, ngẩng trông đức đẹp của dương cứng rồi đối chiếu, tự xét hành vi của mình mà cẩn thận lựa chọn sự tiến lui.”
- Tượng “Quán ngã sinh tiến thoái, vị thất đạo dã.” - Ngẩng trông rồi đối chiếu tự xét hành vi của mình, nói lên Sáu Ba không để mất sự chính xác của đạo “ngẩng trông”.

30. Quý Tị - Lôi Thiên Đại tráng, hào 2 (30 ~ 42)
- “Cửu Nhị, trinh cát.”
- “Chín Hai, giữ vững chính (bền) thì được tốt lành.”
- Tượng “Cửu Nhị trinh cát, dĩ trung dã.” – Chín Hai giữ chính thì được tốt lành, đó là bởi do nguyên cớ dương cứng ở ngôi giữa.

31. Giáp Ngọ - Phong Địa Quan, hào 4 (31 ~ 19)
- “Lục Tứ, quán quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương.”
- “Sáu Bốn, ngẩng trông sự rực rỡ thịnh trị của vương triều, lợi khi thành quý khách của bậc quân vương.”
- Tượng “Quán quốc chi quang, thượng tân dã.” - Ngẩng trông sự rực rỡ thịnh trị của vương triều, nói lên ý thời này đất nước đã chính thức có lễ tỏ lòng chuộng hiền khách.

32. Ất Mùi – Lôi Thiên Đại tráng, hào 1 (32 ~ 20)
- “Sơ Cửu, tráng vu chỉ, chinh hung ; hữu phu.”
- “Chín Đầu, mạnh ở ngón chân, đi lên tất có hung hiểm ; nên lấy sự thành tín tự giữ.”
- Tượng “Tráng vu chỉ, kỳ phu cùng dã.” - Mạnh ở ngón chân, nói lên Chín Đầu nên lấy sự thành tín tự giữ, khéo sử lý sự cùng khốn.

33. Bính Thân - Hỏa Trạch Khuê, hào 3
- “Lục Tam, kiến dư duệ, kỳ ngưu xiết ; kỳ nhân thiên thả tị. Vô sơ hữu chung.”
- “Sáu Ba, dường như nhìn thấy cỗ xe lớn bị kéo khó đi, trâu kéo xe bị cản không tiến được, như người bị khốc hình gọt tóc, xẻo mũi. Mới đầu trái lìa, sau sẽ hòa hợp.”
- Tượng “Kiến dư duệ, vị bất đáng dã ; vô sơ hữu chung, ngộ cương dã.” - Dường như thấy cỗ xe lớn bị kéo khó đi, đây là do ngôi của Sáu Ba ở nơi không thích hợp gây nên ; Mới đầu trái lìa, sau sẽ hòa hợp, nói lên cuối cùng Sáu Ba tất gặp được hào dương cứng tương ứng.

34. Đinh Dậu - Thủy Sơn Kiển, hào 5
- “Cửu Ngũ, đại kiển, bằng lai.”
- “Chín Năm, đi thì mười phần gian nan, bè bạn tấp nập kéo đến giúp đỡ.”
- Tượng “Đại kiển bằng lai, dĩ trung tiết dã.” – Đi thì mười phần gian nan, bạn bè tấp nập kéo đến giúp đỡ, nói lên Chín Năm giữ khí tiết dương cứng trung chính.

35. Mậu Tuất - Trạch Hỏa Cách, hào 5
- “Cửu Ngũ, đại nhân hổ biến, vị chiêm hữu phu.”
- “Chín Năm, bậc đại nhân tiến hành biến cách như con mãnh hổ, không nghi ngờ gì nữa, tất sẽ làm sáng tỏ đức đẹp thành tín, chân thực.”
- Tượng “Đại nhân hổ biến, kỳ văn bỉnh dã.” - Bậc đại nhân tiến hành biến cách như con mãnh hổ, nói lên đức đẹp của Chín Năm mang mầu vẻ đẹp đẽ.

36. Kỷ Hợi – Sơn Thủy Mông, hào 3
- “Lục Tam, vật dụng thủ nữ, kiến kim phu, bất hữu cung, vô du lợi.”
- “Sáu Ba, không nên lấy người con gái này, trong mắt cô ta chỉ thấy người chồng đẹp mã thôi, không biết giữ mình, lấy cô ta không có lợi gì hết.”
- Tượng “Vật dụng thủ nữ, hạnh bất thuận dã.” – Không nên lấy người con gái này, nói lên Sáu Ba có đức hạnh không hợp với lễ tiết.

37. Canh Tý - Địa Phong Thăng, hào 1
- “Sơ Lục, doãn thăng, đại cát.”
- “Sáu Đầu, thích hợp về sự cao, hết sức tốt lành.”
- Tượng “Doãn thăng đại cát, thượng hợp chí dã.” – Thích hợp về sự lên cao, hết sức tốt lành, nói lên Sáu Đầu đội trên mà thuận hợp với tâm chí của hai hào dương rồi cùng “thăng”.

38. Tân Sửu – Thiên Lôi Vô vọng, hào 1
- “Sơ Cửu, vô vọng, vãng cát.”
- “Chín Đầu, không làm càn, đi tất sẽ được tốt lành.”
- Tượng “Vô vọng chi vãng, đắc chí dã.” – Không làm càn mà đi, ý nói Chín Đầu tất nhiên được toại ý tiến thủ.

39. Nhâm Dần – Phong Địa Quan, hào 2 (39 ~ 51)
- “Lục Nhị, khuy quán, lợi nữ trinh.”
- “Sáu Hai, lén ngẩng trông cảnh vật đẹp thịnh, lợi cho người con gái giữ vững chính bền.”
- Tượng “Khuy quán nữ trinh, diệc khả xú dã.” – Lén ngẩng trông cảnh vật đẹp thịnh, lợi cho người con gái, còn đối với người con trai mà nói là đáng xấu hổ vậy.

40. Quý Mão – Lôi Thiên Đại tráng, hào 3 (40 ~ 52)
- “Cửu Tam, tiểu nhân dụng tráng, quân tử dụng võng ; trinh lệ, đê dương xúc phiên, luy kỳ giác.”
- “Chín Ba, kẻ tiểu nhân dùng bừa sức mạnh, quân tử tuy mạnh nhưng không thế ; giữ vững chính để phòng nguy hiểm, nếu như con dê lớn mà húc mạnh vào giậu thì tất bị mắc sừng.”
- Tượng “Tiểu nhân dụng tráng, quân tử võng dã.” - Tiểu nhân dùng bừa sức mạnh, người quân tử tuy mạnh nhưng không thế.

41. Giáp Thìn – Phong Địa Quán, hào 3 (29 ~ 41)
- “Lục Tam, quán ngã sinh, tiến thoái.”
- “Sáu Ba, ngẩng trông đức đẹp của dương cứng rồi đối chiếu, tự xét hành vi của mình mà cẩn thận lựa chọn sự tiến lui.”
- Tượng “Quán ngã sinh tiến thoái, vị thất đạo dã.” - Ngẩng trông rồi đối chiếu tự xét hành vi của mình, nói lên Sáu Ba không để mất sự chính xác của đạo “ngẩng trông”.

42. Ất Tị - Lôi Thiên Đại tráng, hào 2 (42 ~ 30)
- “Cửu Nhị, trinh cát.”
- “Chín Hai, giữ vững chính (bền) thì được tốt lành.”
- Tượng “Cửu Nhị trinh cát, dĩ trung dã.” – Chín Hai giữ chính thì được tốt lành, đó là bởi do nguyên cớ dương cứng ở ngôi giữa.

43. Bính Ngọ - Hỏa Trạch Khuê, hào 2
- “Cửu Nhị, ngộ chủ vu hạng, vô cữu.”
- “Chín Hai, trong ngõ không hẹn mà gặp chủ, tất không cữu hại.”
- Tượng “Ngộ chủ vu hạng, vị thất đạo dã.” – Trong ngõ không hẹn mà gặp chủ, nói lên Chín Hai chưa từng phạm vào cách xử sự ở thời Khuê.

44. Đinh Mùi - Thủy Sơn Kiển, hào 6
- “Thượng Lục, vãng kiển, lai thạc ; cát, lợi hiện đại nhân.”
- “Sáu Trên, đi lên thì gian nan, quay lại có thể lập công lớn ; tốt lành, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”
- Tượng “Vãng kiển lai thạc, chí tại nội dã ; lợi hiện đại nhân, dĩ tòng quý dã.” – Đi lên thì gian nan, nói lên chí hướng của Sáu Trên là liên hợp bên trong cùng nhau vượt gian nan ; Lợi về sự xuất hiện đại nhân, nói lên Sáu Trên nên theo giúp bậc quân chủ dương cứng tôn quý.

45. Mậu Thân - Trạch Hỏa Cách, hào 4
- “Cửu Tứ, hối vong, hữu phu cải mệnh, cát.”
- “Chín Bốn, hối hận mất hết, giữ lòng thành tín để cách trừ (vương) mệnh cũ, tốt lành.”
- Tượng “Cải mệnh chi cát, tín chí dã.” – Cách (vương) mệnh cũ thì được tốt lành, nói lên Chín Bốn thực hiện chí biến cách.

46. Kỷ Dậu – Sơn Thủy Mông, hào 4 (Khốn vòng 2)
- “Lục Tứ, khốn mông, lận.”
- “Sáu Bốn, khốn vì tăm tối, có sự hối tiếc.”
- Tượng “Khốn mông chi lận, độc viễn thực dã.” - Hối tiếc do khốn vì tăm tối, nói lên Sáu Bốn cách xa “mông sư” cứng, khỏe, vững.

47. Canh Tuất - Địa Phong Thăng, hào 6
- “Thượng Lục, minh thăng, lợi vu bất tức chi trinh.”
- “Sáu Trên, mê muội cùng cực lại cứ muốn lên cao, lợi về sự giữ vững chính bền không ngừng nghỉ.”
- Tượng “Minh thăng tai thượng, tiêu bất phú dã.” – Mê muội cùng cực lại vẫn cứ muốn lên cao, nói lên xu thế phát triển của Sáu Trên tất sẽ tiêu mòn, không thể giầu thịnh.

48. Tân Hợi – Thiên Lôi Vô vọng, hào 2
- “Lục Nhị, bất canh hoạch, bất tri dư, tắc lợi hữu du vãng.”
- “Sáu Hai, không cầy và làm cỏ thì không được thu hoạch; không khai khẩn thì không có được ruộng tốt, như vậy lợi về có sự đi.”
- Tượng “Bất canh hoạch, vị phú dã.” – Không cầy và làm cỏ thì không được thu hoạch, nói lên ý Sáu Hai chưa từng mưu cầu sự giầu sang phú quý.

49. Nhâm Tý – Phong Địa Quán, hào 1 (49 ~ 1)
- “Sơ Lục, đồng quán, tiểu nhân vô cữu, quân tử lận.”
- “Sáu Đầu, như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, tiểu nhân không nguy hại gì, quân tử tất có hối tiếc.”
- Tượng “Sơ Lục đồng quán, tiểu nhân đạo dã.” – Như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, đây là cái lẽ sự hiểu biết nông cạn của kẻ tiểu nhân.

50. Quý Sửu – Lôi Thiên Đại tráng, hào 4 (50 ~ 2)
- “Cửu Tứ, trinh cát, hối vong ; phiên quyết bất luy, tráng vu đại dư chi phúc.”
- “Chín Bốn, giữ vững chính bền thì được tốt lành, sự hối hận tất sẽ mất hết ; cũng như phên giậu dễ bị bật tung nên sừng dê không bị mắc vào nữa, như cỗ xe lớn trục xe vững vàng.”
- Tượng “Phiên quyết bất luy, thượng vãng dã.” – Phên giậu đã bị bật tung nên sừng không bị mắc vào nữa, nói lên Chín Bốn lợi về sự đi.

51. Giáp Dần – Phong Địa Quán, hào 2 (51 ~ 39)
- “Lục Nhị, khuy quán, lợi nữ trinh.”
- “Sáu Hai, lén ngẩng trông cảnh vật đẹp thịnh, lợi cho người con gái giữ vững chính bền.”
- Tượng “Khuy quán nữ trinh, diệc khả xú dã.” – Lén ngẩng trông cảnh vật đẹp thịnh, lợi cho người con gái, còn đối với người con trai mà nói là đáng xấu hổ vậy.

52. Ất Mão – Lôi Thiên Đại tráng, hào 3 (52 ~ 40)
- “Cửu Tam, tiểu nhân dụng tráng, quân tử dụng võng ; trinh lệ, đê dương xúc phiên, luy kỳ giác.”
- “Chín Ba, kẻ tiểu nhân dùng bừa sức mạnh, quân tử tuy mạnh nhưng không thế ; giữ vững chính để phòng nguy hiểm, nếu như con dê lớn mà húc mạnh vào giậu thì tất bị mắc sừng.”
- Tượng “Tiểu nhân dụng tráng, quân tử võng dã.” - Tiểu nhân dùng bừa sức mạnh, người quân tử tuy mạnh nhưng không thế.

53. Bính Thìn - Hỏa Trạch Khuê, hào 1
- “Sơ Cửu, hối vong ; táng mã, vật trục tự phục ; kiến ác nhân, vô cữu.”
- “Chín Đầu, hối hận tiêu vong, ngựa chạy mất, chớ đuổi theo, bình tĩnh chờ nó tự trở về, khiêm tốn tiếp kẻ ác đối lập với mình, không bị cữu hại.”
- Tượng “Kiến ác nhân, dĩ tị cữu dã.” – Khiêm tốn tiếp kẻ ác đối lập với mình, là để tránh sự cữu hại do sự trái lìa gây nên.

54. Đinh Tị - Thủy Sơn Kiển, hào 1
- “Sơ Lục, vãng kiển, lai dự.”
- “Sáu Đầu, tiến lên thì gian nan, trở lại ắt được khen.”
- Tượng “Vãng kiển lai dự, nghi đãi dã.” - Tiến lên thì gian nan, trở lại thì được khen, nếu nói như vậy thì Sáu Đầu nên chờ đợi thời cơ.

55. Mậu Ngọ - Trạch Hỏa Cách, hào 3
- “Cửu Tam, chinh hung, trinh lệ ; cách ngôn tam tựu, hữu phu.”
- “Chín Ba, gấp vội cầu tiến tất sinh “hung”, giữ chính phòng nguy hiểm ; khi biến cách bước đầu đã thành hiệu cần phải nhiều lần đi xuống làm theo lòng dân, yên định đại cục, xử sự phải giữ lòng thành tín.”
- Tượng “Cách ngôn tam tựu, hựu hà chi hỹ.” – Khi sự biến cách bước đầu đã thành hiệu, nói lên tại thời điểm này, Chín Ba hà tất phải quá vội vàng đi lên !

56. Kỷ Mùi – Sơn Thủy Mông, hào 5
- “Lục Ngũ, đồng mông, cát.”
- “Sáu Năm, trẻ nhỏ chưa biết gì, chính thế lại dễ dạy, tốt lành.”
- Tượng “Đồng mông chi cát, thuận dĩ tốn dã.” - Trẻ nhỏ chưa biết gì, nói lên Sáu Năm cung kính, nhu thuận, khiêm tốn với thầy dạy.

57. Canh Thân - Địa Phong Thăng, hào 5
- “Lục Ngũ, trinh cát, thăng giai.”
- “Sáu Năm, giữ vững chính bền thì tốt lành, giống như cứ từng bậc một mà lên cao.”
- Tượng “Trinh cát thăng giai, đại đắc chí dã.” - Từng bậc một mà tiến lên cao, nói lên Sáu Năm đã hết sức toại nguyện với tâm chí lên cao của bản thân.

58. Tân Dậu – Thiên Lôi Vô vọng, hào 3
- “Lục Tam, vô vọng chi tai: hoặc hệ chi ngưu, hành nhân chi đắc, ấp nhân chi tai.”
- “Sáu Ba, không làm càn mà bị tai ương: ví như có người buộc một con trâu, người đi đường dắt về làm của mình, người trong ấp bị nghi oan là bắt trộm.”
- Tượng “Hành nhân đắc ngưu, ấp nhân tai dã.” - Người đi đường thuận tay dắt và lấy mất trâu đi, nói lên người trong Ấp tự nhiên bị tai bay vạ gió, bị đổ tội nghi là lấy cắp trâu.

59. Nhâm Tuất – Phong Địa Quán, hào 6 (59 ~ 11)
- “Thượng Cửu, quán kỳ sinh, quân tử vô cữu.”
- “Chín Trên, mọi người đều ngẩng trông mọi hành vi của nó, người quân tử tất vô cữu hại.”
- Tượng “Quán kỳ sinh, chí vị bình dã.” - Mọi người đều ngẩng trông mọi hành vi của nó, nói lên tâm chí sửa đức của Chín Trên chưa thể yên vui thư thái được.

60. Quý Hợi – Lôi Thiên Đại tráng, hào 5 (60 ~ 12)
- “Lục Ngũ, táng dương vu dị, vô hối.”
- “Sáu Năm, mất dê ở bờ ruộng, không có gì hối hận.”
- Tượng “Táng dương vu dị, vị bất đáng dã.” - Mất dê ở bờ ruộng, nói lên ngôi của Sáu Năm không thích đáng.
Đầu trang

Hà Uyên
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 607
Tham gia: 14:20, 02/05/09

TL: DỊCH CAN CHI

Gửi bài gửi bởi Hà Uyên »

CHU KỲ 6



..............................HOÁN


.....PHỆ HẠP...............................QUẢI


...TỈNH.....................+....................KHIÊM


.......LÝ.......................................BÁC


.............................PHONG


1. Giáp Tý - Sơn Địa Bác, hào 1 (1~ 49)
- “Sơ Lục, bác sàng dĩ túc, miệt ; trinh hung.”
- “Sáu Đầu, làm sập giường trước tiên phải đẽo từ chân, chân giường tất sẽ gẫy gục ; giữ chính phòng hung.”
- Tượng “Bác sàng dĩ túc, dĩ miệt hạ dã.” – Làm sập giường trước hết phải đẽo từ chân, nói lên ý trước tiên cần làm ruỗng mọt phần nền móng phía dưới.

2. Ất Sửu - Trạch Thiên Quải, hào 4 (2 ~ 50)
- “Cửu Tứ, đôn vô phu, kỳ hành tư thư ; khiên dương hối vong, văn ngôn bất tín.”
- “Chín Bốn, mông mất da, đi lại chập chững khó tiến ; nếu dắt dê thật chắc chắn (khỏe mạnh giống như tôn quý dương cứng) thì sự hối hận sẽ mất, e rằng lời này nó không chắc đã nghe theo.”
- Tượng “Kỳ hành tư thư, vị bất đáng dã ; văn ngôn bất tín, thông bất minh dã.” – Đi lại chập chững khó tiến, là tượng Chín Bốn ngôi vị không thỏa đáng ; Nghe lời này mà không thể tin theo, nói lên Chín Bốn mặc dầu nghe thấy mà không thể xét rõ sự lý.

