3. TINH TẤN

Trao đổi về phong tục, tín ngưỡng
Trả lời bài viết
KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1739
Tham gia: 11:03, 25/04/14

3. TINH TẤN

Gửi bài gửi bởi KMD »

PHPT1 K.IV - BÀI THỨ 7: LỤC ÐỘ TIẾP THEO - TINH TẤN BA LA MẬT & NHẪN NHỤC BA LA MẬT
PHẬT HỌC PHỔ THÔNG QUYỂN 1

Sa môn THÍCH THIỆN HOA

KHÓA IV: DUYÊN GIÁC VÀ BỒ TÁT THỪA PHẬT GIÁO

Bài thứ 7: LỤC ÐỘ tiếp theo (TINH TẤN BA LA MẬT & NHẪN NHỤC BA LA MẬT)

ÐỘ THỨ BA: TINH TẤN BA LA MẬT

A. MỞ ÐỀ


Ngạn ngữ ta có câu: "Ăn không lo, của kho cũng hết". Thực vậy, dù tiền rừng bạc biển mà ăn rồi ngồi không, thì cơ nghiệp cũng có ngày tiêu tan. Ðối với người giàu, lười biếng còn như thế, huống hồ đối với người nghèo túng, thì lười biếng là một chứng bệnh rất là nguy hiểm...

- Người làm ruộng không siêng năng cày cấy, bón phân tát nước, thức khuya dậy sớm, lo lắng mọi việc, thì đến mùa lúa, chắc chắn sẽ bị thất bại, thiếu trước hụt sau, nợ nần vây kéo, cả năm buồn bã.

- Anh thợ máy hay chị thợ may không siêng năng với nghề nghiệp, lười biếng ăn chơi mãn tháng suốt năm, vì tiền bạc không dư nên phải vất vả, đến khi đau ốm lại càng khổ vô cùng.

- Người đi buôn bán, không siêng năng thức khuya dậy sớm, mua tảo bán tần, thì phải bị lỗ lã, thâm thủng nhiều ngày, mang công mắc nợ, nên phải sang tiệm thế đồ, gia tài khánh kiệt.

Trong đạo Phật cũng vậy, lười biếng là một cái tội. Người học đạo không tinh tấn thức khuya dậy sớm tham thiền, quán tưởng, niệm Phật tụng kinh, không lo hoằng dương chánh pháp, cứ biếng nhác qua ngày, tiêu pha của đàn na thí chủ; như thế, mình đã không tự độ, thì làm sao độ tha được! Hiện tại không làm lợi ích gì cho đạo, sau khi chết phải trả nợ cho đàn na thí chủ. Nói chung lại, người lười biếng dù ở ngoài đời hay trong đạo, dù làm việc gì cũng không thành công.

Muốn tránh những điều tai hại trên, ta phải tu pháp Tinh tấn Ba la mật.

B. CHÁNH ÐỀ

I. ÐỊNH NGHĨA


"Tinh" là tinh chuyên (ròng rặt) một việc không có xen tạp. "Tấn" là tiến tới mãi mãi không dừng, không gián đoạn hay thối lui.

Hai chữ tinh tấn nói theo nghĩa thông thường là siêng năng chuyên cần; theo duy thức học, thì tinh tấn là một món trong mười một món thiện tâm sở, không phải thuộc về phần tội ác. Bởi vậy, người siêng năng làm những điều sai quấy như siêng năng đào tường khoét vách, cờ bạc rượu chè thì không phải là tinh tấn, mà duy thức học gọi là "phóng dật" (buông lung)

II. THÀNH PHẦN CỦA TINH TẤN BA LA MẬT

a) Tinh tấn ngăn các điều ác đừng sanh. Nghĩa là các điều ác, từ trước đến giờ mình chưa làm đến, thì từ nay về sau cũng phải tinh tấn đừng cho nó phát sinh. Thí dụ như từ hồi nào đến giờ, ta không hề sát sinh hại vật, trộm cướp gian giảo, trêu hoa ghẹo nguyệt, nói lời dối trá hung ác và cờ bạc rượu chè v.v... thì từ đây về sau ta cũng phải tinh tấn thêm lên, cố gắng giữ gìn cho đừng sanh khởi.

b) Tinh tấn diệt cho mau các điều ác đã sanh. Nghĩa là các điều ác mà mình đã lỡ làm rồi, thì phải tinh tấn diệt trừ cho mau, thí dụ như ta lỡ tạo những tội ác như tham lam trộm cướp, đa mê sắc dục, giận dữ kiêu căng, thì nay ta phải tinh tấn đừng cho nó tăng trưởng thêm nữa, mà trái lại phải diệt trừ cho chóng.

c) Tinh tấn làm cho các điều lành phát sanh. Nghĩa là từ trước đến nay có những điều lành ta chưa thực hiện được, thì nay ta phải tinh tấn để cho nó phát hiện ra trong hành động. Thí dụ, lâu nay ta chưa làm những việc thiện xã hội, bỏ công bỏ của ra cứu giúp người nghèo đói tật nguyền, hay ta chưa quy y thọ giới, ăn chay niệm Phật, học đạo nghe kinh v.v... thì từ ngày hôm nay ta phải tinh tấn làm cho các điều lành này được phát sanh.

d) Tinh tấn làm cho các điều lành tăng trưởng. Nghĩa là các điều lành đã được phát sanh rồi, nay ta phải tinh tấn làm cho nó tăng trưởng hơn nữa. Thí dụ ta đã làm các việc từ thiện rồi, nay ta càng làm thêm nữa, hay ta đã quy y rồi, bây giờ phải tinh tấn phát nguyện trì giới. Nếu ta đã thọ ngũ giới rồi, bây giờ phải tinh tấn tu bát quan trai... Tóm lại, tất cả việc lành từ ngoài đời cho đến trong đạo, mình đã làm thì phải tinh tấn làm sao cho mỗi ngày được phát triển.

III. PHẢI TINH TẤN NHƯ THẾ NÀO MỚI ÐÚNG CHÁNH PHÁP?

Tinh tấn, cũng như bố thí và trì giới, đều có hai phương diện:

a) Tinh tấn có chấp tướng. Có người trước mặt mọi người, thì rất tinh tấn, lăng xăng làm việc này việc khác, tỏ ra cần mẫn chăm chỉ để được tiếng khen, nhưng khi không ai dòm ngó, thì lại rất giãi đãi. Có người vì sợ người trên la rầy, quở phạt mà tinh tấn; nhưng khi được tự do, không ai kiểm soát thì lại buông lung. Có người tinh tấn với một tâm lý háo thắng, quyết hơn người để tự cao tự đại.

Tinh tấn với một dụng tâm không trong sạch, như vì danh, vì lợi, vì sợ, vì kiêu căng v.v... đều là tinh tấn chấp tướng, không đúng là tinh tấn Ba la mật.

b) Tinh tấn không chấp tướng. Tinh tấn không chấp tướng tức là tinh tấn một cách chân thành, không vì dục vọng mà chính vì mình nhiều tội lỗi, nên quyết tâm sửa chữa, thấy mình cần phải thoát ra khỏi luân hồi, nên phải gấp rút chuyên cần tu luyện. Người tinh tấn không chấp tướng thì dù ở giữa đám đông người hay ở một mình, dù có người nhắc nhở kiểm soát hay không, dù đạt được quả vị cao hay thấp v.v... cũng không bao giờ thay đổi ý chí và thái độ quyết tiến của mình, mà mục đích là giải thoát mình và người ra khỏi cảnh khổ sanh tử luân hồi.

IV. CÔNG ÐỨC CỦA TINH TẤN BA LA MẬT

Trong tất cả sự nghiệp vĩ đại ở đời, hay kết quả vẻ vang trong đạo, cái bí quyết duy nhất để thành công là pháp tinh tấn. Tinh tấn như là chất dầu xăng làm cho chiếc xe hơi chạy. Ðộng cơ dù tốt, người lái dù giỏi, con đường dù bằng phẳng, mục đích dù gần, mà không có dầu xăng thì chiếc xe vẫn ở nguyên một chỗ.

Cho nên câu nói cuối cùng của đức Phật Thích-Ca với các đệ tử trước khi nhập diệt là: "Hỡi các người, hãy tinh tấn lên để giải thoát". Người thọ trì Tam quy, tinh tấn giữ năm giới và làm các điều phước thiện, thì sẽ được sanh lại làm nhân đạo, phúc thọ song toàn. Người tinh tấn tu Thập thiện và tu Tứ thiền, Bát định, thì sẽ sanh về cõi trời Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Người thấy các khổ sanh lòng nhàm chán cảnh đời, quyết tâm dứt trừ các phiền não, tinh tấn tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, kết quả sẽ chứng được bốn quả Thanh văn. Người quán thấy mười hai nhân duyên là nguồn gốc của nhiều kiếp sinh tử luân hồi, tinh tấn tu hành, quyết đoạn trừ mười hai nhân duyên, sẽ thành quả Duyên giác. Các vị Bồ tát, xứng theo tự tánh vô tham của mình, tinh tấn tu pháp bố thí ba la mật; xứng theo tự tánh vô sân, tinh tấn tu pháp nhẫn nhục ba la mật; xứng theo tự tánh vô si, tinh tấn tu pháp trí huệ ba la mật; xứng theo tự tánh thanh tịnh, tinh tấn tu pháp trì giới ba la mật; xứng theo tự tánh tịch tịnh, tinh tấn tu pháp thiền định ba la mật... Tóm lại, các vị Bồ tát trong khi tu, vì xứng với thể tánh chân tâm của mình mà tu pháp lục độ, không chấp ở nơi ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng, không thấy có mình, có người, có năng sở, bỉ thử, thì khi nhân hạnh Bồ tát được viên mãn, sẽ thành quả Phật.

Xem thế đủ biết công đức của tinh tấn lớn lao biết chừng nào. Tu pháp môn nào cũng vậy, hễ có tinh tấn mới có hiệu quả, không tinh tấn thì hoàn toàn thất bại.

C. KẾT LUẬN

Giá trị và lợi ích của tinh tấn không thể nghĩ bàn, vậy trong khi làm việc đời cũng như việc đạo, chúng ta phải luôn luôn chuẩn bị sẵn đức tinh tấn, như người tài xế chuẩn bị xăng nhớt, trước khi làm những cuộc hành trình xa xôi. Nếu chúng ta không luyện được đức tinh tấn, không chiến thắng được tánh giải đãi, buông lung thì chúng ta hãy cân nhắc rằng, công việc mà chúng ta sắp làm sẽ hoàn toàn thất bại. Công việc tu hành, đi từ bờ mê đến bến ngộ, đường dài muôn trùng vạn dặm, trải bao bão táp mưa sa, nếu không có được đức tinh tấn, như cái bùa hộ mệnh và bí quyết tiến thủ, thì chúng ta chỉ quanh quẩn mãi trong biển sanh tử luân hồi.

Một lần nữa, hãy nghe lời đức Bổn sư dạy còn văng vẳng bên tai: "Hỡi các người! Hãy tinh tấn lên để giải thoát".
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1739
Tham gia: 11:03, 25/04/14

3. TINH TẤN

Gửi bài gửi bởi KMD »

SỐNG HẠNH PHÚC - CHẾT BÌNH AN
The Joy of Living - Dying in Peace
Đạt Lai Lạt Ma thứ 14
Dịch: Chân Huyền


CHƯƠNG 6
TINH TẤN


Tinh tấn là một yếu tố quan trọng trong việc nuôi lớn tâm tỉnh thức. Ngay trong đời sống hằng ngày, muốn hoàn thành công việc gì ta phải có kiên trì. Tương tự như vậy, ta phải cố gắng trên con đường đạt tới những mục tiêu tâm linh. Khi để cho lười biếng chỉ huy, ta sẽ không tinh tấn chi cả. Tuy nhiên, ta phải biết khéo léo trong khi gắng sức. Người Tây Tạng có một ngạn ngữ nói rằng sự cố gắng phải liên tục như một dòng nước đang luân lưu. Tinh tấn có nghĩa là ta cần chú tâm vào bất cứ việc gì ta làm. Trong tinh thần đó, khi tu tập ta sẽ có niềm vui. Kiên trì không có nghĩa là cố gắng tối đa một thời gian rồi có lúc buông lơi. Chìa khóa của thành công là phải gắng sức luôn luôn và đều đặn.

Trong nhiều loại trở ngại, nản lòng là một rào cản lớn không cho ta tiến bước trên con đường tâm linh. Đó là do sự thiếu tự tin, không đủ tự trọng. Để đối phó với thái độ có hại đó, ta phải có lòng tin và quyết tâm. Nghĩ tới Phật tánh là một thái độ rất tích cực và mạnh mẽ để đạt được những điều kể trên. Ai cũng có Phật tánh,có hạt giống giác ngộ. Do đó mỗi chúng ta đều có khả năng bình đẳng với mọi người. Ta nên dựa vào tiềm năng bẩm sinh đó để vượt qua những cơn nản lòng, thất vọng.

Nghĩ tới chư Bụt trong quá khứ cũng là điều có lợi ích. Quý ngài không đạt tới giác ngô ngay tức thì. Lúc đầu quý vị đó cũng giống như người bình thường, khổ sở vì lo âu và phiền não. Chỉ sau khi đã kiên trì tu luyện trong nhiều kiếp, quý ngài mới đạt tới cứu cánh toàn giác. Chúng ta nên hứng khởi, học hỏi từ các tiền kiếp của các ngài để đi theo bước chân họ trên con đường tâm linh thích hợp. Điều quan trọng là ta không nên để tánh lười biếng và tinh thần chủ bại trùm lấp ta. Ngược lại ta phải nuôi dưỡng lòng tự tin và có tín tâm vào khả năng cùng tiềm năng của chính mình.

1.- VƯỢT THẮNG TÍNH LƯỜI BIẾNG

Vậy thì tinh tấn nghĩa là gì? Ở đây nó có nghĩa là ta biết vui hưởng khi thực hành các nghiệp thiện. Bạn có thể vẫn làm những việc vô thưởng vô phạt hay gây ra những hành nghiệp bất thiện, nhưng trong Phật giáo, như thế không được coi là tinh tấn. Thực tập tinh tấn có nghĩa là tạo được nhiều niềm vui lớn khi phát triển các tính thiện. Một trở ngại của tinh tấn là tánh lười biếng. Nó thể hiện ra nhiều cách khác nhau: như tánh trì hoãn, hoặc là bị vướng mắc vào những hoạt động vô bổ, không chịu tin vào khả năng của mình, tất cả đều vì giải đãi (lười biếng) cả. Ta phải vượt thắng những trở ngại này.

Mục tiêu của Phật pháp là chuyển hóa tâm thức. Nó cũng giống như một công trình xây dựng ngoài đời, nhưng nó phải được thể hiện từ trong nội tâm ta. Khi khởi sự xây cất, ta phải tìm coi những hoàn cảnh và phương tiện cần thiết là gì để thu thập cho đủ vật liệu. Tương tự như vậy, ta cần nhận diện những trở ngại và dẹp bỏ từng thứ một khi muốn chuyển hóa tâm mình. Trở ngại chính của sự phát triển các tính thiện trong tâm là sự lười biếng, không có khả năng hoàn thành chuyện gì cả. Khi bạn bị vướng vào những hoạt động vô nghĩa và không thể tu tâm, đó là lười biếng. Khi bạn trì hoãn công việc tới mai mốt hay bỏ qua đi, bạn cũng đang biếng nhác vậy. Nếu bạn nghĩ: "Một người như tôi, làm sao mà tu cho được?" thì cũng là một hình thái giải đãi.

Muốn vượt thắng tính lười, ta phải biết lý do vì sao ta lười. Bạn chỉ biết tính đó khi loại bỏ được những căn nguyên của nó. Những căn nguyên khiến ta lười là: phí phạm thì giờ, nghỉ ngơi hay ngủ nhiều quá; không xúc động trước cảnh khổ luân hồi. Đó là ba yếu tố chính làm cho ta lười biếng. Càng nhận diện được sự giả tạm và những khổ đau trong cõi nhân sinh, bạn càng mong vượt thắng được chúng nhiều hơn. Trái lại, khi bạn không nhìn thấy cảnh khổ trên đời và cảm thấy đang sung sướng, thì bạn sẽ không có ý muốn được giải thoát. Ngài Aryadeva, một vị học giả nổi danh người Ấn đã nói: "Một con người không bị thất vọng vì cuộc đời thì đâu có để tâm tới Niết Bàn? Thật khó xa lìa thế tục khi ta đã ở quen trong nhà thì đâu có muốn đi ra ngoài nữa".

Những phiền não trong tâm được ví như cái lưới, một khi bạn bị rơi và vướng mắc vào cái lưới đó, bạn sẽ không thể gỡ ra được để có tự do, mà sẽ bị chúng đưa vào cõi sanh tử. Một cách để chống bệnh lười biếng là nghĩ tới vô thường và nghĩ tới cái chết. Tử thần không có lòng từ bi. Dần dà, từng người một, thần chết sẽ mang ta đi. Chúng ta luôn luôn nghe nói người nào đó đã chết tại một nơi nào, trong một thời điểm nào. Khi nghe tin một người đã chết, ta thường nghĩ rằng họ đã tới số, mà không bao giờ nghĩ tới lượt mình cũng sẽ ra đi.

Chúng ta cũng giống như lũ cừu khờ dại khi nghĩ rằng các bạn mình bị đưa vào lò sát sanh, mà không biết là chính chúng cũng sẽ bị như vậy. Không sợ chết nên chúng tiếp tục vui chơi, ăn ngủ. Khi nào thần chết tới là điều ta không thể biết được. Nó có thể tới ngay thăm ngay khi ta vừa mới bắt đầu một công việc gì đó. Thần chết không cần biết ai có dự án vừa khởi sự hay đang tiến hành dở dang. Nó có thể tới bắt ta bất cứ lúc nào, một cách bất ngờ. Vì ta thế nào cũng chết, nên khi còn sống, ta nên rán tạo thiện nghiệp. Khi bị thần chết viếng rồi thì muốn bỏ tính lười cũng đã quá trễ, lúc đó không thể làm gì được nữa. Vậy chớ nên chần chờ, đừng tính để chuyện tu tâm dưỡng tánh tới ngày mai, hãy bắt đầu ngay đi.

Nếu bạn luôn trì hoãn, để việc phải làm tới ngày mai hay năm tới... thì dù có làm một danh sách những việc đó rồi ghi vào máy Computer, bạn vẫn sẽ bị đau nặng bất thình lình một ngày nào đó. Bạn sẽ phải vào nhà thương và uống những thứ thuốc bạn chẳng ưa chút nào. Bác sĩ có thể giải phẩu cho bạn. Có khi những người mặc áo trắng đó tỏ ra tử tế, thương người; cũng có khi họ mổ xẻ bạn như mở một cái máy ra sửa, chẳng có tình cảm chi hết.

Bình thường khi người ta khỏe mạnh, họ thường ba hoa là họ không tin ở kiếp trước kiếp sau gì cả. Nhưng khi cái chết gần kề, bạn sẽ nhớ lại tất cả những ác nghiệp. Tâm bạn có thể tràn đầy ân hận, đau khổ và phiền não. Bạn có thể nghe thấy cả tiếng chuông trong địa ngục và sợ đến vãi cả nước tiểu ra giường. Một người quen nói với tôi rằng khi anh ta bị ốm nặng và thân thể rất đau đớn, anh nghe nhiều tiếng động rất lạ tai. Có khi người ta ngất xỉu vì quá đau đớn. Trước khi tỉnh lại, hình như nhiều người thấy mình đã chui qua một cái ống. Đó là kinh nghiệm cận tử. Những người tạo nhiều nghiệp xấu đều kinh hoàng khi họ thấy tứ đại trong thân họ tan rã. Những người đã tạo nhiều nghiệp lành khi gần chết lại cảm thấy hài lòng và sung sướng.

Khi chúng ta sống, ta có thể bị kẻ thù bắt ta phải xa rời quê hương, nhưng ta vẫn mong có ngày xum họp với bà con thân thuộc. Nhưng khi chết thì ta phải vĩnh viễn lìa xa gia đình và bè bạn. Ngay cả cái thân thể yêu quý đã từng theo bạn đi bất cứ đâu, bạn cũng sẽ phải lìa bỏ nó. Và khi chết rồi mọi người sẽ coi cơ thể ta là thứ nguy hiểm, dễ sợ và xấu xí vô cùng. Mấy vị Du già (Yogins) thường nói: cái thây ma luôn luôn hiện diện trong ta, ngay cả khi ta còn sống. Thân mạng đó là thứ khó kiếm trong kiếp sau. Vậy nên khi có may mắn làm người, ta không nên vì ngu muội mà chỉ ngủ nghỉ thôi.

Phật pháp thượng thừa của Bụt mang lại cho ta nguồn suối an lạc bất tuyệt. Bỏ lỡ con đường cao tột nầy và bị lôi cuốn vào những cơ duyên gây khổ não thì thật là bất hạnh. Hãy kềm chế mình, đừng trì hoãn nữa mà nên cố gắng để có sáng suốt thực hành chuyện tu tập. Nó giống như chúng ta sửa soạn ra trận vậy. Trước hết bạn phải có tự tin để chiến đấu, bạn phải quyết tâm chịu cực khổ để thắng được tất cả những trở lực. Giống như một vị tướng cần có vũ khí tốt và lính thiện chiến, bạn phải có trí tuệ và nhiều đức tính. Khi đánh nhau, bạn phải xử dụng tối đa hỏa lực của khí giới, nhắm thẳng vào kẻ thù.

Tương tự như vậy, dù tu tập theo phương pháp nào, bạn cũng phải xử dụng trí tuệ một cách tỉnh thức, có chánh niệm. Kết quả, bạn sẽ thắng kẻ thù lười biếng và kiểm soát được thân tâm, tiến bước trên con đường tâm linh. Nếu nghĩ rằng bạn không có khả năng và thiếu thông minh thì thật là sai lầm. Ngay trong đời sống hằng ngày, bạn cũng nên tự tin khi muốn làm việc gì đó. Người Tây phương hay thiếu lòng tự tìn nơi chính mình, tôi không biết người Tây Tạng và các xứ văn hóa khác có bị như vậy không. Nhưng không tin ở chính mình làm cho ta rất suy nhược. Trong việc thường ngày hay trên con đường tâm linh, ta đều cần giữ vững lòng tin.

2.- TIN MÌNH VÀ TIN PHẬT PHÁP

Những vị đạo sư Kadampa trong thời xưa không có gì để vui thú trong những cái hang khô khốc của họ. Nhưng họ có quyết tâm tu luyện nên họ sống trong đó, rất an nhiên và tự tại. Họ dùng tất cả con người của họ - thân, khẩu và ý - để thực tập Phật pháp. Không bao giờ họ sợ bị thiếu thực phẩm hay phương tiện và sẽ chết. Các ngài nghĩ dù có phải đi xin ăn, họ cũng vẫn dùng thì giờ để cầu nguyện khi chờ chết chứ không phí thì giờ vào chuyện gì ngoài việc tu tập.

Khi chết ta thường lo âu không biết ai sẽ giúp ta, ai sẽ cầu nguyện cho ta? Nhưng các đạo sư Kadampa thường nghĩ: "Sao ta lại phiền ai giúp cho? Ta thích chết tự nhiên trong hang trống, như một con thú hay con chim vậy". Đó là sự quyết tâm tu tập của các ngài. Họ đã nói: "Nếu tôi bị coi như một kẻ vô gia cư, tôi cũng vui lòng chấp nhận. Nếu tôi phải sống như loài chó, tôi cũng cam tâm. Tôi sẽ đi lang thang như một con chó, nhưng vẫn tu tập theo Phật pháp". Quyết tâm như vậy thì cuối cùng họ sẽ trở thành Phật.

