Ngũ Hành Nạp Âm

Kiến thức tổng hợp về âm dương, ngũ hành, can chi, ...
Trả lời bài viết
tuetvnb
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 1502
Tham gia: 12:44, 25/12/08

Ngũ Hành Nạp Âm

Gửi bài gửi bởi tuetvnb »

Mở đầu của chuyên mục HỌC THUYẾT CƠ BẢN, tôi xin đặt chủ đề này để các bạn cung tham khảo và đàm luận. Vì có một số ý kiến muốn tìm hiểu về Ngũ Hành và Ngũ Hành Nạp Âm, tôi viết chung vào đây ể mọi người cũng đọc.

Trước hết, các tài liệu về Ngũ Hành có rất nhiều, nhưng được coi là đầy đủ thì có bộ HIỆP KỶ BIỆN PHƯƠNG THƯ, một trong Tứ Khố Toàn Thư, được chỉnh biên và soạn và đời Thanh. Hiện nay đã được dịch sang tiếng Việt (giá 250K :( ). Các Bạn có thể mua về để tìm hiểu sâu hơn. Phần Ngũ Hành và Ngũ Hành Nạp Âm ở QUyển 1. Vì không có thời gian nên tôi không thể đánh máy hết được, nay xin trích một phần, còn lại, các bạn tìm đọc thêm.

KHỞI SỐ NẠP ÂM
CAN CHI HỢP NGŨ HÀNH
(trích dẫn)


“Lãi Hải Tập” nói: “Hoặc hỏi: Số của Tiên Thiên duyên theo đâu mà khởi? Tạ đáp rằng: Số cực ở 9, từ 9 lui ngược lại dùng, vì vậy Giáp Kỷ, Tí Ngọ 9; Ất Canh, Sửu Mùi 8; Bính Tân, Dần Thân 7; Đinh Nhâm, Mão Dậu 6; Mậu Quý, Thìn Tuất 5; Thiên Can đã hết mà Địa Chi một mình còn thừa ra Tỵ Hợi, lấy Tỵ Hợi được 4 là hết ở đó. Hơn nữa, Hợi là thiên môn, Tỵ là địa hộ, ngôi vị của thuần Dương, là then chốt của việc đóng mở cho nên là mấu chốt của Ngũ Hành”.
"Thụy Quế Đường Hạ Lục" nói rằng: "Nạp Âm của 60 Giáp Tí lấy âm (thanh) của Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ mà sáng tỏ vậy. 1-6 là Thủy, 2-7 là Hỏa, 3-8 là Mộc, 4-9 là Kim, 5-10 là Thổ. Như vậy trong Ngũ Hành, duy Kim Mộc có Âm của tự nhiên, Thủy Hỏa, Thổ hẳn là mượng nhau mà sau thành âm. Đại thể Thủy mượng Thổ, Hỏa mượn Thủy, Thổ mượn Hỏa, vì vậy âm Kim 4-9, âm Mộc 3-8, âm Thủy 5-10, âm Hỏa 1-6, âm Thổ 2-7. (Như thế càng khó luận bàn và xác định nên Mai Cốc Thành chê). Giáp Kỷ, Tí Sửu 9; Ất Canh, Sửu Mùi 8; Bính Tân, Dần Thân 7; Đinh Nhâm, Mão Dậu 6; Mậu Quý, Thìn Tuất 5; Tỵ Hợi 4. Căn cứ như thế thì Giáp Tí Ất Sửu hợp lại thành 34 số, 4 là số của Kim vì vậy Giáp Tí Ất sửu Nạp Âm là Kim. Mậu Thìn Kỷ Tỵ hợp số là 23, 3 là số của Mộc. Canh Ngọ Tân Mùi hợp số là 32, 2 là số của Hỏa, Thổ mượn âm của Hỏa, vì vậy Canh Ngọ, Tân Mùi Nạp Âm là Thổ. Giáp Thân Ất Dậu hợp số 30, 10 là Thổ, Thủy mượn âm của Thổ, vì vậy là Thủy. Mậu Tí Kỷ Sửu hợp số 31, 1 là Thủy, Hỏa mượn âm của Thủy, vì vậy là Hỏa. Phàm 60 Giáp Tí chẳng cái nào không như thế. Dó chính là Nạp Âm 60 Giáp Tí từ đó lại”.

