Tôi xin đăng lại cả bài viết trên như sau:
III – Thân - Vùng Tâm - Dụng Thần của Tứ Trụ
1 - Thân của tứ trụ
Hành và vị trí của can trụ ngày được gọi là
Nhật Chủ, Nhật Nguyên hay
Thân, nó đại diện cho người có tứ trụ đó. Can trụ ngày mang hành gì thì
Thân mang hành đó. Can trụ ngày chỉ có
1 điểm vượng ở lệnh tháng theo
“Bảng Sinh Thành Lão Tử Dưỡng” nhưng
Thân ngoài điểm vượng này ra nó còn có thêm điểm vượng hỗ trợ từ các can chi khác trong tứ trụ có thể
sinh hay
phù trợ cho nó
(như các can chi Kiêu Ấn hay Tỷ Kiếp... có thể sinh hay phù trợ cho hành của Thân). Trong đó ta phải xét đến số điểm vượng còn lại của các can chi này
khắc nhau ở xa hay gần (ở đây chỉ xét về khắc ngũ hành) trong tứ trụ với nhau. Cuối cùng các điểm vượng còn lại của các can chi này
(sau khi đã khắc nhau) ở xa hay gần can trụ ngày có
tác động tới can trụ ngày
(coi như là vị trí nhà ở của Thân) phải khác nhau. Cho nên ta gọi
vùng tâm là vùng mà các điểm vượng này tác động với nhau là như nhau. Hiểu đơn giản là tổng điểm hạn trong
vùng tâm của 5 hành có thể so sánh với nhau mà không còn sợ chúng ở xa hay gần với nhau
(tức không còn chuyện “Nước xa không cứu nổi lửa gần” nữa), khi đó mới biết
Thân là vượng hay nhược so với 4 hành kia. Do vậy tôi đã định nghĩa trong
vùng tâm, hành của
Thân phải lớn hơn mỗi hành kia ít nhất là
1 điểm vượng thì mới được gọi là
Thân vượng còn lại là
Thân nhược (không có Thân trung bình).
2 - Vùng tâm và vùng ngoài
Các quy ước trong sơ đồ :
a - Tại các góc của các hình chữ nhật là vị trí của các can và chi trong tứ trụ.
b - Các can chi trong chữ
V (mầu xanh) được coi là ở trong
vùng tâm còn các can chi ở ngoài chữ
V (mầu trắng) được xem là ở
vùng ngoài.
c - Hai can chi được coi là gần với nhau khi chúng không phải đi qua một can chi nào cả
(kể cả can chi cùng trụ).
d - Hai can chi bị coi là cách một ngôi khi chúng phải đi qua 1 can hay 1 chi.
e - Hai can chi bị coi là cách 2 ngôi khi chúng phải đi qua 2 can chi.
f - Hai can chi bị coi là cách 3 ngôi khi chúng phải đi qua 3 can chi.
Sơ đồ ví dụ 1 : Nam sinh ngày 10/9/1992 lúc 5,47’ có tứ trụ :
Năm Nhâm Thân – tháng Canh Tuất – ngày Kỷ Sửu – giờ Đinh Mão
Được biểu diễn qua sơ đồ sau :

Vì can trụ ngày trong tứ trụ này là
Kỷ mang hành
Thổ nên
Thân của tứ trụ này mang hành
Thổ.
Ta thấy sơ đồ
hình chữ nhật trên có 4 trụ, trụ đầu tiên là trụ năm
Nhâm Thân, tới trụ thứ hai là trụ tháng
Canh Tuất, trụ thứ ba là trụ ngày
Kỷ Sửu và trụ thứ tư là trụ giờ
Đinh Mão.
Qua
“Bảng Sinh Thành Lão Tử Dưỡng” ta ghi các điểm vượng theo lệnh tháng
Tuất của các can chi trong tứ trụ ngay bên cạnh chúng như sơ đồ trên đã mô tả
(chính xác tới nay 22/9/2025).
Trong vùng chữ
V trên có
mầu xanh được gọi là vùng tâm gồm có can
Canh, Kỷ, Đinh và chi
Sửu, còn
vùng ngoài mầu trắng có can
Nhâm, chi
Thân, Tuất và
Mão.
Qua các ví dụ thực tế kiểm nghiệm tôi đã tìm ra can
Nhâm, chi
Tuất và
Mão khi vào vào
vùng tâm điểm vượng của nó giảm đi 2/5, còn chi
Thân là xa nhất khi vào tới
vùng tâm điểm vượng của nó giảm đi 1/2. Vì các can chi khi càng xa can trụ ngày thì sự tác động của nó tới can trụ ngày phải yếu đi mới đúng theo câu
“Nước Xa Không Cứu Nổi Lửa Gần”. Hiểu một cách đơn giản là khi đã vào vùng tâm thì số điểm vượng của 5 hành này không còn yếu tố
xa hay gần với nhau nữa.