Nếu bạn thật sự muốn tu tập, bạn phải có quyết tâm và tự tin. Thiếu tự tin, bạn không hoàn thành được chuyện gì hết. Hãy đi theo con đường tâm linh với tín tâm và không mong cầu gì. Đọc chuyên đời ngài Milarepa, ta biết ngài đã bỏ hết thảy: bạn bè, cha mẹ, của cải. Khi muốn làm tròn nhiệm vụ đối với một người hay vài người, chúng ta phải có quyết tâm. Dĩ nhiên là khi muốn nuôi dưỡng tâm chánh niệm, muốn đem lợi ích tới mọi chúng sanh, ta càng cần có tâm Bồ đề kiên cố hơn.

Nếu bạn nói bạn muốn nuôi dưỡng tâm chánh niệm để giúp chúng sanh, rồi lại bảo bạn không đủ khả năng, thì thật là chuyện ngược đời. Có tinh thần can đảm không có nghĩa là bạn phải kiêu căng. Tự mãn và tự tin là hai điểm khác nhau. Khi bạn nuôi dưỡng những tính thiện như từ bi, chánh niệm; bạn cần làm với sự tự tin. Chánh niệm đưa tới từ lòng từ bi, thương xót mọi loài. Bạn không bị ràng buộc với ý niệm sai lầm về Ngã nữa. Bạn có thể hết lòng phấn đấu để có quyết tâm.

Nhìn lại nước Tây Tạng, chúng ta phải luôn luôn tin là ta sẽ thắng. Ta phải có lòng tin. Để tôi nói cho bạn nghe một câu chuyện, vào khoảng năm 1979, trong thời gian hơi được nới lỏng, khi người Tây Tạng được ra nước ngoài thăm bà con, có một người tới nói chuyện với tôi. Anh ta sanh khoảng năm 1950 tại Lhasa và lớn lên ở đó, nên được thấy những cuộc nổi dậy của dân chúng. Anh nói người Trung Hoa rất khôn lanh và dân Trung hoa thì quá đông. "Khí giới của họ đầy dẫy, nên chúng tôi không làm gì được", anh ta rất chán nản.

Tôi nghĩ tiếng súng của những năm 1950 vẫn còn rền vang trong tai anh. Rồi cũng có một vị sư từ vùng Dokham tới, ông ta thấy nhiều cuộc giao tranh tại đó, nhiều làng bị bạch hóa và dân quê bị giết hàng loạt. Tôi nói với ông là dân ta quá ít mà họ quá đông thì những chuyện đó xảy ra như vậy! Tôi hỏi: "Nhưng nếu một người Tây Tạng đánh nhau với một người Trung Hoa thì sao?" Ông thầy cười và nói: "Như vậy thì dễ lắm, mình có thể giỡn với họ như trong lòng bàn tay mình vậy". Đó là một thí dụ về lòng can đảm. Không cần phải kiêu hãnh nhưng điều quan trọng là phải tự tin, nghĩ rằng bạn có thể làm được.

Năm 1959, khi khởi sự có vấn đề nặng với người Hoa, xứ Tây Tạng chúng tôi ở vào hoàn cảnh rất khó khăn. Toàn dân tôi chỉ có sáu triệu người, thật đáng bi quan. Nhưng từ năm đó tới nay, chúng tôi không bao giờ bỏ cuộc, vì chúng tôi tranh đấu cho một lý do chánh đáng, cho công lý. Không bao giờ chúng tôi mất quyết tâm, quên mục tiêu. Dù đã gần 50 năm kể từ khi Cộng sản Trung quốc sang Tây Tạng, chúng tôi đáng lẽ đã bị diệt vong, thì lại đang đạt được một thế đứng quốc tế. Chúng tôi được nhiều xứ hỗ trợ và có thể đạt được thành quả trong thời gian không lâu nữa.

Làm sao để chúng tôi giữ được lòng tin và không bị chán nản? Đức Bụt từ bi, con người đã nói lên toàn sự thật, đã dạy rằng: "Chúng sanh thấp kém nhỏ nhoi như sâu bọ, ong, ruồi... cũng đều có Phật tánh. Dù yếu đuối tới đâu, nếu cố gắng trong nhiều kiếp, chúng cũng có thể đạt tới quả vị cuối cùng rất khó đạt là Phật quả". Chính Bụt đã dạy rằng tâm trí chúng sanh cũng có tiềm năng thành Bụt. Dù yếu kém, đau khổ tới đâu, loài nào cũng có thể thành Bụt cả. Như vậy, khi được sanh ra làm người, ta biết thế nào là thiện, ác, ta biết hạnh tu Bồ tát thì làm sao ta lại không đắc đạo?

Những vị đạo sư vĩ đại ở Ấn độ và Tây tạng ngày trước cũng là những con người như chúng ta. Họ đạt tới những quả vị cao như vậy là nhờ họ có sẵn Phật tánh và được làm người. Chúng ta cũng thế, cũng được làm người và có Phật tánh ở bên trong. Không thể nào ta lại không đạt tới giác ngộ. Khi đọc tiểu sử ngài Tsong-Kha-pa, ta thấy ngài tu tập cực khổ ra sao để vượt thắng những giai đoạn phát triển tâm linh. Trong những đoạn văn viết từ khi còn trẻ, ngài cho biết đã không hiểu được Trung đạo là gì. Nhưng rồi ngài vừa tu phước và tu huệ, sau đó ngài viết ra những bài rất sâu sắc, sáng sủa và xác quyết về những điều ngài đã chứng đắc. Đọc những tài liệu như vậy cho ta nhiều cảm hứng và hy vọng tinh tấn được trên con đường thực chứng.

3.- MỘT TIỀN THÂN CỦA BỤT

Tôi xin kể chuyện một tiền thân của Bụt. Đạo Bụt không tin có một thượng đế sáng lập ra mọi thứ. Phật tánh không phải là một cái gì do một vị thần linh từ trên cao ban xuống cho bạn, mà là kết quả của con đường chân chính bạn đã theo. Bụt Thích Ca Mâu Ni trong lịch sử không phải là người đạt tới quả vị Bụt trong một kiếp mà thôi. Ngài tích tụ công đức và thiện nghiệp từ bao kiếp trước rồi. Truyện kể trong một tiền kiếp, ngài là hoàng tử Vishvantara (có nghĩa là người giải phóng vũ trụ), con vua Samghaya.

Vishvantara không phải là một người thường mà là hiện thân của một Bồ tát có nguyện cứu khổ tất cả chúng sanh. Vì nghèo là một trong các nguyên nhân lớn của khổ đau nên ngài nguyện thực tập hạnh Bố thí trước hết. Cha ngài là vua Samghaya, vừa can đảm, nhân hậu, thông minh và rất am tường Kinh Vệ đà. Vishvantara có phần nhiều giống vua cha. Ngài không hề biết sợ hãi và luôn luôn từ bi với mọi người. Ngài có tư cách của một hoàng tử nhưng cũng bình dị với thần dân, ai cũng có thể tới với ngài.

Từ hồi nhỏ, ngài đã chú ý tới chuyện tâm linh, ngài rất tin tưởng ở chư Bụt và Bồ tát, thường tỏ lòng kính ngưỡng. Ngài đi tìm thầy học đạo và lắng nghe giáo pháp. Theo truyền thống, ngài thường lắng nghe lời giảng dạy của các vị thầy rồi dùng trí suy xét, phán đoán tỉ mỉ. Sau khi thiền quán, ngài mới thực tập. Giáo pháp không phải là thứ triết lý khô khan. Ngài hiểu đó là những bài học để ngài áp dụng vào đời sống hằng ngày. Nhờ những dấu ấn thiện đã sẵn trong dòng sông tâm thức, nên ngài tiến bộ rất mau. Ngài nuôi dưỡng tâm kỷ luật và kiểm soát được những cảm thọ phiền não. Dĩ nhiên chuyện này khiến cho ngài được bình an, vui vẻ và hạnh phúc.

Ngài chăm chú học năm môn chính là văn phạm, y khoa, nghệ thuật và khoa học nội tâm hay tâm lý Phật giáo. Đồng thời ngài cũng được huấn luyện về hành chánh và ngoại giao để lo việc cai trị vương quốc. Sau khi học xong, ngài trở thành một vị thầy cho các học sinh ưu tú khác. Ai cũng đều yêu mến ngài. Làm mọi cách để đáp ứng nhu cầu của dân, ngài quan tâm nhất tới chuyện dẹp được nạn nghèo đói nhưng cũng chú ý tới các thương gia. Bình an và hòa hợp khắp nơi trong xứ sở ngài.

Hoàng tử Vishvantara rất giàu có, nhiều quyền lực và rất được kính nể. Vì ngài có tinh thần tin tưởng ở giáo pháp nên ngài không ham danh lợi thế tục, cũng không lạm dụng quyền thế hay địa vị mình. Ai cũng biết là khi quyền bính lọt vào tay những người ngu dốt thì có hại cho họ và người khác. Hằng ngày chúng ta đều thấy những người hẹp hòi có nhiều tiền quá tự làm hư hỏng cuộc đời mình ra sao. Họ hách dịch, thiển cận và không quan tâm tới ý kiến người khác. Hoàng tử không như vậy, ngài kiểm soát ngũ quan và hành động của mình. Ngài có tư cách của một ông hoàng nhưng lại tử tế, dễ mến và thành thật với tất cả mọi người.

Khi bạn có động lực trong sáng và ý hướng tốt thì quyền lực và tiền tài có vai trò của nó. Chắc chắn nó giúp cho bạn hoàn thành các mục tiêu. Điều quan trọng là thái độ bạn. Vishvantara là một người rất tiến bộ, vì nhìn thấy những khổ ải của luân hồi nên ngài nguyện phải được giải thoát khỏi cảnh đó. Đồng thời ngài cũng có lòng từ bi với tấ cả chúng sanh. Ngài thực hành Lục độ (sáu phép tu để qua bờ đạt đạo), nhất là hạnh Bố thí cũng là vì có lòng từ bi vô lượng. Lòng từ bi của Bồ tát là tình thương vô điều kiện. Người nghèo đói và đau khổ lại được quan tâm hơn. Hoàng tử là người rất thông minh và dễ thương, nhưng đừng quên chính chúng ta cũng có tiềm năng để khi đủ nhân duyên thì cũng chuyển hoá thành người tốt. Khi có duyên, chớ để nó vuột mất.

Hoàng tử chính là một vị Bồ tát có hạnh nguyện lớn, dù ngài thể hiện bằng những hành động tâm linh hay thế tục, nhưng hành động nào của ngài cũng có mục tiêu là độ càng nhiều chúng sanh càng hay, giúp một cách trực tiếp hay gián tiếp. Động lực của các hành động từ bi đó không hề bị vẩn đục vì chấp ngã. Do lòng từ bi, hoàng tử có thói quen cứu giúp những người nghèo khổ. Ngài có của cải và quyền lực để khi cần thì có thể dùng, ngài không bó tay vì thiếu phương tiện. Ngài rất tỉnh thức, hiểu nên bố thí cái gì và nên cho vào lúc nào. Điều này quan trọng vì thiếu tỉnh thức thì dù có ý tốt, bạn vẫn có thể lầm lỗi khi bố thí. Vì vậy từ bi cũng cần có trí tuệ.

Chỉ cho thôi thì đó không phải là cách thực hành hạnh bố thí một cách hoàn hảo, phải có một số tiêu chuẩn. Bạn không được coi thường người tới xin bạn giúp đở, ngược lại bạn phải sung sướng khi gặp họ. Bạn nên nhìn họ như những vị thầy tới để cho bạn có cơ hội phát triển lòng vị tha. Bạn nên cho tài vật và thì giờ tùy theo nhu cầu của người thiếu thốn. Một số đồ không được đem tặng là ruợu, thuốc độc và vũ khí. Thực tập hạnh bố thí nghĩa là bạn phải biết cho những gì thích hợp với từng người.


Vishvantara có một động lực trong sáng và lành mạnh; ngài bố thí cho mọi người vô điều kiện, ngài không phân biệt người này người khác, tặng cho bất kỳ ai thứ gì họ cần. Vậy nên ngài hấp dẫn nhiều người từ nơi xa xôi tới xin, ngài rất xúc động trước sự nghèo khổ của chúng sanh. và lòng quảng đại của ngài do đó càng ngày càng tăng tiến. Ngài thiết lập và tổ chức nhiều địa điểm để bố thí, và tự mình kiểm soát công việc. Người tớixin đều hài lòng, không than phiền gì hết. Vishvantara càng bố thí càng vui và càng quyết tâm thì động lực của ngài càng trong sáng hơn.
Các bạn có thể nổi hứng để tham gia vào việc bố thí khi bạn biết quán tưởng về những phúc lợi của việc này. Bố thí nghĩa là bạn giúp cho người nghèo túng và làm cho họ bớt khổ. Nhìn họ vui là bạn tạo được hạnh phúc trong tâm thức mình. Hạnh phúc đó sẽ tạo ra một môi trường an bình chung quanh bạn và làm cho bạn cùng người xung quanh được an vui hơn, Người quảng đại được biết tới nhiều và được kính trọng tại mọi nơi trong xã hội. Tương lai, bạn sẽ được tái sanh trong cảnh giàu sang, lòng vị tha cũng làm tăng trí sáng tạo trong ta.

Vishvantara rất tin vào những phúc lợi do hạnh bố thí mang lại và muốn phát triển tánh thiện đó. Ngài tin rằng ngài có thể tặng tay, chân và toàn thể thân mình cho ai cần tới. Cảm thọ này bắt nguồn từ lòng từ bi sâu xa của ngài đối với chúng sanh. Hạnh nguyện bố thí của ngài lớn đến nỗi mặt đất bị rung chuyển, khiến cho vua Trời phải ngó xuống, thấy nguyên nhân của chấn động đó chính là ý nguyện lớn lao của Vishvantara.

Muốn thử coi hạnh nguyện của Vishvantara thanh khiết tới đâu, vua Trời giả trang thành một ông lão mù lòa. Khi tới gặp hoàng tử, ông lão nói: "Tôi từ xa tới đây để xin ngài tặng cho tôi một con mắt, vì tôi thì mù mà ngài có đủ hai mắt, trong khi chỉ cần một mắt cũng nhìn được mọi thứ". Vishvantara im lặng một lát trước lời cầu xin này. Ngài cân nhắc cẩn thận lợi hại và muốn biết coi món tặng vật này có thật sự giúp ích cho người kia không. Người mù rất kiên quyết, nhắc đi nhắc lại rằng bị mù lòa là chuyện rất khổ sở. Hoàng tử bèn quyết định sẽ giúp ông ta, coi như ông cho ngài cơ hội để thực hành hạnh bố thí. Khi nghe ngài nói vậy, triều đình rất lo ngại, họ không hiểu ngài sẽ làm sao và họ cầu xin ngài thay đổi ý định.

Họ đề nghị thay vì cho mắt, thì tặng cho ông lão nhiều tiền bạc trong kho báu của hoàng gia. Nhưng ngài muốn giữ lời hứa nên quần thần không thuyết phục được ngài. Với quyết tâm đầy từ ái, ngài cho ông lão luôn cả hai mắt. Ngay khi đó, vua Trời hiện ra nguyên hình và khen ngợi hoàng tử về hành động vô ngã của ngài. Vua nói: "Hoàng tử bố thí hoàn toàn là do ý nguyện vô ngã và vị tha, nên ngài sẽ có lại hai con mắt". Ngay khi đó, Vishvantara nhìn rõ hơn bao giờ hết. Vua Trời biến đi và hoàng tử rất vui sướng. Tín tâm vào giáo pháp của ngài càng chắc chắn và sâu xa. Triều đình không thể tin được khi thấy chuyện xảy ra như vậy, nhưng thấy mắt hoàng tử không bị hư hại gì, họ rất vui mừng.

Vishvantara tiếp tục bố thí và tiếng tăm ngài lan rộng khắp nơi. Ngài có lần phải cho cả con voi đã đoạt nhiều giải thưởng, đó là biểu tượng quý giá của hoàng gia, tượng trưng cho uy quyền và hoàng phái. Tin này được truyền ra nhanh chóng trong triều đình và lan ra quần chúng, ai cũng chống việc làm của ngài. Họ khiếu nại lên hoàng đế, cho rằng hoàng tử mê mãi theo đường tâm linh như vậy thì không nên cho nối ngôi. Vua cha bối rối vì ngài thương quý hoàng tử, hy vọng nhiều ở ngài. Nhưng sau khi suy nghĩ chính chắn, vua đặt quyền lợi của vương quốc trên hết và lưu đày hoàng tử. Theo lệnh vua, các quan đọc chiếu chỉ của vua cho hoàng tử nghe. Ngài không tỏ vẻ buồn phiền gì, có lẽ ít buồn hơn ai hết.

Ngài nói sẽ tuân lệnh vua cha, nhưng ngài muốn ra đi một mình, để vợ và hai con ở lại kinh thành. Nhưng công chúa vợ ngài đòi tháp tùng ngài. Vì vậy, gia đình hoàng tử gồm cả hai con sửa soạn rời hoàng cung, chỉ mang theo những gì vua cho phép. Khi ra đi, hoàng tử nói với triều thần phải kính trọng các tăng ni và cung ứng các nhu cầu cho họ đầy đủ. Ngài mong họ sẽ tiếp tục cứu giúp những người nghèo khổ và cơ cực. Cuối cùng ngài cho biết sẽ luôn luôn cầu nguyện cho nước, cho dân.

Hoàng tử nghĩ nếu mình ẩn cư trong một góc rừng thì dễ đuổi theo mục tiêu tâm linh hơn. Trên đường đi, gặp người xin giúp đở, hoàng tử vẫn độ lượng bố thí dần dần mọi vật tùy thân. Khi tới cuối cuộc hành trình, ngài đã bố thí hầu hết mọi thứ kể cả xe và ngựa. Hoàng tử và công chúa mỗi người bế một con nhỏ, tiến vào khu rừng thưa. Trẻ còn nhỏ quá nên cuộc sống của công chúa khó khăn hơn. Hoàng tử nhìn cuộc sống mới qua góc cạnh khác: ngài cho là từ nay ngài có cơ hội để thiền định và đạt được mục tiêu giải thoát, hơn là khi còn trong hoàng cung, ngài chẳng thể thực hiện được.

Cuộc đời như vậy thật là khó khăn cho một gia đình. Họ không có lợi tức nên trẻ đói thường trực, mẹ chúng rất đau khổ. Vì hoàng tử luôn chìm đắm trong thiền định, nên bà vợ phải ra ngoài kiếm đồ ăn. Tuy vậy tiếng tăm về lòng bác ái của ngài vẫn ngày một lớn. Một đôi vợ chồng không con nghe danh ngài, họ nghĩ nếu hoàng tử tặng cho họ mấy đứa con ngài thì họ sẽ dùng chúng làm đầy tớ. Họ chờ khi công chúa đi ra ngoài kiếm thực phẩm mới tới xin con ngài. Vishvantara phải suy nghĩ, tuy rất yêu con nhưng ngài đã cam kết giữ hạnh bố thí. Hai vợ chồng kia làm áp lực khiến ngài lâm vào hoàn cảnh khó xử.

Vishvantara không muốn làm cho ai cần tới ngài phải thất vọng, nhưng ngài cũng quan tâm tới tương lai của các con. Ngài cố gắng để đi tới thỏa hiệp. Ngài nói với hai vợ chồng kia nếu họ mang con ngài tới hoàng cung thì vua cha sẽ trọng thưởng cho, và họ không được đòi xin chúng nữa. Ông bà kia cho là nếu làm thế, họ có thể không được thưởng mà còn bị tù. Thấy chuyện đó có thể xảy ra thực, hoàng tử bị kẹt cứng. Thu hết can đảm, hoàng tử yêu cầu họ chờ công chúa về để nàng được từ biệt chúng, nhưng hai người không chịu. Họ cho rằng công chúa có thể từ chối và cản trở ý nguyện bố thí của ngài, không cho họ mang trẻ về để giúp việc. Ngài miễn cưỡng phải cho họ mang trẻ đi. Công chúa trở về nhà hay chuyện thì ngất xỉu. Vishvantara cũng bị rơi vào tình trạng phiền muộn.

Khi tỉnh lại, họ an ủi nhau và Vishvantara tiếp tục quyết tâm hành hạnh bố thí cho chúng sanh. Họ tiếp tục sống biệt lập trong rừng. Vua Trời nghe nói về chuyện cho con cũng ngạc nhiên hết sức. Ông định tới thử thách tấm lòng cao cả của hoàng tử một lần nữa. Ông cải trang thành một ông hoàng tới nhà Vishvantara. Vị này tiếp đón vua trời và hỏi ông cần gì? Người lạ mặt nói nghe tiếng tăm của ngài rất nhiều, nghe ngài cho cả con cái, không bao giờ từ chối ai điều gì... Người này khen ngợi hoàng tử và cuối cùng muốn xin một thứ. Hoàng tử bảo ông ta cứ nói, ngài sẽ rán giúp cho. Người lạ mặt nói: "Tôi sống rất cô đơn, không có ai thân tình, nên xin hoàng tử cho tôi bà vợ ông để tôi bầu bạn và cuộc đời tôi có nghĩa lý".

Vishvantara rất bối rối, ngài cảm thấy mình sẽ phải thua, khi trái tim độ lượng của ngài gặp phải thử thách lớn lao này. Vợ ngài là nguồn hy vọng và là trợ lực duy nhất của ngài. Sự tồn vong của ngài đang bị đụng chạm. Nàng yêu ngài và nếu phải ra đi thì sẽ khổ đau không chịu nổi. Ngài nói không nên lời. Cùng lúc đó, ngài nhớ rằng mục tiêu của đời mình là giải thoát giúp tất cả chung sanh. Bà vợ năn nỉ đừng để bà phải xa ngài. Vishvantara biết rõ cuộc chia ly này sẽ đau đớn tới đâu. Nhưng người kia ép ngài, nói nếu ngài từ chối thì rốt cuộc ngài làm hỏng ý nguyện bố thí cao cả của mình. Và người đó sẽ không còn lý do để sống nữa. Hoàng tử cố gắng an ủi vợ, ngài nói tới phúc lợi lâu dài của hạnh bố thí cho tất cả chúng sanh. Ngài cũng không thể từ chối và làm cho một chúng sanh đang đau khổ phải thất vọng. Cuối cùng ngài đành cho người đàn ông cô đơn khổ sở kia bà vợ của mình.

Sự can đảm và lòng tốt vô biên của Vishvantara không vô ích. Của cải và hạnh phúc vô biên đã chứa sẵn trong con người ngài, trong vợ con ngài. Khi người đàn ông dắt tay vợ ngài đi ra, thì họ biến mất và vua Trời xuất hiện. Vua ca tụng đức hạnh của Vishvantara, gọi ngài là vua của muôn loài, vua cho biết tấm lòng vĩ đại của hoàng tử nay cả vũ trụ đều biết tới, vua chỉ đến thử thách mà thôi. Vua Trời khuyên hoàng tử và vợ trở lại hoàng cung, và thu xếp để ông bà lão kia mang hai con ngài tới trả. Vua cha gặp lại con cháu rất vui sướng, cả nước mở hội ăn mừng. Sau đó ít lâu, Vishvantara lên ngôi nối nghiệp cha, làm ông vua sùng đạo và vượng quốc ngài luôn có hòa bình và hạnh phúc.

Những câu chuyện như vậy không phải để nghe cho vui tai. Chúng ta cần học và rút tỉa hứng khởi từ đó. Người Tây Tạng có câu: "Tiểu sử các đại sư phải được coi như bài pháp dạy cho các đệ tử".