“Tinh Lịch Khảo Nguyên” nói: “Chỗ nói ở trên là Dương Hùng luận ‘Thái Huyền’ thanh luật chỗ chép về số. Phàn hai Can, hai chi hợp nhau, ngoài ra số được 49 là Kim được 16 là Hỏa, được 38 là Mộc, được 50 là Thủy, được 27 là Thổ. Như Giáp Tí đều 9, được số 18; Ất Sửu đều được số 16; hợp lại là 34, vì vậy là Kim. Nhâm 6 – Thân 7, được số 13; Quý 5 – Dậu 6 , được số 11; hợp lại được 24, vì vậy cũng là Kim. Ngoài ra theo số mà suy ra, không trường hợp nào mà không như vậy. Nhưng chỗ phối 1 với 6, 2 với 7, các hạng số với số của Hà Đồ không giống nhau. Nay theo số Đại Diễn là 50 chỉ dùng 49 lấy hợp số của hai Can, hai chi lại. Trong 49 giảm bớt đi, số thừa đủ 10 trở đi dư 1, 6 là Thủy; dư 2, 7 là Hỏa; dư 3, 8 là Mộc; dư 4, 9 là Kim; dư 5,10 là Thổ, đều dùng chỗ Ngũ Hành sinh làm Nạp Âm, như thế thì giống với Hà Đồ. Lại như phép đếm cỏ thi dùng sách thừa để định cơ (lẻ) ngẫu (chẵn), như thế dùng số thừa để định Ngũ Hành, lý đó đúng và hợp nhau vậy. Như Giáp là 9, Tí là 9; Ất là 8, Sửu là 8, tổng cộng là 34, lấy 49 trừ cho 34 dư ra 15, bỏ 10 không dùng, lấy 5 là Thổ mà Thổ sinh Kim, vì vậy đặt là Kim. Bính Dần, Đinh Mão hợp số là 26, lấy 49 trừ cho 26 dư ra 23, bỏ 20 không dùng, lấy 3 là Mộc mà Mộc sinh Hỏa, vì vậy đặt là Hỏa. Mậu Thìn, Kỷ Tỵ hợp số là 23, lấy 49 trừ cho 23 dư ra 26, bỏ 20 không dùng, lấy 6 là Thủy mà Thủy sinh Mộc, vì vậy đặt là Mộc. Canh Ngọ, Tân Mùi hợp số là 32, lấy 49 trừ đi cho 32 dư ra 17, bỏ 10 không dùng, lấy 7 là Hỏa mà Hỏa sinh Thổ, vì vậy đặt là Thổ. Ngoài ra phỏng theo như thế”.

