Cảm ơn! xưa có đọc cuốn này nhưng do không hợp môn tứ trụ, căn bản đọc không vô, có nhiều chỗ bỏ qua, chắc có phần này
------------------------------------
Theo hiểu biết cá nhân từ sách vở, và các nguồn internet chia sẻ vài vấn đề như sau
Can - chi
12 địa chi của trung quốc thực ra là vòng hoàng đạo từ vệ đà hay chiêm tinh phương tây có chút lai tạp và sửa đổi. Hoàng đạo 360 độ là quỹ đạo biểu kiến của mặt trời quanh trái đất (gốc toạ độ tại trái đất). Dựa vào tiết khí mà chia hoàng đạo thành 24 tiết khí, mỗi tiết/khí là 15 độ. Mỗi cung hoàng đạo là 1 tháng tiết khí gồm 1 tiết và 1 khí, cho nên một cung là 30 độ. 12 cung hoàng đạo này là hoàn toàn xác định được toạ độ và hiện hữu trên bầu trời.
Riêng 10 thiên can là sản phẩm độc quyền của chiêm tinh và triết học trung quốc, sản phẩm từ dịch lý. không tìm được cách chia hoàng đạo hay bạch đạo thành 10 thiên can như thế nào. Nếu áp dụng suy luận thiên can tàng ẩn trong địa chi thì có thể có 2 suy luận
1- cho rằng nó thật ra cũng là cách chia hoàng đạo hoặc bạch đạo theo một số độ khác như nhị thập bát tú trong thiên văn. Nhưng khi thử chia hoàng đạo thành 10 thiên can theo quy luật chi tàng can, thì 10 can không phải là 1 vòng liên tục như vòng 12 địa chi mà phân mảnh thành nhiều phần, có lúc các phần của cùng 1 can ở rất xa nhau. Cho nên thiên can vốn không phải cung phân chia hoàng đạo hay bạch đạo
2- Xuất từ kinh dịch và can là khí, khí của cung vị/phương vị trên hoàng đạo, can tàng trong chi là khí ẩn tàng của cung vị hoàng đạo. Hiểu theo cách này có vẻ logic hơn, nhưng cũng cho thấy rằng việc phân chia bầu trời thành thiên can cố định 36 độ/can là không hợp lý. 10 can đại diện cho 5 dòng hành khí (1 âm/1 dương) vận hành trên hoàng đạo 12 cung theo quy luật vượng suy của vòng trường sinh từng can.
Quy luật của Hà đồ
Sách "Thái Ất tinh kinh", chương Thiên Văn, viết rằng:
Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.
Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.
Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.
Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.
Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm.
Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết Long Mã Linh Quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng. Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản
Vì vậy dựa vào Hà Đồ, Ngũ tinh là căn nguyên của ngũ hành, mà theo sinh số của ngũ hành, thứ tự của Ngũ tinh là Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ, đây chính là sở luận của "Hồng Phạm" mà hậu nhân đều biết. Mà theo sự sắp xếp thứ tự của tự nhiên đối với Ngũ Tinh thì là Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy (Đây là thứ tự khoảng cách từ xa tới gần đến mặt trời). Lấy Thổ là đầu tiên, Mộc Hỏa cùng một thể, Kim Thủy cùng một nhà. Từ Trung ương là 5, 10 Thổ mà chuyển sang Đông phương 3, 8 Mộc; từ đó mà thuận hành đến Nam phương 2, 7 Hỏa; đến Tây phương 4, 9 Kim; đến Bắc phương 1, 6 Thủy; tức là hoàn thành. Lấy Địa Cầu làm gianh giới, thì bên trái là Kim Thủy, bên phải là Hỏa Mộc Thổ, là âm dương lưỡng hệ.
Trích "Cơ sở nguyên lý của tử vỉ tượng học" bản dịch của Quách Ngọc Bội
Nhật là tinh của hoả. Nguyệt là tinh của thuỷ. Vậy thì địa cầu hẳn chính là tinh của thổ.