Cuộc đời Bồ tát Vishvantara là bài học về hạnh bố thí. Đó là hạnh mà người mới học đạo Bụt cần phải thực tập. Bố thí là một đức tính mà cả người nhận lẫn người cho đều có lợi lạc. Người cho có công đức. để có thể sống giàu sang và hạnh phúc trong tương lai. Người nhận thì đỡ túng thiếu. Tặng, cho có hai khía cạnh: một là dâng lên Bụt hạnh bố thí, hai là giúp người khốn cùng đỡ thiếu thốn. Điều cốt yếu là chúng ta phải bắt đầu phát triển ý nguyện bố thí, hỗ trợ bởi những tư tưởng tích cực và từ bi. Ta nên cho cái gì mình có thể cho. Nhưng điều cũng quan trọng là ta phải nguyện thực tập bố thí hoài hoài. Chuyện này sẽ làm cho ý chí ta thêm mạnh và có quyết tâm hơn.

4.- VƯỢT THẮNG PHIỀN NÃO

Trong vô lượng kiếp làm người hay súc sanh, bạn đã nhiều lần gặp cảnh khổ đau ngang trái. Bạn đã trải qua không thiếu cảnh khổ nào vì tâm bạn đầy phiền não. Thân bạn có thể đã bị mua bán, làm thịt, bị thiêu đốt hay lột da. Dù cho bạn đã trải qua, những vấn nạn đó vẫn thật sự làm cho bạn đau đớn. Đó là kết quả của những vọng tưởng tiêu cực trong tâm bạn. Những khổ đau đó không những không thể giúp gì bạn trên con đường tới xứ Bụt, mà cũng không giúp cho bạn được giàu sang hay sống thọ hơn. Dù trước đây từ vô thủy, bạn đã trải qua những khổ đau vô lượng đó rồi, từ nay đến vô chung, những khổ đau đó vẫn cứ tiếp diễn, khác nào như những cực hình tra tấn bạn.

Nhưng nếu bạn quán về Phật tánh, hướng tâm bạn về đó và có cố gắng thì dù có gặp khó khăn hay không, cuộc đời bạn cũng đã có mục đích. Theo đuổi con đường tới chân như thì những khó khăn chỉ có giới hạn, vì những thứ này phải lùi bước khi bạn có tiến bộ tâm linh. Càng thực tập nhiều bạn càng có nhiều thành quả. Nhờ thái độ và tinh thần của bạn đã phần nào tinh tấn, những khó khăn cũng sẽ trở nên dễ giải quyết. Nhờ năng lượng của sự tu tập và sức mạnh tinh thần, bạn có thể chấm dứt khổ đau.

Trong vòng luân hồi, khổ đau không thể dứt, tưởng tượng bạn bị bắn vào bụng rất đau đớn. Muốn lấy viên đạn ra và hết bị đau, bạn phải được giải phẩu. Dù có thể có những hậu quả khác, nhưng chắc chắn bạn sẽ vui lòng chấp nhận cái đau của giải phẩu để loại bỏ được viên đạn trong bụng ra. Ngày nay người ta thường mổ xẻ để cắt bỏ hoặc để ghép một bộ phận nào đó vào trong cơ thể. Đôi khi bạn phải hy sinh một phần cơ thể để sống còn. Để tránh bị đau nhiều, ta sẵn sàng chấp nhận cái đau nhỏ hơn, dù cho các bác sĩ, thuốc men và phẩu thuật có thể làm cho ta khó chịu, ta cũng phải cộng tác với họ để thắng được các tật bệnh. Vậy thì nếu muốn vượt qua muôn ngàn khổ ải, nếu ta chịu đựng những gian khổ nhỏ thì cũng là chuyện dễ hiểu thôi.

Bụt Thích Ca giống như một vô thượng lương y, giúp cho tất cả chúng sanh đều có thể trở thành Bụt hết. Ngài chỉ dạy cho ta một con đường rất êm ái, nếu ta chịu theo kỷ thuật đó ta sẽ chữa được vô lượng đau khổ. Bụt là một người dẫn đạo tuyệt vời. Nếu ta phải vượt qua một ngọn núi cao và khó leo, ta không thể ép một cái máy xe leo thẳng dốc lên được. Muốn lên tới đỉnh núi, ta phải theo con đường vòng vèo. Tương tự như vậy, Bụt dạy chúng ta nhiều pháp môn với trình độ khác nhau tùy người học. Những pháp môn này từ từ sẽ giúp chúng sanh đạt tới quả vị Bụt.

Tỷ dụ như hạnh bố thí, đầu tiên Bụt dạy ta bố thí thực phẩm v.v... Khi ta đã tập có thói quen bố thí, từ từ sẽ có ngày - khi trí tuệ từ bi trong ta lớn hơn lên - ta có thể bố thí dễ dàng cả thân mạng, thịt xương của mình! Sẽ tới ngày bạn nhìn cơ thể bạn không khác với thực phẩm. Khi đó bạn sẽ không thấy khó khăn trong việc hiến tặng thân thể mình. Dù sao, nếu chưa luyện tâm được, thì chuyện này vô cùng khó!

Đôi khi trong truyền hình, tôi nhìn thấy những thử nghiệm khá tàn bạo trên súc vật. Bạn có thể thấy cảnh y sĩ mổ óc của một con vật đang còn sống. Tôi phải nhắm ngay mắt lại không thể coi tiếp. Rõ ràng là tôi không có thói quen nhìn những chuyện như vậy, trong khi người quen coi rồi thì không ngại gì. Tương tự, khi nhìn mấy con gà bị nhốt trong lồng để ở phía ngoài tiệm ăn, tôi thấy rất buồn trong khi đối với người sắp làm thịt và nấu gà đó thì con vật không khác gì rau cỏ. Lúc này, ý tưởng đi vào địa ngục để cứu vớt chúng sanh có thể làm bạn kinh hoàng, nhưng khi làm quen với nó rồi thì sẽ dễ thôi.

Các Bồ tát đã xả bỏ được tâm hành tiêu cực thì không còn bị đau đớn về thể xác. Và khi tập để có trí tuệ, họ cũng không bị khổ đau về tinh thần nữa. Vì chấp ngã một cách lầm lẫn, chúng ta đã làm cho thân tâm đau khổ. Nhờ có phước đức, chúng ta sẽ được an lành về thể chất, và nhờ có trí tuệ, chúng ta được hạnh phúc trong tinh thần. Vậy nên dù còn trong vòng luân hồi, người từ bi sẽ không bao giờ nản chí. Nhờ có tâm Bồ đề kiên cố, nhờ sự tỉnh thức, các Bồ tát sẽ loại bỏ được những cảm thọ tiêu cực của quá khứ và thu góp được cả đại dương phúc lợi. Do đó, họ được coi như những vị đứng trên những người chỉ tu tập để giải thoát cho mình. Vậy thời bạn nên can trường cỡi con ngựa tâm tỉnh thức đi từ cõi an lạc này tới vùng hòa bình kia. Khi thực sự tỉnh thức, bạn làm sao còn nản chí đượcc nữa.

Muốn đáp ứng được các ước vọng của chúng sanh, bạn phải tích lũy được những năng lượng vững chãi, an vui và biết lúc nào nên dừng lại. Phải có hứng khởi tu tập và kiên trì, nghĩa là không bỏ ngang sự thực tập, bạn sẽ được an lạc nếu tìm được niềm vui khi tu tập. Dừng lại sau khi thành công chứ không dừng khi chưa làm được chi cả, Nếu bạn tự ép mình tu học khi tâm bạn chưa muốn thì bạn sẽ đi tới chỗ ghét cả nơi bạn ngồi thiền. Vậy nên buổi ban đầu bạn phải khéo léo, lúc mới tập, mỗi đầu giờ thiền, bạn nên tươi tỉnh và vui hưởng giây phút đó. Vậy nên nghỉ ngơi trước đó thì tốt hơn. Đừng nên ép bạn tới kiệt sức, nên nghỉ xả hơi để khỏi bị như vậy.

Tội lỗi của chúng ta và chúng sanh thì vô lượng. Chúng ta phải phá hủy chúng đi. Tội lỗi đây có nghĩa là những cảm thọ phiền não ngăn cản sự giải thoát và đạt đạo. Muốn xả bỏ một lỗi lầm trong vô lượng tội, chúng ta phải cần khá nhiều năng lực. Nhưng chúng ta chưa hề bắt đầu xả bỏ được một phần tội lỗi. Trầm luân trong cõiluân hồi thật là khổ, chúng ta cũng như chúng sanh phải đạt được vô số nhân lành mới thành Bụt được, muốn có một nghiệp lành đã phải tốn bao công sức!

Chúng ta chưa hề làm quen với một phần các đức tính đó, chúng ta phí phạm cuộc đời một cách lạ lùng. Không kính ngưỡng Bụt, không góp công vào việc hoằng pháp, không bố thí cho kẻ khó, không tặng đức vô úy cho kẻ sợ hãi, không tặng an lạc cho kẻ đau buồn... Khi còn trong bụng mẹ, chúng ta làm cho bà đau đớn, khi ra đời, ta bắt đầu là nhân duyên gây đau khổ. Đời ta không có mục tiêu vì ta không muốn theo con đường thực tập tâm linh. Nếu bạn là người thông minh thì sao lại bỏ qua ước vọng này?

5.- TỰ TIN VÀ TINH TẤN

Bạn phải phát triển lòng tự tin và thực tập thiền quán, trước khi thực tập theo con đường tâm linh, bạn phải nghiên cứu và quyết định coi có nên tu tập hay không? Nếu bạn thấy mình không thể thì đừng nên bắt đầu. Khi đã bắt đầu rồi thì đừng bỏ cuộc. Nếu không bạn sẽ có những thói quen bỏ dở. Không những trong đời này thói quen đó còn làm hại bạn trong các đời sau, khiến cho những khổ đau chồng chất thêm lên. Vậy sau khi xem xét kỹ coi bạn có thể thực hiện được hay không rồi hãy khởi sự. Và khi đã quyết tâm thì phải đi tới đích.

Vì phiền não, những chúng sanh không thể làm tròn những mục tiêu của họ. Họ vô tình đi vào con đường tự đầy ải mình. Muốn có chút tiền bạc, nhiều người phải làm việc ngày đêm hoặc phải hành xử dữ dằn, lừa lọc. Họ bị vướng vào những sinh hoạt thấp kém mà hình như họ chấp nhận chúng một cách vui vẻ. Chúng ta đã có hạnh nguyện độ các chúng sanh, làm sao ta ngồi yên nhìn họ cho được? Chúng ta cần có thái độ tự tin, nhưng không nên hành động với sự kiêu hãnh hay can đảm mà bi quan. Vừa kiêu ngạo vừa bi quan là một tư tưởng bất an cần loại bỏ. Nếu chúng ta để rơi vào sự chán nản, thiếu tự tin thì những cảm thọ phiền não sẽ xâm chiếm tâm ta dễ dàng.

Chúng ta phải giữ lòng tự tin khi nghĩ ta là con cháu hay đệ tử của Bụt, một lãnh tụ vĩ đại. Tự tin nhưng không kiêu hãnh, lòng tự tin không có gì đáng trách vì nó giúp ta làm được những gì ta muốn làm. Nếu chúng ta tự tin và coi phiền não như kẻ thù, thì ta có thể vượt thắng được tánh kiêu hãnh. Ta không nên mắc cỡ về sự tự tin đó. Ai đã thắng được lòng kiêu hãnh và giữ được tự tin có thể được coi là người can trường và thắng lợi. Họ có thể đạt tới quả vị Bụt và độ chúng sanh. Khi chúng ta có được tín tâm đó, dù có bị cảm thọ phiền não quấy rầy, chúng cũng chỉ như bầy hồ trước sư tử, không làm hại ta được. Giống như loài người bảo vệ con mắt của họ trong bất kỳ hoàn cảnh nào, chúng ta phải thắng được phiền não dù khó tới đâu. Thà là bị đốt cháy, bị giết hay chặt đầu còn hơn là bị thua phiền não.

6.- NUÔI DƯỠNG NIỀM VUI

Bạn phải nên nuôi dưỡng những niềm vui, những người theo hạnh Bồ tát thực tập một cách vui vẻ, sung sướng, như trẻ con được tham dự trò chơi vậy. Bạn phải đi theo con đường Bồ tát mà không tự mãn. Người đời thường tham dự vào nhiều sinh hoạt để có được chút hạnh phúc hữu lậu dù họ không biết rõ họ có thể hoàn thành được nguyện vọng hay không. Họ có năm mươi phần trăm hy vọng nhưng họ vẫn làm việc rất cần cù. Nhưng khi theo chân Bồ tát, chắc chắc một trăm phần trăm, bạn sẽ tìm được niềm an lạc vĩnh cửu. Sống theo con đường Bồ tát rất vui và lợi ích cho bạn và cho mọi loài.

Không có hạnh phúc lâu dài với các thú vui sắc dục và ham muốn tài vật. Những thứ đó giống như mật ngọt bôi trên lưỡi dao sắc bén. Khi bạn liếm mật đó, bạn có thể thấy vị ngọt của nó nhưng đồng thời bị đứt lưỡi. Nhưng khi bạn hướng về con đường giải thoát, công việc bạn làm sẽ mang cho bạn phúc lợi và an lạc. Khi không tự mãn, công việc đó sẽ giúp bạn giải thoát. Làm như thế, sự cố gắng nơi bạn có thể đạt được kết quả. Vậy chúng ta nên vui vẻ bắt đầu sống theo con đường của Bồ tát, giống như con voi bị cháy nắng nhảy vào hồ nước mát một cách sung sướng.
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1739
Tham gia: 11:03, 25/04/14

3. TINH TẤN

Gửi bài gửi bởi KMD »

Tinh Tấn Ba La Mật
Thứ sáu - 14/06/2013 16:27

Các vị pháp sư, các vị đồng tu, xin mời ngồi!

Mời xem Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, kinh văn tờ thứ năm, xem ở hàng sau cùng: “Thí giới nhẫn tấn cập thiền định, trí tuệ phương tiện thần thông đẳng”. Hai câu này là nói mười Ba La Mật, cũng chính là nói tổng cương lĩnh tu hành của Bồ-tát đại thừa.

Phía trước chúng ta đã học qua nhẫn nhục, hôm nay giảng tinh tấn, trong đại thừa giáo gọi là Tỳ Lê Gia, tiếng Phạn gọi là Tỳ Lê Gia, dịch ra Trung văn là tinh tấn. Tinh thì không tạp, tấn thì không thoái, hai chữ này xem ra thì dễ dàng nhưng thực tế thì rất là khó làm. Ở trong đại thừa giáo, Thế Tôn thường hay nói với chúng ta, thiện căn Bồ-tát chỉ có một. Thông thường Phật pháp chúng ta gọi là ba thiện căn, chính là nói tất cả chúng sanh, ba thiện căn chính là không tham, không sân, không si, đó là ba thiện căn, cũng chính là nói giống như thực vật vậy, nó có gốc thì nó sẽ sanh trưởng, nói rõ thế xuất thế gian tất cả thiện pháp từ do đâu mà sanh ra? Từ không tham, không sân, không si thì liền có thể sanh trưởng, ngược lại thì tham-sân-si gọi là ba độc, thế xuất thế gian tất cả pháp nếu tương ưng với ba độc thì khẳng định liền sẽ hư, đây là đạo lý nhất định. Bạn xem, nói được dễ dàng, nhưng bạn tỉ mỉ mà nghĩ thì ý nghĩa trong đó sâu rộng vô tận.

Người tu hành, người học Phật, mỗi giờ mỗi phút đem lời nói này nhắc nhở chính mình, phải xem xét khởi tâm động niệm lời nói việc làm của chúng ta tương ưng với cái gì? Nếu như tương ưng với tham-sân-si thì phải đoạ lạc, không luận làm bất cứ việc tốt nào, việc tốt thế xuất thế gian mà tương ưng với tham-sân-si gọi là tạo nghiệp, cho nên trong ngạn ngữ xưa có một câu nói “trước cửa địa ngục tăng đạo nhiều”, người xuất gia nhiều. Nếu như người xuất gia tất cả tu tập tạo tác các công đức chưa lìa khỏi tham-sân-si, vậy thì họ đang tạo ác nghiệp, tại vì sao có thể đoạ địa ngục? Vì sao có cái tội nặng đến như vậy? Họ tạo tác những tội nghiệp này, đó là tánh tội, tương ưng với tham-sân-si, bản thân họ chính là tội, do họ khoác lên mình chiếc áo của Phật. Đó là nói là xuất gia, còn tại gia thì sao? Họ được gọi là đệ tử của Phật, đệ tử Phật vẫn còn tham-sân-si, hay nói cách khác, phá hoại hình tượng của Phật pháp, để đại chúng xã hội xem thấy người học Phật mà là như vậy, vẫn là cứ khởi tham-sân-si đó hay sao? Phá hoại đi hình tượng của Phật giáo, phá hoại hình tượng Phật giáo cũng bằng phá hoà hợp Tăng, cũng bằng làm thân Phật ra máu. Nếu bạn có cách nhìn như vậy thì bạn liền biết được, tội của họ trong giới kinh thì liệt vào A Tỳ Địa ngục. Ngược lại mà nói, tương ưng với ba thiện căn không tham, không sân, không si, đó là đệ tử Phật chân thật, con người này chân thật đang học Phật.

Bạn xem, chúng ta đã học nhiều năm như vậy rồi, tuy là vẫn chưa chứng quả, thế nhưng ở phương diện tín giải hành đã có được nền tảng, đặc biệt là ở tín giải. Khai ngộ của Phật pháp có hai loại, một cái là giải ngộ, một cái là chứng ngộ. Chứng ngộ là thông qua hành, vậy thì hữu dụng, thật được thọ dụng. Chúng ta cũng xem là không dễ dàng, nhiều năm đến nay như vậy, ở trên giải ngộ đích thực có thành tích khả quan. Chúng ta hiểu rõ, chúng ta biết được vũ trụ nhân sanh là như thế nào hình thành, cũng hiểu rõ Phật pháp, bí quyết tu học của Phật pháp. Yếu đạo là cái gì? Là buông bỏ. Buông bỏ cái gì? Buông bỏ tham-sân-si, bắt đầu từ nơi đây. Thế Tôn dạy cho chúng ta trong tất cả kinh giáo, buông bỏ không chấp trước đối với thế xuất thế gian pháp. Chấp trước cái gì? Tham-sân-si là chấp trước, là tư phiền não trong Kiến Tư Phiền Não, cái này buông bỏ rồi thì bạn liền thành chánh giác. A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chúc mừng bạn, bạn đã thành chánh giác. Chánh giác là A-la-hán, siêu việt sáu cõi. Vậy thì bạn phải nên biết, nếu bạn không buông bỏ tham-sân-si, thì bạn không thể ra khỏi sáu cõi luân hồi, buông bỏ tham-sân-si thì sáu cõi liền không còn. Sáu cõi luân hồi từ do đâu mà đến? Vốn dĩ là từ tham-sân-si mà ra, tham-sân-si không còn thì sáu cõi cũng không còn, cho nên A-la-hán không trụ ở trong sáu cõi, họ cao hơn một tầng so với chúng ta, họ trụ ở pháp giới bốn thánh, bốn tầng trên của mười pháp giới, pháp giới Thanh Văn đó là A-la-hán, pháp giới Duyên Giác, hai hạng này. Thanh Văn cùng Duyên Giác đều là thuộc về Chánh giác. Duyên Giác cao hơn Thanh Văn, hai hạng này đều là buông bỏ tham-sân-si. A-la-hán đã buông bỏ tham-sân-si, thế nhưng còn tập khí của tham-sân-si, tập khí chưa đoạn. Tập khí đoạn hết rồi thì là Bích Chi Phật, cho nên Bích Chi Phật không chỉ không có tham-sân-si, ngay đến tập khí cũng không có, tuy là không có tập khí tham-sân-si, thế nhưng họ còn có phân biệt.

Nếu họ buông bỏ luôn phân biệt, Bích Chi Phật buông bỏ luôn phân biệt, không còn phân biệt thì họ liền nâng cao cảnh giới, hướng lên trên cao một bậc là Bồ-tát. Bồ-tát là Chánh Đẳng Chánh Giác, lên một bậc! Phân biệt không còn thế nhưng họ có tập khí phân biệt, cho nên Bồ-tát có tập khí phân biệt. Nếu như buông bỏ tập khí phân biệt, họ lại nâng lên một cấp, pháp giới Phật cao nhất trong mười pháp giới. Cho nên thành Phật, Phật có rất nhiều hạng Phật, bạn phải biết được họ thành được hạng Phật nào. Phật ở trong mười pháp giới vẫn chưa được, không ra khỏi mười pháp giới, siêu việt sáu cõi nhưng không ra khỏi mười pháp giới, vì sao vậy? Bạn xem, họ buông bỏ phân biệt, chấp trước, tập khí phân biệt chấp trước đều không còn, đây là Phật của mười pháp giới, nhưng họ có khởi tâm động niệm, đó là vọng tưởng. Buông bỏ khởi tâm động niệm, không khởi tâm không động niệm, ở trong thế xuất thế pháp làm được không khởi tâm không động niệm, họ liền ra khỏi mười pháp giới. Ra khỏi mười pháp giới mới là chân thật thành Phật, đi đến Pháp Giới Nhất Chân, cũng chính là sanh cõi Thật Báo Trang Nghiêm, chỗ này các vị phải nên biết. Trong mười pháp giới sáu cõi là cõi Phàm Thánh Đồng Cư, pháp giới bốn thánh là cõi Phương Tiện Hữu Dư. Mười pháp giới trong cõi Ta Bà này của chúng ta, pháp giới bốn thánh này là cõi Phương Tiện Hữu Dư của Thích Ca Mâu Ni Phật. Không khởi tâm không động niệm, họ liền nâng lên cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Tất cả chư Phật đều có bốn độ, đến cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Phật trong cõi Thật Báo Trang Nghiêm đó là Phật thật, không phải Phật giả, các ngài khởi tâm động niệm phân biệt chấp trước thảy đều buông bỏ, buông bỏ hết, thật tinh tấn, thế nhưng vẫn còn cái gì? Vẫn còn tập khí vô minh, tập khí vô thỉ vô minh, chính là tập khí của khởi tâm động niệm, cho nên họ có cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Chỗ này chúng ta học tập kinh Hoa Nghiêm, chúng ta đích thực có nghiên cứu thâm nhập tương đối.

Nếu như không còn tập khí khởi tâm động niệm, xin nói với các vị, cõi Thật Báo Trang Nghiêm cũng không còn, sau cùng còn lại là cảnh giới gì? Gọi là cõi Thường Tịch Quang, chính là Thường Tịch Quang. Thường Tịch Quang là cái gì? Thường Tịch Quang chính là tự tánh của chính chúng ta, chính là quốc sư Hiền Thủ viết ra đoạn thứ nhất của thiên văn chương này “Tự Tánh Thanh Tịnh Viên Minh Thể”, cảnh giới này liền xuất hiện, gọi là Chân Như Bổn Tánh. Minh tâm kiến tánh là kiến cái gì? Chính là kiến cái này, đó gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ở trong cõi Thật Báo, đó là buông bỏ được khởi tâm động niệm, không khởi tâm không động niệm, thế nhưng tập khí của khởi tâm động niệm, rất không dễ gì đoạn được. Tuy là đều là ở trong cõi Thật Báo, cho nên cõi Thật Báo cũng có ba bậc chín phẩm, đây là Tịnh Độ tông chúng ta nói, ở trong kinh Hoa Nghiêm nói trong cõi Thật Báo Trang Nghiêm có 41 giai đoạn. Bồ-tát Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập hồi hướng, Thập Địa, Đẳng giác, những vị thứ này do đâu mà có? Là do tập khí vô thỉ vô minh dày mỏng không như nhau, từ ngay trên đây mà nói.