3. Bính Dần – Thiên Trạch Lý, hào 6
- “Thượng Cửu, thị lý khảo tường, kỳ tuyền nguyên cát.”
- “Chín Trên, nhìn lại quá trình “thận trọng trong đi lại”, soát xét mọi họa phúc được mất, quay mình xuống dưới ứng với âm mềm, hết sức tốt lành.”
- Tượng “Nguyên cát tại thượng, đại hữu khánh dã.” - Hết sức tốt lành, ở ngôi cao trên cùng, đây là tượng Chín Trên có phúc khánh lớn.

4. Đinh Mão - Địa Sơn Khiêm, hào 2
- “Lục Nhị, minh khiêm, trinh cát.”
- “Sáu Hai, tiếng tăm về đức khiêm lừng lẫy, giữ chính thì tốt lành.”
- Tượng “Minh khiêm trinh cát, trung tâm đắc dã.” - Tiếng tăm về đức Khiêm lững lẫy, là ý tượng Sáu Hai do trong lòng thuần chính nên có được danh tiếng.

5. Mậu Thìn – Lôi Hỏa Phong, hào 2
- “Lục Nhị, phong kỳ bộ, nhật trung kiến Đẩu, vãng đắc nghi tật ; hữu phu phát nhược, cát.”
- “Sáu Hai, dùng tấm gương lớn để che ánh sáng, như nói mặt Trời đang chính Ngọ mà mọc sao Bắc Đẩu, đi lên tất bị bệnh tật vì bị nghi ngờ ; nếu giữ được lòng thành tín thì tốt lành.”
- Tượng “Hữu phu phát nhược, tín dĩ phát chí dã.” – Ý tượng Sáu Hai muốn thông qua sự thành tín để mở ra chí hướng thịnh lớn, sáng rõ.

6. Kỷ Tị - Phong Thủy Hoán, hào 6
- “Thượng Cửu, hoán kỳ huyết khứ địch xuất, vô cữu.”
- “Chín Trên, lìa tan (cùng cực mà bốn phượng tụ hợp), bởi vậy xa được sự lo buồn, thoát được sự kinh sợ, không có gì cữu hại.”
- Tượng

7. Canh Ngọ - Thủy Phong Tỉnh, hào 4 - Sự thấm mạch nước không cùng.
- “Lục Tứ, tỉnh trụ, vô cữu.”
- “Sáu Bốn, giếng nước đang được xây lại, tất vô cữu hại.”
- Tượng “Tỉnh trụ vô cữu, tu tỉnh dã.” - Giếng nước đang được xây lại, là tượng Sáu Bốn chỉ có thể xửa giếng (không thể nóng vội mà nuôi người).

8. Tân Mùi - Hỏa Lôi Phệ hạp, hào 4
- “Cửu Tứ, phệ can tỉ, đắc kim thỉ ; lợi gian trinh, cát.”
- “Chín Bốn, gia hình không thuận lợi như cắn miếng thịt có xương khô, nhưng có khí phách cương trực như mũi tên đồng ; lợi về trong sự gian nan giữ được chính, tốt lành.”
- Tượng “Lợi gian trinh cát, vị quang dã.” – Trong gian nan giữ được chính bền thì có lợi, có thể được tốt lành, đây là tượng ý đạo trị ngục của Chín Bốn còn chưa phát huy được sáng lớn.

9. Nhâm Thân – Sơn Địa Bác, hào 5 (9 ~ 21)
- “Lục Ngũ, quán ngư dĩ cung nhân sủng, vô bất lợi.”
- “Sáu Năm, dắt bầy cung nữ như xâu một xâu cá lên hầu vua, không có gì là không lợi.”
- Tượng “Dĩ cung nhân sủng, chung vô vưu dã.” - Dắt bầy cung nữ lên hầu vua, là tượng Sáu Năm cuối cùng không có sai phạm.

10. Quý Dậu - Trạch Thiên Quải, hào 6 (10 ~ 22)
- “Thượng Lục, vô hào, chung hữu hung.”
- “Sáu Trên, không phải gào khóc, cuối cùng khó tránh sự hung hiểm.”
- Tượng “Vô hào chi hung, chung bất khả trường dã.” – Không cần phải gào khóc, khó tránh sự hung hiểm, là tượng Sáu Trên trong tình thế ở cao bên trên, cuối cùng không thể lâu dài.

11. Giáp Tuất – Sơn Địa Bác, hào 6 (11~59)
- “Thượng Cửu, thạc quả bất thực, quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư.”
- “Chín Trên, quả lớn chưa bị hái xuống ăn, người quân tử hái được nó thì sẽ có thể ruổi xe đi cứu đời, kẻ tiểu nhân hái được tất sẽ đi đến chỗ phá vạn nhà.”
- Tượng “Quân tử đắc dư, dân sở tải dã ; tiểu nhân bác lư, chung bất khả dụng dã.” - Người quân tử hái được, tượng ý trăm họ do vậy được bề trên che chở ; Kẻ tiểu nhân hái được, tượng ý kẻ tiểu nhân cuối cùng không thể tin dùng được.

12. Ất Hợi - Trạch Thiên Quải, hào 5
- “Cửu Ngũ, nghiễn lục quải quải, trung hàng vô cữu.”
- “Chín Năm, quả quyết trừ kẻ tiểu nhân, như đào tận gốc rau sam mềm ròn, ở đạo giữ đi đường chính thì tất không cữu hại.”
- Tượng “Trung hàng vô cữu, trung vị quang dã.” - Ở ngôi giữa đi đường chính, ý tượng nói lên đạo giữa chính của Chín Năm còn chưa sáng lớn.

13. Bính Tý – Thiên Trạch Lý, hào 5
- “Cửu Ngũ, quải lý, trinh lệ.”
- “Chín Năm, quả quyết, cứng rắn thận trọng trong đi lại, giữ chính phòng nguy hiểm.”
- Tượng “Quải lý trinh lệ, vị chính đáng dã.” - Quả quyết, cứng rắn, nói lên Chín Năm ở ngôi chính đáng.

14. Đinh Sửu - Địa Sơn Khiêm, hào 3
- “Cửu Tam, quân tử hữu chung, cát.”
- “Chín Ba, cần cù khiêm tốn, người quân tử giữ được đức khiêm đến cùng thì sẽ tốt lành.”
- Tượng “Lao khiêm quân tử, vạn dân phục dã.” - Người quân tử cần cù khiêm tốn, muôn dân đều phục tùng.

15. Mậu Dần – Lôi Hỏa Phong, hào 1
- “Sơ Cửu, ngộ kỳ phối chủ, tuy tuần vô cữu, vãng hữu thượng.”
- “Chín Đầu, gặp được người chủ nhà hợp với mình, mặc dù hai hào dương đức ngang nhau nhưng không bị cữu hại, đi lên tất được sùng thượng.”
- Tượng “Tuy tuần vô cửu, quá tuần tai dã.” – Dương đứng ngang nhau mà không bị hại, nói lên Chín Đầu và Chín Bốn nếu dương đức không ngang nhau, tất sẽ cạnh tranh nhau mà có tại hoạn.

16. Kỷ Mão – Phong Thủy Hoán, hào 1
- “Sơ Lục, dụng chửng mã tráng cát.”
- “Sáu Đầu, nhờ con ngựa tốt mạnh gắng cứu vớt thì được tốt lành.”
- Tượng “Sơ Lục chi cát, thuận dã.” - Sự tốt lành của Sáu Đầu, là do thuận với Chín Hai.

17. Canh Thìn - Thủy Phong Tỉnh, hào 3 (mộ Thủy)
- “Cửu Tam, tỉnh tiết bất thực, vi ngã tâm trắc ; khả dụng cấp, vương minh tịnh thụ kỳ cấp.”
- “Chín Ba, giếng nước được nạo vét sạch sẽ mà không được múc nấu ăn, khiến ta động lòng chắc ẩn, nên mau mau múc lấy nước giếng ăn này, được vị vua sáng suốt thì vua tôi sẽ chung hưởng phúc trạch.”
- Tượng “Tỉnh tiết bất thực, hành trắc dã ; cầu vương minh, thụ phúc dã.” - Nước giếng được nạo vét sạch mà không được dùng, nói lên hành vi của Chín Ba chưa được hiểu, thật khiến cho người động lòng ; hy vọng “nhà vua sáng suốt”, là để cho vua tôi cùng hưởng phúc trạch.

18. Tân Tị - Hỏa Lôi Phệ hạp – hào 5
- “Lục Ngũ, phệ can nhục, đắc hoàng kim ; trinh lệ, vô cữu.”
- “Sáu Năm, gia hình không thuận lợi, ví như cắn miếng thịt khô rắn, nhưng có đầy đủ khí phách cứng rắn, trung hòa giống như vàng ; giữ chính phòng nguy, có thể tránh được cữu hại”.
- Tượng “Trinh lệ vô cữu, đắc đáng dã.” - Giữ chính phòng nguy, ý nói hành vi Sáu Năm phù hợp với đạo trị ngục chính đáng.

19. Nhâm Ngọ - Sơn Địa Bác, hào 4 (19 ~ 31)
- “Lục Tứ, bác sàng dĩ phu, hung.”
- “Sáu Bốn, làm sập giường đã sập đến dát giường, có hung hiểm.”
- Tượng “Bác sàng dĩ phu, thiết cận tai dã.” - Giường sập đến dát giường, nói lên ý Sáu Bốn đã sát gần tai họa.

20. Quý Mùi - Trạch Thiên Quải, hào 1 (20 ~ 32)
- “Sơ Cửu, tráng vu tiền chỉ, vãng bất thắng vi cữu.”
- “Chín Đầu, mạnh ở ngón chân trước, mạo hiểm tiến lên phía trước tất không thể thủ thắng, ngược lại sẽ dẫn đến cữu hại.”
- Tượng “Bất thắng nhi vãng, cữu dã.” – Không thể thủ thắng mà vội tiến lên, là mời gọi sự cữu hại đến.

21. Giáp Thân – Sơn Địa Bác, hào 5 (21 ~ 9)
- “Lục Ngũ, quán ngư dĩ cung nhân sủng, vô bất lợi.”
- “Sáu Năm, dắt bầy cung nữ như xâu một xâu cá lên hầu vua, không có gì là không lợi.”
- Tượng “Dĩ cung nhân sủng, chung vô vưu dã.” - Dắt bầy cung nữ lên hầu vua, là tượng Sáu Năm cuối cùng không có sai phạm.

22. Ất Dậu - Trạch Thiên Quải, hào 5 (22 ~ 10)
- “Thượng Lục, vô hào, chung hữu hung.”
- “Sáu Trên, không phải gào khóc, cuối cùng khó tránh sự hung hiểm.”
- Tượng “Vô hào chi hung, chung bất khả trường dã.” – Không cần phải gào khóc, khó tránh sự hung hiểm, là tượng Sáu Trên trong tình thế ở cao bên trên, cuối cùng không thể lâu dài.

23. Bính Tuất – Thiên Trạch Lý, hào 4
- “Cửu Tứ, lý hổ vỹ, tố tố, chung cát.”
- “Chín Bốn, thận trọng đi sau đuôi hổ, nén được sự sợ hãi, giữ được sự thận trọng, cuối cùng sẽ được tốt lành.”
- Tượng “Tố tố chung cát, chí hành dã.” – Nén được sự sợ hãi, nói lên Chín Bốn đi với ý thức thận trọng theo lễ.

24. Đinh Hợi - Địa Sơn Khiêm, hào 4
- “Lục Tứ, vô bất lợi, vi khiêm.”
- “Sáu Bốn, không gì không lợi, phát huy, tán phát đức đẹp khiêm tốn.”
- Tượng “Vô bất lợi vi khiêm, bất vi tắc dã.” – Không gì không lợi, nói lên Sáu Bốn không làm trái phép tắc của đức “khiêm”.

25. Mậu Tý – Lôi Hỏa Phong, hào 6
- “Thượng Lục, phong kỳ ốc, bộ kỳ gia, khuy kỳ hộ, khuất kỳ vô nhân, tam tuế bất địch, hung.”
- “Sáu Trên, nhà cao cửa rộng, phòng ốc trướng rủ màn che, nhìn qua cửa sổ, tĩnh lặng không một bóng người, qua ba năm rồi vẫn không thấy ai, ẩn giấu quá kín như vậy tất có hung hiểm.”
- Tượng “Phong kỳ ốc, thiên tế đường dã ; khuy kỳ hộ, khuất kỳ vô nhân, tự tàng dã.” – Nhà cao cửa rộng, nói lên Sáu Trên ở ngôi cao cùng cực, như bay lượn trên bầu trời ; Nhìn qua cửa sổ tĩnh lạng không một bóng người, nói lên Sáu Trên tự ẩn giấu nơi sâu kín.

26. Kỷ Sửu – Phong Thủy Hoán, hào 2
- “Cửu Nhị, hoán bôn kỳ kỷ, hối vong.”
- “Chín Hai, ở thời lìa tan chạy đến (hào đầu), coi như ghế tựa để làm nơi dựa, hối hận sẽ mất hết.”
- Tượng “Hoán bôn kỳ kỷ, đắc nguyện dã.” - Ở thời lìa tan coi hào Đầu để làm nơi dựa (mà không dám “dẫm”), nói lên Chín Hai do sự âm dương tụ hợp được với nhau, nên toại nguyện.

27. Canh Dần - Thủy Phong Tỉnh, hào 2
- “Cửu Nhị, tỉnh cốc xạ phụ, ủng tệ lậu.”
- “Chín Hai, rốn giếng bị uổng dùng để bắn mấy con cá nhỏ, lúc này gầu bị thủng không có gì để múc nước.”
- Tượng “Tỉnh cốc xạ phụ, vô dữ dã.” - Rốn giếng bị uổng dùng, nói lên Chín Hai trên không có ứng.

28. Tân Mão - Hỏa Lôi Phệ hạp, hào 6
- “Thượng Cửu, hà hiệu diệt nhĩ, hung.”
- “Chín Trên, vai mang gông, bị tội nặng cắt tai, có hung hiểm.”
- “Tượng “Hà hiệu diệt nhĩ, thông bất minh dã.” - Bị tội nặng cắt tai, nói lên Chín Trên làm nhiều điều ác không sửa, rất không thông minh.

29. Nhâm Thìn – Sơn Địa Bác, hào 3 (29 – 41)
- “Lục Tam, bác, vô cữu.”
- “Sáu Ba, tuy ở thời “bác lạc” nhưng không cữu hại.”
- Tượng “Bác chi vô cữu, thất thượng dã.” – Tuy ở thời Bác, nhưng tất không cữu hại, nói lên ý Sáu Ba rời xa bầy âm ở trên và ở dưới, riêng ứng với dương cứng.

30. Quý Tị - Trạch Thiên Quải, hào 2 (30 ~ 42)
- “Cửu Nhị, thích hào, mạc dạ hữu nhung, vật tuất.”
- “Chín Hai, lúc nào cũng hô hào (mọi người) cảnh giác, (như vậy) dù nửa đêm có xẩy ra chiến sự cũng có thể đối phó, không phải lo lắng.”
- Tượng “Hữu nhung vật tuất, đắc trung đạo dã.” – Có xẩy ra chiến sự cũng không phải lo lắng, nói lên Chín Hai có được đạo giữa và thận trọng trong hành động.

31. Giáp Ngọ - Sơn Địa Bác, hào 4 (31 ~ 19)
- “Lục Tứ, bác sàng dĩ phu, hung.”
- “Sáu Bốn, làm sập giường đã sập đến dát giường, có hung hiểm.”
- Tượng “Bác sàng dĩ phu, thiết cận tai dã.” - Giường sập đến dát giường, nói lên ý Sáu Bốn đã sát gần tai họa.

32. Ất Mùi - Trạch Thiên Quải, hào 1 (32 ~ 20)
- “Sơ Cửu, tráng vu tiền chỉ, vãng bất thắng vi cữu.”
- “Chín Đầu, mạnh ở ngón chân trước, mạo hiểm tiến lên phía trước tất không thể thủ thắng, ngược lại sẽ dẫn đến cữu hại.”
- Tượng “Bất thắng nhi vãng, cữu dã.” – Không thể thủ thắng mà vội tiến lên, là mời gọi sự cữu hại đến.

33. Bính Thân – Thiên Trạch Lý, hào 3
- “Lục Tam, diêu năng thị, phả năng lý, lý hổ vỹ chất nhân, hung ; vu nhân vi vu đại quân.”
- “Sáu Ba, mắt chột mà cứ cố nhìn, chân què mà cứ cố đi, giẫm lên đuôi hổ bị nó cắn, có hung hiểm ; kẻ vũ dũng muốn làm như một bậc đại nhân quân chủ.”
- Tượng “Diêu năng thị, bất túc dĩ hữu minh dã ; phả năng lý, bất túc dĩ dữ hành dã ; chất nhân chi hung, vị bất đáng dã ; vũ nhân vi vu đại quân, chí cương dã.” - Mắt chột mà cứ cố nhìn, không đủ để phân biệt rõ vật. Chân què mà cứ cố đi, không đủ để đi trên đường dài. Sự hung hiểm của sự hổ dữ cắn người, nói lên Sáu Ba ở ngôi không thích đáng. Kẻ vũ dũng muốn làm như một bậc đại nhân quân chủ, nói lên chí hướng của Sáu Ba cương mạnh.

34. Đinh Dậu - Địa Sơn Khiêm, hào 5
- “Lục Ngũ, bất phú, dĩ kỳ lân lợi dụng xâm phạt, vô bất lợi.”
- “Sáu Năm, lòng rỗng không giầu, lợi trong việc cùng láng giềng xuất chinh đánh dẹp, không gì không lợi.”
- Tượng “Lợi dụng chinh phạt, chinh bất phục dã.” - Lợi về xuất chinh thảo phạt, nói lên Chín Năm chinh phạt kẻ kiêu hoạch bất thuận.

35. Mậu Tuất – Lôi Hỏa Phong, hào 5
- “Lục Ngũ, lai chương, hữu khánh dự, cát.”
- “Sáu Năm, mời người tài sáng đẹp trong thiên hạ để có được ánh sáng thịnh lớn, tất phải được phúc khánh và tiếng khen, tốt lành.”
- Tượng “Lục Ngũ chi cát, hữu khánh dã.” - Sự tốt lành của Sáu Năm, tất cóp phúc khánh.
Sáu Năm lấy chất âm ở ngôi cao tôn quý thời “thịnh lớn” (phong), tuy thể âm nhu mà thực có ngậm chất dương cứng, nên có thể mời được người, vì nó mềm tối nên mới đặt lời đó để mở mang cho nó

36. Kỷ Hợi – Phong Thủy Hoán, hào 3
- “Lục Tam, hoán kỳ cung, vô hối.”
- “Sáu Ba, tan lìa thân mình (phụ theo hào dương cứng ở ngôi cao), không có gì phải hối hận.”
- Tượng “Hoán kỳ cung, chí tại ngoại dã.” – Lìa tan thân mình, nói lên ý chí của Sáu Ba phát triển ra bên ngoài.