Theo Dương Hùng “Thái Huyền Kinh” nói rằng: “Số 9 của Tí Ngọ, Sửu Mùi 8, Dần Thân 7, Mão Dậu 6, Thìn Tuất 5, Tỵ Hợi 4, vì vậy Luật 42, Lữ 36, gộp số của Luật Lữ hoặc Hoàn, hoặc Phủ, hễ là số của 78 là số của Hoàng Chung lập ở đó. Lấy nó làm độ, đều sinh Hoàng Chung”. Lại nói rằng: “Số 9 của Giáp Kỷ, Ất Canh 8, Bính Tân 7, Đinh Nhâm 6, Mậu Quý 5. Thanh sinh ở nhật, luật sinh ở thời. Thanh lấy tính chất, luật lấy hòa thanh, thanh luật hợp với nhau mà bát âm sinh”. Tông phái trải qua nhiều đời đến nay, đến đó là số của thiên nhiên. Nhìn lại chỗ Giáp Kỷ, Tí Ngọ tại sao lại lấy là 9; Ất Canh, Sửu Mùi tại sao lại lấy là 8, thì hiếm có việc luận bình chính xác ở đó. Nay xét Tí Ngọ này là chỗ Càn Chấn nạp vào; Sửu Mùi này là chỗ nạp vào của Khôn Tốn; Dần Thân nầy là chỗ Khảm nạp vào; Mão Dậu nầy là chỗ Ly nạp vào; Thìn Tuất nầy là chỗ Cấn nạp vào; Tỵ Hợi nầy là chỗ Đoài nạp vào. Số Dương cực ở 9, số Âm cực ở 8, vì vậy Càn Khôn được vậy. Chấn Tốn trưởng mà thống quản ở phụ mẫu, ngoài ra theo thứ tự trở xuống. Nhị Đại (cha mẹ), lục tử (6 con), thứ tự của nam nữ trưởng thiếu (lớn, nhỏ). Trật tự như vậy không rối loạn thật không ai có thể cưởng ép làm được. Nếu lấy thứ tự 10 ngày, thì lại tùy theo hóa khí thọ yểu của số mà cũng không tạo tác một chút nào ở trong đó. Giáp Kỷ là Thổ, Thổ hết, từ cổ xưa không bị hủy, tự tách rời ra là vi trần, rong chơi trống trải láng giềng mà chất của nó vốn tại ở đó là rất thọ, vì vậy số là 9. Chỗ tiếp theo thì là Kim, tuy hỏa rèn nung cũng có thời là khí tán ra của chất tro mà kiên cố là vạn vật vương vậy. Ất Canh là Kim vậy, vì vậy tiếp theo Giáp Kỷ. Lại tiếp nữa là Thủy. Gió nóng ban ngày mà Hỏa nung nấu cũng có thời khô cạn hết mà chẳng bằng Kim, nó nhu nhược chuyển vận mới có thể thọ lâu dài mà chẳng bằng vật vậy. Bính Tân Thủy vậy, vì vậy tiếp theo Ất Canh, lại tiếp theo nữa là Mộc. Trong một năm tươi tốt hay héo rụng có trong định kỳ. Đinh Nhâm là Mộc vậy, vì vậy tiếp theo Bính Tân, lại theo nữa thì là Hỏa. Khoảng một ngày một đêm hiển lộ ra hay u ám cũng có định kỳ, Mậu Quý là Hỏa vậy, vì vậy tiếp theo là Đinh Nhâm. Còn Giáp Kỷ Thổ sinh Ất Canh Kim, Kim sinh Bính Tân Thủy, Thủy sinh Đinh Nhâm Mộc, Mộc sinh Mậu Quý Hỏa. Chồng chất mà xuống dưới. Lại là số tự nhiên như vậy. Nhưng tại sao không có 10 và 1, 2, 3? Nói rằng số hết ở 9, 10 tức là 1 vậy. Ví bằng 1, 2, 3 chính là đại số của Thiên-Địa-Nhân, không được cố ý ký gửi ở khoảng của một ngày, một thời. Còn nói 9-8-7-6-5-4, thì 1-2-3 ở tại gốc của chúng. Vì vậy Hoàng Chung là 81, 12 thời chỉ được 78, mà Dương Tử nói rằng số của Hoàng Chung lập ở đó. Đại để đã hư hàm ba số mà thành 81 vậy.

NGŨ HÀNH NGŨ ÂM

thuộc Thổ Giáp Tí-Ất Sửu, Nhâm Thân-Quý Dậu,Canh Thìn-Tân Tỵ
Cung
sinh Kim Giáp Ngọ-Ất Mùi, Nhâm Dần-Quý Mão, Canh Tuất-Tân Tỵ

thuộc Kim Bính Tí-Đinh Sửu, Giáp Thân-Ất Dậu, Nhâm Thìn-Quý Tỵ Thương
sinh Thủy Bính Ngọ-Đinh Mùi, Giáp Dần-Ất Mão, Nhâm Tuất-Quý Hợi
thuộc Mộc Mậu Tí-Kỷ Sửu, Bính Thân-Đinh Dậu, Giáp Thìn-Ất Tỵ
Giác
sinh Hỏa Mậu Ngọ-Kỷ Mùi, Bính Dần-Đinh Mão, Giáp Tuất-Ất Hợi

thuộc Hỏa Canh Tí-Tân Sửu, Mậu Thân-Kỷ Dậu, Bính Thìn-Đinh Tỵ
Chuỷ
sinh Thổ Canh Ngọ-Tân Mùi, Mậu Dần-Kỷ Mão, Bính Tuất-Đinh Hợi
thuộc Thuỷ Nhâm Tí-Quý Sửu, Canh Thân-Tân Dậu, Mậu Thìn-Kỷ Tỵ