Hơn nữa tập khí của vô thỉ vô minh không cách gì đoạn được, các vị thử nghĩ xem cách đoạn như thế nào? Bạn muốn đoạn lại không phải khởi tâm động niệm rồi hay sao? Họ không khởi tâm không động niệm thì họ dùng phương pháp gì để đoạn? Cho nên ở trong cái tình hình này, ở trong pháp đại thừa thường hay dùng “vô công dụng đạo”, trong tông môn cũng có câu nói “thử xứ trước bất đắc lực”, bởi vì bạn vừa dùng lực thì liền có phân biệt chấp trước, thì bạn liền hướng xuống đoạ lạc, chỗ này không có dùng lực, để nó tự nhiên rồi sẽ đoạn mất, thời gian lâu dần sẽ mất hết. Cho nên người xưa dùng bình đựng rượu để thí dụ nói cho chúng ta nghe về đoạn tập khí. Tập khí phiền não vô thỉ vô minh cũng giống như là rượu, bình rượu đựng đầy rượu, đổ rượu ra hết, chà rửa sạch sẽ, một giọt cũng không có, đích thực là sạch sẽ, nhưng ngửi vào thì vẫn còn mùi vị. Đó gọi là tập khí, cái này thì không cách gì trừ sạch. Mở nắp bình ra để yên đó nửa năm một năm, khi ngửi lại thì sẽ không còn, qua thời gian thì tự nhiên sẽ không còn, bạn không cần phải nghĩ cách làm gì đó để trừ nó, vậy thì không thể, không có cách nào. Thời gian dài bao lâu thì cái tập khí này mới hoàn toàn không còn? Trên kinh nói “qua ba đại A Tăng Kỳ kiếp thì không còn”. Ba đại A Tăng Kỳ kiếp không phải nói người tu hành thông thường chúng ta, là nói cho người đã phá một phẩm vô minh chứng một phần pháp thân, cũng là trên Kinh Hoa Nghiêm chứng được Viên giáo Sơ trụ, vào lúc này là bắt đầu ba đại A Tăng Kỳ kiếp, bất cứ công phu nào đều không thể dùng. Tuy là mang theo tập khí vô thỉ vô minh nồng hậu nhưng không chướng ngại trí tuệ thần thông đạo lực của họ, không hề khác biệt với cứu cánh viên mãn Phật, họ liền có năng lực. Chỗ này nói Viên Giáo Sơ Trụ Bồ-tát, họ liền có năng lực, ở mười pháp giới chúng sanh có cảm họ liền có thể ứng, đáng dùng thân gì để độ thì ngài liền hiện ra thân đó để đó, đó là cảm ứng. Trong thế gian chúng ta, bạn xem trong Đệ Tử Quy, cách xưng hô: “phụ mẫu hô, ứng vật hoãn”, hô ứng, ở trong Phật pháp đó là nói pháp thân Bồ-tát, cảm ứng. Cảm ứng là tự nhiên, hô ứng vẫn có phân biệt chấp trước vẫn có khởi tâm động niệm, cảm ứng thì không có. Điều này rất khó hiểu! Cho nên quá khứ đã từng có người hỏi qua, Bồ-tát Đẳng Giác đoạn dứt cái phẩm vô minh cuối cùng, quay về được cõi Thường Tịch Quang, họ còn có trở lại hay không? Chúng sanh có cảm họ có còn trở lại hay không?

Chúng ta xem thấy thí nghiệm nước của tiến sĩ Giang Bổn Thắng thì liền hiểu rõ, có đến hay không? Đến! Vì sao mà các ngài không đến chứ! Tại vì sao phải đến? Đại sư Huệ Năng đã nói qua, Đại sư Huệ Năng khi minh tâm kiến tánh nói với chúng ta, tự tánh vốn tự đầy đủ. Đó là cái gì? Trạng thái của Thường Tịch Quang vốn tự đầy đủ, chúng sanh có cảm các ngài đương nhiên liền có ứng. Bạn xem nước, nước là khoáng vật, nó không có khởi tâm động niệm, nó không có phân biệt chấp trước, nó có thể thấy, có thể nghe, có thể hiểu được cái ý của người, chúng ta dùng ý thiện đối với nó, bạn xem hồi đáp của nó, hiện ra cái kết tinh rất đẹp, dùng ác ý đối với nó thì kết tinh cho ra rất là xấu, là cảm ứng tự nhiên. Pháp vốn như vậy. Cho nên từ trong cái thí nghiệm này chúng ta liền có thể khẳng định, một chút cũng không hoài nghi, Thường Tịch Quang có cảm ứng. Ngày nay chúng ta đọc qua thiên văn chương của quốc sư Hiền Thủ, phía sau cái đoạn này chính là nói Tam biến, ba loại châu biến liền nói ra được cái sự việc này. Tự tánh có ẩn hiện hai mặt. Khi không khởi tâm không động niệm, ngay đến tập khí khởi tâm động niệm cũng không có, đó là Thường Tịch Quang. Thế nhưng chúng sanh của mười pháp giới khởi tâm động niệm thì Thường Tịch Quang liền có ứng, cái ứng này chính là năng sanh vạn pháp, năng sanh vạn pháp là ứng! Cho nên nếu như bạn biết, ở trong tất cả vạn pháp, bạn tùy thời đều có thể ngộ nhập tự tánh, hay nói cách khác, tùy lúc tùy nơi đều có thể thành vô thượng đạo, có thể giúp cho bạn thành vô thượng đạo, đây gọi là pháp môn đệ nhất. Có pháp nào mà không phải là đệ nhất pháp! Pháp pháp đều là pháp đệ nhất, cho nên ở trên Kinh Kim Cang Phật nói “pháp môn bình đẳng, vô hữu cao hạ”, vấn đề chính là bạn biết hay không? Nếu như khi bạn biết thì mỗi môn đều là đi đến Vô Thượng Đạo, đều là giúp bạn chứng được vô thượng Phật quả. Thế nhưng trong đây sợ nhất là xen tạp, cho nên Phật mới nói chướng ngại lớn nhất của Bồ-tát là hoài nghi. Bồ-tát chỉ có một thiện căn, cái thiện căn này gọi là Tinh tấn. Chúng sanh chúng ta là ba cái thiện căn, bạn tu Bồ-tát đạo, đương nhiên ba thiện căn đó bạn liền viên mãn, thì bạn sẽ không tham, không sân, không si, bạn đều đoạn hết, sau khi đoạn hết thì chỉ có một thiện căn vĩnh viễn giữ gìn lấy chính là tinh tấn, chỉ một hướng đi Tát Bà Nhã Hải. Tát Bà Nhã là tiếng Phạn, đó chính là tự tánh. Người Trung Quốc chúng ta nói “chỉ ư chí thiện”, Tát Bà Nhã có cái ý nghĩa chỉ ư chí thiện này, trở về với tự tánh. Cho nên tinh tấn rất quan trọng, người tu hành chúng ta nếu như có thể nắm được cái chữ này, khẳng định ngay trong đời này thành Vô Thượng Bồ Đề. Hai cái chữ này làm thế nào nắm lấy?

Ngày trước tôi giảng đến chỗ này, tôi thường hay nghĩ đến vị đồ đệ của lão hoà thượng Đế Nhàn, người thợ vá nồi, ông nắm được, rất lợi hại, niệm Phật ba năm thì liền thành Phật, đứng mà vãng sanh, biết trước giờ chết đứng mà vãng sanh, không hề bị bệnh. Sau khi đi rồi còn đứng hết ba ngày, đợi sư phụ của ông là lão hoà thượng Đế Nhàn đến lo hậu sự cho ông. Lão Hoà Thượng Đế Nhàn thường hay tán thán ông đã làm ra tấm gương tốt cho mọi người. Con người này không biết chữ không có đi học, cả đời làm nghề vá nồi vá chén. Nghề nghiệp này hiện tại không có, loại nghề nghiệp này lúc tôi còn nhỏ thời kỳ kháng chiến vẫn còn, ngay trong khoảng thời kỳ kháng chiến, ở làng quê nông thôn, nồi bị bể, chén bể, tách bị bể đều không nỡ bỏ đi, gặp được người vá nồi vá chén, ông có thể đem nó vá lại, sau khi vá rồi có thể dùng tiếp. Đời sống này rất là gian khổ. Lúc nhỏ ông và pháp sư Đế Nhàn là bạn cùng chơi thời thơ ấu, cũng là sanh ra lớn lên ở một thôn trang. Gia cảnh của lão pháp sư Đế Nhàn tương đối tốt hơn một chút, cho nên về sau ông đến trường, ông được đi học. Người bạn này của ông gia cảnh khó khăn, làm việc đồng án, từ nhỏ không có đi học, khi lớn lên học lấy một nghề như vậy để duy trì cuộc sống, khổ nói không ra lời. Về sau pháp sư Đế Nhàn xuất gia, ông đi tìm ngài. Sau tìm được ngài rồi, ông nói với pháp sư Đế Nhàn là ông muốn xuất gia. Pháp sư Đế Nhàn nói ông không nên nói đùa, đã hơn 40 tuổi rồi còn xuất gia gì nữa, cứ ở qua vài ngày, tôi đưa sẽ ông trở về. Ông năn nỉ không xuất gia không được. Pháp sư Đế Nhàn khó xử, vì sao vậy? Ông xuất gia, việc thứ nhất là ông phải học năm thời khoá công phu, ông ở trong chùa, một chữ cũng không biết, tuổi tác lớn như vậy năm thời khoá công phu làm sao mà học cho thuộc? Năm thời khoá công phu không thuộc thì ông không thể ở trong chùa miếu được. Học giảng kinh cũng không được, thời gian học tập đã qua rồi, ông nhất định phải nương tựa. Sau cùng pháp sư Đế Nhàn nghĩ ra một cách, ngài nói tôi có một điều kiện, ông có thể đáp ứng hay không? Ông đồng ý thì tôi nhận ông xuất gia, nếu ông không đồng ý thì ông nên đi về. Ông ấy nói ngài nói đi, tôi đều đồng ý, ngài dạy tôi làm như thế nào thì tôi làm như thế đó. Người thành thật, ông là một loại người thành thật. Hoà thượng Đế Nhàn nói tốt, ông tuân thủ điều kiện của tôi, tôi cạo đầu cho ông, ông không nên ở trong chùa, ở trong chùa người ta sẽ xem thường ông, ông chính mình sẽ cảm thấy khó chịu. Vào lúc đó họ ở nơi Ninh Ba Triết Giang, dưới quê còn có rất nhiều chùa nhỏ không có người ở, chùa rách không có người ở. Hòa thượng nói, tôi tìm một cái cho ông ở, ông nên ở trong cái chùa nhỏ đó, tôi sẽ tìm một hai tín đồ ở gần đó, ông chỉ niệm một câu “Nam Mô A Di Đà Phật”, chỉ một câu này, niệm mệt rồi thì ông nghỉ ngơi, nghỉ ngơi xong rồi thì ông tiếp tục niệm. Ngài chỉ dạy một phương pháp như vậy. Ngài nói tương lai ông sẽ có được điều rất tốt. Con người này thành thật, cũng không cần hỏi được cái tốt gì, ngài dạy tôi niệm một câu Nam mô A Di Đà Phật thì tôi niệm, cũng rất tốt. Niệm mệt rồi thì nghỉ ngơi, nghỉ ngơi xong rồi thì tiếp tục niệm, chỉ dạy một pháp môn như vậy. Ông thật nghe lời, ba năm không ra khỏi cửa, ở trong chùa nhỏ đó ba năm không ra khỏi cửa, chỉ niệm một câu “Nam mô A Di Đà Phật”, chân thật ông niệm được thành công.

Lão Đế Nhàn tìm được một bà cụ ở dưới quê cũng là một người học Phật, giặt quần áo cho ông, nấu cho ông hai bữa cơm, sáng sớm thì là ông tự lo, buổi trưa buổi tối thì bà cụ lo cơm nước cho ông. Một hôm nọ ông nói với bà cụ, ông nói ngày mai buổi trưa bà không cần phải đến nấu cơm cho tôi, tôi đi vào thành một chút để thăm mấy người bạn. Đến ngày hôm sau ông thật có đi vào thành, đi thăm một số bạn bè thân thích, buổi tối quay trở về. Sau khi trở về lại nói với bà cụ, ngày mai không cần phải nấu cơm cho tôi. Trong lòng bà cụ nghĩ, sư phụ ba năm không ra khỏi cửa, thành thật niệm Phật, hôm nay đi vào thành một vòng, có thể ngày mai lại có người mời ông ăn cơm nên cũng không để ý. Thế nhưng đến ngày mai bà cụ không an tâm, đi qua xem thử, xem thử sư phụ có phải lại đi khỏi? Kết quả khi vào chùa xem sư phụ, thấy sư phụ đứng ở trước tượng Phật, gọi ông cũng không trả lời, tỉ mỉ mà quan sát thì chết rồi. Bà giựt thót cả người, từ trước đến giờ chưa nghe nói người chết đứng mà chết, cho nên vội vàng đi thông báo, vì còn có vài vị hộ pháp. Mọi người vừa đến xem, vừa xem thì thấy sư phụ này thật cừ khôi, bạn xem, đứng mà ra đi không hề bị bệnh, khẩn cấp phái người đi thông báo pháp sư Đế Nhàn. Vào lúc đó không có phương tiện giao thông, phải đi bộ, từ nơi ông ở đi vào thành đến chùa Quán Tông, vừa đi vừa về hết ba ngày. Họ đem việc người thợ vá nồi đứng mà vãng sanh nói với pháp sư Đế Nhàn, pháp sư Đế Nhàn lập tức đi đến, đi đến mất ba ngày, xem thấy ông ấy thật đang đứng nơi đó, tay nắm được rất chặt, có tro dính trên tay. Khi mở tay ông ấy ra, trên tay còn có tám đồng tiền đại dương, trên tay ông còn nắm lấy một nắm tiền, nên nghĩ ra đại khái lúc trước làm nghề vá nồi ông cũng kiếm được chút ít tiền, bởi vì chùa rách không có nơi để cất giữ nên cất nó trong đống tro. Số tiền này đem ra để làm gì? Pháp sư Đế Nhàn nghĩ nhất định là giúp lo hậu sự cho ông, lo việc mai táng cho ông. Bạn xem, ông chính mình rất rõ ràng tường tận, không làm phiền sư phụ. Pháp sư Đế Nhàn rất là tán thán. Con người này là gì? Đây gọi là thật tinh tấn, một câu, một môn thâm nhập, trường kỳ huân tu, một chữ cũng không biết, không có bất cứ một năng lực nào, thế nhưng ba năm thật đến thế giới Tây Phương Cực Lạc để làm Phật, không có người nào có thể sao sánh được. Đây là việc chân thật không hề giả dối!

Hôm qua tôi có nói đến bà cụ ở quê hương của Tưởng Quân, cũng là niệm A Di Đà Phật được ba năm, bà cũng là đứng mà ra đi, đây là việc xảy ra ở khu vực Cao Hùng của chúng ta đây. Do đây có thể biết, chỉ cần hiểu được tinh, tinh là quyết định không thể xen tạp, tinh chính là quyết định không thoái. Phương pháp này của pháp sư Đế Nhàn rất hay, không phân ngày đêm, niệm mệt rồi thì nghỉ ngơi, nghỉ ngơi xong rồi thì lập tức niệm, công phu này không gián đoạn, ba năm thì thành tựu. Cái thành tựu này thì rất là thù thắng, đó gọi là thật tinh tấn.

Trong đại thừa giáo thông thường nói, ở ngay chỗ này có hai loại tinh tấn. Một cái là thân tinh tấn, “vị nhược cần tu thiện pháp, hành đạo lễ tụng, dữ phu giảng thuyết, bất tự phóng dật dã”, đây là thân tinh tấn. Hai là tâm tinh tấn, “vị nhược cần hành thiện đạo, tâm tâm tương tục, bất tự phóng dật dã”. Không phóng dật chính là không dám tùy tiện. Người tu hành thành công không có gì khác, như thành tựu của người thợ vá nồi, thành tựu của bà cụ ở quê hương Tưởng Quân chúng ta, đều là vì chúng ta hiện thân nói pháp.

Lão Hoà Thượng thường hay nói một câu chuyện về thành tựu của một người xuất gia phơi đèn sáp. Đó là một người thành thật, sau khi xuất gia ở trong chùa làm hương đăng. Hương đăng là người chăm lo đại điện, khi lên điện Phật thì đốt đèn đốt hương, thầy hương đăng chăm lo việc này. Người thông thường xem thấy ông rất là ngu si, không có trí tuệ, con người rất chất phác. Trời tháng sáu, khi trời nóng, có người nói đùa với ông: “Thầy hương đăng ơi! ông xem, mọi người đều đem quần áo ra phơi, những số đèn sáp của thầy, hương và đèn sáp cũng nên mang ra phơi đi chứ, không phơi thì bị đóng mốc”. Bạn xem, ông rất chất phác, liền đem hết đèn sáp mang ra ngoài phơi. Khi phơi đến buổi chiều thì dầu của sáp đều chảy hết, chỉ còn lại cái dây tim, sáp đã chảy hết. Buổi tối khi lên điện, việc này liền xảy ra phiền phức, không có đèn sáp để đốt, ông liền lấy tim sáp đốt lên. Việc này thầy Duy Na duyệt chúng vừa xem thấy, hỏi là việc gì vậy? Ông liền nói ra, hôm nay có người bảo ông đem sáp ra phơi, ông liền mang ra phơi không ngờ lại biến thành ra như thế này. Thầy Duy Na cũng hết ý kiến, lắc đầu, liền báo cáo với lão hoà thượng, ngài xem vị hương đăng này như vậy còn có thể dùng được không? Lão hoà thượng rất từ bi, cảm thấy con người này rất hiếm có, chất phác đến như vậy. Lão hoà thượng liền nói với ông là con đừng làm hương đăng nữa, ngày mai ta đưa con đến chùa A Dục Vương, con đến nơi đó để bái Xá Lợi Phật, một ngày lạy 3000 lạy, con lạy ba năm. Hơn nữa còn có người nói đùa với ông là ông lạy Xá Lợi được ba năm tương lai ông sẽ làm đại pháp sư. Chính ông cũng cho là thật sẽ làm được pháp sư. Thầy Duy Na nói, tương lai ông sẽ giảng kinh nói pháp, tôi sẽ làm Duy Na cho ông. Ông liền thật đi lạy Xá Lợi, ông không có vọng niệm, chân thật là ông không có phân biệt, không có chấp trước, bảo ông làm gì thì ông làm vậy. Lạy được ba năm ông thật khai ngộ, ông viết một bài kệ bảo người đưa cho lão hoà thượng xem. Lão Hoà Thượng vừa xem, thật có trí tuệ, về sau như thế nào vậy? Thật mời ông đến giảng kinh, ông còn lên đài giảng kinh giảng được rất hay. Vị Duy Na đó rất hỗ thẹn, phải làm Duy Na như ông đã nói, ông thật đã làm Duy Na. Những câu chuyện này được ghi ở trong “Ánh Trần Hồi Ức Lục”. Cho nên vị pháp sư phơi đèn sáp này về sau ông thật đã khai ngộ, ông biết làm thơ, ông biết viết kệ, đây là gì vậy? Tinh tấn! Thân tinh tấn, tâm tinh tấn, ông thật đã làm được.

Loại thứ ba, trong Đại thừa giáo còn có một loại gọi là “Lợi lạc hữu tình tinh tấn”. Chúng ta thường hay nói đến mang giáp tinh tấn, loại thứ nhất là mang giáp là thân tinh tấn, loại thứ hai là nhiếp thiện pháp tinh tấn, loại thứ ba là lợi lạc hữu tình tinh tấn. Đối với tất cả chúng sanh hữu tình đặc biệt là thời đại hiện tại ngày nay, thời đại này chúng sanh khổ, cái việc giúp đỡ chúng sanh lìa khổ được vui, chúng ta phải chăm chỉ nỗ lực mà làm. Nếu như chúng ta hiểu được ý nghĩa của tinh tấn, cả đời không trái phạm, có thể nói người người ngay đời này đều có thể thành vô thượng đạo, đặc biệt là pháp môn Tịnh Độ. Đây đều là thời cận đại, những việc ở trong thế kỷ này, có rất nhiều người niệm Phật vãng sanh làm ra tấm gương tốt cho chúng ta xem, thành tựu của họ tại vì sao chúng ta không thể thành tựu? Có thể thành tựu hay không không thể trách người khác, cũng không thể trách hoàn cảnh, bạn chân thật nghĩ thông, nghĩ thấu suốt rồi, việc của chính mình chính mình có chịu làm hay không? Cho nên không luận là chướng ngại nơi hoàn cảnh, chướng ngại nơi nhân sự đều không ở bên ngoài, chướng ngại chân thật là chính mình, người ngoài không thể chướng ngại được! Công phu niệm Phật của bạn Tâm Tâm Nối Nhau, Niệm Niệm Không Gián Đoạn; nếu như người ta chán ghét bạn thì bạn niệm thầm, vẫn cứ là không gián đoạn. Nếu như là người khác tán thán bạn, bạn sanh tâm hoan hỉ, người khác huỷ báng bạn, bạn sanh tâm oán hận, liền phá hư đi hết thảy công phu niệm Phật của bạn. Tán thán bạn, A Di Đà Phật! Huỷ báng bạn, A Di Đà Phật! Nhục mạ bạn, A Di Đà Phật! Thảy đều là A Di Đà Phật! Hay nói cách khác, không luận là hoàn cảnh là nhân sư, đều là giúp bạn, thành tựu cho bạn, vì sao vậy? Sau khi bạn tiếp xúc được thảy đều là một câu A Di Đà Phật. Trong miệng A Di Đà Phật, trong tâm A Di Đà Phật, thì bạn liền thành tựu. Bạn niệm đến sau cùng đem mọi người đều xem thành A Di Đà Phật, con người ức hiếp bạn là A Di Đà Phật, con người đánh bạn cũng là A Di Đà Phật, đều là nghĩ lại, ta công phu chưa đủ ta còn giãi đãi, ta vẫn chưa có thành tựu, Phật đến đánh ta, Phật đến mắng ta. Cái tâm đó là tâm Phật, tâm của người này là tâm Phật, miệng là lời Phật, Phật khuyên tất cả chúng sanh niệm A Di Đà Phật, hạnh là hạnh Phật, thân khẩu ý tương ưng với A Di Đà Phật, bạn nói xem họ có thể thành Phật hay không? Đây gọi là tinh tấn Ba La Mật. Ngày nay chúng ta khởi tâm động niệm đều trách người khác, từ trước đến giờ chưa từng nói quay đầu nhìn lại chính mình, cho nên thời gian tu hành của chúng ta rất dài, so sánh với họ chúng ta là 30 năm cũng không bằng, thời gian nhiều hơn họ đến mười lần trở lên. Người ta thành công, thời gian chúng ta gấp mười lần vẫn là rơi lại phía sau người, vẫn còn kém quá xa! Cả đời này không thể thành tựu, vẫn cứ luân hồi sáu cõi, nhất định phải nên biết, đó là gì vậy?