37. Canh Tý - Thủy Phong Tỉnh, hào 1
- “Sơ Lục, tỉnh nê bất thực, cựu tỉnh vô cầm.”
- “Sáu Đầu, đáy giếng bùn đọng không thể ăn được, giếng này đã từ lâu không nạo vét, ngay cả chim chóc cũng không đoái hoài tới.”
- Tượng “Tỉnh nê bất thực, hạ dã ; cựu tỉnh vô cầm, thời xả dã.” – Đáy giếng bùn đọng không thể ăn được, nói lên Sáu Đầu nhu ám, ở dưới thấp ; Lâu không nạo vét, ngay cả chim chóc cũng không đoái tới, nói lên Sáu Đầu nhất thời bị mọi người, mọi vật cùng bỏ.

38. Tân Sửu - Hỏa Lôi Phệ hạp, hào 1
- “Sơ Cửu, lý hiệu diệt chỉ, vô cữu.”
- “Chín Đầu, chân đạp vào cùm mà đứt ngón chân cái, không đến nỗi cữu hại.”
- Tượng “Lý hiệu diệt chỉ, bất hành dã.” – Chân đạp vào cùm mà đứt ngón chân cái, nói lên Chín Đầu không đi vào con đường trước mà tái phạm lỗi lầm.

39. Nhâm Dần – Sơn Địa Bác, hào 2 (39 ~ 51)
- “Lục Nhị, bác sàng dĩ biện, miệt ; trinh hung.”
- “Sáu Hai, làm sập giường đã sập đến bễ giường, bễ giường tất sẽ bị nát hỏng, giữ chính để phòng hung hiểm.”
- Tượng “Bác sàng dĩ biện, vị hữu dữ dã.” – Làm sập giường đã sập đến bễ giường, nói lên Sáu Hai chưa có được người giúp đỡ cùng ứng.

40. Quý Mão - Trạch Thiên Quải, hào 3 (40 ~ 52)
- “Cửu Tam, tráng vu cưu, hữu hung ; quân tử quải quải độc hành, ngộ vũ nhược nhu, hữu uốn, vô cữu.”
- “Chín Ba, cường thịnh ở gò má, sự giận thể hiện ở sắc mặt, như vậy tất có hung hiểm ; người quân tử nên cương nghị, quả đoán, riêng mình đi trước (bắt quen với tiểu nhân, đợi thời quyết trừ nó), mặc dù gặp phải cơn mưa âm dương hòa hợp, người bị ướt hết, thậm chí mọi người hiềm nghi, bị người giận, nhưng cuối cùng vẫn có thể xử tội được tiểu nhân mà không gặp cữu hại.”
- Tượng “Quân tử quải quải, trung vô cữu dã.” - Người quân tử cương nghị quả đoán, là nói cuối cùng có thể xử tội được kẻ tiểu nhân mà không có cữu hại gì.

41. Giáp Thìn – Sơn Địa Bác, hào 3 (41 ~ 29)
- “Lục Tam, bác, vô cữu.”
- “Sáu Ba, tuy ở thời “bác lạc” nhưng không cữu hại.”
- Tượng “Bác chi vô cữu, thất thượng dã.” – Tuy ở thời Bác, nhưng tất không cữu hại, nói lên ý Sáu Ba rời xa bầy âm ở trên và ở dưới, riêng ứng với dương cứng.

42. Ất T ị - Trạch Thiên Quải, hào 2 (42 ~ 30)
- “Cửu Nhị, thích hào, mạc dạ hữu nhung, vật tuất.”
- “Chín Hai, lúc nào cũng hô hào (mọi người) cảnh giác, (như vậy) dù nửa đêm có xẩy ra chiến sự cũng có thể đối phó, không phải lo lắng.”
- Tượng “Hữu nhung vật tuất, đắc trung đạo dã.” – Có xẩy ra chiến sự cũng không phải lo lắng, nói lên Chín Hai có được đạo giữa và thận trọng trong hành động.

43. Bính Ngọ - Thiên Trạch Lý, hào 2
- “Cửu Nhị, lý đạo thản thản, u nhân trinh cát.”
- “Chín Hai, thận trọng đi trên đường lớn bằng phẳng, người điềm đạm u tĩnh biết giữ vững chính bền thì được tốt lành.”
- Tượng “U nhân trinh cát, trung bất tự loạn dã.” - Người điềm đạm u tĩnh biết giữ chính, nói lên Chín Hai có lòng tin theo lễ thì tự trong lòng mình không rối loạn.

44. Đinh Mùi - Địa Sơn Khiêm, hào 6
- “Thượng Lục, minh khiêm, lợi dụng hành sư, chinh ấp quốc.”
- “Sáu Trên, tiếng tăm lừng lẫy về đức “khiêm”, có thể lợi dụng điều đó mà đem quân đi đánh, chinh phạt các nước nhỏ ở gần.”
- Tượng “Minh khiêm, chí vị đắc dã ; khả dụng hành sư, chinh ấp quốc dã.” – Danh tiếng lừng lẫy về đức khiêm, là nói chí Sáu Trên chưa hoàn toàn thực hiện được ; Có thể đem quân đi đánh, là nói chỉ đi đánh các đô ấp gần xung quanh.

45. Mậu Thân – Lôi Hỏa Phong, hào 4
- “Cửu Tứ, phong kỳ bộ, nhật trung kiến Đẩu ; ngộ kỳ di chủ, cát.”
- “Chín Bốn, tấm trướng lớn che kín ánh sáng, như mặt trời đang chính Ngọ lại mọc sao Bắc Đẩu ; nhưng có thể gặp được bạn dương đức ngang bằng vai vế, tốt lành.”
- Tượng “Phong kỳ bộ, vị bất đáng dã ; nhật trung kiến đẩu, u bật minh dã ; ngộ kỳ di chủ, cát hành dã.” - Tấm gương lớn che kín ánh sáng, nói lên ngôi vị của Chín Bốn không thỏa đáng ; Như mặt Trời đương lúc chính Ngọ lại mọc sao Bắc Đẩu, nói lên lúc này tối tăm không thấy ánh sáng ; Gặp người chủ dương đức ngang bằng vai vế, nói lên Chín Bốn đi lên tất sẽ được tốt lành.

46. Kỷ Dậu – Phong Thủy Hoán, hào 4
- “Lục Tứ, hoán kỳ quần, nguyên cát ; hoán hữu khâu, phỉ di sở tư.”
- “Sáu Bốn, giải tán bè phái, hết sức tốt lành ; giải tán một quần tụ nhỏ để thành một quần tụ lớn như gò đống, đó là điều người thường không thể nghĩ tới được.”
- Tượng “Hoán kỳ quần, nguyên cát, quang đại dã.” - Giải tán bè phái hết sức tốt lành, nói lên phẩm đức của Sáu Bốn quang minh chính đại.

47. Canh Tuất - Thủy Phong Tỉnh, hào 6
- “Thượng Lục, tỉnh thu, vật mạc ; hữu phu, nguyên cát.”
- “Sáu Trên, công dụng của giếng nước đã thành, không phải đậy giếng lại nữa ; lúc này giữ lòng thành tín thì hết sức tốt lành.”
- Tượng “Nguyên cát tại thượng, đại thành dã.” – Sáu Trên ở cao ngôi trên, hết sức tốt lành, nói lên công dụng của giếng đã đại thành.

48. Tân Hợi - Hỏa Lôi Phệ hạp, hào 2
- “Lục Nhị, phệ phu, diệt tị, vô cữu.”
- “Sáu Hai, gia hình dễ dàng như cắn vào da mềm, dù có sứt sống mũi của phạm nhân, cũng không đến nỗi cữu hại.”
- Tượng “Phệ phu diệt tị, thặng cương dã.” – Gia hình dễ dàng như cắn vào da mềm, đứt sống mũi của phạm nhân, nói lên Sáu Hai cưỡi lên kẻ cương cường (phải dùng nghiêm hình để chế phục mọi người)

49. Nhâm Tý – Sơn Địa Bác, hào 1 (49 ~ 1)
- “Sơ Lục, bác sàng dĩ túc, miệt ; trinh hung.”
- “Sáu Đầu, làm sập giường trước tiên phải đẽo từ chân, chân giường tất sẽ gẫy guc ; giữ chính phòng hung.”
- Tượng “Bác sàng dĩ túc, dĩ miệt hạ dã.” – Làm sập giường trước hết phải đẽo từ chân, nói lên ý trước tiên cần làm ruỗng mọt phần nền móng phí dưới.

50. Quý Sửu - Trạch Thiên Quải, hào 4 (50 ~ 2)
- “Cửu Tứ, đôn vô phu, kỳ hành tư thư ; khiên dương hối vong, văn ngôn bất tín.”
- “Chín Bốn, mông mất da, đi lại chập chững khó tiến ; nếu dắt dê thật chắc chắn (khỏe mạnh giống như tôn quý dương cứng) thì sự hối hận sẽ mất, e rằng lời này nó không chắc đã nghe theo.”
- Tượng “Kỳ hành tư thư, vị bất đáng dã ; văn ngôn bất tín, thông bất minh dã.” – Đi lại chập chững khó tiến, là tượng Chín Bốn ngôi vị không thỏa đáng ; Nghe lời này mà không thể tin theo, nói lên Chín Bốn mặc dầu nghe thấy mà không thể xét rõ sự lý.

51. Giáp Dần – Sơn Địa Bác, hào 2 (51 ~ 39)
- “Lục Nhị, bác sàng dĩ biện, miệt ; trinh hung.”
- “Sáu Hai, làm sập giường đã sập đến bễ giường, bễ giường tất sẽ bị nát hỏng, giữ chính để phòng hung hiểm.”
- Tượng “Bác sàng dĩ biện, vị hữu dữ dã.” – Làm sập giường đã sập đến bễ giường, nói lên Sáu Hai chưa có được người giúp đỡ cùng ứng.

52. Ất Mão - Trạch Thiên Quải, hào 3 (52 ~ 40)
- “Cửu Tam, tráng vu cưu, hữu hung ; quân tử quải quải độc hành, ngộ vũ nhược nhu, hữu uốn, vô cữu.”
- “Chín Ba, cường thịnh ở gò má, sự giận thể hiện ở sắc mặt, như vậy tất có hung hiểm ; người quân tử nên cương nghị, quả đoán, riêng mình đi trước (bắt quen với tiểu nhân, đợi thời quyết trừ nó), mặc dù gặp phải cơn mưa âm dương hòa hợp, người bị ướt hết, thậm chí mọi người hiềm nghi, bị người giận, nhưng cuối cùng vẫn có thể xử tội được tiểu nhân mà không gặp cữu hại.”
- Tượng “Quân tử quải quải, trung vô cữu dã.” - Người quân tử cương nghị quả đoán, là nói cuối cùng có thể xử tội được kẻ tiểu nhân mà không có cữu hại gì.

53. Bính Thìn – Thiên Trạch Lý, hào 1
- “Sơ Cửu, tố lý, vãng vô cữu.”
- “Chín Đầu, chất phác trong trắng không hào hoa, thận trọng trong đi lại, cứ thẳng tiến tất không có cữu hại.”
- Tượng “Tố lý chi vãng, độc hành nguyện dã.” - Chất phác trong trắng không hào hoa, thận trọng đi lại mà cứ thẳng tiến, nói lên ý nguyện của Chín Đầu một lòng đi theo lễ.

54. Đinh Tị - Địa Sơn Khiêm, hào 1
- “Sơ Lục, khiêm khiêm quân tử, dụng thiệp đại xuyên, cát.”
- “Sáu Đầu, người quân tử khiêm mà lại khiêm, sẽ có thể vượt qua sông cả sóng lớn, tốt lành.”
- Tượng “Khiêm khiêm quân tử, ti dĩ tự mục dã.” - Người quân tử khiêm mà lại khiêm, ý nói Sáu Đầu lấy sự khiêm tốn để chế ước bản thân.

55. Mậu Ngọ - Lôi Hỏa Phong, hào 3
- “Cửu Tam, phong kỳ bái, nhật trung kiến muội ; chiết kỳ hữu quăng, vô cữu.”
- “Chín Ba, tấm màn lớn che kín ánh sáng, như mặt trời đang chính Ngọ mà mọc sao nhỏ, nếu có thể khom mình, thận trọng giữ gìn như bị gẫy cánh tay phải thì không bị cữu hại.”
- Tượng “Phong kỳ bái, bất khả đại sự dã ; chiết kỳ hữu quăng, chung bất khả dụng dã.” - Tấm màn lớn che kín ánh sáng, nói lên Chín Ba không thể đảm nhiệm việc lớn ; Khom mình thận trọng giữ gìn, nói lên Chín Ba cuối cùng không thể thi thố được tài năng.

56. Kỷ Mùi – Phong Thủy Hoán, hào 5
- “Cửu Ngũ, hoán hãn kỳ đại hiệu, hoán vương cư, vô cữu.”
- “Chín Năm, ban bố hiệu lệnh lớn (như mồ hôi toát ra trên thân mình xuất ra mà không trở lại), lại tán phát của cải trong kho vua để ty hợp lòng người trong thiên hạ, tất không có cữu hại.”
- Tượng “Vương cư vô cữu, chính vị dã.” – Tán phát của cải trong kho vua, nói lên Chín Năm chính cư ngôi tôn của bậc “vương chủ”.

57. Canh Thân - Thủy Phong Tỉnh, hào 5
- “Cửu Ngũ, tỉnh liệt, hàn tuyền thực.”
- “Chín Năm, nước giếng trong như suối mát có thể múc để nấu ăn.”
- Tượng “Hàn tuyền chi thực, trung chính dã.” - Nước trong có thể múc nấu ăn, nói lên Chín Năm có đầy đủ đức đẹp dương cứng, trung chính.

58. Tân Dậu - Hỏa Lôi Phệ hạp, hào 3
- “Lục Tam, phệ tích nhục, ngộ độc ; tiểu lận, vô cữu.”
- “Sáu Ba, gia hình không thuận lợi, như cắn phải thịt khô rắn cứng, lại ngộ độc ; nhưng như vậy bất quá chỉ hơi tiếc, chứ không đến nỗi cữu hại.”
- Tượng “Ngộ độc, vị bất đáng dã.” – Khi cắn thịt khô lại bị ngộ độc, nói lên Sáu Ba cư vị không thỏa đáng, đến nỗi bị kẻ thụ hình sinh oán.

59. Nhâm Tuất – Sơn Địa Bác, hào 6 (59 ~ 11)
- “Thượng Cửu, thạc quả bất thực, quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư.”
- “Chín Trên, quả lớn chưa bị hái xuống ăn, người quân tử hái được nó thì sẽ có thể ruổi xe đi cứu đời, kẻ tiểu nhân hái được tất sẽ đi đến chỗ phá vạn nhà.”
- Tượng “Quân tử đắc dư, dân sở tải dã ; tiểu nhân bác lư, chung bất khả dụng dã.” - Người quân tử hái được, tượng ý trăm họ do vậy được bề trên che chở ; Kẻ tiểu nhân hái được, tượng ý kẻ tiểu nhân cuối cùng không thể tin dùng được.

60. Quý Hợi - Trạch Thiên Quải, hào 5 (60 ~ 12)
- “Cửu Ngũ, nghiễn lục quải quải, trung hàng vô cữu.”
- “Chín Năm, quả quyết trừ kẻ tiểu nhân, như đào tận gốc rau sam mềm ròn, ở đạo giữ đi đường chính thì tất không cữu hại.”
- Tượng “Trung hàng vô cữu, trung vị quang dã.” - Ở ngôi giữa đi đường chính, ý tượng nói lên đạo giữa chính của Chín Năm còn chưa sáng lớn.
Đầu trang

Hà Uyên
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 607
Tham gia: 14:20, 02/05/09

TL: DỊCH CAN CHI

Gửi bài gửi bởi Hà Uyên »

CHU KỲ 7



....................................TỤNG


.........DI...............................................NHU


...ĐẠI QUÁ......................+..................TIỂU QUÁ


.....TRUNG PHU....................................TẤN


....................................MINH DI



1. Giáp Tý - Hỏa Địa Tấn, hào 1 (1 ~ 49)
- “Sơ Lục, tấn như tồi như, trinh cát ; võng phu, dụ vô cữu.”
- “Sáu Đầu, sự tiến thịnh khởi đầu đã bị ghìm lui chắn lại, giữ chính thì được tốt lành ; hãy tạm ung dung đợi thời thì không gặp cữu hại”.
- Tượng “Tấn như tồi như, độc hành chính dã” - Khởi đầu đã bị ghìm lui chắn lại, nói lên Sáu Đầu nên riêng tự đi theo chính đạo ; “Dụ vô cữu, vị thụ mệnh” - Tạm đợi thời thì không cữu hại, nói lên Sáu Đầu trước mắt còn chưa được chựu mệnh. Sáu Đầu nhu tiến là bậc quân tử, tiến lui theo lễ nghi. Âm mềm ở dưới, trước mặt có hai hào âm, là “địch”, bị hai hào âm này ngăn trở, khó có ngay lòng tin nơi mọi người. Người thường không được (lòng) tin, thì có người vội tiến để cầu việc làm, có người vội lui thì oán hận người trên không biết (mình).

2. Ất Sửu - Thủy Thiên Nhu, hào 4 (2 ~ 50)
- “Lục Tứ, nhu vu huyết, xuất tự huyêt.”
- “Sáu Bốn, chờ đợi trong vũng máu, mà thoát khỏi được từ nơi hang sâu”.
- Tượng “Nhu vu huyết, thuận dĩ chính dã” - Chờ đợi trong vũng máu, ý nói Sáu Bốn bình tĩnh để chờ, nghe ngóng thời thế. Sáu Bốn ở ngôi dưới Khảm hãm, vào nơi hiểm mà bị hại, mềm mà được chính, đành chờ đợi mà lui về nghe ngóng, cho nên thoát khỏi nơi hãm hiểm.

3. Bính Dần – Phong Trạch Trung phu, hào 6 (Bính Canh - Trạch Phong – Phong Trạch)
- “Thượng Cửu, hàn âm đăng vu thiên, trinh hung.”
- “Chín Trên, tiếng chim kêu khi đang bay vang khắp bầu trời (hư thanh nghe xa mà đức thành tín trung thực không tiếp nối), tất phải giữ chính bền để phòng hung hiểm”.
- Tượng “Hàn âm đăng vu thiên, hà khả trường dã” - Tiếng kêu vang khắp bầu trời, hư thanh này làm sao mà giữ được lâu dài ! Chín Hai nói “minh hạc tại âm”. Chín Trên nói “hàn âm đăng thiên”: một hào thì trung thực, một hào thì giả dối, thật là một sự phản chiến.