sinh Mộc Nhâm Ngọ-Quý Mùi, Canh Dần-Tân Mão, Mậu Tuất-Kỷ Hợi

Chu Tử nói rằng: “Thanh nhạc là Thổ sinh Kim Mộc Hỏa Thuỷ”. “Hồng Phạm” là Thuỷ Hỏa Mộc Kim Thổ. Đại để nạp âm là lấy Can Chi phân phối ở ngũ âm mà bản âm nơi sinh của Ngũ Hành, tức là chỗ nạp âm của Can Chi của nó. Bắt đầu là cung Thương Giác Chuỷ Vũ, nạp Giáp Bính Mẫu Canh Nhâm vào, lấy hệ ngũ Tí mà tuỳ theo đó ngũ Sửu, Cung được Giáp Tí, Thương được Bính Tí, Giác được Mậu Tí, Chuỷ được Canh Tí, Vũ được Nhâm Tí. Cung là Thổ, Thổ sinh Kim, vì vậy Giáp Tí-Ất Sửu nạp âm Kim. Thương là Kim, Kim sinh Thuỷ, vì vậy Bính Tí-Đinh Sửu nạp âm là Thuỷ. Giác là Mộc, Mộc sinh Hỏa, vì vậy Mậu Tí, Kỷ Sửu nạp âm Hỏa. Chuỷ là Hỏa, Hỏa sinh Thổ, vì vậy Canh Tí-Tân Sửu nạp âm Thổ. Vũ là Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc, vì vậy Canh Tí, Quý Sửu nạp âm Mộc. Thứ hai tiếp Thương Giác Chuỷ Vũ Cung, nạp với Giáp Bính Mậu Canh Nhâm là hệ ngũ Dần mà tuỳ theo lấy ngũ Mão. Thương Kim với Giáp Dần-Ất Mão, nạp âm Thuỷ. Giác Mộc được Bính Dần-Đinh Mão nạp âm Hỏa. Chuỷ Hỏa được Mậu Dần-Kỷ Mão nạp âm Thổ. Vũ Thuỷ được Canh Dần-Tân Mão nạp âm Mộc. Cung Thổ được Nhâm Dần-Quý Mão nạp âm Kim. Thứ ba tiếp là Giác Chuỷ Vũ Cung Thương, nạp với Giáp Bính Mậu Canh Nhâm, lấy ngũ Thìn mà tuỳ theo lấy ngũ Tỵ. Giác Mộc được Giáp Thìn-Ất Tỵ nạp âm Hỏa. Chuỷ Hỏa được Bính Thìn-Đinh Tỵ nạp âm Thổ. Vũ Thuỷ được Mậu Thìn-Kỷ Tỵ nạp âm Mộc. Cung Thổ được Canh Thìn-Tân Tỵ nạp âm Kim. Thương Kim được Nhâm Thì-Quý Tỵ nạp âm Thuỷ. Ở trên lục Giáp mới được một nữa, nạp âm tiểu thành.
Thứ tư, quay trở lại lấy Cung Thương Giác Chuỷ Vũ, nạp với Giáp Bính Mậu Canh Nhâm. Lấy ngũ Ngọ mà tuỳ theo lấy ngũ Mùi. Cung Thổ được Giáp Ngọ-Ất Mùi nạp âm Kim. Thương Kim được Bính Ngo-Đinh Mùi nạp âm Thuỷ. Giáp Mộc được Mậu Ngọ-Kỷ Mùi nạp âm Hỏa. Chuỷ Hỏa được Canh Ngọ-Tân Mùi nạp âm Thổ. Vũ Thuỷ được Nhâm Ngọ-Quý Mùi nạp âm Mộc. Thứ năm quay lại lấy Thương Giác Chuỷ Vũ Cung nạp Giáp Bính Mậu Canh Nhâm, lấy ngũ Thân mà tuỳ theo lấy ngũ Dậu. Thương Kim được Giáp Thân-Ất Dậu nạp âm Thuỷ. Giác Mộc được Bính Thân-Đinh Dậu nạp âm Hỏa. Chuỷ Hỏa được Mậu Thân-Kỷ Dậu nạp âm Thổ. Vũ Thuỷ được Canh Thân-Tân Dâu nạp âm Mộc. Cung Thổ được Nhâm Thân-Quý Dậu nạp âm Kim. Thứ sáu tiếp quay lại lấy Giác Chuỷ Vũ Cung Thương nạp Giáp Bính Mậu Canh Nhâm, lấy ngũ Tuất mà tuỳ theo lấy ngũ Hợi. Giác Mộc được Giáp Tuất-Ất Hợi nạp âm Hỏa. Chuỷ Hỏa được Bính Tuất-Đinh Hợi nạp âm Thổ. Vũ Thuỷ được Mậu Tuất-Kỷ Hợi nạp âm Mộc. Cung Thổ được Canh Tuất-Tân Hợi nạp âm Kim. Thương Kim được Nhâm Tuất-Quý Hợi nạp âm Thuỷ. Ấy là toàn bộ lục Giáp mà âm đại thành vậy. Dương sinh ở Tí, từ Giáp Tí lấy đến Quý Tỵ. Âm sinh ở Ngọ, từ Giáp Ngọ lấy đến Quý Hợi. Vì vậy 30 mới quay lại lấy Cung khởi Cung là quân. Thương là thần, Giác là dân, đều nhập vào đạo (đường) vậy. Vì thế đều có thể lấy làm đầu. Chuỷ là việc, Vũ là vật, đều nhập vào chỗ dùng vì vậy không thể lấy làm đầu. Ấy là lấy hết ba Giáp mà quay lại bắt đầu ở Cung. Can là thiên, Chi là Địa, âm (nạp âm Ngũ Hành) là người Ngũ Hành của tam tài đủ vậy”.