Cái điểm này khiến chúng ta nghĩ đến pháp sư Oánh Kha triều nhà Tống, ông là một người xuất gia, giới luật không trong sạch, phá giới Tỳ Kheo, không giữ thanh quy. Ông chỉ có một sở trường, ông biết mình rõ ràng, chính mình biết được tập khí quá nặng, không tránh khỏi hoàn cảnh mê hoặc, ông biết được chính mình sau khi chết sẽ đoạ vào địa ngục. Vừa nghĩ đến địa ngục thì ông lo sợ, cho nên ông liền thỉnh giáo với các bạn đồng tu của ông, các vị có cách nào giúp tôi một tay hay không? Tôi phải làm thế nào để không đoạ vào địa ngục? Các đồng tu cũng rất từ bi, tặng cho ông một quyển “Vãng Sanh Truyện”. Sau khi ông xem xong rất cảm động, chỉ có niệm Phật mới có thể cứu chính mình, các pháp môn khác thì không được, nghiệp chướng của ông quá nặng, pháp môn này gom nhiếp ba căn, lợi độn gồm thâu, đới nghiệp vãng sanh, cứ y theo phương pháp trên kinh đã dạy. Trên kinh Di Đà nói: “nếu một ngày đến bảy ngày”, ông liền phát ra một sự quyết tâm, chỉ một câu “A Di Đà Phật” niệm đến cùng. Niệm được ba ngày ba đêm, không những không ăn cơm, không ngủ nghỉ, ngay đến nước cũng không uống, cho nên người chân thật có lòng chân thành cảm động được A Di Đà Phật, A Di Đà Phật liền đến, nói với ông:“Con chân thật sám hối, nghiệp chướng được tiêu trừ, thọ mạng của con vẫn còn mười năm, đợi khi mười năm dương thọ của con hết rồi, ta sẽ đến tiếp dẫn con”. Sau khi ông nghe được câu nói này rồi liền khẩn cầu với Phật, ông nói: “A Di Đà Phật! Con không cần mười năm dương thọ, bây giờ con theo ngài đi”. Phật hỏi ông vì sao vậy? Ông nói: “con tập khí quá nặng, mười năm con không biết lại phải tạo ra bao nhiêu tội nghiệp. Chính con không cách gì khống chế chính mình, con nghĩ bây giờ con đi theo ngài”. A Di Đà Phật rất từ bi liền đáp ứng, ngài nói: “Tốt! Ba ngày sau ta đến rước con”. Ông rất là vui mừng, ông liền mở cửa phòng ra, nói với mọi người ba ngày sau ông vãng sanh. Trong chùa không có người nào tin, ông tạo ra nghiệp chướng, quỷ nghiệp chướng, đóng cửa ba ngày ba đêm không mở ra, bây giờ bỗng nhiên mở cửa ra nói là ba ngày sau sẽ vãng sanh, may mà ba ngày sau thời gian không lâu, chúng tôi sẽ chờ xem, chờ xem ba ngày ông có vãng sanh hay không? Đến ngày thứ ba, chân thật là cùng thời gian hẹn với Phật là không sai chút nào, khi trì tụng ông yêu cầu mọi người niệm Phật tiễn ông đi. Mọi người cũng rất hoan hỉ đợi xem, ngay trong tiếng niệm Phật, niệm được đại khái có 15 phút, ông nói với mọi người là A Di Đà Phật đến rồi, tôi đi theo ngài đây, thì chân thật liền đi. Việc này chứng minh trên Kinh Di Đà nói “nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược tam nhật”, ông là ba ngày vãng sanh, không khó!

Ngày nay chúng ta niệm Phật, nhập Phật thất tinh tấn, có phải là thật hay không? Không phải là thật, niệm Phật cầu cái gì? Cầu thăng quan, cầu phát tài, cầu trường thọ, đều cầu thứ này. Nếu như Phật thất ở đây bạn treo cái bản như vầy: “bảy ngày nhất định vãng sanh”, bạn xem thử có người dám đến dự Phật thất hay không? Đều là khiến cho người sợ chết khiếp, người ta nói đưa người đi chết, nơi đây còn có thể đến sao? Bạn liền biết được đều là giả, không phải là thật, làm gì được như Oánh Kha. Con người này thật làm, thật làm thì họ thật có thành tựu. Đây là chúng ta không thể không biết, cái thí dụ này viết ở trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, ở trong vãng sanh truyện. Thời Tống Triều đến hiện tại chúng ta là bảy-tám trăm năm, ở trong thời gian dài đến như vậy, có rất nhiều tổ sư đại đức vận dụng thí dụ của ngài, khuyên bảo chúng ta tinh tấn.

Lão tổ tông Trung Quốc chúng ta dạy bảo con cháu đời sau, đó là dạy thế pháp, cũng dạy tinh tấn, mấy ngàn năm đến nay dạy bảo người sau “giáo chi đạo, quý dĩ chuyên”. Vào thời trước đều tuân thủ nguyên tắc này, thế nhưng xã hội hiện tại không như vậy, hiện tại chúng ta bỏ mất đi lời giáo huấn của lão tổ tông, bỏ mất thời gian quá lâu, hiện tại tín tâm cũng không cách gì hồi phục, tất cả đều là đồ nước ngoài tốt. Đặc biệt là giáo dục, những hiệu quả, phương pháp, quan niệm lý luận về học tập chúng ta đều quên hết. Nếu như bạn tỉ mỉ chân thật mà quan sát thì bạn sẽ phát hiện lão tổ tông thật có trí tuệ, người nước ngoài không thể sánh được. Chúng ta thấy trong buổi diễn giảng của Tôn tiên sinh, tôi đã xem thấy cái đoạn này, là vào thời đại đó của họ, vào đầu năm dân quốc, ông nói người nước ngoài ưu việt hơn chúng ta chính là khoa học, khoa học kỹ thuật, thứ mà máy móc chế tạo ra tiến bộ hơn so với chúng ta, chúng ta không bằng họ, ngoài phương diện này ra bất cứ phương diện nào chúng ta cũng không thua kém người nước ngoài. Lời nói này nói được rất hay, chúng ta phải có lòng tự tin, không thể thứ gì cũng học. Chúng ta không nắm được cái điểm này, ngày nay phải thiệt thòi khá lớn. Ngày nay nước ngoài xã hội động loạn, khắp nơi cũng loạn, trên thực tế nếu như dùng truyền thống văn hoá của tổ tiên thì người ta loạn còn mình thì không loạn, người ta bị ảnh hưởng kinh tế còn mình thì nhất định sẽ không bị ảnh hưởng. Đây đều là thật, không phải là giả.

Về phương diện giáo dục thì rất là lo lắng, từ xưa đến giờ tổ tiên ta dạy người phải chuyên, học thứ gì không luận là ở nơi nghề nghiệp nào. Vào thời trước người thợ mộc nhận một học trò, thầy dạy học trò là phải chuyên, chuyên thì tài nghệ mới có thể làm đến được tinh, tay nghề mới làm đến được tinh; không luận là nghề nghiệp nào đều chú trọng đến chuyên, chuyên tâm học tập, làm sao có thể phân tâm? Chúng ta xem giáo học hiện tại, giáo học hiện tại xen tạp. Nhà trẻ thì chúng ta không nói, chúng ta từ tiểu học, tiểu học thì bắt đầu xen tạp, chúng phải rất nhiều khoá mục, bảy-tám khoá mục, đại học thì đại khái có mười khoá mục trở lên, giáo trình mỗi ngày đan xen lẫn nhau, buổi sáng ba môn học, buổi chiều ba môn học, khoá mục không như nhau, môn thứ nhất ngữ văn, môn thứ hai số học, môn thứ ba học Anh văn, môn thứ nhất vẫn chưa hấp thu được thì đổi rồi, đổi đề mục khác, môn thứ hai chưa hấp thu thì môn thứ ba lại đổi rồi, mỗi ngày ở đó mà thay đổi, cho nên tư duy của não chúng bị loạn lên. Đó gọi là tạp tu, đương nhiên khó thành tựu. Vậy hiện tại mục đích này là gì? Mục đích là ứng phó với thi cử, sau khi thi xong thì vứt bỏ, không tinh. Người xưa dạy học chỉ là một môn bài khoá, có thể ba tháng chỉ có một môn, nửa năm chỉ có một môn, hoặc là một năm chỉ có một môn, họ mỗi ngày nghĩ đến chỉ một bài khoá, hơn nữa đọc thuộc lòng. Một giáo trình này chúng học rồi thì cả đời chúng sẽ không thể nào quên, một môn học xong mới có thể học môn thứ hai, tâm của họ là định. Định sanh huệ, sau khi huệ khai rồi thì mọi việc đều thông, chúng chưa học qua thứ gì, chỉ cần chúng vừa tiếp xúc thì liền tường tận, rất dễ dàng! Nên đây gọi là “một kinh thông tất cả kinh thông”, một môn thông thì tất cả các môn thông. Đến được giai đoạn này, vào thời xưa thông thường khi hai-ba mươi tuổi, bạn xem thấy trước 20 tuổi đã có nền tảng, nền tảng là một môn, sau hai-ba mươi tuổi thì học rộng nghe nhiều.

Cho nên các vị phải ghi nhớ, bạn xem tứ hoằng thệ nguyện, trong đó có ý nghĩa rất sâu, nói với chúng ta nguyên lý học tập, trước tiên yêu cầu người phải lập chí phát nguyện. Lập cái chí gì? Con người sống ở thế gian này, cả đời không vì chính mình, phải vì người khác, phải lập cái chí này, cho nên Tứ Hoằng thề nguyện điều thứ nhất là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, không phải vì chính mình. Ý nghĩa của chữ độ dùng lời hiện tại mà nói, chính là phục vụ, chính là giúp đỡ, ta phải lập chí phát nguyện vì tất cả chúng sanh phục vụ, toàn tâm toàn lực giúp đỡ tất cả chúng sanh khổ nạn, lập cái chí này, đây gọi là tâm Bồ Đề. Nếu bạn muốn chân thật đầy đủ chí nguyện của bạn, chân thật toàn tâm toàn lực vì tất cả chúng sanh, đem nó làm cho tốt, bạn phải có đạo đức, bạn phải có học vấn. Nếu bạn không có đạo đức, không có học vấn thì cái nguyện của bạn là không nguyện, bạn không làm được, cho nên ba nguyện phía sau đều là nguyện thứ nhất. Trước tiên thành tựu đức hạnh, xây dựng cho tốt nền móng “phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”. Đoạn phiền não phải trì giới, phải tu định. Trì giới là dùng giới luật qui phạm chính mình, cưỡng ép chính mình đoạn ác tu thiện. Do giới được định, một người trì giới lâu rồi thì biến thành thói quen, vậy thì rất tự tại. Khi biến thành thói quen liền biến thành định, biến thành Tam muội, thì tâm họ liền định, không luận ở hoàn cảnh nào, thuận cảnh nghịch cảnh, thiện duyên ác duyên, tâm của họ đều là định, đều là thanh tịnh. Tịnh đến một giai đoạn, chân thật đạt được định, chính mình chân thật có chủ định sẽ không bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, đại khái năm-sáu năm, sáu-bảy năm thì trí tuệ khai mở. Sau khi trí tuệ khai rồi thì học rộng nghe nhiều, vậy thì cái học liền dễ dàng, vừa tiếp xúc liền hiểu, bạn vừa nhìn liền hiểu được, vừa nghe liền hiểu rõ, tiếp xúc thì liền thông đạt, vậy thì nhanh! Cho nên sau khi phiền não đoạn rồi, bạn thấy sau đó thì nâng cao “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, đạo lý này là như vậy. Không như hiện tại đảo lộn, hiện tại ban đầu không có nguyện, cũng không có đoạn phiền não, vừa mở đầu thì là “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, thì liền học cái này, cho nên họ học thế nào cũng học không tốt, sau khi học rồi đều là tự tư tự lợi. Tu học Phật pháp là có thứ lớp, tuần tự mà tiến dần, điều phía trước bạn chưa thành tựu thì điều phía sau bạn không làm được. Tứ hoằng thệ nguyện là bốn tầng lầu, bạn phải xây lên từng tầng thì mới có thể xây được thành công.

Học được nhiều pháp môn để làm cái gì? Mặt ta phục vụ càng rộng lớn, công tác phục vụ của ta sẽ làm được càng tốt hơn, thảy đều là vì người khác, không có một ý niệm nào vì chính mình. Trong đây có an vui chân thật, học có niềm vui, làm có niềm vui. Tập chính là làm, thực tiễn ngay trong sự tướng, ta đem những gì ta đã học làm cho được, tất cả vì người khác phục vụ, vì chúng sanh phục vụ, an vui không gì bằng! Trong Luận Ngữ của Khổng Lão Phu Tử, điều đầu tiên thì liền nói ra điều này: “học nhi thời tập chi bất diệc duyệt hồ”. Cái hỷ duyệt đó là tự trong nội tâm, từ trong tự tánh phát ra, là thật an vui, không phải tác động từ bên ngoài, đây là thật an vui. Trong Phật pháp nói, Bồ-tát hành Bồ-tát đạo “pháp hỷ sung mãn”, thường sanh tâm hoan hỷ, bạn đừng cho rằng đó là khổ, đó là vui, không khổ!

Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa ở đời đã làm ra tấm gương tốt nhất cho chúng ta, đời sống hành nghi đó của ngài, người hiện tại chúng ta xem thấy thì là quá khổ! Bạn thấy ba y một bát, nửa ngày ăn một bữa đều là khất thực, buổi tối dưới gốc cây ngủ một đêm, hơn nữa Phật còn qui định, dưới gốc cây chỉ có thể ngủ một đêm, ngày thứ hai thì tìm cây khác, vì sao vậy? Cây này to có bóng râm, ở lại đó rất thoải mái, ở lại thêm vài đêm thì lòng tham khởi lên, cho nên Phật ở ngay trong đời sống, đem cái tập khí tham-sân-si-mạn của con người triệt để trừ bỏ nó. Trước tiên chế định những quy củ này, sau đó từ từ dưỡng thành tự nhiên. Thế Tôn từ lúc 19 tuổi rời bỏ gia đình, đó là gia đình phú quý, trải qua đời sống Tăng khổ hạnh, mãi đến 79 tuổi viên tịch, 60 năm như một ngày. Loại tinh thần nghị lực này, người đời sau chúng ta không thể không bội phục, đó mới gọi là thật tinh tấn, cho nên mười Ba La Mật ngài dạy cho chúng ta, ngài hoàn toàn làm được. Thành công của giáo dục không gì khác hơn, bạn trước dạy chính mình sau dạy người. Thích Ca Mâu Ni Phật trước thành tựu chính mình sau đó mới dạy người, Khổng Phu Tử cũng là như vậy. Bạn xem thử trên thế giới, các nhà sáng tạo tôn giáo trên thế giới, đều là nhà đại giáo dục, không có người nào là không trước tiên chính mình phải làm được sau đó mới dạy người. Ngày nay chúng ta đang học tập đạo thánh hiền, bạn tỉ mỉ mà quan sát, cùng người xưa chân thật gọi là cùng thở ra bằng mũi không hề khác nhau, đều là làm từ chính mình.

Dạy Đệ Tử Quy, hiện tại có một kiểu dáng rất điển hình, đó là Hồ Tiểu Lâm của Bắc kinh. Trước tiên ông một mình học, chính mình học, không yêu cầu người khác, sau khi chính mình làm thì cảm động người cả nhà, người trong nhà cùng học theo, sau đó ảnh hưởng cả công ty ông. Công nhân trong công ty ông thấy ông chủ hoàn toàn thay đổi, hoàn toàn khác với người khi chưa học Đệ Tử Quy, ông chủ đổi tốt đến như vậy, hoà ái đến như vậy, về trước tánh khí ông chủ rất dữ, không có người nào không sợ, hiện tại mọi người đều thích thân cận với ông. “Học nhi thời tập”, từng giờ từng phút đều đang học tập, đó là tinh tấn. Tôi xem thấy được cái tình huống này, tôi rất là hoan hỷ, cho nên tôi mời ông đến đem những gì ông đã học đã làm nói ra cho mọi người cùng nghe, để đại chúng cùng phân hưởng thành tựu của ông. Ban đầu ông rất khách sáo không dám lên đài. Vào lúc đó tôi đang ở chùa Thật Tế Thiền, tôi mời ông đến chùa Thật Tế Thiền ở mấy ngày, mỗi ngày mời ông giảng ở trong phòng thu âm. Trong phòng thu âm thính chúng không nhiều, năm ba người, ghi lại hết những gì ông giảng, dường như ghi được 20 giờ đồng hồ. Ông giảng rất hay, hiện tại là càng giảng càng hay, càng làm càng tốt hơn, những gì ông nói ông không có bản thảo, nói ra là cái gì? Hoàn toàn là do chính mình làm ra, cho nên từng câu từng chữ cảm động người. Ông có thể làm được, tại vì sao chúng ta không thể làm được? Chúng ta không chịu làm, không chân thật mà làm. Ông không có sở trường gì, thật chịu làm, học một câu ông liền áp dụng một câu, không chỉ có thể áp dụng ông còn có thể mở rộng ra, thông đạt mọi thứ. Cho nên trên văn tự Đệ Tử Quy nêu ra cho chúng ta 113 sự việc, khi vừa mở rộng ra, mỗi một điều đều có mở rộng ra mười điều, vậy chính là hơn một ngàn sự việc. Đó là trí tuệ, trí tuệ khai mở.

Ở trong Phật pháp chúng ta có! Bạn xem, cơ bản của Phật pháp chỉ có mười điều, Thập Thiện Nghiệp, đại tiểu thừa đều là dùng mười thiện để làm nền tảng. Thập Thiện Nghiệp thông cả đại tiểu thừa, thông hiển giáo thông mật giáo, tông môn giáo hạ không thứ nào không thông, đều là lấy mười thiện nghiệp làm nền tảng. Bạn thấy Tiểu thừa đem mười điều này mở rộng đến bao nhiêu vậy? Ba ngàn điều, ba ngàn oai nghi, quy nạp lại chính là mười thiện. Đại thừa thì càng vi diệu hơn, đại thừa mở rộng ra đến bao nhiêu vậy? Tám vạn bốn ngàn, Bồ-tát tám vạn bốn ngàn tế hạnh, quy nạp lại chính là Thập Thiện Nghiệp. Thập Thiện Nghiệp đó là đại thừa, ở trong Phật pháp, ở trong cảnh giới của Phật, biến pháp giới hư không giới vô lượng vô biên pháp môn. Cho nên bạn học, không phải học một điều, mỗi điều đều viên mãn, một chính là nhiều, nhiều chính là một. Đi đứng nằm ngồi, khởi tâm động niệm, lời nói việc làm cực kỳ vi tế cũng đều có thể tương ưng với Thập Thiện Nghiệp, nó không phải tương ưng với một điều, vừa tương ưng thì tương ưng hết mười điều. Chúng ta học tập phải hiểu được đây gọi là tinh tấn Ba La Mật. Khởi đầu quyết định là một điểm, bạn đem cái điểm này làm cho tốt, bạn mới có thể mở mang rộng lớn. Cái này rộng lớn bao nhiêu vậy? Tận hư không khắp pháp giới. Cái điểm này nếu bạn không làm tốt, vậy thì bạn có hạn chế, chính là ảnh hưởng của bạn có hạn chế. Chân thật làm được tốt thì cái ảnh hưởng đó là không có hạn chế, đích thực là tận hư không khắp pháp giới. Người nào có thể làm được? Trong Phật pháp gọi là pháp thân Bồ-tát làm được, cũng chính là nói trong mười pháp giới, như đại sư Thiên Thai đã nói tương tợ tức là Bồ-tát, ngài nói lục tức Phật, gọi là tương tợ, làm được rất là có hạn; thế nhưng Hoa Nghiêm từ sơ địa trở lên, hành của họ, hành chính là tập, học nhi thời tập chi đó là tập, tập hành, tận hư không khắp pháp giới, cho nên họ là viên mãn. Việc này đích thực là thế xuất thế gian tất cả pháp chân thật hiểu rõ, chân thật thông đạt, đạt đến cứu cánh viên mãn.

Ở trong Phật pháp Đại thừa, chúng ta chính mình cần phải giác ngộ, phải từ cơ bản khởi điểm mà bắt tay vào. Khởi điểm cơ bản chính là ba cái gốc, ba cái gốc chính là nền móng. Các vị nhất định phải biết, vạn nhất không nên ngộ nhận, tôi nói ba cái gốc này thì mọi người chấp trước ba cái gốc này, dạy bạn phá chấp trước thì bạn lại chấp trước kiên cố. Ba cái gốc này là gì? Ba cái gốc này giống như xây nhà cần phải đổ móng, khi móng đã làm tốt rồi vĩnh viễn chính là nền móng đó, bên trên không xây nhà thì nền móng đó có ích gì chứ? Vậy thì sai rồi. Sau khi xây dựng tốt ba cái gốc thì một môn thâm nhập trường kỳ huân tu, lấy ba cái gốc này làm nền tảng, đó là đức hạnh, cũng chính là nói bạn vào cửa thi cử, bạn đã được đủ tư cách, bạn có thể học những đạo lý của thánh hiền, không luận là Nho, là Đạo, là Phật đều được cả. Bạn học Phật, bạn có thể thành Phật, bạn học Nho bạn có thể thành Thánh, bạn học Đạo bạn có thể thành Tiên, bạn thảy đều có thể thành tựu. Nếu như bạn có được cái nền móng này rồi mà bên trên không có thứ gì, vậy thì bạn không có gì cả. Việc này cần phải làm cho rõ ràng, mọi người vạn nhất không nên hiểu lầm. Đây là gốc, ba cái gốc, không thể không có. Không có ba cái gốc này, học bất cứ thứ gì đều không thông, đều bị chướng ngại, không thể thành tựu, vì bạn không có nền tảng, xây nhà không có nền móng, cho nên ba cái gốc này càng kiên cố càng tốt.

Ba cái gốc này phải bắt đầu từ đâu? Thứ nào là quan trọng nhất? Trước đây không lâu, tôi cùng với viện trưởng của viện lập pháp có một buổi phỏng vấn qua truyền hình. Khi làm kết luận, người chủ trì tiết mục hỏi tôi một vấn đề, ông hỏi phải làm thế nào mới có thể hoá giải hết lòng tham của con người, có phương pháp gì không? Tôi nói có! Chỉ cần người tin sâu nhân quả thì lòng tham sẽ không khởi lên. Bạn học Thập Thiện Nghiệp, bạn học Đệ Tử Quy, khi danh lợi trước mắt, có lúc còn không thể nắm lấy được, vẫn xảy ra vấn đề. Nếu như người tin sâu nhân quả thì họ như như bất động, vì sao vậy? Trong mạng không có! Trong mạng không có nếu bạn khởi lòng tham mà nói, tham được thì được cái gì? Họa hại, tai nạn liền đến, không thể được, bạn sẽ không khởi lên cái ý niệm này. Tham-Sân-Si đều có thể trừ được, cho nên đạo lý của nhân quả rất quan trọng! Thế nên ở Đài Loan không có bất cứ hạn chế nào, nếu Đài Loan xây ba cái gốc này cái nào là cái thứ nhất vậy? Nhân quả là cái thứ nhất, cũng chính là nói Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, An Sĩ Toàn Thư, đều là nghiêng nặng về giáo dục nhân quả, thế nhưng khi xây dừng nền tảng này trước tiên phải làm ấm người lên, dùng cái gì vậy? Dùng Liễu Phàm Tứ Huấn. Sau khi đọc xong Liễu Phàm Tứ Huấn, bạn liền khởi lòng tin đối với việc này, sau đó mới học Cảm Ứng Thiên, học An Sĩ Toàn Thư. Trên thực tế, thiền sư Vân Cốc nói cho Viên Liễu Phàm nghe Công Quá Cách, nội dung của Công Quá Cách là gì vậy? Nội dung chính là Cảm Ứng Thiên. Có thể thấy được cái thứ này vào đầu nhà Thanh cuối nhà Minh rất thịnh hành, ngay trong những người đi học gần như đều là dùng phương pháp này, ngay đến đại sư Liên Trì, đại sư Liên Trì cũng dùng công quá cách. Ngài không gọi là công quá cách, ngài gọi là “Tự Tri Lục”. Trong lời tựa của ngài nói được rất rõ ràng, ngài đem công quá cách sửa thành “Tự Tri Lục”, có trong “Liên Trì Đại Sư Toàn Tập”. Ngài dùng cái này để kiểm điểm lỗi lầm của mình mỗi ngày. Ngày ngày xem lỗi lầm của chính mình, ngày ngày tu sửa lỗi lầm của chính mình, đó gọi là tu hành, đem tư tưởng hành vi sai lầm tu sửa lại, gọi là chân tu hành. Vậy ngày nay chúng ta tuy là không dùng công quá cách, tôi thấy ở Đài Loan có không ít đồng tu y theo nội dung của kinh giáo, biên ra những điều tôi cũng xem thấy ra mấy loại, đều rất hay. Cái chân thật chính là phải nỗ lực áp dụng, không được tuỳ tiện chút nào. Mỗi ngày nỗ lực mà làm gọi là chân thật tu hành. Hiệu quả của người xưa người thời nay có thể đạt được. Nếu chúng ta muốn ngay trong đời này có được thành tựu, cái nền tảng này rất quan trọng.