4. Đinh Mão – Lôi Sơn Tiểu quá, hào 2
- “Lục Nhị, quá kỳ tổ, ngộ kỳ tỷ ; bất cập kỳ quân, ngộ kỳ thần, vô cữu.”
- “Sáu Hai, vượt qua ông mà gặp bà ; song không lấn được vua, vua do đó gặp được bề tôi, tất không lỗi”.
- Tượng “Bất cập kỳ quân, thần bất khả quá dã” – Không lấn được vua, nói lên Sáu Hailà bề tôi không thể vượt qua được bậc chí tôn. Được vô cữu chính là vì Sáu Hai ở giữa cái vòng ổn thỏa tốt đẹp của sự “quá” và “bất quá”, được thích đáng về thời, về phận mà không thiên lệch.

5. Mậu Thìn – Địa Hỏa Minh di, hào 2
- “Lục Nhị, minh di ; di vu tả cổ, dụng trửng mã tráng, cát.”
- “Sáu Hai, sự sáng bị tổn thương, khiến đùi trái bị thương, sau đó nhờ ngựa tốt (kéo cỗ xư bốn bánh) cứu giúp, dần dần sẽ khỏe trở lại, tốt lành”.
- Tượng “Lục Nhị chi cát, thuận nhi tắc dã” - Sự tốt lành của Sáu Hai, nói lên nó đã mềm thuận lại ở ngoài, mà trong thực văn minh, có thể kiên trì giữ được phép tắc.

6. Kỷ Tị - Thiên Thủy Tụng, hào 6
- “Thượng Cửu, hoặc tích chi bàn Đới , chung triêu tam sỉ chi.”
- “Chín Trên, ngẫu nhiên có khi được ban phẩm tứ (do thắng kiện), triều phục có đai lớn của bậc hiển quý, nhưng có thể chỉ trong một ngày lại bị tước đoạt nhiều lần”.
- Tượng “Dĩ tụng thụ phục, diệc bất túc kính dã” – Do kiện tụng mà được ban thưởng quan lộc, điều này không đáng được tôn trọng. Chín Trên đi kiện tới cùng, mặc dầu được thưởng nhưng sẽ bị tước mất, nói lên ý “tụng” bất khả cực, “lộc” bất khả tranh.

7. Canh Ngọ - Trạch Phong Đại quá, hào 4 (Bính Canh - Trạch Phong – Phong Trạch)
- “Cửu Tứ, đống long, cát ; hữu tha, lận.”
- “Chín Bốn, cột vươn thẳng như trước, tốt lành ; nếu ứng với dưới, tất sinh thẹn tiếc”.
- Tượng “Đống long chi cát, bất náo hồ hạ dã” - Cột vươn thẳng như trước, tốt lành, nói lên Chín Bốn không thể cho cột lại ỏe xuống nữa. Chín Bốn không thích hợp để ứng với hào cần ứng, lấy chất cứng mềm điều hòa nhau, để ứng với hào Đầu, hướng xuống dưới thì quá mềm, tất khiến cho “cột vươn thẳng” lại trở lại “cong”. Chín Bốn chỉ cần tự giảm chất dương cứng, không ứng với hào Đầu nữa, thì sẽ được “cát”.

8. Tân Mùi – Sơn Lôi Di, hào 4
- “Lục Tứ, điên di, cát ; hổ thị đam đam, kỳ dục trục trục, vô cữu.”
- “Sáu Bốn, đảo điên mà cầu dưới nuôi dưỡng (rồi lại dùng sự nuôi dưỡng đó nuôi lại mọi người), tốt lành ; như mắt hổ nhìn đăm đăm, gấp gáp cầu xin tiếp liền không dứt, tất không có cữu hại”.
- Tượng “Điên di chi cát, thượng thi quang dã” - Đảo điên mà cầu dưới nuôi dưỡng, nói lên Sáu Bốn ở ngôi trên, mà có thể tỏa rọi ánh sáng của đức đẹp xuống dưới. Chí của Sáu Bốn là ở đạo, nên do dưỡng chính, lợi vật, cho nên cát. Sáu Bốn có nhã ý, lấy sự đó cho dân, dùng sự đó cho dân, vì vậy mà “kỳ dục trục trục” vẫn có thể “vô cữu”. Thời “dưỡng chính”, cầu xin mà có đạo chính thì tất vô hại.

9. Nhâm Thân - Hỏa Địa Tấn, hào 5 (9 ~ 21)
- “Lục Ngũ, hối vong, thất đắc vật tuất ; vãng cát, vô bất lợi.”
- “Sáu Năm, hối hận mất hết, không phải lo nghĩ gì về sự được hay mất ; tiến lên tất được tốt lành, không gì không lợi”.
- Tượng “Thất đắc vật tuất, vãng hữu khánh dã” - Giải quyết công việc không phải lo lắng được mất, mà là trách nhiệm của mọi người, nói lên Sáu Năm đi lên tất có phúc khánh. Lấy chất âm ở ngôi dương, không đáng ngôi, có “hối hận”, nhưng ở nơi tôn quý, bẩm thụ đức Ly sáng, ủy nhiệm được người, kẻ dưới thuận theo, đã dùng được đạo này thì đi lên đều tốt.
“Thích văn” dẫn Mạnh Hỷ, Mã Dung, Trịnh Huyền, Ngu Phiên, Vương Túc nói “thất” vốn được viết là “thỉ” (mũi tên), nay khảo Bạch Thư Chu Dịch cũng viết là “thỉ” lập thành một thuyết: “thỉ đắc vật tuất” chỉ Sáu Năm “được mũi tên để dùng, cho nên không phải lo nghĩ”. Như Chín Bốn quẻ Phệ hạp “đắc kim thỉ”.

10. Quý Dậu - Thủy Thiên Nhu, hào 6 (10 ~ 22)
- “Thượng Lục, nhập vu huyệt, hữu bất tốc chi khách tam nhân lai ; kính chi, chung cát.”
- “Sáu Trên”, sa vào hang sâu, có ba người khách không mời mà đến ; biết kính trọng họ thì cuối cùng sẽ được tốt lành”.
- Tượng “Bất tốc chi khách lai, kính chi chung cát, tuy bất đương vị, vị đại thất dã” – Khách không mời mà đến, biết kính trọng họ thì cuối cùng sẽ được tốt lành ; nói lên Sáu Trên mặc dầu ngôi vị không thỏa đáng, nhưng chưa đến nỗi bị tổn thất lớn. Là âm ở ngôi trên, là “đương vị”, thế mà lại nói rằng “bất đương vị”, thật không hiểu nổi (Chu Hy - Bản nghĩa). Vương Bật “hào Trên là ngôi “hư”, ở nơi không ngôi là không đáng ngôi”.

11. Giáp Tuất - Hỏa Địa Tấn, hào 6 (11 ~ 59)
- “Thượng Cửu, tấn kỳ giác, duy dụng phạt ấp, lệ cát, vô cữu ; trinh lận.”
- “Chín Trên, tiến thịnh đến cùng cực, giống như sừng thú ở chỗ cao, nên chinh phạt ấp quốc để lập công, tuy có nguy hiểm, nhưng được tốt lành, mà không đến nỗi bị cữu hại ; phải giữ vững chính bền, phòng thẹn tiếc”.
- Tượng “Duy dụng phạt ấp, đạo vị quang dã” – Nên chinh phạt ấp quốc để lập công ; nói lên “tiến thịnh” của Chín Trên chưa từng sáng lớn.
“Tấn” cực tắc phản, cũng giống như “minh xuất địa thượng” (ánh sáng hiện trên mặt đất), thịnh cực thì suy. Chín Trên tiến thịnh tới “giác”, dựa vào sự “phạt ấp” để tránh cữu hại, có thể lấy đức của sự sáng sủa đương lâm vào cuộc suy vi, “ánh sáng sẽ tắt đi”. Cứng quá mức, khó tránh tới “lận”, vì dùng “vũ lực”

12. At Hợi - Thủy Thiên Nhu, hào 5 (12 ~ 60)
- “Cửu Ngũ, nhu vu tửu thực, trinh cát.”
- “Chín Năm, chờ đợi ở nơi riệu ngon, nhắm tốt, giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng “Tửu thực trinh cát, dĩ trung chính dã” - Chờ đợi nơi riệu ngon, nói lên Chín Năm ở ngôi giữ được chính. Nghĩa chữ “nhu” so với việc vương đạo lấy sự lâu dài hoàn thành việc hóa dục, thì không bằng, nhưng nó cũng không vội gì với những thành công nông cạn, thiển cận. Chín Năm cứng khỏa trung chính, làm chủ quẻ, ở ngôi cao có thể hết mình với đạo “nhu”, đạo “chờ đợi” hết sức hoàn mỹ.

13. Bính Tý – Phong Trạch Trung phu, hào 5
- “Cửu Ngũ, hữu phu luyến như, vô cữu.”
- “Chín Năm, lấy đức thành tín ràng buộc lòng thiên hạ, không có gì cữu hại”.
- Tượng “Hữu phu luyến như, vị chính đáng dã” – Nói Chín Năm ngôi vị trung chính, thích đáng. “Thoán truyện” nói chỉ có đức tin mới có thể cảm hóa được bang quốc, là chỉ hào này. Sáu hào không nói “phu”, chỉ có Chín Năm là nói, như vậy thì Chín Năm là chủ về “phu” vậy.

14. Đinh Sửu – Lôi Sơn Tiểu quá, hào 3
- “Cửu Tam, phất quá phòng chi, hoặc tòng tường chi, hung.”
- “Chín Ba, không chựu quá mức phòng bị, sẽ bị khẻ khác làm hại, có hung hiểm”.
- Tượng “Tòng hoặc tường chi, hung như hà dã” - Sẽ bị kẻ khác làm hại, nói lên sự hung hiểm của Chín Ba thật vô cùng nghiêm trọng. Sự hung của Chín Ba là ở chỗ coi nhẹ “việc nhỏ”, không chựu “quá phòng”. Tiểu quá là việc nhỏ nhiều hơn, có nghĩa là thận trọng trong việc nhỏ, Chín ba quá cứng vi phạm vào nghĩa này, là tượng không đề phòng trước mà có kẻ hại.

15. Mậu Dần - Địa Hỏa Minh di, hào 3
- “Cửu Tam, minh di vu nam thú, đắc kỳ đại thủ ; bất khả tật, trinh.”
- “Chín Ba, đi thuần thú ở phương Nam, tiến hành trinh phạt ở thời ánh sáng bị tổn thương, diệt trừ kẻ đầu sỏ hung ác ; lúc này không thể hành động gấp, nên giữ vững chính bền”.
- Tượng “Nam Thú chi chí, nãi đại đắc dã.” – Chí hướng đi thuần thú phương Năm, tiến hành chinh phạt của Chín Ba, nói lên tất có thu hoặch lớn. Chu Hy nói “Thành Thang nổi lên ở ngục Hạ Đài, Văn Vương dấy lên ở ngục Dũ Lý, chính hợp với nghĩa của hào này, mà việc nhỏ cũng như thế. Ý nghĩa tượng trưng của Chu Dịch rất rộng, vô luận là việc xưa, việc nay, việc lớn, việc nhỏ, đều có thể từ đó suy ra mà đều có sự “trưng nghiệm” cả, vị tất phải “câu” ở một hiện tượng, “nệ” vào sự mất việc.

16. Kỷ Mão – Thiên Thủy Tụng, hào 1
- “Sơ Lục, bất vĩnh sở sự ; tiểu hữu ngôn, chung cát.”
- “Sáu Đầu, không kéo dài việc kiện tụng, cố chựu chút ít điều tiếng về mình, cuối cùng sẽ được tốt lành”.
- Tượng “Bất vĩnh sở sự, tụng bất khả trường dã” – Không kéo dài kiện tụng, nói lên không thể để việc kiện kéo dài mãi không thôi ; Tuy “tiểu hữu ngôn”, kỳ biện minh dã” - Mặc dù chựu chút ít điều tiếng, nói lên Sáu Đầu nhờ có sự phân biện, mà cuối cùng mọi việc rõ ràng. Không nói “bất vĩnh tụng”, mà nói “bất vĩnh sở sự”, việc mới xảy ra, còn mong nó không trở thành việc phải thưa kiện.

17. Canh Thìn - Trạch Phong Đại quá, hào 3
- “Cửu Tam, đống náo, hung.”
- “Chín Ba, cột ỏe, hung.”
- Tượng “Đống náo chi hung, bất khả dĩ hữu phụ dã.” - Cột cong ỏe mà có hung hiểm, nói lên ý thế cứng của Chín Ba không thể thêm gì để phụ giúp. Chín Ba không thể ứng trên, nếu có ứng với Sáu Trên, thế cứng mà được giúp thì lại càng mạnh, cột càng cong hơn. Theo thời “đại quá có sự bất bình thường, chất cứng của nó chỉ có thể bớt, chứ không thể thêm. Ngu Phiên nói “giúp thì lại càng “cong” hơn, cho nên không nên giúp. Dương lấy Âm để giúp”.

18. Tân Tị - Sơn Lôi Di, hào 5
- “Lục Ngũ, phất kinh ; cư trinh cát, bất khả thiệp đại xuyên.”
- “Sáu Năm, (ví như bậc “quân vương” dựa vào sự: kẻ trên nuôi mình để nuôi thiên hạ), trái với lẽ thường ; ở yên giữ vững chính bền thì được tốt lành, không thể vượt qua sông cả sóng lớn.”
- Tượng “Cư trinh chi cát, thượng dĩ tòng thượng dã.” - Ở yên giữ vững chính bền, ý nói Chín Năm nên thuận theo và dựa vào người hiền dương cứng Chín Trên. Sáu Năm ở ngôi cao tôn quý, tất phải lấy đức đẹp đầy chứa để “nuôi thiên hạ” ; nhưng ngay thân mình mất chính không ứng, âm mềm không đặc, cũng không có cách nào tự nuôi, nên không thể không dựa vào lực lượng “người hiền ở trên”, nhưng được chuộng vì có lòng “nuôi thiên hạ”. Nên lời hào vẫn cho phép nó được “an trinh cát”. Tài đức yếu mỏng, không xứng với ngôi vị, đội dương mà theo dương bổ khuyết cho âm, thích hợp trong sự đi đường chính để ở, có thể ở yên lúc bình thời, nhưng không thể ở vào lúc gian nan biến cố.

19. Nhâm Ngọ - Hỏa Địa Tấn, hào 4 (19 ~ 31)
- “Cửu Tứ, tấn như thạch thử, trinh lệ.”
- “Chín Bốn, khi tiến thịnh giống như con chuột bay chẳng có được kỹ năng gì, giữ vững chính bền để phòng nguy hiểm.”
- Tượng “Thạch thử trinh lệ, vị bất đáng dã.” – Như chuột bay, chẳng có được kỹ năng gì, nói lên Chín Bốn ở vào ngôi vị không thích đáng, dùng cách bất trung bất chíh để chiếm ngôi cao, tham mà sợ người. Đạo Tấn chủ về nhu thuận, Hào Ba tuy không chính, nhưng vì thuận, cho nên chí nó được mọi người tin mà cùng đi lên ; Chín Bốn tuy đã tiến lên trên, do mất đạo nhu thuận mà như chuột bay ở bước cùng, không toại nguyện.

20. Quý Mùi - Thủy Thiên Nhu, hào 1 (20 ~ 32)
- “Sơ Cửu, nhu vu giao, lợi dụng hằng, vô cữu.”
- “Chín Đầu, đợi ở nơi giao ngoại, lợi về giữ được sự bền lòng bền gan, tất sẽ không cữu hại.”
- Tượng “Nhu vu giao, bất phạm nan hành dã.” - Đợi ở nơi giao ngoại, là nói Chín Đầu không xông thẳng vào nơi hiểm nạn ; “lợi dụng hằng vô cữu, vị thất thường dã.” - Lợi về giữ được sự bền lòng bền gan, nói lên Chín Đầu chưa từng sai mất đạo thường. Tâm chí tuy có chờ đợi, nên tự giữ sự yên tĩnh, điềm nhiên như sẽ ở vậy đến trọn đời, mới có thể dùng được đạo thường. Hào Đầu ở xa Khảm nhất, lợi vì “dụng hằng” nên “vô cữu”, là cứng ở ngôi cứng, sợ rằng có tượng nóng vội, tuy xa hiểm mà vẫn có lời răn.

21. Giáp Thân - Hỏa Địa Tấn, hào 5 (21 ~ 9)
- “Lục Ngũ, hối vong, thất đắc vật tuất ; vãng cát, vô bất lợi.”
- “Sáu Năm, hối hận mất hết, không phải lo nghĩ gì về sự được hay mất ; tiến lên tất được tốt lành, không gì không lợi”.
- Tượng “Thất đắc vật tuất, vãng hữu khánh dã” - Giải quyết công việc không phải lo lắng được mất, mà là trách nhiệm của mọi người, nói lên Sáu Năm đi lên tất có phúc khánh. Lấy chất âm ở ngôi dương, không đáng ngôi, có “hối hận”, nhưng ở nơi tôn quý, bẩm thụ đức Ly sáng, ủy nhiệm được người, kẻ dưới thuận theo, đã dùng được đạo này thì đi lên đều tốt.
“Thích văn” dẫn Mạnh Hỷ, Mã Dung, Trịnh Huyền, Ngu Phiên, Vương Túc nói “thất” vốn được viết là “thỉ” (mũi tên), nay khảo Bạch Thư Chu Dịch cũng viết là “thỉ” lập thành một thuyết: “thỉ đắc vật tuất” chỉ Sáu Năm “được mũi tên để dùng, cho nên không phải lo nghĩ”. Như Chín Bốn quẻ Phệ hạp “đắc kim thỉ”.

22. Ất Dậu - Thủy Thiên Nhu, hào 6 (22 ~ 10)
- “Thượng Lục, nhập vu huyệt, hữu bất tốc chi khách tam nhân lai ; kính chi, chung cát.”
- “Sáu Trên, sa vào hang sâu, có ba người khách không mời mà đến ; biết kính trọng họ thì cuối cùng sẽ được tốt lành.”
- Tượng “Bất tốc chi khách lai, kính chi chung cát, tuy bất đương vị, vị đại thất dã” – Khách không mời mà đến, nói lên Sáu Trên mặc dầu ngôi vị không thỏa đáng, nhưng chưa đến nỗi bị tổn thất lớn. Là âm ở ngôi trên, là “đương vị”, thế mà lại nói rằng “bất đương vị”, thật không hiểu nổi (Chu Hy - Bản nghĩa). Vương Bật “hào Trên là ngôi “hư”, ở nơi không ngôi là không đáng ngôi.”