Đào Tông Nghi nói rằng: “Giáp Tí-Ất Sửu là Hải Trung Kim. Tí thuộc Thuỷ lại là cái hồ, lại là đất vượng của Thuỷ, kiêm Kim tử ở Tí, Mộ ở Sửu, Thuỷ vượng mà Kim tử Mộ, vì vậy đặt là Hải Trung Kim (vàng dưới biển).

Bính Dần-Đinh Mão là Lô Trung Hỏa, Dần là tam Dương, Mão là tứ Dương (thuộc quẻ Đại Tráng của 12 quẻ tiêu tức) nên Hỏa đã đắc địa, lại được Mộc của Dần Mão mà sinh ra như thế thời đó trời đất như mở lò ra, vạn vật bắt đầu sinh vì vậy gọi là Lô Trung Hỏa (lửa trong lò).

Mậu Thìn-Kỷ Tỵ là Đại Lâm Mộc. Thìn là chốn thôn dã. Tỵ là lục Dương (thuần Dương, Tỵ là quẻ Càn của 12 quẻ tiêu tức), Mộc đến lục Dương thì cành tốt tươi, lá rậm rạp phong phú. Lấy sự tốt tươi thịnh vượng của Mộc mà vốn ở chốn thôn dã, vì vậy đặt là Đại Lâm Mộc (cây rừng lớn).

Canh Ngọ-Tân Mùi là Lộ Bàng Thổ, Mộc ở trong Mùi (vì Mùi tàng Can Ất) mà sinh vượng Hỏa của ngôi vị Ngọ. Hỏa vượng thì Thổ bị đốt khô đi, Mùi có thể nuôi nấng vạn vật, giống như lộ bàng thổ, vì vậy đặt là Lộ Bàng Thổ (đất bên đường).
Nhâm Thân-Quý Dậu là Kiếm Phong Kim. Thân Dậu là chính vị của Kim, Kim Lâm Quan ở Thân, Đế Vượng ở Dậu, Kim đã sinh vượng thì thành cương (là thép) vậy, cương thì vượt hơn ở kiếm phong, vì vậy đặt là Kiếm Phong Kim (kim mũi kiếm).

Giáp Tuất-Ất Hợi là Sơn Đầu Hỏa. Tuất Hợi là thiên Môn, Hỏa chiếu thiên môn, ánh sáng của nó lên rất cao, chí cao vô thượng, vì vậy đặt là Sơn Đầu Hỏa (lửa đầu núi).
Bính Tí-Đinh Sửu là Giản Hạ Thuỷ. Thuỷ vượng ở Tí, suy ở Sửu, vượng mà lật lại là suy thì không thể là giang hà (sông lớn) được, vì vậy đặt là Giản Hạ Thuỷ (nước dưới khe).