Vậy chúng ta lại xem thử những người niệm Phật vãng sanh, như vừa rồi tôi đã nêu ra điển hình người thợ vá nồi, pháp sư Oánh Kha, vị pháp sư phơi đèn sáp, các ngài có được cái nền tảng này hay không? Có! Họ không có đọc qua sách, cũng không có đi học, cái căn gốc của họ là đời trước đã trồng xuống rồi. Nếu như không có căn gốc của đời trước như vậy, thì họ làm sao tin tưởng đối với lời dạy của thầy đến như vậy! Một chút hoài nghi cũng không có, thuận cảnh nghịch cảnh họ đều không dao động. Người ta ba năm có thể thành tựu, ngày nay chúng ta tại vì sao không thể? Hoài nghi đối với thầy, không những hoài nghi đối với thầy, mà hoài nghi đối với Thích Ca Mâu Ni Phật, hoài nghi đối với A Di Đà Phật, hoài nghi đối với kinh điển. Nghi là chướng ngại lớn nhất của Bồ-tát, cho nên trong sáu loại căn bản phiền não, đem nghi xếp vào thứ năm, tham-sân-si-mạn phía sau là nghi. Cái nghi này không phải là nghi hoặc thông thường, là nghi hoặc đối với thánh hiền, có lòng nghi này thì bạn không có lòng thành kính đối với thầy dạy, thì bạn làm sao có được thành tựu? Đại sư Ấn Quang nói rất nhiều ở trong “Văn Sao”, một phần thành kính được một phần thành tựu, hai phần thành kính được hai phần thành tựu, mười phần thành kính thì mười phần thành tựu. Thầy giáo dạy mười người học trò, thành tựu của mười người học trò không như nhau, do nguyên nhân gì vậy? Tâm thành kính của mỗi học trò đối với thầy không như nhau, mười phần thành kính đối với thầy thì họ có mười phần thành tựu, họ liền đạt được mười phần, thầy giáo dạy như nhau; chỉ có một phần thành kính đối với thầy thì họ chỉ nhận được một phần. Đó là thật, không phải là giả.

Tôi ở Đài Trung theo lão sư Lý học giáo mười năm, chính mắt tôi xem thấy, ngay lúc đó đồng học chúng tôi là hơn 20 người, có mấy người thành tựu, thành tựu bao nhiêu? Khi so ra với Ấn tổ đã nói hoàn toàn như nhau. Năm xưa khi lão sư còn ở đời cũng thường hay khuyên bảo chúng tôi, giáo huấn chúng tôi, bí quyết của thành công chính là thành, trong có thành bên ngoài nhất định có kính. Hai chữ này thật là quá khó, làm thế nào có thể sanh khởi ra được? Làm cách nào giải thích? Đại đức xưa cũng có cách giải thích là duyên phận, cách giải thích này rất hay, người với người là duyên phận. Cái duyên phận đó không phải ở một đời, khẳng định có duyên phận của đời quá khứ, việc này ở hiện đại gọi là nhân quả luân hồi, đó là người nước ngoài nói, nói rất hay, cũng nói được rất thấu triệt. Người nước ngoài, nửa thế kỷ gần đây họ đề xướng thuật thôi miên. Bệnh thần kinh càng ngày càng nhiều, thuốc men không cách gì trị khỏi, đương nhiên dùng thôi miên, thôi miên độ sâu, làm cho người quay trở lại quá khứ, cái gốc bệnh của họ là đã được khởi lên từ quá khứ, có khi vẫn không phải chỉ một đời, hai đời về trước, ba đời về trước. Tôi xem thấy quyển sách của tiến sĩ Nguy Tư, ông có một thí dụ, đại khái là bảy-tám mươi đời trước, hồi ức đến hơn bốn ngàn năm trước, vào lúc đó trồng những cái nhân này, hiện tại được phát khởi lên. Sau khi chúng ta tiếp xúc những quyển sách này, ngay trong đồng tu chúng ta còn có một vị Lưu cư sĩ, sau khi ông nghe rồi cũng tìm mấy quyển sách này về xem. Sau khi xem xong ông liền đi đến Hoa Kỳ, đến Hoa Kỳ để tìm những bác sĩ khoa thần kinh thôi miên này. Ông gọi điện thoại nói với tôi, ở Hoa Kỳ những cao nhân này rất nhiều, cao minh hơn rất nhiều so với tiến sĩ Nguy Tư, thế nhưng vì họ không có nói ra, không có viết sách nên người ngoài không biết. Ông tiếp xúc được rất nhiều, hiện tại vẫn còn ở Mỹ. Việc này không phải là giả, được khoa học khẳng định thừa nhận, cho nên hiện tại Hoa Kỳ có một bộ phận tín đồ Cơ Đốc giáo đều tiếp nhận cách nói sáu cõi luân hồi. Kỳ thật sáu cõi luân hồi tuyệt nhiên không phải Thích Ca Mâu Ni Phật nói, việc này các vị phải nên biết, sáu cõi luân hồi là Bà La Môn giáo xưa nói. Họ cũng không phải tuỳ tiện mà nói, họ chính mắt xem thấy, làm thế nào thấy? Họ từ ngay trong định mà thấy được. Thiền định là cảnh giới hiện lượng, trong Phật pháp gọi là tam lượng. Hiện lượng là thân kiến, không phải tính ra, tính ra là tỉ lượng, cho nên tứ thiền bát định, nhà Phật gọi là tứ thiền bát định, tứ thiền bát định là Bà La Môn cổ họ tu hành. Được tứ thiền bát định thì tình hình trong sáu cõi bạn hoàn toàn thấy được, đó là cảnh giới trong định, bên trên có thể thấy được trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, bên dưới có thể thấy được địa ngục A Tỳ, chân thật là rõ ràng tường tận. Ở Ấn Độ xưa vào thời đại Thích Ca Mâu Ni Phật, tu thiền định là rất phổ biến, không chỉ tôn giáo tu thiền định, học thuật cũng tu thiền định, cho nên là rất phổ biến, bạn đến được trình độ nào thì bạn thấy được đến cảnh giới đó, bạn đều thấy được. Thiền định nhỏ gọi là chưa được định liền thấy được cảnh giới. Dễ nhìn thấy nhất là cảnh giới ngạ quỷ, đường ngạ quỷ cùng tần suất với chúng ta đại khái khác biệt không bao nhiêu, cho nên có được chút công phu chút định nhỏ thì bạn có thể thấy được.

Vào những năm đầu có một đồng tu, dường như ngày trước tôi có nói qua với các vị vài lần, pháp sư Minh Diễn cùng tuổi với tôi, vận mạng chúng tôi như nhau, thọ mạng đều là 45 tuổi. Năm ông 45 tuổi thì ông ra đi, đi vào tháng năm. Chúng tôi là ba người bạn tốt với nhau, còn có pháp sư Pháp Dung, ba người đều cùng tuổi thọ như nhau, thọ mạng đều là 45 tuổi, cho nên 45 tuổi tháng hai năm đó Pháp Dung ra đi, tháng năm thì Minh Diễn ra đi, tháng bảy tôi bị bệnh, tôi biết được tôi phải đi rồi, cho nên tôi liền niệm Phật, tôi không đi bác sĩ, cũng không uống thuốc. Thời gian bị bệnh cũng bị đắng miệng, mỗi ngày ăn cháo, ăn cải mặn, ăn rất ít, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Niệm qua một tháng thì hết bệnh. Tôi không nghĩ đến, tôi không có cầu tuổi thọ, vào năm đó dường như tôi giảng kinh đã giảng được 12 năm. Tôi 33 tuổi bắt đầu giảng kinh, 45 tuổi thì giảng được 12 năm. Vào năm đó, khi bị bệnh vừa lúc tôi giảng kinh Lăng Nghiêm quyển thứ mười, tôi giảng xong ba quyển thì bắt đầu bị bệnh, thì phải dừng lại, cũng có thể nói tôi giảng kinh Lăng Nghiêm là lần sau cùng, chưa giảng xong, về sau thì không còn giảng bộ kinh này nữa. Bộ kinh này dường như trước sau giảng qua bảy lần. Tôi ở Đài Trung học Lăng Nghiêm với lão sư Lý. Đó là thật, không phải là giả.

Pháp sư Minh Diễn, con người này là người tốt, rất là hiếm có, cũng có thể buông bỏ, cũng có thể thấy được. Tôi khuyên ông đến Đài Trung cùng học tập kinh giáo với tôi. Ông nói với tôi, giảng kinh nói pháp quá khổ cực, ông giảng khô hết da miệng mà người nghe có tin hay không? Đây là thật. Ông nói, tôi cũng muốn hoằng pháp lợi sanh, tôi học mật, tôi học thần thông, tôi vừa hiện thần thông thì mọi người liền tin tưởng, vậy nhanh hơn! Cho nên ông cùng Khuất Văn Lục, Đào Viên Đại Khê Khuất Thượng sư học mật với ông ấy, rất dụng công. Học mật vừa mở đầu phải dập đầu mười vạn cái, lạy Phật, hạn định dường như là nửa năm, dập đầu mười vạn cái, mỗi ngày phải lạy ba ngàn lạy. Ông thật làm. Chúng ta không thể không bội phục ông, cho nên con người này là một người tốt rất hiếm có. Sau khi dập đầu mười vạn cái, thượng sư truyền cho ông mật pháp, ông vào một cái tháp ở Đại Khê, ở trong cái tháp đó. Cái tháp đó vẫn chưa hoàn công, bên trên bao nhiêu tầng tôi cũng không biết, tôi chỉ thấy nó có hai tầng, tầng thứ ba vẫn chưa xây, tôi gọi nó là tháp phân nửa, chỉ một mình ông ở trong đó. Có một lần ông nhìn thấy quỷ, ông đến tìm tôi, ông rất hoan hỉ, ông nói công phu hiện tại của tôi có thể nhìn thấy được quỷ, giới hạn này đã được đột phá. Tình hình xã hội của quỷ gần giống như con người, mỗi ngày đại khái khoảng năm giờ chiều, trên đường liền có quỷ, người cùng quỷ ở chung, người không nhìn thấy quỷ, quỷ cũng không nhìn thấy người, không có duyên phận đặc biệt thì cũng không thấy được. Ông có thể thấy được, nơi mà quỷ ở cùng với nơi con người chúng ta ở cũng là không gian duy thứ khác nhau, cũng cùng ở chung. Ông nói với tôi những tình hình đó, tôi liền cười ông, tôi nói thần thông của ông vẫn chưa tu thành công, chỉ thành quỷ thông thôi, tu thành được công phu này. Sáng sớm mỗi ngày, đại khái bốn-năm giờ sáng, trên đường quỷ sẽ ít đi, quỷ nhiều nhất là vào lúc buổi tối mười đến một-hai giờ khuya, trên đường đều là quỷ. Hơn nữa, việc kỳ diệu này vừa xảy ra, ông gặp được một quỷ nữ, là người vợ đời trước, đời này ông không có kết hôn, là người xuất gia, vợ đời trước đã tìm được, họ liền ở chung trong cái tháp đó, còn phải mua một số đồ hoá trang cho người nữ cúng ở trong đó, làm cho cô một bài vị. Đó là hai người chúng tôi đồng thời xuất gia, cùng nhau tu hành, về sau phân thành hai đường. Tôi đem việc này nói với lão sư Lý, lão sư Lý nói với tôi, mỗi người đều có duyên phận không thể miễn cưỡng. Pháp sư Minh Diễn 45 tuổi năm đó ra đi, khi đi cũng rất tốt, tuy là không biết trước giờ chết, ông cảm thấy thân thể không dễ chịu, đến bệnh viện Vinh Dân để châm cứu, ông tự mình ngồi xe công cộng mà đi, để đến đó châm cứu, thì vãng sanh ngay trong phòng châm cứu. Ông không có bệnh khổ nào, ở trong phòng châm cứu chưa đến một giờ, một giờ trước ông còn ngồi xe công cộng. Việc này là chúng ta chính mắt nhìn thấy. Ông nói với tôi tuyệt đối không phải là giả. Cho nên trong sáu đường, nếu bạn muốn thấy quỷ thì không khó, thấy Thần thì tương đối khó hơn một chút, thấy quỷ thì thật không khó, đại khái cái tần suất này rất gần với tần của con người chúng ta, có được chút ít sức định thì được rồi, liền đột phá được không gian duy thứ này.

Cho nên chuyên, bạn xem ông có thể ở trong thời gian qui định lạy xong được 100 ngàn lạy, tu hành rất là nỗ lực, vẫn không thể tránh được kiếp số của vận mạng. Việc này tôi thành thật mà nói, việc này Cam Châu Hoạt Phật nói với tôi, tôi có thể lúc 45 tuổi ở trong một trận bệnh quay đầu lại, Cam Châu Hoạt Phật nói với tôi, là công đức 12 năm giảng kinh chuyển được nghiệp chướng. Trong mạng của tôi không có tài khố. Cam Châu Hoạt Phật nói với tôi, ông nói không những tương lai tuổi thọ của ông rất dài, thọ mạng của ông rất dài, hơn nữa phước báo rất lớn. Tôi một chút phước báo cũng không có, đây là gì vậy? Ngay đời này tu được. Thế nhưng tôi tuyệt nhiên không có mong cầu, tôi cũng không có cầu trường thọ, tôi cũng không có cầu phú quý, tôi không cầu bất cứ thứ gì. Nhất là xem thấy xã hội trước mắt này, chân thật là từ trước đến nay chưa từng xảy ra, thiên hạ đại loạn, việc này một chút cũng không giả, không luận ở trong nước ở ngoài nước, không có hiện tượng loạn như vầy, sống ở thế giới này còn có ý nghĩa gì? Nếu như không gặp được Phật pháp đại thừa, một ngày ta cũng không thể trải qua được thoải mái. Ngày nay chúng ta còn có thể sống được vui vẻ như thế này, đó là gì vậy? Đó là học nhi thời tập chi bất diệc duyệt hồ. Nếu như một ngày không học tập, vậy thì như đã luống qua một ngày, sẽ rất khó chịu. Không vì chính mình, không có chính mình, là vì cái gì? Vì chánh pháp cửu trụ làm ra một chút cống hiến, vì chúng sanh khổ nạn thế gian này. Chúng ta có thể giúp cho họ hay không? Chúng ta có thể đem những khổ nạn này hoá giải một số hay không? Nếu chân thật đem nó đoạn dứt thì không thể. Cho nên tai nạn của hiện tại, đặc biệt là ôn dịch, tổ chức vệ sinh thế giới đưa ra cảnh báo nghiêm trọng, rất lo lắng ôn dịch này nếu như truyền nhiễm trên toàn thế giới thì cái tai nạn này là đại tai nạn, không phải là tai nạn nhỏ, rất nhiều người không cách gì tránh khỏi. Chúng ta gặp phải cái sự thật này thì phải làm sao? Phật Bồ-tát dạy cho chúng ta, trước tiên tâm của mình phải định lại, không nên khủng khiếp không nên lo sợ. Nếu như ôn dịch chân thật truyền đến khu vực này, không việc gì tốt nhất không nên ra cửa, ở trong nhà tu tâm thanh tịnh, việc này rất quan trọng. Tâm địa nhất định phải thanh tịnh, nghe kinh, đọc kinh, niệm Phật, đoạn ác tu thiện đó là trị gốc. Trong đại thừa giáo Phật thường nói “tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”, chỉ cần Phật tâm chúng ta là thanh tịnh, là lương thiện, cho dù nhiễm phải những bệnh độc này cũng không hề gì, tự nhiên liền sẽ qua khỏi, vì sao vậy? Thanh tịnh cùng từ bi sẽ chuyển biến được bệnh độc thành tế bào tốt, cảnh tuỳ tâm chuyển, cho nên bạn không thể có lo sợ, khi bạn có lo sợ bạn sẽ bị bệnh hù chết, vậy thì sai rồi. Cho nên bình thường phải dưỡng tâm thanh tịnh, dưỡng cái tâm từ bi, việc này chính là người hiện tại đã nói là tăng cường năng lực miễn dịch của chúng ta. Chúng ta đọc kinh, làm những pháp hội tiêu tai siêu độ này, đó là trị ngọn, không phải trị gốc, có hiệu quả hay không? Có hiểu quả, có thể làm cho tai nạn này giảm nhẹ một chút, có thể làm cho tai nạn này lui về sau một chút, nhưng không thể tiêu diệt. Như tiến sĩ Giang Bổn Thắng đã làm qua thí nghiệm ở hồ Tỳ Bà, hai ba trăm người, mời một vị lão hoà thượng, lão hoà thượng hơn 90 tuổi hướng dẫn mọi người ở bên hồ cầu nguyện. Cầu nguyện của họ chính là một câu, từ trong nội tâm trong chân tâm phát xuất ra “nước hồ trong sạch”, họ không có niệm chú gì, họ chỉ niệm câu này. Bạn xem hơn 300 người dùng sức mạnh của tâm này, khi kỳ nguyện nghĩ đến nước hồ trong sạch, nước hồ trong sạch, niệm hết một giờ đồng hồ, nước hồ này qua hai ngày chân thật được trong sạch, không còn mùi hôi, không còn ô nhiễm, đích thực trong sạch. Trong sạch bao lâu? Nửa năm, nửa năm thì lại không được, lại có ô nhiễm, cho nên đó là trị ngọn.

Ngày trước chúng ta nghe tiên đoán có rất nhiều tai nạn, mọi người thảy đều đến niệm Phật, đều niệm Quán Thế Âm Bồ-tát đến cầu hoá giải tai nạn, tai nạn quả nhiên không có, thật hiệu quả, cũng giống như hồ Tỳ Bà vậy. Thế nhưng sau khi thời gian lâu rồi, vọng niệm của chúng ta lại khởi lên, cảm giác cái việc này chỉ là giả thôi, không phải là thật, có thể là lời tiên đoán đã sai lầm, tâm của chúng ta lại loạn lên thì tai nạn liền đến.

Làm thế nào gốc ngọn đều trị? Trị gốc là phải chân thật tu hành, phải thật tinh tấn, đó là trị gốc. Tâm thanh tịnh của chúng ta, tâm từ bi của chúng ta vĩnh hằng không thay đổi, phải làm cho nó ngày ngày thêm lớn, mỗi năm tăng trưởng; nguyện của chính mình, bổn nguyện thanh tịnh, vì tất cả chúng sanh phục, mỗi niệm vì người khác không vì chính mình, phải vĩnh hằng mà kiên trì. Đó gọi là trị gốc. Cái thế gian này tai nạn có nhiều hơn, bạn cũng không nhiễm phải, vì sao vậy? Bạn không có tạo cái nghiệp này. Ôn dịch cũng là oan nghiệp, bạn không kết với chúng cái nghiệp này thì chúng sẽ không tìm bạn, bạn cùng với những chúng sanh kết cái oán này thì họ sẽ tìm đến bạn, đó là cảm ứng tương thông, không sót mảy trần. Chúng ta thường hay tụng kinh niệm Phật hồi hướng cho tất cả chúng sanh khổ nạn, chúng không thể chuyển, chúng ta hồi hướng cho chúng là trị ngọn, chính chúng ta thì phải trị gốc, chúng ta không có gốc thì chúng ta không có đủ sức mạnh để trị ngọn, rất khó có ra hiệu quả. Chính chúng ta chân thật có tu hành, chân thật quay về thanh tịnh, vậy thì hồi hướng của chúng ta đích thực sẽ sanh ra sức mạnh, sẽ có sự giúp đỡ đối với xã hội, đối với những tai nạn này, cho nên việc này không phải là mê tín, chúng ta phải không có hoài nghi, phải hoàn toàn có thể tiếp nhận, chân thật chăm chỉ nỗ lực.

Hôm nay thời gian đến rồi, chúng ta chỉ học tập đến đây thôi. A Di Đà Phật!

TINH TẤN BA LA MẬT

(Trích từ Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán tập 25)

Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không

Địa điểm: Cao Hùng Đài Loan

Thời gian: ngày 09 - 05 - 2009

Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: Phật tử Diệu Hiền

Tác giả bài viết: Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ

Nguồn tin: TinhKhongPhapNgu.com
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1739
Tham gia: 11:03, 25/04/14

3. TINH TẤN

Gửi bài gửi bởi KMD »

"Việc tu hành, tôi luôn phân định rõ ràng. Phần chánh hạnh là công phu niệm Phật và tụng kinh, tôi luôn giữ gìn vững chắc. Trợ hạnh là dịch kinh, giảng dạy kinh điển, làm việc Giáo hội... những việc này tôi giữ đúng, đừng làm gì sai. Phần phụ thì có thể bớt. Phần chánh, ngày đêm một thời cũng không thể thiếu được".

Đại lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh (1917 - 2014)
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1739
Tham gia: 11:03, 25/04/14

3. TINH TẤN

Gửi bài gửi bởi KMD »

Vô Thường - Hòa Thượng Thích Trí Quảng

https://www.youtube.com/watch?v=Xsft6y_ ... E1%BB%A5ng
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1739
Tham gia: 11:03, 25/04/14

3. TINH TẤN

Gửi bài gửi bởi KMD »

KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

ĐIỀU GIÁC NGỘ THỨ 4

CHÁNH VĂN:


Đệ tứ giác tri:
Giải đãi trụy lạc,
Thường hành tinh tấn,
Phá phiền não ác,
Tồi phục tứ ma,
Xuất ấm giới ngục.

DỊCH:

Điều thứ tư cần nên giác biết:
Kẻ biếng lười hạ liệt trầm luân.
Thường tu tinh tấn vui mừng,
Dẹp trừ phiền não ác quân nhiều đời.
Bốn ma hàng phục như chơi,
Ngục tù ấm giới thảnh thơi ra ngoài.

GIẢNG:

Điều giác ngộ thứ tư là lười biếng giải đãi thì bị sa đọa trầm luân. Thế nên phải luôn luôn tinh tấn tu hành mới phá trừ được phiền não nghiệp ác, hàng phục bốn ma, ra khỏi ngục tù năm ấm và ba cõi.

Thế nào là giải đãi, thế nào là tinh tấn? Giải đãi là bê tha lười biếng. Tinh tấn là siêng năng chuyên cần. Ví dụ người ham mê ngũ dục muốn có nhiều tiền của, chuyên cần làm việc cả ngày lẫn đêm, không biết lười mỏi, không biết chán ngán. Người như thế có được xem là tinh tấn không? - Không. Tại sao siêng năng chuyên cần làm việc cả ngày mà không phải là người tinh tấn? - Vì người chỉ biết siêng năng làm cho có nhiều tiền của, để được thỏa mãn dục lạc thế gian, mà không biết phát huy đức hạnh trí tuệ, đó chỉ là người giải đãi trụy lạc, chớ không phải là người tinh tấn. Tinh tấn đúng với tinh thần của Phật dạy là phải biết dừng và ngăn chận điều xấu, làm và phát triển điều tốt.