23. Bính Tuất – Phong Trạch Trung phu, hào 4
- “Lục Tứ, nguyệt cơ vọng, mã thất vong, vô cữu.”
- “Sáu Bốn, trăng sáng gần tròn đầy, ngựa tốt bỏ bạn mà tiến lên, không dẫn đến cữu hại.”
- Tượng “Mã thất vong, tuyệt loại thượng dã.” - Ngựa tốt bỏ bạn, nói lên Sáu Bốn cắt đứt với bạn nó mà lên đội hào Chín Năm. Sáu Bốn có tượng “âm đức” đang thịnh mà chưa đầy. Thời Trung phu, đức bẩm sinh của nó là “âm thuận”, sự thành tín tất phải chuyên nhất. “Phu” không cho phép có hai (Chiết trung)

24. Đinh Hợi – Lôi Sơn Tiểu quá, hào 4
- “Cửu Tứ, vô cữu, phất quá ngộ chi ; vãng lệ tất giới, vật dụng, vĩnh trinh.”
- “Chín Bốn, không có lỗi hại gì, không quá cứng thì có thể gặp được âm mềm ; nhưng đi lên ứng hợp thì sẽ có nguy hiểm, tất phải tự răn, không thể thi thố tài dụng, mà phải giữ chính bền lâu dài.”
- Tượng “Phất quá ngộ chi, vị bất đáng dã.” – Không quá cứng thì có thể gặp được âm mềm, nói lên Chín Bốn chưa ở vị trí Dương cứng thích đáng. “Vãng lệ tất giới, chung bất khả trường dã” – Đi lên ứng hợp sẽ có nguy hiểm, nếu đi lên ứng hào âm thì cuối cùng sẽ không thể gặp hại được lâu dài. Thời “tiểu quá”, Chín Bốn mất chính, vậy phải yên giữ “vật dụng”, bảo vệ điều “vĩnh trinh”. Về mối quan hệ, Chín Bốn có thể “ngộ (gặp)” nó, mà không thể “vãng (đi lên)” ứng, yêu cầu Chín Bốn phải cẩn thận không được làm càn, nếu nhất quyết một mình đi lên, thì “vô cữu” sẽ biến thành “hung”.

25. Mậu Tý - Địa Hỏa Minh di, hào 6
- “Thượng Lục, bất minh hối ; sơ đăng vu thiên, hậu nhập vu địa.”
- “Sáu Trên, không tỏa sáng mà đem lại sự u tối ; mới đầu lên tận trời cao, cuối cùng rơi vào trong đất.”
- Tượng “Sơ đăng vu thiên, chiếu tứ quốc dã.” - Mới Đầu lên tận trời cao, có thể chiếu rọi ra các nước ở bốn phương ; “hậu nhập vu địa, thất tắc dã.” - Cuối cùng rơi vào trong đất, nói lên Sáu Trên vi phạm phép tắc. Lời hào nói “bất minh hối”, không sáng mà tối, đó là sự sáng của năm hào đều bị Sáu Trên làm thương tổn.

26. Kỷ Sửu – Thiên Thủy Tụng, hào 2
- “Cửu Nhị, bất khắc tụng, quy nhi bô, kỳ ấp nhân tam bách hộ, vô sảnh.”
- “Chín Hai, kiện tụng thì không lợi, lui về mà tránh đi, đó là một ấp nhỏ có ba trăm hộ, ở đấy thì không gặp họa hoạn.”
- Tượng “Bất khắc tụng, quy bô thoán dã ; Tự hạ tụng thượng, hoạn chí xuất dã.” – Kiện tụng thì không lợi, ý nói Chín Hai ở ngôi dưới mà kiên tụng bậc tôn thượng thì tai nạn đến. Nhưng nếu kịp thời tránh đi thì lại hết nạn ngay. Nghĩa của “tranh tụng” là ở chỗ thấy thôi được thì nên thôi đi, Chín Hai được “vô sảnh” là ở chỗ dương cứng có thể giữ được đạo trung.

27. Canh Dần - Trạch Phong Đại quá, hào 2
- “Sơ Lục, khô dương sinh đề, lão phu đắc kỳ nữ thê ; vô bất lợi”
- “Sáu Đầu, cây dương khô sinh mầm non cành mới, cụ già lọm khọm lấy được cô vợ trẻ ; không gì không lợi”
- Tượng “Lão phu nữ thê, quá dĩ tương dữ" - "Ông già lấy được cô vợ trẻ", nói lên ý hào Chín Hai dương cứng quá mức, nhưng có thể thân cận với hào Sáu Đầu âm mềm.

28. Tân Mão, Sơn Lôi Di, hào 6
- “Thượng Cửu, do di ; lệ cát, lợi thiệp đại xuyên.”
- “Chín Trên, thiên hạ nhờ nó mà được nuôi dưỡng ; biết nguy mà thận trọng thì được tốt lành, lợi về vượt qua sông cả sóng lớn.”
- Tượng “Do di lệ cát, đại hữu khánh dã.” – Thiên hạ nhờ nó mà được nuôi dưỡng, đây là tượng Chín Trên có phúc khánh lớn. Ngôi cùng cực, dương cứng đầy thịnh, có tượng bề tôi hiền với vua, vua dựa vào người này để nuôi thiên hạ. Nếu đảm trách nhiệm vụ nặng nề này, lại biết nguy mà thận trọng thì tốt, trừ nguy vượt hiểm tất được lợi.

29. Nhâm Thìn - Hỏa Địa Tấn, hào 3 (29 ~ 41)
- “Lục Tam, chúng doãn, hối vong.”
- “Sáu Ba, được mọi người tin cẩn thì hối hận sẽ mất hết.”
- Tượng “Chúng doãn chi chí, thượng hành dã.” – Chí hướng “được mọi người tin theo” của Sáu Ba là vì đi lên. Sáu Ba ngôi cao quẻ dưới, mất ngôi, có hối hận, nhưng cùng hai âm dưới có chí tiến lên, tất phải được mọi người tin theo mà cùng tiến. Trước tiên có đặt nền móng vững vàng thì mới có thể toại chí đi lên và được vua tin. Tin là tin ở kẻ dưới, đây lại tin ở kẻ trên, cho nên, không tin ở bạn thì cũng không được trên.

30. Quý Tị - Thủy Thiên Nhu, hào 2 (30 ~ 41)
- “Cửu Nhị, nhu vu sa, tiểu hữu ngôn ; chung cát.”
- “Chín Hai, chờ đợi ở bãi cát, hơi có điều tiếng, cuôi cùng tốt lành.”
- Tượng “Nhu vu sa, diễn tại trung dã ; tuy tiểu hữu ngôn, dĩ cung cát dã.” - Chờ đợi ở bãi cát, là tượng Chín Hai trong lòng ung dung không vội. Mặc dù có chút điều tiếng, là tượng kiên trì chờ đợi để đạt được tốt lành. Chín Hai đi dấn tới gần Khảm, cứng ở ngôi mềm, tính rộng rãi mà được ngôi giữa, là tượng gần hiểm mà vẫn không hại cho sự tốt của nó.

31. Giáp Ngọ - Hỏa Địa Tấn, hào 4 (31 ~ 19)
- “Cửu Tứ, tấn như thạch thử, trinh lệ.”
- “Chín Bốn, khi tiến thịnh giống như con chuột bay chẳng có được kỹ năng gì, giữ vững chính bền để phòng nguy hiểm.”
- Tượng “Thạch thử trinh lệ, vị bất đáng dã.” – Như chuột bay, chẳng có được kỹ năng gì, nói lên Chín Bốn ở vào ngôi vị không thích đáng, dùng cách bất trung bất chính để chiếm ngôi cao, tham mà sợ người. Đạo Tấn chủ về nhu thuận, Hào Ba tuy không chính, nhưng vì thuận, cho nên chí nó được mọi người tin mà cùng tiến; Chín Bốn tuy đã tiến lên trên, do mất đạo nhu thuận mà như chuột bay ở bước cùng, không toại nguyện.

32. Ất Mùi - Thủy Thiên Nhu, hào 1 (32 ~ 20)
- “Sơ Cửu, nhu vu giao, lợi dụng hằng, vô cữu.”
- “Chín Đầu, đợi ở nơi giao ngoại, lợi về giữ được sự bền lòng bền gan, tất sẽ không cữu hại.”
- Tượng “Nhu vu giao, bất phạm nan hành dã.” - Đợi ở nơi giao ngoại, là nói Chín Đầu không xông thẳng vào nơi hiểm nạn ; “lợi dụng hằng vô cữu, vị thất thường dã.” - Lợi về giữ được sự bền lòng bền gan, nói lên Chín Đầu chưa từng sai mất đạo thường. Tâm chí tuy có chờ đợi, nên tự giữ sự yên tĩnh, điềm nhiên như sẽ ở vậy đến trọn đời, mới có thể dùng được đạo thường. Hào Đầu ở xa Khảm nhất, lợi vì “dụng hằng” nên “vô cữu”, là cứng ở ngôi cứng, sợ rằng có tượng nóng vội, tuy xa hiểm mà vẫn có lời răn.

33. Bính Thân – Phong Trạch Trung phu, hào 3
- “Lục Tam, đắc địch, hoặc cổ hoặc bãi, hoặc khấp hoặc ca.”
- “Sáu Ba, (trong lòng không thành) phía trước gặp kẻ kình địch, hoặc đánh trống tiến công, hoặc mệt mỏi tháo lui, hoặc (sợ địch phản công mà) khóc lóc buồn bã, hoặc do (địch không lấn) mà hát vui.”
- Tượng “Hoặc cổ hoặc bãi, vị bất đáng dã.” – Là tượng Sáu Ba ngôi vị không thỏa đáng, không đáng ngôi, tự gây nên địch họa, cho nên có tượng “cổ” “bãi” “khấp” “ca”, nguyên nhân chính do lòng người không chân thành, ý đồ riêng tư nổi lên, luôn làm nhiều điểu không thích đáng, nói và làm vô thường, cuối cùng mệt sức vô ích. Lưu Mục nói “người ta chỉ vì lòng tin không đủ, cho nên nói, hành động không thường như vậy.”

34. Đinh Dậu – Lôi Sơn Tiểu quá, hào 5
- “Lục Ngũ, mật vân bất vũ, tự ngã tây giao ; công dặc thủ bỉ tại huyệt.”
- “Sáu Năm, mây dày kín đặc mà không mưa, nó kéo lên từ cõi Tây thành ấp của ta ; các bậc vương công ra sức bắn hạ các thú vật có hại ẩn trốn trong hang.”
- Tượng “Mật vân bất vũ, dĩ thượng dã.” – Mây dày kín đặc mà không mưa, là tượng Sáu Năm khí âm vượng thịnh đã ở cao bên trên.

35. Mậu Tuất - Địa Hỏa Minh di, hào 5
- “Lục Ngũ, Cơ Tử chi minh di, lợi trinh.”
- “Sáu Năm, như ông Cơ Tử thời Ân, lợi về sự giữ vững chính bền.”
- Tượng “Cơ Tử chi trinh, minh bất khả tức dã.” – Cơ Tử triều Ân giữ vững chính bền, có tượng ánh sáng trong lòng Sáu Năm không thể tắt. Phỏng theo tượng Cơ Tử triều Ân bị vua Trụ bắt tù, giả điên giấu sự sáng của mình giữ chí, ví với Sáu Năm rất gần với “ám quân”, thân mắc vào nội nạn, lợi về giữ chính không đổi lòng, không bị sự hôn ám làm cho mai một.

36. Kỷ Hợi – Thiên Thủy Tụng, hào 3
- “Lục Tam, sư hoặc dư thi, hung.”
- “Sáu Ba, quân chốc chốc phải trở xác về, có hung hiểm.”
- Tượng “Sư hoặc dư thi, đại vô công dã.” - Phải trở xác về, có tượng Sáu Ba không thể có chiến công. Đạo dùng binh quý ở chỗ biết mình, Sáu Ba thua trận, chính là do không tự lượng sức mình.

37. Canh Tý - Trạch Phong Đại quá, hào 1
- “Sơ Lục, tạ dụng bạch mao, vô cữu.”
- “Sáu Đầu, dùng cỏ tranh trắng lót (vật biếu người trên), tránh bị cữu hại.”
- Tượng “Tạ dụng bạch mao, nhu tại hạ dã.” - Lấy cỏ tranh trắng lót vật đi biếu, là tượng Sáu Đầu mềm thuận ở ngôi dưới, hành vi kính cẩn thận trọng. Thời “đại quá”, lấy chất mềm yếu thấp nhỏ mà ở ngôi dưới cùng, tự giữ kính cẩn, thận trọng “đội” dương, thì mới có thể lấy chất cứng của nó để giúp cho chất mềm của mình, tránh hại tới lợi.

38. Tân Sửu – Sơn Lôi Di, hào 1
- “Sơ Cửu, xả nhĩ linh qui, quan ngã đóa di, hung.”
- “Chín Đầu, người bỏ phần tốt đẹp như rùa thiêng của mình mà nhìn ta tới trễ mép cầu ăn, có hung hiểm.”
- Tượng “Quan ngã đóa di, diệc bất túc quý dã.” – Nhìn ta tới trễ mép cầu ăn, là tượng hành vi cầu ăn, cầu nuôi của Chín Đầu không đáng được tôn trọng. Thể trên quẻ Di đều cát, thể dưới đều hung, trên ngưng dưới động. Trên mà ngưng là sự nuôi người, dưới mà động là cầu người nuôi. Động mà cầu người nuôi, tất lụy về sự nuôi thể xác mình, nên Sáu Đầu không tránh khỏi sự động lòng dục của nó, lấy cái thực của dương cứng để cầu sự nuôi dưỡng ở âm hư, nuôi thân mà không được.

39. Nhâm Dần - Hỏa Địa Tấn, hào 2 (39 ~ 51)
- “Lục Nhị, tấn như sầu như, trinh cát ; thụ tư giới phúc, vu kỳ vương mẫu.”
- “Sáu Hai, tiến lên mà rầu rĩ, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; sẽ được nhờ phúc lớn của bà nội trôn quý.”
- Tượng “Thụ tư giới phúc, dĩ trung chính dã.” - Sẽ được nhờ phúc lớn, là tượng Sáu Hai ở ngôi giữa giữ chính. “Vương mẫu” ví với “bậc chí tôn của loài âm”, chỉ Sáu Năm ; quẻ Khôn dưới là tượng mẹ, “phục càn” là vương. “Phục Càn” là chỉ quẻ Ly trên, vì hào 5 quẻ Ly trên, vốn là hào dương giữa quẻ Càn, mà biến thành hào âm, ở giữa quẻ ngoài Ly của quẻ Tấn.

40. Quý Mão - Thủy Thiên Nhu, hào 3 (40 ~ 52)
- “Cửu Tam, nhu vu nê, trí khấu chí.”
- “Chín Ba, chờ đợi ở nơi bãi bùn, dắt giặc đến.”
- Tượng “Nhu vu nê, tai tại ngoại ; tự ngã trí khấu, kính thận bất bại dã.” - Chờ đợi ở nơi bãi bùn, là tượng tai họa với Chín Ba còn ở ngoài ; Tự mình dắt giặc đến, là tượng Chín Ba cần nghiêm cẩn, thận trọng thì mới không thất bại. Thể quẻ Nhu, “trong” Càn tính dương cứng, “ngoài” Khảm tính hiểm. Nên lời 3 hào “trong” đều đúng vào Khảm hiểm mà thủ tượng. Thời “nhu” là phải chờ đợi rồi mới tiến.

41. Giáp Thìn - Hỏa Địa Tấn, hào 2 (41 ~ 29)
- “Lục Tam, chúng doãn, hối vong.”
- “Sáu Ba, được mọi người tin cẩn thì hối hận sẽ mất hết.”
- Tượng “Chún doãn chi chí, thượng hành dã.” – Chí hướng “được mọi người tin theo” của Sáu Ba là vì đi lên. Sáu Ba ngôi cao quẻ dưới, mất ngôi, có hối hận, nhưng cùng với hai âm đều có chí tiến lên, tất phải được mọi người tin theo mà cùng tiến. Trước tiên có đặt nền móng vững vàng thì mới có thể toại chí đi lên và được vua tin. Tin là tin ở kẻ dưới, đây lại tin ở kẻ trên, cho nên, không tin ở bạn thì cũng không được trên.

42. Ất Tị - Thủy Thiên Nhu, hào 2 (42 ~ 30)
- “Cửu Nhị, nhu vu sa, tiểu hữu ngôn ; chung cát.”
- “Chín Hai, chờ đợi ở bãi cát, hơi có điều tiếng, cuôi cùng tốt lành.”
- Tượng “Nhu vu sa, diễn tại trung dã ; tuy tiểu hữu ngôn, dĩ cung cát dã.” - Chờ đợi ở bãi cát, là tượng Chín Hai trong lòng ung dung không vội. Mặc dù có chút điều tiếng, là tượng kiên trì chờ đợi để đạt được tốt lành. Chín Hai đi dấn tới gần Khảm, cứng ở ngôi mềm, tính rộng rãi mà được ngôi giữa, là tượng gần hiểm mà vẫn không hại cho sự tốt của nó.

43. Bính Ngọ - Phong Trạch Trung phu, hào 2
- “Cửu Nhị, minh hạc tại âm, kỳ tử họa chi ; ngã hữu hảo tước, ngô dữ nhĩ mị chi.”
- “Chín Hai, chim hạc trắng kêu dưới bóng dâm của núi, bạn nó họa theo từng tiếng ; ta có riệu ngon nguyện với ngươi cùng uống chung vui.”
- Tượng “Kỳ tử họa chi, trung tâm nguyện dã.” - Bạn hạc trắng họa theo từng tiếng, đây là tượng ý nguyện chân thành phát ra từ đáy lòng. Khổng Tử thích nghĩa “Người ở trong (nhà) mà nói ra lời hay thì người ngoài nghìn dặm cũng ứng theo, huống chi là người ở gần ?. Còn ở trong (nhà) mà nói ra lời không hay, thì người ngoài ngàn dặm cũng phản đối, huống chi là người ở gần”, ý nêu rõ lòng chân thành thì tuy xa cũng được ứng theo.

44. Đinh Mùi – Lôi Sơn Tiểu quá, hào 6
- “Thượng Lục, phất ngộ quá chi ; phi điểu li chi, hung, thị vị tai sảnh.”
- “Sáu Trên, không thể gặp được dương cứng mà lại càng vượt quá dương cứng ; chính là giôpngs như con chim bay (bay không ngừng) bị tên bắn hạ giết, có hung hiểm, như vậy gọi là tai ương họa hoạn.”
- Tượng “Phất ngộ quá chi, dĩ khang dã.” – Không thể gặp được dương cứng mà lại càng vượt quá dương cứng, là tượng Sáu Trên ở nơi cao cùng cực. Lúc này là lúc quá cực, không thể tự giữ mà cứ theo như tập quán thói quen, cho nên đến nỗi vậy. Hung là do mình làm, “tai vạ” là do từ ngoài tới.