Mậu Dần-Kỷ Mào là Thành Đầu Thổ. Thiên Can Mậu Kỷ thuộc thổ của Dần là Cấn sơn, thổ tích lại mà thành núi, vì vậy đặt là Thành Đầu Thổ (đất đầu thành).
Canh Thìn-Tân Tỵ là Bạch Lạp Kim (hợp Kim của thiết và chì), Kim Dưỡng ở Thìn, Sinh ở Tỵ hình chất mới sơ thành, chưa thể vững chắc ích lợi được, vì vậy đặt là Bạch Lạp Kim (kim trong nến).

Nhâm Ngọ-Quý Mùi là Dương Liễu Mộc. Mộc Tử ở Ngọ, Mộ ở Mùi, Mộc đã Tử Mộ tuy được Thuỷ của Thiên Can Nhâm Quý sinh để sống, chung lại là nhu nhược, vì vậy đặt là Dương Liễu Mộc (cây dương liễu).

Giáp Thân-Ất Dậu là Tỉnh Tuyền Thuỷ. Kim Lâm Quan ở Thân, Đế Vượng ở Dậu, Kim đã vượng thì Thuỷ do đó sinh ra, như vậy là mới đang lúc sinh ra, lực lượng chưa lớn, vì vậy đặt là Tỉnh Tuyền Thuỷ (nước dưới suốâi).

Bính Tuất-Đinh Hợi là Ốc Thượng Thổ. Bính Đinh thuộc Hỏa, Tuất Hợi là thiên môn, Hỏa đốt cháy ở trên thì Thổ không ở dưới mà sinh ra được, vì vậy đặt là Ốc Thượng Thổ (đất trên nóc nhà).

Mậu Tí-Kỷ Sửu là Tích Lịch Hỏa. Sửu Tí thuộc Thuỷ, Thuỷ cư ở chính vị mà nạp âm chính là Hỏa, Hỏa ở trong Thuỷ nếu không phại là Thần Long thì không thể làm được, vì vậy đặt là Tích Lịch Hỏa (lửa sấm sét).
Canh Dần-Tân Mão là Tùng Bách Mộc. Mộc Lâm Quan ở Dần, Đế Vượng ở Mão, Mộc đã vượng thì không thể nhu nhược được, vì vậy đặt là Tùng Bách Mộc (gổ cây tùng, bách).

Nhâm Thìn-Quý Tỵ là Trường Lưu Thuỷ. Thìn là Mộ của Thuỷ, Tỵ là nơi Kim Sinh, Kim sinh thì Thuỷ tính đã giữ lại, lấy Mộ Thuỷ mà gặp sinh Kim thì nguồn suối không cạn, vì vậy đặt là Trường Lưu Thuỷ (nước nguồn).

Giáp Ngọ-Ất Mùi là Sa Thạch Kim. Ngọ là đất Hỏa Vượng, Hỏa vượng thì Kim chảy ra, Mùi là đất Hỏa Suy, Hỏa suy thì Kim Quan Đới. Hỏa Suy mà Kim Quan Đới thì Mùi có thể thịnh mãn, vì vậy đặt là Sa Thạch Kim (kim trong cát).
Bính Thân-Đinh Dậu là Sơn Hạ Hỏa. Dậu là cửa nhập của nhật (mặt trời lặn), nhật đã đến ở thời đó thì ánh sáng tàng ẩn, vì vậy đặt là Sơn Hạ Hỏa (lửa dưới núi).
Mậu Tuất-Kỷ Hợi là Bình Địa Mộc. Tuất nguyên là chốn thôn dã, Hợi là đất Mộ sinh ra, Mộc sinh ra ở chốn thôn dã thì không thể là một rễ cây, một gốc cây, vì vậy đặt là Bình Địa Mộc (cây ở đồng bằng).

Canh Tí-Tân Sửu là Bích Thượng Thổ. Sửu tuy là chính vị nhà của Thổ, mà Tí là đất của Thuỷ vượng, Thổ gặp Thuỷ nhiều thành là bùn, vì vậy đặt là Bích Thượng Thổ (đất trên vách).