Tứ chánh cần trong Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Phật dạy về tinh tấn như sau:

1- Điều thiện chưa sanh, phải siêng năng làm cho sanh khởi.

2- Điều thiện đã sanh, phải cố gắng phát huy cho tăng trưởng.

3- Điều ác chưa sanh, phải thường kiểm soát canh chừng ngăn chận không cho sanh khởi.

4- Điều ác đã sanh, phải cố gắng chặn đứng, diệt trừ không cho sanh nữa.

Tinh tấn theo nghĩa vừa nêu, thì người thế gian đắm mê ngũ dục, dù có siêng năng làm việc cả ngày cả đêm cũng không thể gọi là tinh tấn. Ngược lại, người tuy suốt ngày không làm gì hết, mà tâm vừa khởi niệm bất thiện, liền dừng không cho tiếp tục sanh khởi; khi tâm khởi niệm lành thì phát huy cho nó thêm lớn mạnh, để làm lợi ích cho mọi người, đó là người tinh tấn. Nói một cách đơn giản, tinh tấn là ngăn ngừa không cho thân, khẩu, ý tạo nghiệp ác, mà luôn khiến cho thân, khẩu, ý hiển phát nghiệp thiện. Giả sử nếu vì tập quán, chúng ta đã lỡ tạo ác, vi phạm điều Phật răn cấm, chẳng hạn như ghiền thuốc ghiền rượu, thì phải nỗ lực bỏ lần lần. Cố gắng bỏ tật hư nết xấu, dù khó khăn mấy cũng cố gắng trừ bỏ cho kỳ được, để khép mình trong phạm vi giới luật của Phật chế định, gìn giữ ba nghiệp thân, khẩu, ý cho trong sạch, thường nỗ lực phát triển những hạnh lành, lợi mình lợi người.

Giải đãi hay tinh tấn đều tùy nơi mình, nếu giải đãi thì bị trầm luân, còn tinh tấn tu hành thì phá trừ được phiền não, đoạn dứt nghiệp ác. Phiền não mà Phật dạy đây, không phải chỉ là nỗi buồn bực ray rứt trong lòng khi gặp cảnh ngang nghịch trái ý, như mọi người thường nói, mà là tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến… Trong những món vừa kể, si là phiền não gốc. Do si mê không thấy các pháp đúng như thật, nên mới tham cầu chấp trước, tham cầu mà không được thỏa mãn liền nổi sân hận, miệng mắng chửi, tay chân đánh đập, đấm đá… tạo nhiều nghiệp ác, gây khổ cho mình và cho người. Người tu hành phải luôn luôn thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ, trí tuệ sáng thì vô minh lui, vô minh lui thì si mê không còn, thấy các pháp đúng như thật. Đối với pháp hữu vi biết rõ là pháp vô thường biến hoại, không bền không thật, không chấp trước đắm nhiễm, không tạo tác ác nghiệp, ngang đây mọi phiền não khổ đau không còn.

Thế thường nói đến ma, thì người đời nghĩ đến hồn ma bóng quế của người chết hiện lên, bằng những hình bóng cô gái xõa tóc, le lưỡi, đi hỏng chân khỏi mặt đất… để nhát phá người sống. Song, ma mà Phật nói ở đây là những gì làm ngăn ngại phá hoại sự tiến đạo của người tu hành chân chánh, đại lược có bốn thứ:

1- Ma phiền não: là tham, sân, si, mạn, nghi… sẵn có nơi mỗi người. Ví dụ người xuất gia phải sống phạm hạnh theo giới luật Phật dạy, nhưng vì lòng trần chưa dứt, tham ái hiện khởi, chạy theo nữ sắc, cởi áo hoàn tục, cưới vợ sanh con. Đời tu hành ngang đây dở dang lui sụt. Tham mê sắc dục tự lòng người tu hiện khởi, vì sức huân tu quá yếu không khắc phục được, nên bị nó làm chướng ngại sự tu hành, gọi đó là ma tham. Hoặc một Phật tử qui y thọ năm giới, lý đáng phải giữ tròn, nhưng Phật tử ấy vốn dĩ đã thích uống rượu, một hôm đi dự tiệc bạn bè mời ép, lòng tham ăn uống không dừng được, nên uống say túy lúy. Về nhà khi tỉnh lại thì hối hận mình đã phạm giới, trách bạn bè phá mình, chớ không nghĩ do lòng tham ăn uống của mình. Mình tu mà không khắc phục được, xuôi theo nó nên phá giới mất thanh tịnh. Tu mà bị chướng ngại là tại con ma tham ăn uống chớ đâu phải tại bạn bè! Bạn bè mời ép mà mình chế ngự được lòng tham ăn uống, không uống rượu thì có ai làm gì mình? Lại nữa, người tu lý đáng là không được sân giận, nhưng một hôm bỗng dưng có một người tới chùa nói năng gàn dở, chửi bới chúng Tăng, phá phách trong chùa, vài thầy Tăng khó chịu cũng lớn tiếng nặng lời lại. Như vậy là con ma sân của các vị ấy hiện. Vì các thầy tu, đạo lực non yếu không điều phục sân giận nên bị nó hoành hành, lớn tiếng nặng lời với người ta. Lại nữa, đa số chúng ta tọa thiền, cốt là để lóng lặng tâm cho an định tỉnh sáng, nhưng khi lên bồ đoàn ngồi xếp chân độ mười phút, mười lăm phút thì tâm thần mơ màng mờ mịt ngủ gà ngủ gật, ngủ như thế cho đến giờ xả thiền, không gượng được. Khi xả thiền cố ý nằm yên để ngủ thì không ngủ, vọng tưởng chạy nhảy lung tung… Hễ cứ lên bồ đoàn tọa thiền là ngủ gục không kềm, không gượng được. Như thế, có phải do thiếu ngủ mà ngủ gục không? - Không. Ngủ như thế là do con ma thùy miên nó phá nó ngăn che, khiến cho sự tu hành của mình bị ngăn ngại lui sụt. Đó là ma si làm chướng đạo người tu. Và những ma phiền não khác ngăn ngại người tu cũng thế.

2- Ma ngũ ấm: đó là sắc, thọ, tưởng, hành, thức là năm món ngăn che làm cho con người không nhận ra chân lý, không sống được với trí tuệ, cứ mê mờ tạo nghiệp đi trong luân hồi sanh tử khổ đau.

- Sắc ấm: là hình hài thân thể con người do đất, nước, gió, lửa hòa hợp tạm có. Con người vì mê chấp thân tứ đại là ngã nên tạo nghiệp đi trong luân hồi sanh tử, không nhận ra Chân tánh nơi mình.

- Thọ ấm: là cảm giác sướng khổ vui buồn khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần. Người vì mê chấp cảm giác vui buồn là thật, nên khi thọ nhận được cảm giác vui, thì cố duy trì gìn giữ không muốn cho mất. Nhưng cảm thọ vui ấy không bền, là vô thường, mặc dù cố gìn giữ mà nó vẫn mất, và khi mất rồi thì buồn khổ. Khi thọ nhận cảm giác khổ thì không muốn nó tồn tại, song không được, vì nhân xấu đã gây rồi nên quả khổ phải thọ nhận. Con người vì mê lầm cố chấp cảm giác vui buồn là thật là ngã, nên tạo nhiều nghiệp ác trầm luân trong sanh tử, không nhận ra Chân tánh của chính mình.

- Tưởng ấm: là cái nhớ nghĩ việc đã qua hay mơ ước việc chưa tới. Cái mơ ước nhớ nghĩ đó là vô thường không thật. Con người vì mê lầm, chấp nó là thật là ngã, rồi tạo nghiệp thọ sanh, nên không nhận ra Chân tánh sẵn có nơi mình.

- Hành ấm: là ý niệm nghĩ suy chuyển động vận hành tạo tác các pháp hữu vi. Ý niệm suy tính vốn là vô thường không thật, con người do mê lầm, chấp nó là thật là ngã, tạo nghiệp rồi đi trong luân hồi sanh tử, nên không nhận ra Chân tánh ở chính mình.

- Thức ấm: là cái biết phân biệt cái này đẹp, cái kia xấu, cái này hay, cái kia dở. Cái phân biệt đẹp xấu hay dở chợt khởi rồi mất không thật. Con người vì mê mờ lầm chấp nó là thật là ngã, nên tạo nghiệp, thọ sanh tử, không nhận ra Chân tánh sẵn có nơi mình.

Tại sao gọi sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức ấm là ma? Đối với Sắc thân tứ đại này, con người mê mờ chấp nó là thật là ta, nên suốt cả ngày cả đời mải mê lo vun bồi tô đắp cho nó được no đủ tươi tắn. Có khi vì lo vun bồi cho thân mà tạo nhiều nghiệp ác, quên đường đạo đức, không biết tu hành để tiến hóa trên đường thiện, không nhận ra Chân tánh sáng suốt sẵn có nơi mình, nên gọi là ma sắc ấm. Tuy nhiên, nếu biết dùng thân này làm phương tiện tu hành tiến hóa trên đường thiện, nhận ra Chân tánh sáng suốt nơi mình, làm lợi ích cho mọi người, thì không gọi là ma.

Phàm thọ khổ thọ vui đều là ma. Vì khi bị chê trách hay bị mắng chửi liền nổi giận, khi đã nổi giận thì tâm trí mê mờ không còn sáng suốt. Hoặc khi được khen được trọng, sanh kiêu căng ngã mạn, thì tâm trí cũng mê mờ không sáng suốt. Nên nói thọ lạc hay thọ khổ đều là ma. Tuy nhiên, ma hay phương tiện đều do nơi mình. Nếu mình mê lầm để cho nó làm chướng ngại việc tu hành, che khuất Phật tánh, mất giống trí tuệ, thì đó là ma. Ngược lại, mình biết lợi dụng nó để tu hành được giác ngộ thì đó không phải là ma, mà là phương tiện. Tưởng ấm, hành ấm, thức ấm cũng đều như vậy.

Người chân chánh tu hành đối với thân năm ấm này, phải khéo sử dụng để tu hành cho được giác ngộ, đừng để nó biến thành ma che khuất Phật tánh, mất giống trí tuệ, không giác ngộ.

3- Ma chết: là con người sau khi chết thành yêu, thành quỉ, hiện hình kỳ quái nhát người sống, hoặc làm cho người sống đau bệnh hay chết. Hoặc người tu hành chân chánh đang tinh tấn dụng công tu hành tiến bộ, bị vô thường đến chết đi, làm dở dang đứt đoạn sự tu hành, cũng gọi là ma chết.

4- Ma trời: là Ma vương và ma chúng ở cõi trời Dục giới, có khả năng biến hóa làm trở ngại việc tiến đạo của người tu hành lúc sắp thành đạo. Thái tử Sĩ-đạt-ta lúc sắp thành đạo, thiên ma hiện hình mỹ nữ, để cám dỗ Ngài trở lại hưởng dục lạc thế gian, không muốn Ngài thành Phật. Vì thiên ma muốn ai cũng đắm chìm trong ngũ dục, để chịu sự thống trị điều khiển của nó, nên khi thấy Thái tử sắp thành Phật, nó hiện ra để phá, làm chướng ngại việc thành đạo của Ngài. Lại nữa thiên ma còn lẫn lộn trong mọi tầng lớp người ngoài xã hội và ngay cả trong đạo. Nhiều khi nó ở ngay bên cạnh mà mình không hay không biết. Chẳng hạn người phát tâm tu hành, không ham muốn danh lợi vật chất nữa chỉ muốn giữ giới thanh tịnh để được an định giải thoát thôi, nhưng lại có người ở bên cạnh xúi giục hùn hạp làm ăn cho có tiền của, để tu cho thoải mái khỏi nợ thí chủ, hoặc xúi giục theo đường tranh danh đoạt lợi, để hưởng ngũ dục thế gian, đó cũng gọi là thiên ma. Tóm lại bất cứ ai quyến rũ xúi bảo người tu tranh danh đoạt lợi, hưởng thọ dục lạc thế gian, đều là thiên ma. Như vậy, lúc nào và nơi nào bên cạnh chúng ta cũng đều có thiên ma. Vì thế chúng ta phải thường xuyên cảnh giác, để đường tu chúng ta không bị thoái bộ. Phật dạy người tu tinh tấn chẳng những phá được phiền não ác nghiệp, mà còn tồi phục được bốn ma, thì sẽ ra khỏi ngục năm ấm và ngục tam giới. Tại sao Phật nói thân năm ấm này là nhà ngục? - Vì con người lúc nào cũng mê chấp thân này là thật là ngã, nên Phật tánh bị che khuất, trí tuệ lu mờ, phiền não bao vây, nghiệp chướng trói buộc, vì vậy mà nói thân năm ấm là nhà tù.

Tam giới là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Cõi chúng ta đang ở là Dục giới, nên chúng sanh ở cõi này, đa số đều bị lòng tham muốn ngũ dục lôi cuốn thúc đẩy. Phật nói: “Tam giới vô an du như hỏa trạch.” Chúng sanh còn ở trong cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, đều không được an ổn, giống như đang ở trong nhà lửa vậy. Tại sao? - Vì chúng sanh ở ba cõi này luôn luôn bị lửa vô thường thiêu đốt, sanh lên chỗ này rồi tử, sanh lên chỗ kia rồi tử; cứ sanh tử, tử sanh, lộn đi lộn lại không biết bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp, không bao giờ ra khỏi. Nên nói tam giới là nhà tù, nhà ngục. Kinh Pháp Hoa, phẩm Thí Dụ nói: Ông Trưởng giả có một ngôi nhà đang bị lửa cháy lớn, các con ông đang ở trong nhà mải mê vui chơi, không hề hay biết nhà cháy và sắp cháy tới thân mình. Ông Trưởng giả thấy đám con dại khờ, ngu si, lửa cháy mà không biết tìm đường chạy thoát, cứ mải mê vui chơi. Ông thương xót các con, gọi chúng ra khỏi nhà, hứa cho xe dê, xe nai, xe trâu. Nghe cha cho xe, các người con ham, mới chạy ra khỏi nhà và thoát nạn lửa cháy. Ông Trưởng giả dụ cho đức Phật, nhà cháy dụ cho ba cõi đang bị lửa vô thường thiêu đốt, con ông Trưởng giả, dụ cho chúng sanh đang thọ hưởng dục lạc trong ba cõi, mà không biết ngũ dục là vô thường, cứ mải mê thọ hưởng không biết tìm đường thoát ra, giống như đang ở trong nhà tù vậy. Người tu cốt yếu là thoát ra ngoài vòng luân hồi sanh tử của tam giới, để được tự do tự tại, chớ đâu phải chỉ quanh quẩn trong tam giới hưởng dục lạc thế gian! Vì thế mà Phật dạy phải tinh tấn tu hành, để thoát khỏi nhà năm ấm và nhà tam giới đang trói buộc chúng ta.

Như vậy, mỗi người chúng ta ai cũng có Phật tánh (Chân tâm) và ai cũng có ma chướng. Nên trên đường tu hành, chúng ta phải nỗ lực tinh tấn phá phiền não nghiệp ác, hàng phục ma chướng, bảo nhậm Phật tánh càng ngày càng tỏ sáng. Chúng ta biết như vậy rồi, thì cứ ngay nơi tâm mình mà tu hành, chớ không mong cầu ở ai khác bên ngoài. Muốn thành Phật thì nuôi lớn tánh Phật ngày càng tỏ sáng càng viên mãn, kết quả sẽ thành Phật. Nếu muốn thành ma thì trưởng dưỡng tham sân si… nơi mình càng ngày càng lớn mạnh thì sẽ thành ma. Thành Phật hay làm ma là do mình, ở đây chúng tôi chỉ có trách nhiệm chỉ cho quí vị biết điều nào nên làm, điều nào không nên làm, để quí vị tự tu sửa và nhận được sự lợi ích trong việc tu hành.
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1739
Tham gia: 11:03, 25/04/14

3. TINH TẤN

Gửi bài gửi bởi KMD »

Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục Giảng Giải
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

Thi Ca 6

Dịch:

BÀI VĂN TRỮ TỪ TỰ RĂN

Ngày tháng nước chảy
Giàu sang mây trôi.
Gió lửa tan rồi
Trẻ già thành bụi.

Hồn phách lìa, sắc thân như mộng
Cuộc mưu sinh, con rối kéo lôi,
Hằng ngày đùa, đưa tay bắt bóng.
Hạc cửu cao đầu đỏ có thừa
Cá vũ môn đuôi hồng chẳng đổi.
Chẳng quay đầu, hồi quang phản chiếu
Hợp tâm yếu, thức tánh thông minh.
Cầu giải thoát, chánh giác viên thành
Nơi trần tục, tâm thanh diệu dụng.
Trong mộng tạo tác
Thức rồi đều không.
Trong mộng tạo, sanh thô sanh tế
Tỉnh giấc rồi, không mảy tóc kẽ tơ.
Tâm thanh tịnh chẳng nhơ chẳng bợn
Thân kiên cố không trước không sau.
Sắc xuân hoa đóa đóa tươi hồng
Trăng thu bóng tròn tròn viên diệu.
Buộc niệm phàm Thánh
Chỉ hiềm là trái hẳn tướng chân.
Lòng quên tử sanh
Liền liễu ngộ xưa nay tánh thật.
Còn mảy tình tam đồ báo ứng
Tơ hào niệm lục đạo tiếp nhân.
Tùy bảy thức có chán có ưa
Phá ba độc không chân không vọng.
Tướng nhân ngã khó thâu khó nhiếp
Kiếp hà sa luân hồi tứ sanh.
Tham sân si cùng đấu cùng tranh
Số tăng-kỳ lang thang chín loại.
Nhận hướng theo khuôn phép vô minh
Luống uổng mất sắc thân tứ đại.
Khéo chuyển đổi các căn hữu lậu,
Liền chứng vào chánh định chân như.

Điên đảo nhị kiến
Là đem lưới bủa cá đầu non.
Tịch diệt nhất như
Cỡi ngược lừa tiến lên bờ giác.
Trong lòng nếu không thiên không đảng
Tai mặc nghe người mắng người chê.
Cầm lửa đốt trời luống tự nhọc
Mắt được thấy là xót là thương.

Cầu Chân như mà đoạn vọng niệm
Dường la to để át tiếng vang.
Bỏ phiền não mà giữ Niết-bàn
Tợ sợ bóng chạy vào nắng trốn.
Chợt vậy theo tâm viên ý mã
Khó tránh khỏi lợi buộc danh ràng.
Không quay về Tổ vức đạo tràng
Đâu tránh khỏi Diêm vương ngục tốt.

Đem bốn chữ “vô thường nhanh chóng”
Không thối chuyển, sáu giặc dẹp yên.
Nhóm lửa hồng chánh định đốt tiêu,
Chứng vào được vô dư Niết-bàn.
Giăng lưới lớn bủa bắt phượng hoàng
Chớ buông chí theo loài chim sẻ.
Nay muốn câu cá ngạc cá kình
Đừng bận bịu ễnh ương ếch nhái.

Chấp tay trân trọng
Bè bạn anh em!
Hoặc mỗi người có thánh có linh
Nên ghé mắt nhìn xem tiến tới.
Chao!

Giảng:


“Trữ từ tự răn” là bài văn Thượng Sĩ làm ra để tự răn nhắc mình. Trữ là tuôn chảy tất cả những gì chứa ở trong đều tuôn ra hết. Từ là lời nói hay câu văn. “Trữ từ tự răn” là lời nói, được tuôn ra hết không chứa chấp trong lòng, để tự răn nhắc mình.

Ngày tháng nước chảy
Giàu sang mây trôi.


Đây là hai câu mở đầu, Thượng Sĩ tự nhắc mình cũng như nhắc mọi người: ngày, tháng là thời gian trôi qua mau như nước chảy không dừng. Giàu có sang trọng giống như mây nổi trôi trên hư không, có đó rồi mất đó, hư ảo không bền chắc.

Gió lửa tan rồi
Trẻ già thành bụi.


Khi phong đại và hỏa đại nơi thân tứ đại này không tụ hội nữa, nó tan ra thì người già cũng như người trẻ trở thành cát bụi. Con người khi thở ra không hít vào thì tim ngừng đập, máu ngừng chảy, thân bất động nằm trơ ra đó. Thân thể từ đầu tới chân lạnh dần, rồi sình chướng to lên, da thịt nứt nẻ, nước vàng chảy ra, thịt da rữa nát, gân xương lìa từng khúc, mục nát thành cát bụi. Thượng Sĩ tự nhắc mình cũng như nhắc chúng ta nhớ cuộc đời từ thân tứ đại này cho đến sự giàu sang phú quí, nó phù du giả tạm, không bền, không chắc, không thật.

Hồn phách lìa, sắc thân như mộng
Cuộc mưu sinh con rối kéo lôi,
Hằng ngày đùa, đưa tay bắt bóng.

Hồn phách xa lìa thân xác này rồi thì thân xác này tan rã, mấy mươi năm sống ở cõi đời giống như giấc mộng, có gì đâu! Hiện tại tất cả chúng ta thân xác tuy chưa tan nát, nhưng gẫm lại chúng ta sống mấy mươi năm qua thấy như giấc mộng. Cuộc mưu sinh, lúc làm dân khi làm quan, nay làm nghề này mai làm nghề kia lăng xăng, rốt cuộc rồi nhìn lại thấy như con rối múa may, không có nghĩa gì. Chính chỗ này Ngũ Tổ Pháp Diễn một hôm ra giữa chúng nói:

Hôm qua Sơn tăng vào thành thấy một hàng rào trong là người gỗ, liền lại gần xem, hoặc thấy đẹp đẽ kỳ lạ, hoặc thấy xấu xa vô kể, chuyển động, đi, ngồi, xanh, vàng, đỏ, trắng mỗi mỗi thấy rõ, khi xem kỹ vốn là miếng vải xanh che lại ở trong có người. Lão tăng không thể chịu nổi, bèn đến hỏi:

- Ông tên gì?

Người kia nói:

- Hòa thượng già xem là xong, hỏi tên làm gì?

Người đi qua đi lại đẹp xấu đó là gì? - Là con rối, nó đi qua đi lại, thấy khi đẹp khi xấu. Sở dĩ nó hoạt động được như thế là do người ở phía sau giựt dây, hoặc gắn máy điện, nên nó mới múa may đi lại được. Như vậy, con rối hoạt động múa may mà chúng ta thấy đó nó không thật. Cũng thế, cuộc đời chúng ta khi thăng khi trầm, lúc thì phú quí, lúc thì bần cùng, lúc được người tán thưởng, lúc bị miệt khinh... giống như con rối quay cuồng không thật, thấy thì thấy đừng có hỏi. Đó chỉ là chuyện đùa đưa tay bắt bóng hằng ngày mà thôi. Trong cuộc sống chúng ta đuổi theo cái này, chụp bắt cái kia, giống như những đứa trẻ nhà quê xem phim, thấy dọn cơm thịnh soạn chạy tới bưng ăn, nó chỉ tốn công mà không được no dạ. Để thấy chúng ta say mê đắm đuối người cảnh chẳng khác gì người đưa tay bắt bóng, vừa nắm là mất chẳng được gì. Thượng Sĩ tự cảnh tỉnh Ngài, mà cũng cảnh tỉnh chúng ta nhìn cuộc đời là như vậy.

Hạc cửu cao đầu đỏ có thừa
Cá vũ môn đuôi hồng chẳng đổi.