45. Mậu Thân - Địa Hỏa Minh di, hào 4
- “Lục Tứ, nhập vu tả phúc, hoạch minh di chi tâm, vu xuất môn đình.”
- “Sáu Bốn, lui về bên trái bụng, hiểu rõ tình trạng bên trong của thời ánh sáng bị tổn thương, do đó cương quyết bỏ nhà ra đi.”
- Tượng “Nhập vu tả phúc, hoạch tâm ý dã.” – Lui về bên trái bụng, là tượng nói có thể hiểu sâu tình trạng bên trong của thời ánh sáng bị tổn thương. Phàm nói về bên phải là tiện dụng cho mọi việc, theo bên trái mà không theo bên phải là nhún thuận, không phản nghịch. Thể quẻ Minh di, dưới sáng trên tối. Bà hào dưới là sáng ở ngoài tối, nên phải tùy theo sự xa gần cao thấp mà xử cho khác nhau. Sáu Bốn là bậc mềm chính, ở chỗ tối mà còn nhạt, nên còn có thể đắc ý về sự đi xa ; hào Năm là hạng mềm giữa, ở chỗ tối mà đã là lúc bức bách, nên là tượng bên trong có nạn, phải chính chí mình để che bớt sự sáng đi ; Sáu Trên là lúc tối đã cùng cực, cho nên là kẻ tự hại sự sáng của mình, đến nỗi phải tối, mà lại còn hại đến sự sáng của người ta, có tượng “ám quân” vậy.

46. Kỷ Dậu – Thiên Thủy Tụng, hào 4
- “Cửu Tứ, bất khắc tụng ; phục tức mệnh, du, an trinh cát.”
- “Chín Bốn, đi kiện thì không có lợi ; nên hồi tâm quay về với chính đạo, nên đổi ý đi kiện đi, an thuận mà giữ chính bền thì được tốt lành.”
- Tượng “Phục tức mệnh, du, an trinh bất thất dã.” – Nên hồi tâm quay về với mệnh, là tượng Chín Bốn an thuận, giữ vững chính bền để không bị tổn thất. Đã đi kiện, Chín Bốn dương cứng tính mạnh, nhưng ở ngôi âm, lại là tượng có thể lui ; “du” chính là ý biến cứng thành mềm. Chín thì cứng, Bốn thì mềm. Người ta chỉ vì không muốn yến với mệnh, mà lấy sức mạnh của mình để đi kiện, mới đầu thì kiện cuối cùng thì lui, không đi kiện nữa mà dựa vào mệnh, đó là tượng yên với sự chính bền.

47. Canh Tuất - Trạch Phong Đại quá, hào 6
- “Thượng Lục, quá thiệp diệt đỉnh ; hung, vô cữu.”
- “Sáu Trên, lội nước quá sâu đến nỗi ngập đầu ; có hung hiểm, nhưng không có lỗi gì.”
- Tượng “Quá thiệp chi hung, bất khả cữu dã.” - Lội nước quá sâu đến nỗi ngập đầu, đó là tượng Sáu Trên cứu đời mà mất mạng, không thể coi là có lỗi. Sáu Trên giống như đoạn cuối của cột, quá yếu không chựu được sức nặng đè lên mà ỏe xuống, đã cố hết mức rồi mà vẫn không thể chựu nổi sức nặng, mặc nhiên nhận lấy sự tổn thất về bản thân mình, để giữ cho được chủ thể, nhà lớn dựa vào đó mà không bị lún. Thời không có thể làm, họa không có thể tránh, cam lòng chựu đựng điều hung.

48. Tân Hợi – Sơn Lôi Di, hào 2
- “Lục Nhị, điên di ; phất kinh, vu khâu di, chinh hung.”
- “Sáu Hai, đã đảo điên mà xin kẻ dưới nuôi dưỡng mình, lại trái với lẽ thường, cầu sự nuôi dưỡng ở người tôn quý trên gò cao, tiến lên tất có hung hiểm.”
- Tượng “Lục Nhị chinh hung, hành thất loại dã.” – Sáu Hai tiến lên tất có hung hiểm, đó là tượng đi thì không gặp loài của mình. Âm Dương gặp nhau mới là đúng loại, âm dương không gặp nhau nên nói “thất loại”. Vốn ở thể trung chính, nhân vì không ứng với Sáu Năm, cho nên “điên” mà xin ăn với kẻ dưới trái lẽ thường, “phất” cầu nuôi ở trên thì đi mà gặp hung, là tượng mất lớn đạo nuôi dưỡng, cuối cùng sẽ đến hung.

49. Nhâm Tý - Hỏa Địa Tấn, hào 1 (49 ~ 1)
- “Sơ Lục, tấn như tồi như, trinh cát ; võng phu, dụ vô cữu.”
- “Sáu Đầu, sự tiến thịnh khởi đầu đã bị ghìm lui chắn lại, giữ chính thì được tốt lành ; hãy tạm ung dung đợi thời thì không gặp cữu hại”.
- Tượng “Tấn như tồi như, độc hành chính dã” - Khởi đầu đã bị ghìm lui chắn lại, nói lên Sáu Đầu nên riêng tự đi theo chính đạo ; “Dụ vô cữu, vị thụ mệnh” - Tạm đợi thời thì không cữu hại, nói lên Sáu Đầu trước mắt còn chưa được chựu mệnh. Sáu Đầu nhu tiến là bậc quân tử, tiến lui theo lễ nghi. Người thường không được (lòng) tin, thì có người vội tiến để cầu việc làm, có người vội lui thì oán hận người trên không biết tới mình.

50. Quý Sửu - Thủy Thiên Nhu, hào 4 (50 ~ 2)
- “Lục Tứ, nhu vu huyết, xuất tự huyêt.”
- “Sáu Bốn, chờ đợi trong vũng máu, mà thoát khỏi được từ nơi hang sâu”.
- Tượng “Nhu vu huyết, thuận dĩ chính dã” - Chờ đợi trong vũng máu, ý nói Sáu Bốn bình tĩnh để chờ, nghe ngóng thời thế. Sáu Bốn ở ngôi dưới Khảm hãm, vào nơi hiểm mà bị hại, mềm mà được chính, đành chờ đợi mà lui về nghe ngóng, cho nên thoát khỏi nơi hãm hiểm.

51. Giáp Dần - Hỏa Địa Tấn, hào 1 (39 ~ 51)
- “Lục Nhị, tấn như sầu như, trinh cát ; thụ tư giới phúc, vu kỳ vương mẫu.”
- “Sáu Hai, tiến lên mà rầu rĩ, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; sẽ được nhờ phúc lớn của bà nội trôn quý.”
- Tượng “Thụ tư giới phúc, dĩ trung chính dã.” - Sẽ được nhờ phúc lớn, là tượng Sáu Hai ở ngôi giữa giữ chính. “Vương mẫu” ví với “bậc chí tôn của loài âm”, chỉ Sáu Năm ; quẻ Khôn dưới là tượng mẹ, “phục càn” là vương. “Phục Càn” là chỉ quẻ Ly trên, vì hào 5 quẻ Ly trên, vốn là hào dương giữa quẻ Càn, mà biến thành hào âm, ở giữa quẻ ngoài Ly của quẻ Tấn.

52. Ất Mão - Thủy Thiên Nhu, hào 3 (40 ~ 52)
- “Cửu Tam, nhu vu nê, trí khấu chí.”
- “Chín Ba, chờ đợi ở nơi bãi bùn, dắt giặc đến.”
- Tượng “Nhu vu nê, tai tại ngoại ; tự ngã trí khấu, kính thận bất bại dã.” - Chờ đợi ở nơi bãi bùn, là tượng tai họa với Chín Ba còn ở ngoài ; Tự mình dắt giặc đến, là tượng Chín Ba cần nghiêm cẩn, thận trọng thì mới không thất bại. Thể quẻ Nhu, “trong” Càn tính dương cứng, “ngoài” Khảm tính hiểm. Nên lời 3 hào “trong” đều đúng vào Khảm hiểm mà thủ tượng. Thời “nhu” là phải chờ đợi rồi mới tiến.

53. Bính Thìn – Phong Trạch Trung phu, hào 1
- “Sơ Cửu, ngu cát, hữu tha bất yến.”
- “Chín Đầu, yên giữ (lòng thành tín) thì được tốt lành, có lòng cầu mong khác thì không yên.”
- Tượng “Sơ Cửu ngu cát, chí vị biến dã.” – Chín Đầu yên giữ, là tượng tâm chí “không muốn cầu kẻ khác” chưa từng thay đổi. Chín Đầu ở ngôi “vật dụng” (chớ dùng), có thể cẩn thận giữ lòng thành tín mà không cầu ở nơi khác.

54. Đinh Tị - Lôi Sơn Tiểu quá, hào 1
- “Sơ Lục, phi điểu dĩ hung.”
- “Sáu Đầu, chim bay nghịch thế hướng lên trên sẽ có hung hiểm.”
- Tượng “Phi điểu dĩ hung, bất khả như hà dã.” – Bay nghịch thế hướng lên trên, đây là tượng Sáu Đầu tự chuốc lấy hung cữu, khó bề giải cứu. Phía trước là Sáu Hai ngăn trở, ngôi vị không trung chính, lại không yên với đạo dưới mà muốn vượt để ứng trên.

55. Mậu Ngọ - Địa Hỏa Minh di, hào 3
- “Cửu Tam, minh di vu Nam thú, đắc kỳ đại thủ ; bất khả tật, trinh.”
- “Chín Ba, đi tuần thú ở phương Nam, tiến hành chinh phạt ở thời ánh sáng bị tổn thương, diệt trừ kẻ đầu sỏ hung ác ; lúc này không thể hành động gấp, nên giữ vững chính bền.”
- Tượng “Nam thú chi chí, nãi đại đắc dã.” – Chí hướng đi tuần thú phương Nam tiến hành chinh phạt, là tượng Chín Ba tất sẽ có thu hoạch lớn. Chu Hy nói “Thành Thang nổi lên ở ngục Hạ Đài, Văn Vương dấy lên ở ngục Dũ Lý, chính hợp với nghĩa của hào này. Mà việc nhỏ cũng như thế.”. Ý nghĩa tượng trưng của Dịch, từ đó mà suy ra đều có sự trưng nghiệm vậy.

56. Kỷ Mùi – Thiên Thủy Tụng, hào 5
- “Cửu Ngũ, tụng, nguyên cát.”
- “Chín Năm, xử kiện hay đi kiện đều hết sức tốt lành.”
- Tượng “Tụng nguyên cát, dĩ trung chính dã.” Đây là tượng ở ngôi giữa giữ chính. Chín Năm là tượng “đại nhân quân chủ”, hợp với lời quẻ “lợi hiện đại nhân”, dẹp được mọi sự kiện cáo của chư hầu và muôn dân, khiến cho mọi người biết nhường nhau, mà yên được mọi tranh tụng.

57. Canh Thân - Trạch Phong Đại quá, hào 5
- “Cửu Ngũ, khô dương sinh hoa, lão phụ đắc kỳ sĩ phu ; vô cữu vô dự.”
- “Chín Năm, cây dương khô ra hoa mới, bà già lọm khọm lấy được người chồng khỏe mạnh, không bị cữu hại, cũng không được khen.”
- Tượng “Khô dương sinh hoa, hà khả cửu dã ; Lão phụ sĩ phu, diệc khả xú dã.” – Cây dương khô ra hoa mới, như vậy thì sức sống làm sao lâu dài được. Bà già lấy chồng, tình trạng như vậy thật đáng xấu hổ. Chín Năm lấy sự cực cứng giúp cực mềm, tuy không thể thành công tốt đẹp, đó là sự cố gắng hết mức. Kết cục “không lỗi không khen” là điều tất nhiên phải đến, không phải là sức người có thể đổi thay.

58. Tân Dậu – Sơn Lôi Di, hào 3
- “Lục Tam, phất di ; trinh hung, thập niên vật dụng, vô du lợi.”
- “Sáu Ba, trái với lẽ thường “nuôi dưỡng” ; giữ vững chính bền để phòng hung hiểm, mười năm dài lâu không được thi thố tài dụng, nếu thi thố tất sẽ không được lợi gì.”
- Tượng “Thập niên vật dụng, đạo đại bội dã.” - Mười năm không được thi thố tài dụng, là tượng Sáu Ba nghịch lớn với đạo “nuôi dưỡng”. Sáu Ba hành vi cầu nuôi rất bất chính, quá nhiều lòng dục, nên hành động mù quáng. Âm ở ngôi dương là không đúng thời, không giữa, mất chính, cậy có ứng mà cầu xin nịnh bợ Trên, xin mãi không thôi, mất nghĩa “dưỡng chính”.

59. Nhâm Tuất - Hỏa Địa Tấn, hào 6 (11 ~ 59)
- “Thượng Cửu, tấn kỳ giác, duy dụng phạt ấp, lệ cát, vô cữu ; trinh lận.”
- “Chín Trên, tiến thịnh đến cùng cực, giống như sừng thú ở chỗ cao, nên chinh phạt ấp quốc để lập công, tuy có nguy hiểm, nhưng được tốt lành, mà không đến nỗi bị cữu hại ; phải giữ vững chính bền, phòng thẹn tiếc”.
- Tượng “Duy dụng phạt ấp, đạo vị quang dã” – Nên chinh phạt ấp quốc để lập công ; nói lên “tiến thịnh” của Chín Trên chưa từng sáng lớn.
“Tấn” cực tắc phản, cũng giống như “minh xuất địa thượng” (ánh sáng hiện trên mặt đất), thịnh cực thì suy. Chín Trên tiến thịnh tới “giác”, dựa vào sự “phạt ấp” để tránh cữu hại, có thể lấy đức của sự sáng sủa đương lâm vào cuộc suy vi, “ánh sáng sẽ tắt đi”. Cứng quá mức, khó tránh tới “lận”, mất nhu thuận làm cho đường “tấn” có trở ngại.

60. Quý Hợi - Thủy Thiên Nhu, hào 5 (12 ~ 60)
- “Cửu Ngũ, nhu vu tửu thực, trinh cát.”
- “Chín Năm, chờ đợi ở nơi riệu ngon, nhắm tốt, giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng “Tửu thực trinh cát, dĩ trung chính dã” - Chờ đợi nơi riệu ngon, nói lên Chín Năm ở ngôi giữ được chính. Nghĩa chữ “nhu” so với việc vương đạo lấy sự lâu dài hoàn thành việc hóa dục, thì không bằng, nhưng nó cũng không vội gì với những thành công nông cạn, thiển cận. Chín Năm cứng khỏe trung chính, làm chủ quẻ, ở ngôi cao có thể hết mình với đạo “nhu”, đạo “chờ đợi” hết sức hoàn mỹ.
Đầu trang

Hà Uyên
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 607
Tham gia: 14:20, 02/05/09

TL: DỊCH CAN CHI

Gửi bài gửi bởi Hà Uyên »

CHU KỲ 8



............................ĐỒNG NHÂN


........CỔ..........................................TỶ


...TUỲ........................+.....................QUY MUỘI


.......TIỆM.....................................ĐẠI HỮU


..............................MINH DI


1. Giáp Tý - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 1 (1 ~ 49)
- “Sơ Cửu, vô giao hại, phỉ cữu ; gian tắc vô cữu”.
- “Chín Đầu, chưa đi lại giao du thì chưa mắc họa, tự nhiên thì không có cữu hại, nhưng tất phải nhớ là cần cẩn thận như lúc gặp gian nan, như vậy thì mới không gặp cữu hại”.
- Tượng “Đại hữu Sơ Cửu, vô giao hại dã” – Chín Đầu nếu không giao du đi lại với ai, thì cũng không mắc phải họa hại. Thân tuy ở cuộc “đại hữu”, nếu giữ cho sự ăn ở của mình được yên ổn, không lạm “giao” với vật, thì có thể vô hại. Thời “đại hữu” thì không thể quên sự gian nan. Không ghìm nén sự lo sợ thì lòng kiêu căng xa xỉ sinh ra, tất có “cữu”.

2. Ất Sửu - Thủy Địa Tỷ, hào 4 (2 ~ 50)
- “Lục Tứ, ngoại tỷ chi, trinh cát”.
- “Sáu Bốn, ở ngoài thân mật với đấng quân chủ, giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng “Ngoại tỷ ư hiền, dĩ tòng thượng dã” - Ở ngoài thân mật gần gũi với người Trên, nói lên Sáu Bốn thuận theo bậc tôn thượng. Sáu Bốn thân cận với hào Năm là “đội sát”.

3. Bính Dần – Phong Sơn Tiệm, hào 6
- “Thượng Cửu, hồng tiệm vu lục, kỳ vũ khả dụng vi nghi, cát”.
- “Chín Trên, chim đại nhạn bay từ từ lên núi cao, lông vũ của nó có thể làm đồ trang sức đẹp tinh khiết, tốt lành”.
- Tượng “Kỳ vũ khả dụng vi nghi, cát, bất khả loạn dã” – Lông vũ của chim đại nhạn có thể làm đồ trang sức đẹp tinh khiết, nói lên chí hướng cao khiết của Chín Trên không hề tạp loạn. Hào Trên ở nơi không ngôi, cũng chỉ đủ là nghi biểu cho mọi người.

4. Đinh Mão – Lôi Trạch Quy muội, hào 2
- “Cửu Nhị, diểu năng thị, lợi u nhân chi trinh”.
- “Chín Hai, chột mà cố gắng nhìn được, lợi về giữ vững chính bền của bậc u tĩnh điềm đạm”.
- Tượng “Lợi u nhân chi trinh, vị biến thường dã” - Lợi về sự giữ vững chính bền của bậc u tĩnh điềm đạm, nói lên Chín Hai chưa từng thay đổi đạo thường hằng của sự nghiêm giữ tiết tháo. Bậc u nhân không có vua hiền, chính như hào Chín Hai không có chồng hiền đức.

5. Mậu Thìn - Địa Thủy Sư, hào 2
- “Cửu Nhị, tại sư, trung cát, vô cựu ; vương tam tính mệnh”.
- “Chín Hai, thống xuất quân đội, giữ đúng mức không thiên lệch sẽ được tốt lành, tất không bị cữu hại, nhà vua nhiều (ba) lần ban thưởng, giao cho trọng trách”.
- Tượng “Tại sư trung cát, thừa thiên sủng dã ; vương tam tích mệnh, hoài vạn bang dã” – "Thống xuất quân đội", nói lên Chín Hai được sự sủng ái của Thiên tử ; "Ban thưởng giao cho trọng trách", nói lên hào Hai có chí hướng bình định thiên hạ muôn nơi. (khát vọng). Sự thành công hay thất bại có ảnh hưởng lớn tới sự tín nhiệm của vua với tướng soái. Chín Hai sở dĩ thắng, không phải là công của mình, vì ứng với hào Năm, nên được ân sủng.

6. Kỷ Tị, - Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 6
- “Thượng Cửu, đồng nhân vu giao, vô hối”.
- “Chín Trên, hòa đồng với mọi người ở nơi giao ngoại xa xôi, chưa có được kẻ chí đồng cũng không hối hận”.
- Tượng “Đồng nhân vu giao, chí vị đắc dã” – Hòa đồng ở nơi xa xôi, nói lên chí hướng với người của Chín Trên chưa thể thực hiện được.