Nhâm Dần-Quý Mão là Kim Bạc Kim. Dần Mão là đất của Mộc vượng, Mộc vượng thì Kim gầy yếu; lại nữa, Kim Tuyệt ở Dần, Thai ở Mão. Kim đã vô lực vì vậy đặt là Kim Bạc Kim (kim pha bạc).

Giáp Thìn-Ất Tỵ là Phú Đăng Hỏa. Thìn là thực thời (giờ ăn), Tỵ là ở trong khu vực, trong tướng của nhật, Dương rực rỡ, thế sáng sủa, phong quang ở thiên hạ, vì vậy đặt là Phú đăng Hỏa (lửa đèn lồng).

Bính Ngọ-Đinh Mùi là Thiên Hà Thuỷ. Bính Đinh thuộc Hỏa, Ngọ là đất Hỏa vượng, mà nạp âm chính là Thuỷ, Thuỷ từ Hỏa xuất ra, nếu không phải là ngân hà thì không thể có nước nầy, vì vậy đặt là Thiên Hà Thuỷ (nước trên ngân hà, nước sông trên trời).
Mậu Thân-Kỷ Dậu là Đại Dịch Thổ. Thân là Khôn, Khôn là địa, Đậu là Đoài, Đoài là trạch (đầm). Thổ của Mậu Kỷ gia lên trên địa trạch nầy chẳng phải cái nào khác là Thổ phù bạc, vì vậy đặt là Đại Dịch Thổ (khu đất rộng lớn).
Canh Tuất-Tân Hợi là Thoa Xuyến Kim. Kim đến Tuất mới Suy, đến Hợi mới Bệnh thì đúng thật là nhu vậy, vì vậy đặt là Thoa Xuyến Kim (kim trâm thoa hay vàng trang sức).

Nhâm Tí-Quý Sửu là Tang Chá Mộc. Tí thuộc Thuỷ, Sửu thuộc Kim, Thuỷ sinh Mộc còn Kim khắc Mộc (Mộc mới sinh thì yếu giống như cây tang chá), vì vậy đặt là Tang Chá Mộc (gỗ cây dâu).

Giáp Dần-Ất Mão là Đại Khê Thuỷ, Dần là góc Đông Bắc, Mão là chính Đông, Thuỷ chảy chính Đông (“chúng thuỷ triều Đông” – muôn nhánh sông đều chảy về phương Đông) thì thuận tính nó, nên sông suối, khe, ao, đầm, hồ đều hợp với nhau mà quay trở về, vì vậy đặt là Đại Khê Thuỷ (nước ở khe lớn, nước lũ).

Bính Thìn-Đinh Tỵ là Sa Trung Thổ. Thổ Mộ ở Thìn, Tuyệt ở Tỵ mà Hỏa của Thiên Can Bính Đinh đến Thìn là Quan Đới, đến Tỵ là Lâm Quan, Thổ đã Mộ Tuyệt, vượng Hỏa quay lại sinh Thổ, vì vậy đặt là Sa Trung Thổ (đất lẫn trong cát).

Mậu Ngọ-Kỷ Mùi là Thiên Thượng Hỏa, Ngọ là đất Hỏa vượng, Mộc ợ trong Mùi lại phục sinh, tính Hỏa cháy ở trên, lại gặp sinh địa, vì vậy đặt là Thiên Thượng Hỏa (lửa trên trời).

Canh Thân-Tân Dậu là Thạch Lựu Mộc. Thân là tháng 7, Dậu là tháng 8, thời ấy thì là Mộc tuyệt vậy, duy mộc của thạch lựu, trái lại bền chắc, vì vậy đặt là Thạch Lựu Mộc (gỗ cây thạch lựu).

Nhâm Tuất-Quý Hợi là Đại Hải Thuỷ. Thuỷ Quan Đới ở Tuất, Lâm Quan ở Hợi, Thuỷ vượng thì lực hậu (dầy), kiêm Hợi là giang (sông lớn) nên lực mạnh thế tráng, không phải Thuỷ ấy thì không thể như thế, vì vậy đặt là Đại Hải Thuỷ (nước trong biển lớn).
....
Được cảm ơn bởi: nncuong, banghuynh, legiabang, Vô thường, HoangThieuPhu, Estilo
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Kiến thức chung”