Hạc cửu cao được dẫn từ sách Thanh Dị Lục của Đào Cốc, trong câu chuyện Vũ Tống khi làm Vĩnh vương, trong vườn ngự, ông nuôi nhiều chim, mỗi loài ông đặt cho một cái tên. Vịt trắng ông đặt tên là Sách Tiên Sinh, gà ông đặt là Trường Minh Đô Úy, rùa ông đặt là Linh Thọ Tử, hạc ông đặt tên Cửu Cao Xử Sĩ. Hạc cửu cao đầu đỏ ngầm ý nói con người có khả năng thuộc hạng tài giỏi. Cá vũ môn chỉ cho cá chày đuôi đỏ. Ở Vũ Môn bên Trung Hoa tới mùa hoa đào nở thì cá chày đua nhau nhảy, con nào nhảy qua ba cấp liền hóa thành rồng. Con hạc có tài, con cá chày hóa thành rồng, không đổi thay bản chất của nó. Vẫn là hình thức đó, cá chày vượt qua được ba cấp, nó biến thành rồng. Con hạc ở vườn ngự được đặt tên là Cửu Cao Xử Sĩ, nó cũng chỉ là con hạc thôi.

Chẳng quay đầu, hồi quang phản chiếu
Hợp tâm yếu thức tánh thông minh.


Tại sao chúng ta không quay đầu lại, để hồi quang phản chiếu cho hợp với Tâm yếu của mình, để thấy Thức tánh được sáng suốt?

Cầu giải thoát, chánh giác viên thành
Nơi trần tục tâm thanh diệu dụng.


Khi Thức tánh sáng suốt rồi, nếu cầu giải thoát sẽ được thành tựu chánh giác một cách viên mãn. Tóm lại, khi biết quay đầu hồi quang phản chiếu và hợp với Tâm yếu rồi thì Thức tánh được sáng suốt. Lúc bấy giờ muốn được giải thoát liền được thành tựu chánh giác viên mãn. Nếu chúng ta ở trong trần tục không cầu giải thoát thì tâm vẫn thanh tịnh đầy đủ diệu dụng không thiếu. Ở trước, Thượng Sĩ nêu lên những hình ảnh cảnh tượng buồn giả dối tạm bợ, sau nhắc cho mọi người: nếu có ý chí quyết vượt qua cảnh trần lao sanh tử thì sẽ được thành Phật. Nếu không thành Phật ở thế gian, tâm cũng được thanh tịnh có đủ diệu dụng.

Trong mộng tạo tác
Thức rồi đều không.


Trong mộng chúng ta thấy khi làm cái này khi làm cái kia, có lúc làm quan, có lúc làm giặc... Nhưng khi thức giấc rồi thì tất cả những cái đó không còn.

Trong mộng tạo sanh thô sanh tế
Tỉnh giấc rồi không mảy tóc kẽ tơ.


Trong mộng chúng ta tạo tác việc thô (xấu) việc tế (tốt) tức là thấy cảnh dữ cảnh lành, khi tỉnh giấc rồi chẳng còn mảy may nào cả. Cuộc sống của con người giống như giấc mộng. Thế mà chúng ta đâu có thấy như giấc mộng, cứ theo đuổi nắm bắt hoài, nên không nhận ra cái Thể chân thật ở nơi mình. Thể chân thật vốn không sanh không diệt, giống như mặt biển lúc nào cũng phẳng lặng, hễ có gió thổi thì sóng dậy ầm ầm, khi trồi lên khi lặn xuống. Những lượn sóng trồi lên lặn xuống, đối với mặt biển chỉ là cái tạm bợ chợt có chợt không, không thật. Cũng vậy, kiếp người nay còn mai mất đối với Tâm thể bất sanh bất diệt, giống như những lượn sóng chợt có chợt không đối với mặt biển phẳng lặng vậy. Những lượn sóng có trong thời gian rất ngắn, cuộc sống của kiếp người cũng ngắn ngủi chừng vài mươi năm hoặc năm bảy mươi năm. Nhìn lại thấy như giấc mộng. Trong mộng cũng có cuộc sống, cũng ăn cũng nói, cũng tranh giành danh lợi, cũng hơn cũng thua... đủ thứ. Khi tỉnh giấc thì mọi sanh hoạt trong mộng không còn. Cũng vậy, những cái hơn thua được mất của kiếp người, khi nhắm mắt vẫn là tay không, chỉ có Thể chân thật mới vĩnh cửu không mất, còn những cái chúng ta có trong đời chỉ là tạm bợ không chân thật, nên nói không còn mảy tóc kẽ tơ.

Tâm thanh tịnh chẳng nhơ chẳng bợn
Thân kiên cố không trước không sau.


Tâm thể chân thật có sẵn nơi mỗi người vốn thanh tịnh không bợn không nhơ, đó chính là Pháp thân kiên cố, không hình không tướng, nên không có trước có sau. Nếu sống được với Tâm thể thanh tịnh không nhơ không sạch, hay Pháp thân kiên cố thì thấy mọi cái trên đời này đều tươi đẹp trong sáng.

Sắc xuân hoa đóa đóa tươi hồng
Trăng thu bóng tròn tròn viên diệu.


Mùa xuân từng đóa hoa từng đóa hoa nở sắc hồng tươi thắm, mặt trăng mùa thu tròn sáng thật mầu nhiệm. Người tu khi nhận ra Tâm thể thanh tịnh không chút bợn nhơ, đó là thể nhập được Pháp thân, không còn bị thời gian ngoại cảnh chi phối. Lúc ấy nhìn thấy muôn vật trước mắt đẹp tươi sáng sủa không còn u tối nữa.

Buộc niệm phàm Thánh
Chỉ hiềm là trái hẳn tướng chân.


Người còn buộc niệm phân chia hai bên đây là phàm kia là Thánh thì trái với Tướng chân thật, vì Tướng chân thật không phàm không Thánh. Nếu còn thấy hai bên, còn phân biệt thì Tướng chân thật bị khuất lấp.

Lòng quên tử sanh
Liền liễu ngộ xưa nay tánh thật.


Trong lòng không còn chấp, không còn thấy sanh tử hai thứ đối đãi nhau, ngay khi ấy liền liễu ngộ được Tánh chân thật của chính mình.

Còn mảy tình tam đồ báo ứng
Tơ hào niệm lục đạo tiếp nhân.

Nếu còn một mảy tình cảm dấy khởi là bị báo ứng trong ba đường ác là địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh; chỉ một niệm nhỏ nhiệm như sợi tơ cũng là còn cái nhân tiếp nối trong lục đạo.

Tóm lại, nếu chúng ta còn chấp, còn khởi vọng niệm là còn tiếp tục đi trong tam đồ lục đạo.

Tùy bảy thức có chán có ưa
Phá ba độc không chân không vọng.

Nếu sống chạy theo bảy thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt-na thức) thì có chán có ưa, có khen có chê, có thương có ghét… Vì bảy thức này là bảy thức tạo nghiệp, chỉ có thức thứ tám là A-lại-da thức không tạo nghiệp, song nó chứa tất cả chủng tử nhiễm tịnh. Nếu chạy theo bảy thức là tạo tác các nghiệp sanh tử. Nếu phá được ba độc tham, sân, si thì không còn thấy có chân có vọng nữa.

Tướng nhân ngã khó thâu khó nhiếp
Kiếp hà sa luân hồi tứ sanh.


Tướng nhân ngã khó nhiếp phục được, vì lúc nào cũng thấy mình thật người thật, nên thương mình, quí trọng mình, lo cho mình; ai làm vừa ý thì yêu, ai làm trái ý thì ghét... do đó mà tạo bao nhiêu thứ nghiệp. Nếu còn thấy có mình có người thì không bao giờ ra khỏi vòng luân hồi sanh tử, hoặc sanh ra trong loài sanh bằng thai, sanh bằng trứng, sanh ra trong loài ở nơi ẩm thấp, trong loài do biến hóa mà có thân.

Tham sân si cùng đấu cùng tranh
Số tăng-kỳ lang thang chín loại.


Nếu còn thấy ta thấy người thì còn tham, còn sân, còn si, còn nuôi dưỡng nó thì còn tranh giành hơn thua với người, sẽ đi trong luân hồi sanh tử... Còn nhân ngã thì lang thang trong tứ sanh, còn tham sân si thì lang thang trong chín loài lâu vô số kiếp.

Nhận hướng theo khuôn phép vô minh
Luống uổng mất sắc thân tứ đại.


Nếu cứ thấy, biết, nói làm theo chiều hướng vô minh thì luống uổng cái thân tứ đại này sanh ra đời không làm lợi ích cho ai hết.

Khéo chuyển đổi các căn hữu lậu
Liền chứng vào chánh định chân như.


Nếu khéo chuyển sáu căn, không để sáu căn chạy theo sáu trần, không dính với sáu trần thì sẽ hợp với Tâm thể chân như. Ở trước, Thượng Sĩ chỉ cho con đường đưa tới tứ sanh cửu loại. Cửu loại là những chúng sanh sanh bằng thai, sanh bằng trứng, sanh ở chỗ ẩm ướt, sanh bằng cách biến hóa, chúng sanh có sắc, chúng sanh vô sắc, chúng sanh có tưởng, chúng sanh vô tưởng, chúng sanh phi hữu tưởng phi vô tưởng. Sau đó Thượng Sĩ nhắc chúng ta khéo chuyển sáu căn hữu lậu, không để cho nó dính mắc với sáu trần mới thể nhập được chánh định chân như.

Điên đảo nhị kiến
Là đem lưới bủa cá đầu non.


Nếu còn điên đảo thấy hai bên: có không, phải quấy, hơn thua... mà cầu Chân như là đem lưới bủa trên ngọn núi để bắt cá. Muốn bắt cá mà đem lưới giăng bủa trên núi để bắt là việc làm của người điên. Cá ở dưới hồ dưới sông, giăng lưới ở hồ sông mới bắt được cá, chớ đem lưới giăng bủa trên non làm sao có cá? Không điên là gì? Người tu mong cầu giải thoát mà chấp hai bên giống như bủa lưới trên núi để bắt cá vậy. Tôi xin hỏi quí vị hiện có mặt ở đây, có ai không chấp hai bên không? Muốn được giải thoát mà chấp hai bên, giống như ai? Hôm nào có một Phật tử lên đây hỏi: “Quí thầy quí cô có còn thấy mình thấy người không? Còn thấy phải thấy quấy không?” Quí vị gật đầu nói còn. Phật tử ấy không nói gì hết, đem lưới lên giăng ngay trên rừng thông. Quí vị hỏi: “Đạo hữu làm gì đó?” Phật tử ấy trả lời: “Tôi bủa lưới để bắt cá.” Chừng đó quí vị mới giựt mình thức tỉnh. Nhiều người tu mong cầu giải thoát, mà kiến chấp hai bên không chừa thì làm sao giải thoát được? Nếu buông hết kiến chấp hai bên, không còn kẹt không còn dính pháp nào mới được giải thoát.

Tịch diệt nhất như
Cỡi ngược lừa tiến lên bờ giác.


Người tu không còn kiến chấp, tâm lặng lẽ nhất như sẽ có diệu dụng như cỡi ngược lừa mà lên được đầu núi vậy. Thượng Sĩ chỉ cho thấy khi tâm còn điên đảo thì thường làm việc vô ý nghĩa, khi tâm được tịch diệt nhất như rồi, thì từ cái vô ý nghĩa biến thành có ý nghĩa, được công dụng lợi ích không thể nghĩ lường giống như cỡi ngược lừa mà vẫn tiến lên bờ giác.

Trong lòng nếu không thiên không đảng
Tai mặc nghe người mắng người chê.


Nếu lòng không còn thiên lệch tư vị bè phái, thì tai nghe người chê mắng, thấy cũng như không, chẳng có gì phiền muộn, lòng an nhiên tự tại. Sở dĩ nghe chê mắng lòng buồn phiền giận tức, tại vì tâm có thiên lệch tư vị bè phái.

Cầm lửa đốt trời luống tự nhọc
Mắt được thấy là xót là thương.


Đối với người tâm không còn thiên vị bè phái mà chửi mắng họ, giống như người cầm đuốc đốt trời, trời không cháy, làm như thế chỉ tự nhọc mà vô ích. Cũng vậy, nếu lòng mình không có thiên vị phe đảng thì trước lời chê cười mắng chửi vẫn thản nhiên vô ngại, tâm rỗng rang như hư không, không một chút vướng bận, giống như châm lửa đốt trời, trời không cháy vậy. Ngược lại, thấy họ mắng chửi tạo nghiệp bất thiện sẽ thọ quả báo khổ, lại càng thương xót. Giả sử có người cầm đuốc ra đứng giữa sân đưa cây đuốc lên hư không, nói “tôi đốt trời, tôi đốt trời”, quí vị có thấy thương họ không? Thật ngu si làm việc vô nghĩa không có kết quả tốt, chỉ nhọc sức, thật đáng thương! Người tu, tâm không còn vướng bận trước mọi khen chê, thấy người mê mặt mày đỏ gay tới mắng chửi đến sôi bọt mồm, mệt lả, lòng thương vô hạn, vì thấy họ mê mờ tạo nghiệp bất thiện thọ quả khổ. Nhưng, bây giờ đụng tới thì quí vị nổi giận là tại vì lòng còn thiên vị bè đảng, động tới thấy xốn xang khó chịu.

Cầu chân như mà đoạn vọng niệm
Dường la to để át tiếng vang.


Nếu còn thấy Chân như ngoài vọng niệm, vọng niệm ngoài Chân như, hai cái khác nhau, nên muốn cầu Chân như dứt vọng niệm. Nhưng kỳ thật thì vọng niệm không rời Chân như. Giống như sóng dấy lên từ mặt biển, bây giờ muốn thấy mặt biển phẳng lặng đùa sóng qua chỗ khác. Làm như vậy có thấy được mặt biển phẳng lặng không? Chừng nào thấy? Muốn thấy được mặt biển phẳng lặng phải chờ cho gió dừng thì sóng lặng, sóng lặng thì mặt biển lặng yên. Khỏi phải ra công đùa sóng làm gì cho nhọc sức. Mặt biển phẳng lặng là nước, sóng cũng là nước, vì gió thổi nên nước dấy lên thành động, dù cho triệu triệu lượn sóng cũng ở trên mặt biển thôi. Khi gió dừng thì sóng lặng mặt biển yên. Cũng vậy, tôi dạy quí vị tu là thấy vọng tưởng khởi, buông, không theo; chỉ nhìn thấy nó khởi, buông là nó lặng, không cần xua đuổi đi đâu cả, vì vọng tưởng khởi động từ Tâm thể lặng yên. Đó là chủ yếu của sự tu hành. Chúng ta khéo tu thì công phu ít, kết quả nhiều. Ngược lại, vụng tu thì công phu nhiều kết quả chẳng bao nhiêu. Có nhiều người nghe nói vọng tưởng là cái nhân tạo nghiệp nên sợ, muốn xua đuổi nó đi cho hết nghiệp được giải thoát. Nhưng làm sao đuổi? Thấy nó, biết nó là vọng, không theo, nó tự lặng. Không cần phải làm gì khác nữa. Quí vị nắm vững then chốt tu hành thì dụng tâm tu không khó. Biết rõ vọng tưởng là động cơ tạo nghiệp dẫn đi trong luân hồi sanh tử. Nhưng vọng tưởng không phải là thứ thật, nên đừng có quan trọng quá, khiến cho việc tu hành trở thành khó khăn. Đó là cầu Chân như mà đoạn vọng niệm và la to để át tiếng vang. La to để át tiếng vang có được không? Tiếng vang dội lại từ tiếng la, bây giờ la to lên để át tiếng vang, đó là việc làm vô nghĩa của người mê muội.

Bỏ phiền não mà giữ Niết-bàn
Tợ sợ bóng chạy vào nắng trốn.

Thấy phiền não là xấu xa hèn hạ, cần phải bỏ, Niết-bàn là tốt đẹp quí báu, mong cầu để được. Bỏ cái này để được cái kia, giống như đi ngoài nắng, thấy bóng đi theo, muốn không có bóng theo nữa mà cứ đi mãi ngoài nắng, càng đi bóng càng đuổi theo, không bao giờ hết. Muốn hết bóng là phải đi vào trong mát. Chúng ta đừng quan niệm phiền não là thật, lo bỏ để đạt được Niết-bàn. Nhưng, không bỏ phiền não thì tu cái gì? Tôi xin hỏi quí vị phiền não là gì? Nghe người ta nói trái tai nổi giận là phiền não. Thấy sắc đẹp, thấy tiền tài khởi lòng tham muốn là phiền não. Vậy, tu đối với những thứ này phải làm sao? - Khi nổi nóng chỉ cần nhìn tường tận thấy rõ cơn nóng giận không thật, không khởi thêm một niệm nào khác nữa thì cơn giận từ từ lặng mất, ngay đó là Niết-bàn. Chớ không phải bỏ cái này cầu cái kia. Cái gì cụ thể mới bỏ, chẳng hạn hòn sỏi đang nằm trong túi vất nó đi là bỏ. Nếu trong túi không có sỏi không có cát thì bỏ cái gì? Tuy nhiên, cơn sân giận dấy lên thì hùng hổ lắm, có khi la quát inh ỏi. Chợt tỉnh nhìn lại thấy rõ bản chất nó không thật, chỉ là hơi nóng từ dưới xông lên, hà ra một hồi thì hết. Có gì thật đâu? Tham cũng vậy, khi đối cảnh thấy cảnh đẹp khởi lòng ưa muốn, khi cảnh mất rồi thì tham cái gì? Không có đối tượng thì lòng tham tự mất. Tham sân nó không có chỗ nơi, gặp duyên thì khởi, hết duyên thì dừng vì bản chất nó không thật. Chỉ cần dùng trí Bát-nhã nhìn thẳng nó, thấy rõ không thật thì tự nó tan. Từ lâu chúng ta cho rằng phiền não là thật, nên cố bỏ nó, đâu có ngờ phiền não là những ý niệm, là những từ ngữ không thật. Chỉ cần thấy rõ không thật thì không bị nó chi phối. Nếu thấy nó thật thì bị nó làm não loạn thân tâm. Tu hành mà có quan niệm bỏ phiền não giữ Niết-bàn, chẳng khác nào trốn bóng mà chạy ra nắng vậy.

Chợt vậy theo tâm viên ý mã
Khó tránh khỏi lợi buộc danh ràng.


Tâm viên ý mã là vọng tưởng dấy khởi chạy chỗ này chạy chỗ kia, nhanh như khỉ như ngựa. Người tu mà để tâm chạy rong, thấy cảnh đẹp thì ưa, thấy của quí thì thích, nghe lời khen thì mừng, nghe lời chê thì giận. Người như thế nhất định sẽ bị danh lợi ràng buộc không thể nào thoát được.

Không quay về Tổ vức đạo tràng
Đâu tránh khỏi Diêm vương ngục tốt.


Tổ vức đạo tràng là nơi tu hành đạt quả vị Phật Tổ. Nếu không quay về chỗ tu hành, để tu cho thành Phật Tổ thì không tránh khỏi Diêm vương ngục tốt khảo tra, vì chạy theo tâm viên ý mã tranh danh đoạt lợi tạo tội ác.

Đem bốn chữ "vô thường nhanh chóng"
Không thối chuyển, sáu giặc dẹp yên.


Người tu luôn luôn phải nhớ bốn chữ “Vô thường nhanh chóng” không được quên, để nỗ lực tu, không thối chuyển, lo điều phục sáu thằng giặc ở mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Mắt thấy sắc không chạy theo sắc, tai nghe tiếng không chạy theo tiếng, mũi ngửi mùi không chạy theo mùi, lưỡi nếm vị không chạy theo vị, thân xúc chạm không đắm nhiễm, ý duyên pháp trần liền biết dừng ngay. Vì lúc nào cũng thấy cuộc đời là vô thường, tham làm gì? sân làm gì? Ngang đó dừng, không đắm nhiễm không chạy theo sáu trần là đã dẹp được sáu thằng giặc yên rồi.

Nhóm lửa hồng chánh định đốt tiêu
Chứng vào được Vô dư Niết-bàn.


Người tu Thiền, khi tâm được an định thì trí tuệ phát sáng, những thứ lậu hoặc như tham lam, sân giận, si mê... tự tan vỡ không còn nữa, nên nói nhóm lửa chánh định đốt tiêu. Khi vô minh lậu hoặc đã sạch hết rồi, tâm bất động trước mọi duyên cảnh thuận nghịch, không nhập Vô dư Niết-bàn là gì!

Giăng lưới lớn bủa bắt phượng hoàng
Chớ buông chí theo loài chim sẻ.

Muốn bắt chim phượng hoàng là loài chim lớn, phải giăng lưới cho thật rộng và thật cao, đừng để ý đến loài chim sẻ nhỏ đang bay lượn ở dưới. Cũng vậy, người tu nếu vì việc giải thoát sanh tử là việc lớn là việc cao thượng, thì việc nhỏ mọn như hơn thua, phải quấy, tốt xấu không đáng phải lưu tâm để ý. Vậy mà có nhiều người lưu tâm để ý. Ý chí thì lớn, tu muốn thành Tổ thành Phật, ai nói hơn một chút là không nhịn được. Như vậy, chẳng khác nào bủa lưới để lưới phượng hoàng mà lại rình bắt chim sẻ, thật là khờ khạo.

Nay muốn câu cá ngạc cá kình
Đừng bận bịu ễnh ương ếch nhái.


Muốn câu những con cá lớn là cá ngạc cá kình, thì đối với loài nhỏ như ễnh ương ếch nhái đừng có bận tâm. Người tu, ý chí xuất gia là ý chí siêu quần bạt chúng, chớ đâu phải thường, thế mà vô chùa nghe một vài câu nói nhẹ nhẹ mà nhịn cũng không được, buồn, thối chí bỏ đi. Hoặc gặp cảnh không vui thì muốn ra đời. Thật là muốn làm chuyện to bằng trời, mà chỉ vì một vài chuyện nhỏ bằng sợi tơ sợi tóc, để hỏng cả đời tu. Bốn câu này Thượng Sĩ cảnh tỉnh người có chí muốn làm việc lớn thì đừng có màng đến việc nhỏ. Ai mà bám vào việc nhỏ thì không bao giờ thực hiện được việc lớn. Bốn câu này Tăng chúng phải thuộc lòng không được quên. Từ nay về sau có việc gì xảy ra không được thưa gởi mà phải tự xử. Nếu thưa kiện thì tôi hỏi: “Muốn giăng lưới lớn bắt phượng hoàng hay buông chí theo loài chim sẻ?” Hoặc hỏi: “Muốn câu cá ngạc cá kình hay bận bịu với ễnh ương ếch nhái?” Hỏi như vậy quí vị mới xấu hổ. Đem ý chí thực hiện việc trên trời trên mây mà tay chân thì cứ bắt trùng bắt dế, thật là trái ngược!

Chấp tay trân trọng
Bè bạn anh em!
Hoặc mỗi người có thánh có linh
Nên ghé mắt nhìn xem tiến tới.
Chao!


Thượng Sĩ chấp tay trân trọng tất cả anh em bạn bè, nhắc rằng ai cũng có thánh có linh nơi mình, nên để mắt nhìn xem mà tiến tới, đừng để kẹt dính mà thối lui. Chao! Nghĩa là than ôi!

Thượng Sĩ làm bài kệ này tự răn mình, mà cũng là răn nhắc tất cả chúng ta nên nỗ lực tiến tu. Cứ mỗi đoạn Ngài nêu lên những cái sai lầm, rồi nhắc tới nhắc lui bảo chúng ta nên khéo tu. Cuối cùng Ngài dạy chúng ta, hễ có chí lớn muốn vươn lên thì phải thực hiện cho kỳ được, đừng quan tâm đến những cái nhỏ nhặt không ra gì làm hỏng mất chí lớn.
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Phong tục - Tín ngưỡng”