7. Canh Ngọ - Trạch Lôi Tùy, hào 4
- “Cửu Tứ, tùy hữu hoạch, trinh hung ; hữu phu tại đạo, dĩ minh, hà cữu !”.
- “Chín Bốn, được người theo, thu hoạch được nhiều, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm ; chỉ cần giữ lòng thành tín, hợp chính đạo, sáng suốt trong sự lập thân, như vậy thì làm sao có cữu hại được”.
- Tượng “Tùy hữu hoạch, kỳ nghĩa hung dã, ‘hữu phu tại đạo’, minh công dã” - Được người theo thu hoạch được nhiều, xét về ý nghĩa vị trí mà Chín Bốn ở vào, ta thấy có thể xẩy ra hung hiểm ; ‘Có lòng thành tín hợp với trung đạo’, đây là công hiệu có được do phẩm đức quang minh lỗi lạc của Chín Bốn có được.

8. Tân Mùi – Sơn Phong Cổ, hào 4
- “Lục Tứ, dụ phụ chi cổ, vãng kiến lận”.
- Sáu Bốn, dùng dằng không trị sự tệ loạn của cha, nếu cứ như vậy mãi thì tất sẽ hối tiếc”.
- Tượng “Dụ phụ chi cổ, vãng vị đắc dã” – Không trị sự tệ loạn của cha, ý nói Sáu Bốn nếu cứ như vậy mãi, thì khó mà có được đạo trị “cổ”. Trị “cổ” mà cứ lôi thôi dùng dằng, không dứt khoát, thì thực là đạo “dung ác dưỡng tệ”.

9. Nhâm Thân - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 5 (9 ~ 21)
- “Lục Ngũ, quyết phu giao như, uy như, cát”.
- “Sáu Năm, lấy đức thành tín để giao tiếp với người trên kẻ dưới, biết tỏ rõ uy nghiêm, tốt lành”.
- Tượng “Quyết phu giao như, tín dĩ phát chí dã ; ‘uy như chi cát’, dị nhi vô bị dã” - Lấy đức thành tín để giao tiếp với người trên kẻ dưới, nói lên Sáu Năm lấy đức thành tín của mình để khởi phát chí trung tín ở người khác ; ‘biết tỏ rõ uy nghiêm thì tốt’, nói lên Sáu Năm hành vi bình dị, không phải phòng ngừa (mà người ta tự kính sợ).

10. Quý Dậu - Thủy Địa Tỷ, hào 6 (10 ~ 22)
- “Thượng Lục, tỷ chi vô thủ, hung”.
- “Sáu Trên, thân mật gần gũi với người mà lại không tiên phong dẫn đầu, có hung hiểm”.
- Tượng “Tỷ chi vô thủ, vô sở chung dã” – Thân mật gần gũi với người, mà lại không phải là tiên phong dẫn đầu, nói lên Sáu Trên ở nơi tận cùng, nên không có nơi quy phụ.

11. Giáp Tuất - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 6 (11 ~ 59)
- “Thượng Cửu, tự nhiên hựu chi, cát vô bất lợi”.
- “Chín Trên, sự giúp đỡ từ trên trời rơi xuống, tốt lành, không có gì là không lợi”.
- Tượng “Đại hữu thượng cát, tự nhiên hựu dã” - Sự tốt lành của Chín Trên quẻ Đại hữu là được sự giúp đỡ từ trên trời rơi xuống.

12. Ất Hợi - Thủy địa Tỷ, hào 5 (12 ~ 60)
- “Cửu Ngũ, hiển tỷ ; vương dụng tam khu, thất tiền cầm, ấp nhân bất giới, cát”.
- “Chín Năm, thân mật gần gũi một cách vô tư ; khi đấng quân vương đi săn thì bổ vậy ba mặt, lưới chỉ giăng một mặt, mặc cho các cầm thú ở phía trước đi thoát, các kẻ thuộc hạ là người trong ấp cũng chẳng phòng vệ hộ, tốt lành”.
- Tượng “Hiển tỷ chi cát, vị chính trung dã ; xả nghịch thủ thuận, thất tiền cầm dã ; ấp nhân bất giới, thượng sử trung dã” – Thân mật gần gũi trong sáng vô tư, nói lên Chín Năm ở nơi trung chính, bỏ nghịch lấy thuận, chính là như “mặc cho các cầm thú ở phía trước đi thoát” ; ‘Các thuộc hạ cũng chẳng phòng vệ hộ’, nói lên do đức của người Trên, khiến cho các thuộc hạ cũng giữ được đạo trung.

13. Bính Tý – Phong Sơn Tiệm, hào 5
- “Cửu Ngũ, hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dựng ; chung mạc chi thắng, cát”.
- “Chín Năm, chim đại nhạn bay từ từ lên gò cao, (giống như chồng đi xa), vợ ba năm không có mang ; (nhưng vợ chồng tất sẽ được xum họp) kẻ khác cuối cùng không thể xâm phạm ngăn trở mà thủ thắng, tốt lành”.
- Tượng “Chung mạc chi thắng, đắc sở nguyện dã” – (Vợ chồng tất xẽ xum họp) kẻ khác cuối cùng không thể xâm phạm, nói lên chín Năm được toại nguyện ứng hợp với Sáu Hai. Sáu Hai không khinh tiến, Chín Năm không coi nhẹ trách nhiệm, cùng đợi nhau lâu ngày, cùng tin nhau sâu sắc. Đây là tượng ở nơi chính giữ giữa.

14. Đinh Sửu – Lôi Trạch Quy muội, hào 3
- “Lục Tam, quy muội dĩ tu, phản quy dĩ đệ”.
- “Sáu Ba, người con gái sau khi lấy chồng mỏi cổ mong được thành vợ cả, nên quay về đợi thời, làm vợ lẽ”.
- Tượng “Quy muội dĩ tu, vị đáng dã” – Đi lấy chồng mong mình được thành vợ cả, nói lên hành vi của Sáu Ba không thỏa đáng.

15. Mậu Dần - Địa Thủy Sư, hào 1
- “Sơ Lục, sư xuất dĩ luật, phủ tang hung”.
- “Sáu Đầu, quân đội khi xuất quân thì phải dùng quân luật, hiệu lệnh để ước thúc, quân kỷ không khéo tất có hung hiểm”.
- Tượng “Sư xuất dĩ luật, thất luật hung dã” - Xuất quân phải dùng quân luật và hiệu lệnh nghiêm minh, nói lên Sáu Đầu nếu để mất quân kỷ tất có hung hiểm.

16. Kỷ Mão – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 1 (ý thông 25)
- “Sơ Cửu, đồng nhân vu môn, vô cữu”.
- “Chín Đầu, vừa ra khỏi cửa mà đã có thể hòa đồng ngay với người, tất vô cữu hại”.
- Tượng “Xuất môn đồng nhân, hựu thùy cữu dã” - Vừa ra khỏi cửa mà đã hòa đồng ngay với người, thì còn ai có thể làm nguy hại được !

17. Canh Thìn - Trạch Lôi Tùy, hào 3
- “Lục Tam, hệ trượng phu, thất tiểu tử ; tùy hữu cầu đắc, lợi cư trinh”.
- “Sáu Ba, quấn quýt với đấng trượng phu dương cứng, mất kẻ tiểu tử ở dưới, theo với người mà ta đã cầu tất được, lợi nếu như ở yên, giữ vững chính bền”.
- Tượng “Hệ trượng phu, chí xả hạ dã” - Quấn quýt với đấng trượng phu, nói lên ý chí Sáu Ba là kẻ bỏ người thấp dưới mà theo người Trên.

18. Tân Tị - Sơn Phong Cổ, hào 5
- “Lục Ngũ, cán phụ chi cổ, dụng dự”.
- “Sáu Năm, vì uốn nắn sự tệ loạn của cha mà được tiếng khen”.
- Tượng “Cán phụ dụng dự, thừa dĩ đức dã” - Uốn nắn tự tệ loạn của cha mà được tiếng khen, nói lên Sáu Năm lấy đức để kế thừa tiên nghiệp.

19. Nhâm Ngọ - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 4 (19 ~ 31)
- “Cửu Tứ, phỉ kỳ bàng, vô cữu”.
- “Chín Bốn, đừng để tỏ ra sự quá giầu có thì không cữu hại”.
- Tượng “Phỉ kỳ bàng, vô cữu, minh biện tích dã” - Giầu có không quá mức thì không cữu hại, nói lên Chín Bốn có đủ hiểu biết để phân biệt rõ ràng mọi sự, và cân nhắc về hoàn cảnh bản thân.

20. Quý Mùi - Thủy Địa Tỷ, hào 1 (20 ~ 32)
- “Sơ Lục, hữu phu tỷ chi, vô cữu ; hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha, cát”.
- “Sáu Đầu, trong lòng thành tín, thân mật gần gũi với bậc quân chủ thì không gặp cữu hại ; sự thành tín của bậc quân chủ như riệu ngon đựng đầy hũ, cuối cùng khiến cho kẻ ở xa đều đến quy phục mà hưởng sự vỗ về ở tận các miền khác, tốt lành”.
- Tượng “Tỷ chi Sơ Lục, hữu tha cát dã” – Sáu Đầu quẻ Tỷ nói đến Chín Năm ứng rộng tới các nơi khác, mà được tốt lành. Sáu Đầu địa vị thấp kém, lại ở xa nơi hoang viễn, muốn thân cận với bậc chí tôn thật vô cùng khó khăn.

21. Giáp Thân - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 5 (21 ~ 9)
- “Lục Ngũ, quyết phu giao như, uy như, cát”.
- “Sáu Năm, lấy đức thành tín để giao tiếp với người trên kẻ dưới, biết tỏ rõ uy nghiêm, tốt lành”.
- Tượng “Quyết phu giao như, tín dĩ phát chí dã ; ‘uy như chi cát’, dị nhi vô bị dã” - Lấy đức thành tín để giao tiếp với người trên kẻ dưới, nói lên Sáu Năm lấy đức thành tín của mình để khởi phát chí trung tín ở người khác ; ‘biết tỏ rõ uy nghiêm thì tốt’, nói lên Sáu Năm hành vi bình dị, không phải phòng ngừa (mà người ta tự kính sợ).

22. Ất Dậu - Thủy Địa Tỷ, hào 6 (22 ~ 10)
- “Thượng Lục, tỷ chi vô thủ, hung”.
- “Sáu Trên, thân mật gần gũi với người mà lại không tiên phong dẫn đầu, có hung hiểm”.
- Tượng “Tỷ chi vô thủ, vô sở chung dã” – Thân mật gần gũi với người, mà lại không phải là tiên phong dẫn đầu, nói lên Sáu Trên ở cuối quẻ nên không có nơi quy phụ.

23. Bính Tuất – Phong Sơn Tiệm, hào 4
- “Lục Tứ, hồng tiệm vu mộc, hoặc đắc kỳ dốc, vô cữu”.
- “Sáu Bốn, chim đại nhạn bay từ từ lên cây cao, may mà tìm được cành bằng đậu thoải mái, không bị cữu hại”.
- Tượng “Hoặc đắc kỳ dốc, thuận dĩ tốn dã” – May mà tìm được nơi đậu, nói lên Sáu Bốn ôn thuận mà lại hòa tốn. Chim hồng nhạn vốn không đậu trên cây, bay đến cây lại được cành bằng, đậu tạm yên, nói rằng nó xứng hợp với sự đó.

24. Đinh Hợi – Lôi Trạch Quy muội, hào 4
- “Cửu Tứ, quy muội khiên kỳ, trì quy hữu thời”
- “Chín Bốn, người con gái đi lấy chồng bị lỡ thì con gái, dềnh dàng chưa lấy chồng, yên đợi thời cơ”.
- Tượng “Khiên kỳ chi chí, hữu đãi nhi hành dã” – Chín Bốn có tâm chí chựu để lỡ thì, yên đợi có dịp sau đi lấy chồng. Ở ta không phải ở người.

25. Mậu Tý - Địa Thủy Sư, hào 6
- “Thượng Lục, đại quân hữu mệnh, khai quốc thừa gia, tiểu nhân vật dụng”.
- “Sáu Trên, thiên tử ban phát mệnh lệnh, phong thưởng cho các công thần, là chư hầu, là đại phu ; còn kẻ tiểu nhân thì không thể trọng dụng”.
- Tượng “Đại quân hữu mệnh, dĩ chính công dã ; ‘tiểu nhân vật dụng’tất loạn bang dã” – Ban phát mệnh lệnh là để định công ban thưởng, không phân biệt quân tử tiểu nhân ; ‘tiểu nhân không thể trọng dụng’, không thể cùng họ bàn bạc các vấn đề kinh sách mưu lược, nếu dùng kẻ tiểu nhân thì sẽ nguy loạn cho đất nước.

26. Kỷ Sửu – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 2
- “Lục Nhị, đồng nhân vu tông, lận”.
- “Sáu Hai, hòa đồng với mọi người trong họ, có sự đáng tiếc”.
- Tượng “Đồng nhân vu tông, lận đạo dã” – Hòa đồng với người trong họ, dẫn tới sự đáng tiếc, tượng biểu thị về bè đảng.

27. Canh Dần - Trạch Lôi Tùy, hào 2
- “Lục Nhị, hệ tiểu tử, thất trượng phu”.
- “Sáu Hai, quấn quýt theo kẻ tiểu tử, mất đấng trượng phu dương cứng”.
- Tượng “Hệ tiểu tử, phất khiêm dữ dã” - Quấn quýt với kẻ tiểu tử, nói lên Sáu Hai không thể cùng một lúc thân hiếu với nhiều nơi. Vào thời “theo” mà do dự thiếu quyết đoán, tất được cái này mất cái kia, vì lợi ích nhỏ gây ra tổn thất lớn.

28. Tân Mão – Sơn Phong Cổ, hào 6
- “Thượng Cửu, bất sự vương hầu, cao thượng kỳ sự”
- “Chín Trên, không làm sự nghiệp của bậc vương hầu, đề cao hành vi ung dung tự tại của mình”.
- Tượng “Bất sự vương hầu, chí khả tắc dã” – Không làm sự nghiệp của bậc vương, nói lên ý chí cao khiết của Chín Trên đáng để noi theo.

29. Nhâm Thìn - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 3 (29 ~ 41)
- “Cửu Tam, công dụng hưởng vu thiên tử, tiểu nhân phất khắc”.
- “Chín Ba, bậc vương công dâng lễ cho thiên tử để tỏ lòng tôn kính, kẻ tiểu nhân không thể đảm đương được việc lớn như vậy”.
- Tượng “Công dụng hưởng vu thiên tử, tiểu nhân hại dã” - Bậc vương công hiến lễ, kẻ tiểu nhân làm nhiệm vụ lớn này, thì tất sẽ có họa hại. Thời “đại hữu” vật phú dân phong, các bậc vương công đại thần tất quy công, đó là cho đấng “quân thượng”: tỏ bày ý tôn kính, ca tụng thời thăng bình. Đối với kẻ dưới, thì đâu dám tự chuyên cái có của mình, đất giầu dân nhiều đều là cái có của bậc vương giả.

30. Quý Tị - Thủy Địa Tỷ, hào 2 (30 ~ 42)
- “Lục Nhị, tỷ chi tự nội, trinh cát”
- “Sáu Hai, từ bên trong thân mật gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền sẽ được tốt lành”.
- Tượng “Tỷ chi tự nội, bất tự thất dã” - Từ bên trong thân mật gần gũi với đấng quân vương, nói lên Sáu Hai chưa từng để mất chính đạo. "Tỷ chi tự nội", thân cận với bậc “tôn chủ” không khó, nhưng không giữ được chính, thì tất sẽ mất.

31. Giáp Ngọ - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 4 (31 ~ 19)
- “Cửu Tứ, phỉ kỳ bàng, vô cữu”.
- “Chín Bốn, đừng để tỏ ra sự quá giầu có thì không cữu hại”.
- Tượng “Phỉ kỳ bàng, vô cữu, minh biện tích dã” - Giầu có không quá mức thì không cữu hại, nói lên Chín Bốn có đủ hiểu biết để phân biệt rõ ràng mọi sự, và cân nhắc về hoàn cảnh bản thân. Chín Bốn có điều nguy là gần Vua.

32. Ất Mùi - Thủy Địa Tỷ, hào 1 (32 ~ 20)
- “Sơ Lục, hữu phu tỷ chi, vô cữu ; hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha, cát”.
- “Sáu Đầu, trong lòng thành tín, thân mật gần gũi với bậc quân chủ thì không gặp cữu hại ; sự thành tín của bậc quân chủ như riệu ngon đựng đầy hũ, cuối cùng khiến cho kẻ ở xa đều đến quy phục mà hưởng sự vỗ về ở tận các miền khác, tốt lành”.
- Tượng “Tỷ chi Sơ Lục, hữu tha cát dã” – Sáu Đầu quẻ Tỷ nói đến Chín Năm ứng rộng tới các nơi khác, mà được tốt lành. Sáu Đầu địa vị thấp kém, lại ở xa nơi hoang viễn, muốn thân cận với bậc chí tôn thật vô cùng khó khăn. Sáu Đầu muốn gần gũi, thì tiền đề phải từ Chín Năm “hữu phu doanh phẫu”.

33. Bính Thân – Phong Sơn Tiệm, hào 3
- “Cửu Tam, hồng tiệm vu lục, phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung ; lợi ngư khấu”.
- “Chín Ba, chim đại nhạn bay từ từ đến ngọn núi nhỏ, giống như người chồng đi xa, một đi không trở về, người vợ không giữ được trinh chính, có mang đẻ con không nuôi, có hung hiểm ; (nếu có thể giữ chính, dụng cương, thì) lợi về sự chống trả giặc mạnh.
- Tượng “Phu chinh bất phục, ly quần xú dã” - Người chồng đi xa, một đi không trở về, nói lên Chín Ba xa cách kẻ quần loại, phối ngẫu. “thất kỳ đạo dã” – Người vợ không giữ được trinh chính, có mang đẻ con không nuôi, như vậy thì đã phạm vào đạo tương thân giữa vợ chồng. “lợi dụng ngự khấu, thuận tương bảo dã” - Nếu có thể giữ chính không tà, lợi về sự chống trả giặc mạnh, nói lên Chín Ba nên giữ chính để giữ được sự hòa thuận giữa vợ chồng.

34. Đinh Dậu – Lôi Trạch Quy muội, hào 5
- “Lục Ngũ, Đế Ất quy muội, kỳ quân chi duệ, bất như kỳ đệ chi duệ lương ; nguyệt cơ vọng, cát”.
- “Sáu Năm, Đế Ất cho em gái về nhà chồng, y phục của người vợ chính không đẹp bằng y phục của cô vợ lẽ ; (đức hạnh rất cao, ví như) trăng đến ngày sắp tròn mà chưa đầy, tốt lành.
- Tượng “Đế Ất quy muội, dĩ kỳ tại trung, dĩ quý hành dã” - Về nhà chồng, y phục vợ chính không đẹp bằng y phục vợ lẽ, nói lên Sáu Năm ngôi cao mà giữ giữa không lệch, tuy cao quý mà lại giữ đạo cần kiệm khiêm tốn. “Cát” của Sáu Năm, là về sự khiêm nhu mà ở giữa, ở ngôi trên mà xuống với người dưới.

35. Mậu Tuất - Địa Thủy Sư, hào 5
- “Lục Ngũ, điền hữu cầm, lợi chấp ngôn, vô cữu ; trưởng tử suất sư, đệ tử dư thi, trinh hung”.
- “Sáu Năm, trong ruộng có cầm thú, lợi về sự vậy bắt, tất không có gì cữu hại ; ủy nghiệm cho bậc trưởng giả cương chính, thì có thể thống suất quân đội, còn ủy nhiệm cho bọn người trẻ tuổi không có đức thì tất phải trở xác, đại bại mà về, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm”.
- Tượng “Trưởng tử suất sư, dĩ trung hành dã” – Nói lên hành vi Sáu Năm là ở ngôi giữa không lệch. “đệ tử dư thi, sử bất đáng dã” – Đây là kết quả của việc sử dụng người không đích đáng.

36. Kỷ Hợi – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 3
- “Cửu Tam, phục nhung vu mãng, thăng kỳ cao lăng, tam tuế bất hưng”
- “Chín Ba, phục binh giữa nơi rừng rậm, thỉnh thoảng lên gò cao trông ngóng, qua ba năm cũng không dám dấy binh giao chiến”.
- Tượng “Phục nhung vu mãng, địch cương dã” - Phục binh giữa nơi rừng rậm, nói lên Chín Ba phía trước có địch cứng mạnh. “Tam tuế bất hưng, an hành dã” - Trải qua ba năm cũng không dám dấy binh, làm sao dám mạo muội tiến quân ?

37. Canh Tý - Trạch Lôi Tùy, hào 1
- “Sơ Cửu, quan hữu du, trinh cát ; xuất môn giao hữu công”.
- “Chín Đầu, có quan niệm tư tưởng giữ vững chính bền, thì sẽ được tốt lành ; ra cửa kết bạn với người, tất sẽ thành công”.
- Tượng “Quan hữu du, tòng chính cát dã” – Quan niệm tư tưởng thay đổi theo thời, nói lên Sáu Đầu theo chính đạo sẽ được tốt lành. “xuất môn giao hữu công, bất thất dã” – Ra cửa kết bạn với người tất sẽ thành công, nói lên hành vi Sáu Đầu không mắc sai lầm.

38. Tân Sửu – Sơn Phong Cổ, hào 1
- “Sơ Lục, cán phụ chi cổ, hữu tử khảo, vô cữu, lệ chung cát”.
- “Sáu Đầu, uốn nắn sự tệ loạn của cha, người con có thể nối được nghiệp tổ tiên, tất không có cữu hại, tuy có thể nguy hiểm nhưng cuối cùng tất được tốt lành”.
- Tượng “Cán phụ chi cổ, ý thừa khảo dã” - Uốn nắn sự tệ loạn của cha, nói lên ý nguyện của Sáu Đầu là ở chỗ: nối được nghiệp của tiền bối.

39. Nhâm Dần - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 2 (39 ~ 51)
- “Cửu Nhị, đại xa dĩ tái, hữu du vãng, vô cữu”.
- “Chín Hai, dùng xe lớn chở của cải, đi chỗ nào cũng được, tất không cữu hại”.
- Tượng “Đại xa dĩ tái, tích trung bất bại dã” – Dùng xe lớn chở của cải, nói lên phải xếp hàng hóa vào chính giữa, không để lệch mới không bị nghiêng đổ, không dẫn đến nguy hại. Chín Hai thân mang nặng trách nhiệm, tương lai sáng sủa.

40. Quý Mão - Thủy Địa Tỷ, hào 3 (40 ~ 52)
- “Lục Tam, tỷ chi phỉ nhân”.
- “Sáu Ba, thân mật gần gũi với người có hành vi không đứng đắn”.
- Tượng “Tỷ chi phỉ nhân, bất diệc thượng hồ” – Như vậy, há không phải là việc đáng buồn sao ? Hễ là hàng xóm, là bạn học hay bạn đồng liêu, thì đều nên tự răn với sự buồn thương về “phỉ nhân”. Thấu triệt hàm nghĩa răn dạy của hào Sáu Ba này vậy.

41. Giáp Thìn - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 3 (41 ~ 29)
- “Cửu Tam, công dụng hưởng vu thiên tử, tiểu nhân phất khắc”.
- “Chín Ba, bậc vương công dâng lễ cho thiên tử để tỏ lòng tôn kính, kẻ tiểu nhân không thể đảm đương được việc lớn như vậy”.
- Tượng “Công dụng hưởng vu thiên tử, tiểu nhân hại dã” - Bậc vương công hiến lễ, kẻ tiểu nhân làm nhiệm vụ lớn này, thì tất sẽ có họa hại.

42. Ất Tị - Thủy Địa Tỷ, hào 2 (42 ~ 30)
- “Lục Nhị, tỷ chi tự nội, trinh cát”
- “Sáu Hai, từ bên trong thân mật gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền sẽ được tốt lành”.
- Tượng “Tỷ chi tự nội, bất tự thất dã” - Từ bên trong thân mật gần gũi với đấng quân vương, nói lên Sáu Hai chưa từng để mất chính đạo. "Tỷ chi tự nội", thân cận với bậc “tôn chủ” không khó, nhưng không giữ được chính, thì tất sẽ mất.

43. Bính Ngọ - Phong Sơn Tiệm, hào 2
- “Lục Nhị, hồng tiệm vu bàn, ẩm thực hãn hãn, cát”.
- “Sáu Hai, chim đại nhạn bay từ từ đến bên phiến đá lớn, ăn uống thảnh thơi vui vẻ, tốt lành”.
- Tượng “Ẩm thực hãn hãn, bất tố bão dã” – Ăn uống thảnh thơi vui vẻ, nói lên Sáu Hai tận tâm với đạo bề tôi, chứ không phải kẻ chỉ biết ăn uống phè phỡn.

44. Đinh Mùi – Lôi Trạch Quy muội, hào 6
- “Thượng Lục, nữ thừa khuông, vô thực ; sỹ khuê dương, vô huyết, vô du lợi”.
- “Sáu Trên, người con gái tay xách giỏ tre, không có gì ở trong ; người con trai cầm dao giết dê, không thấy máu: (vợ chồng làm lễ không thành), không có gì lợi”.
- Tượng “Thượng Lục vô thực, thừa hư khuông dã” – Sáu Trên giữa rỗng, không đặc, như tay xách chiếc giỏ tre rỗng không. Ngôi cùng cực, như em gái ở ngôi quá cao, không kẻ nào đi theo được, ý “vật cực tắc phản” để răn quy muội. Trước “nữ” sau “sỹ”, lỗi là ở vợ.

45. Mậu Thân - Địa Thủy Sư, hào 4
- “Lục Tứ, sư tả thứ, vô cữu”.
- “Sáu Bốn, quân lui về, tạm giữ thế thủ thì tránh được cữu hại”.
- Tượng “Tả thứ vô cữu, vị thất thường dã” - Tạm giữ thế thủ, nói lên Sáu Bốn dùng binh không mất phép thường.

46. Kỷ Dậu – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 4
- “Cửu Tứ, thừa kỳ dung, phất khắc công, cát”.
- “Chín Bốn, cưỡi lên tường thành rồi lại lui không dám tiến công, tốt lành”.
- Tượng “Thừa kỳ dung, nghĩa phất khắc dã” - Cưỡi lên tường thành, nói lên Chín Ba muốn hòa đồng với mọi người, thì không thể nghĩ tới chuyện tiến công được ; “kỳ cát, tắc khốn nhi phản tắc dã” – Có được sự tốt lành, là do ở thời khốn hãm không thông, nhưng quay ngược trở lại mà tuân theo phép tắc.

47. Canh Tuất - Trạch Lôi Tùy, hào 6
- “Thượng Lục, câu hệ chi, nãi tùng, duy chi ; vương dụng hưởng vu tây sơn”.
- “Sáu Trên, bắt giam, cưỡng bức phải theo, theo mà ràng chặt lấy ; đấng quân vương xuất quân thảo nghịch đặt tế lễ ở non tây”.
- Tượng “Câu hệ chi, thượng cùng dã” - Bắt giam, cưỡng bức phải theo, nói lên Sáu Trên ở ngôi trên cùng, không có nơi nào để theo, đạo “theo” đã cùng tận. “theo” và “không theo” đối lập nhau mà tồn tại.

48. Tân Hợi - Sơn Phong Cổ, hào 2
- “Cửu Nhị, cán mẫu chi cổ, bất khả trinh”.
- “Chín Hai, uốn nắn sự tệ loạn của mẹ, khi tình thế khó tiến hành thì không thể gượng làm được, mà phải giữ vững chính bền để đợi thời”.
- Tượng “Cán mẫu chi cổ, đắc trung đạo dã” - Uốn nắn điều tệ hại của me, nói lên Chín Hai nên nắm vững phương pháp cứng mềm hòa hợp.

49. Nhâm Tý - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 1 (49 ~ 1)
- “Sơ Cửu, vô giao hại, phỉ cữu ; gian tắc vô cữu”.
- “Chín Đầu, chưa đi lại giao du thì chưa mắc họa, tự nhiên thì không có cữu hại, nhưng tất phải nhớ là cần cẩn thận như lúc gặp gian nan, như vậy thì mới không gặp cữu hại”.
- Tượng “Đại hữu Sơ Cửu, vô giao hại dã” – Chín Đầu nếu không giao du đi lại với ai, thì cũng không mắc phải họa hại. Thân tuy ở cuộc “đại hữu”, nếu giữ cho sự ăn ở của mình được yên ổn, không lạm “giao” với vật, thì có thể vô hại. Thời “đại hữu” thì không thể quên sự gian nan. Không ghìm nén sự lo sợ thì lòng kiêu căng xa xỉ sinh ra, tất có “cữu”.

50. Quý Sửu - Thủy Địa Tỷ, hào 4 (50 ~ 2)
- “Lục Tứ, ngoại tỷ chi, trinh cát”.
- “Sáu Bốn, ở ngoài thân mật gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền thì được sự tốt lành”.
- Tượng “Ngoại tỷ ư hiền, dĩ tòng thượng dã” - Ở ngoài thân mật gần gũi với vua hiền, nói lên ý Sáu Bốn thuận theo bậc quân thượng. Sáu Bốn thân cận với hào Năm là “đội sát”.

51. Giáp Dần – Hỏa Thiên Đại hữu, hào 2 (51 ~ 39)
- “Cửu Nhị, đại xa dĩ tái, hữu du vãng, vô cữu”.
- “Chín Hai, dùng xe lớn chở của cải, đi chỗ nào cũng được, tất không cữu hại”.
- Tượng “Đại xa dĩ tái, tích trung bất bại dã” – Dùng xe lớn chở của cải, nói lên phải xếp hàng hóa vào chính giữa, không để lệch mới không bị nghiêng đổ, không dẫn đến nguy hại.

52. Ất Mão - Thủy Địa Tỷ, hào 3 (52 ~ 40)
- “Lục Tam, tỷ chi phỉ nhân”.
- “Sáu Ba, thân mật gần gũi với người có hành vi không đứng đắn”.
- Tượng “Tỷ chi phỉ nhân, bất diệc thượng hồ” – Như vậy, há không phải là việc đáng buồn sao ? Hễ là hàng xóm, là bạn học hay bạn đồng liêu, thì đều nên tự răn với sự buồn thương về “phỉ nhân”. Thấu triệt hàm nghĩa răn dạy của hào Sáu Ba này vậy.

53. Bính Thìn – Phong Sơn Tiệm, hào 1
- “Sơ Lục, hồng tiệm vu can ; tiểu tử lệ, hữu ngôn, vô cữu”.
- “Sáu Đầu, chim nhạn bay dần đến bên bờ nước (không được an toàn) ; giống như trẻ nhỏ gặp lúc nguy hiểm, bị trách mắng, nhưng nếu có thể tiến dần không vội thì tránh được cữu hại”.
- Tượng “Tiểu tử chi lệ, nghĩa vô cữu dã” - Sự nguy hiểm mà trẻ nhỏ gặp phải, xét về ý nghĩa của việc Sáu Đầu tiệm tiến không vội thì không có hại gì. Chim hông nhạn là loài chim đi đến theo thời, theo mùa di chuyển, trước sau có trình tự. Hôn lễ dùng chim nhạn, lấy ý không tái ngộ, để rõ nghĩa “nữ quy”.

54. Đinh Tị - Lôi Trạch Quy muội, hào 1
- “Sơ Cửu, quy muội dĩ đệ, phả năng lý, chinh cát”.
- “Chín Đầu, người con gái về nhà chồng làm vợ lẽ, chân thọt mà cố gắng đi được, tiến lên thì được tốt lành”.
- Tượng “Quy muội dĩ đệ, dĩ hằng dã” – Con gái về nhà chồng làm vợ lẽ, đây là lẽ thường của việc hôn thú. “phả năng lý, cát tương thừa dã” – Chân thọt mà cố gắng đi được, nói lên sự tốt lành của Chín Đầu là ở chỗ giúp đỡ người vợ cả chăm sóc chồng. Chân tuy lệch nhưng có thể dẫm đất mà đi, không đến nỗi tàn phế.

55. Mậu Ngọ - Địa Thủy Sư, hào 3
- “Lục Tam, sư hoặc dư thi, hung”
- “Sáu Ba, quân chốc chốc phải chở xác về, có hung hiểm”.
- Tượng “Sư hoặc dư thi, đại vô công dã” – Quân chốc chốc phải chở xác về, nói lên Sáu Ba không thể có chiến công. Đạo dùng binh, quý ở chỗ biết mình biết người, Sáu Ba thua trận, chính là do không tự lượng sức mình.

56. Kỷ Mùi – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 5
- “Cửu Ngũ, đồng nhân, tiên hào đào, nhi hậu tiếu, đại sư khắc tương ngộ”.
- “Chín Năm, hòa đồng với người, trước thì khóc lóc kêu rên, sau thì vui mừng cười reo, đánh lớn rồi báo tiệp, chí đồng rồi tương ngộ hội hợp”.
- Tượng “Đồng nhân chi tiên, dĩ trung trực dã” – Hòa đồng, trước thì khóc lóc kêu rên, nói lên Chín Năm trung chính, chân thành thẳng thắn. “Đại sư tương ngộ, ngôn tương khắc dã” - Phải đến khi đại quân xuất chiến, mới tương ngộ hội hợp với kẻ chí đồng, nói lên Chín Năm cùng với kẻ địch giao chiến và đã chiến thắng.

57. Canh Thân - Trạch Lôi Tùy, hào 5
- “Cửu Ngũ, phu vu gia, cát”.
- “Chín Năm, tỏ rõ lòng thành tín với kẻ thiện, tốt lành”.
- Tượng “Phu ư gia cát, vị chính trung dã” - Vị trí Chín Năm chính trung không lệch. Ở ngôi tôn quý mà thật lòng theo điều thiện, thì kẻ thiện cũng tấp nập đi theo, thích hợp hết mức với thời “tùy” (Vương Bật).

58. Tân Dậu – Sơn Phong Cổ, hào 3
- “Cửu Tam, cán phụ chi cổ, tiểu hữu hối, vô đại cữu”.
- “Chín Ba, uốn nắn điều tệ loạn của cha, hơi có hối hận, nhưng không có cữu hại lớn”.
- Tượng “Cán phụ chi cổ, chung vô cữu dã” - Uốn nắn điều tệ loạn của cha, nói lên Chín Ba cuối cùng không thể có cữu hại. Người dưới cương trực không a dua, muốn giúp sửa điều lầm lỗi của người trên, phải không nghĩ tới “điều hối hận nhỏ”, mạo hiểm đưa ra điều can gián.

59. Nhâm Tuất - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 6 (59 ~ 11)
- “Thượng Cửu, tự nhiên hựu chi, cát vô bất lợi”.
- “Chín Trên, sự giúp đỡ từ trên trời rơi xuống, tốt lành, không có gì là không lợi”.
- Tượng “Đại hữu thượng cát, tự nhiên hựu dã” - Sự tốt lành của Chín Trên quẻ Đại hữu là sự giúp đỡ từ trên trời rơi xuống.

60. Quý Hợi - Thủy Địa Tỷ, hào 5 (60 ~ 12)
- “Cửu Ngũ, hiển tỷ ; vương dụng tam khu, thất tiền cầm, ấp nhân bất giới, cát”.
- “Chín Năm, thân mật gần gũi một cách vô tư ; khi đấng quân vương đi săn thì bổ vậy ba mặt, lưới chỉ giăng một mặt, mặc cho các cầm thú ở phía trước đi thoát, các kẻ thuộc hạ là người trong ấp cũng chẳng phòng vệ hộ, tốt lành”.
- Tượng “Hiển tỷ chi cát, vị chính trung dã ; xả nghịch thủ thuận, thất tiền cầm dã ; ấp nhân bất giới, thượng sử trung dã” – Thân mật gần gũi trong sáng vô tư, nói lên Chín Năm ở nơi trung chính, bỏ nghịch lấy thuận, chính là như “mặc cho các cầm thú ở phía trước đi thoát” ; ‘Các thuộc hạ cũng chẳng phòng vệ hộ’, nói lên do đức của người trên, khiến cho các thuộc hạ cũng giữ được đạo trung.
Đầu trang

Hà Uyên
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 607
Tham gia: 14:20, 02/05/09

TL: DỊCH CAN CHI

Gửi bài gửi bởi Hà Uyên »

Chào anh chị em

Tôi soạn lại " Dịch Can Chi " được bắt nguồn từ Đạo Thư, thực chất là sự phối hợp Thời gian mà người phương Đông đã xây dựng nên. Đó là hệ thống 60 can chi phối ứng với Hào từ quẻ Dịch, sách Dịch Can Chi được sử dụng nhiều trong thuật toán cổ phương Đông, đặc biệt chú trọng cho Tam thức, có nghĩa rằng khi chúng ta khảo nghiệm ba môn Thái ất, Kỳ môn, Lục nhâm (Ất- Giáp - Nhâm), thì thấy được sự thuận tiện khi ứng dụng trong thực tiễn.

Năm 1973, ngành Khảo cổ với sự xuất hiện Bạch thư Chu Dịch, một số chương mục và lời từ trong Bạch Thư có khác với bản Chu Dịch đang thông hành. Tôi đã trải nghiệm và so sánh giữa Bạch thư và sách Chu Dịch thông hành, thì thấy sự hợp lý và tính chính xác.

Chuyển sách lên diễn đàn, với mong muốn được sự bình phê của anh chị em, để tôi hiệu chỉnh lại sách, khi ứng dụng Thời gian phương Đông với Hào từ, mang lại giá trị có độ tin cậy hơn.

Xin cảm ơn.


Hà Uyên.
Được cảm ơn bởi: mysterious
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Kiến thức Dịch lý”