Nhưng đầu tiên ta phải xét đến sự tương sinh hay tương khắc ngũ hành của các can chi ở xa hay gần nhau trong tứ trụ, sau đó mới tính đến chúng vào vùng tâm thì còn lại là bao nhiêu điểm vượng.
3 - Khả năng khắc nhau của các can chi trong tứ trụ
a - Can và chi cùng trụ khắc với nhau được gọi là khắc
trực tiếp. Can hay chi bị khắc trực tiếp giảm 1/2đv
(điểm vượng) của nó và nó trở thành
vô dụng không còn khả năng sinh hay nhận được sinh hoặc khắc - viết tắt là
sinh khắc hay
tác động với các can chi khác
(do vậy ta phải khoanh tròn can chi này để tránh nhầm lẫn).
b - Can hay chi bị
khắc gần (tức không cùng trụ) bị giảm 1/3đv của nó nếu khác dấu
(tức âm khắc dương và ngược lại), giảm 1/2,5 đv của nó nếu cùng dấu
(tức âm khắc âm hay dương khắc dương), nó cũng trở thành vô dụng không còn khả năng
tác động tới các can chi khác
(do vậy ta phải khoanh tròn can chi này để tránh nhầm lẫn).
Ví dụ như sơ đồ trên ta phải khoanh tròn chi Sửu vì Sửu bị Mão khắc gần giảm 1/2,5đv của nó
(vì khắc cùng dấu, âm với âm).
c - Nếu can hay chi bị khắc cách 1 ngôi thì bị giảm 1/5đv của nó nếu khác dấu, giảm 1/4đv của nó nếu cùng dấu, nhưng nó vẫn còn khả năng
tác động tới các can chi khác.
Ví dụ như sơ đồ trên ta thấy Kỷ bị Mão khắc cách 1 ngôi giảm 1/4đv của nó
(vì khắc cùng dấu), còn Tuất bị Mão khắc cách 1 ngôi giảm 1/5đv của nó
(vì khắc khác dấu, âm với dương). Canh bị Đinh khắc cách 1 ngôi giảm 1/5đv của nó
(vì khắc khắc dấu). Nhâm bị Kỷ khắc cách 1 ngôi giảm 1/5đv của nó
(vì khắc khắc dấu), Nhâm còn bị Tuất khắc cách 1 ngôi giảm 1/4đv của nó (vì khắc cùng dấu).
d - Nếu can hay chi bị khắc cách 2 ngôi thì nó bị giảm 1/10đv của nó nếu khác dấu, giảm 1/9đv nếu cùng dấu, nhưng nó vẫn còn khả năng
tác động tới các can chi khác.
e - Nếu can hay chi bị khắc cách 3 ngôi thì nó bị giảm 1/20đv của nó nếu khác dấu, giảm 1/19đv nếu cùng dấu, nhưng nó vẫn còn khả năng
tác động tới các can chi khác.
Ví dụ như sơ đồ trên ta thấy Thân bị Đinh khắc cách 3 ngôi giảm 1/20đv của nó
(vì khắc khắc dấu).
Bảng tra can chi khắc nhau trong tứ trụ
4 - Khả năng sinh cho nhau của các can chi trong tứ trụ
a - Can hay chi cùng trụ không bị can chi bên cạnh nó khắc gần có thể sinh được cho nhau khi can hay chi đó có can hay chi bên cạnh mang hành sinh cho nó
(kể cả hành trước và sau khi hóa cục khác hành) thì nó sinh được cho can hay chi cùng trụ
1/2đv của nó
(điểm vượng của nó sau khi sinh không bị giảm), sinh được 1/3đv của nó nếu can hay chi bên cạnh cùng hành với nó.
Ví dụ nhưsơ đồ trên ta thấy trụ năm là Nhâm Thân, cả Nhâm và Thân không bị khắc gần mà chi Thân mang hành Kim có thể sinh được cho Nhâm mang hành Thủy. Do vậy khi bên cạnh chi Thân là chi Tuất mang hành Thổ sinh cho Thân mang hành Kim nên Thân đã sinh được cho Nhâm 1/2đv của nó (chưa tính đến điểm vượng của Thân bị giảm 1/20đv của nó do Đinh trụ giờ khắc cách 3 ngôi),
Ví dụ như sơ đồ trên ta thấy trụ tháng Canh Tuất, cả Canh và Tuất đều không bị khắc gần nên Tuất mang hành Thổ có thể sinh được cho can Canh cùng trụ. Do vậy khi bên cạnh chi Tuất có Sửu cùng hành (Thổ) nên Tuất sinh được cho Canh (Kim) cùng trụ 1/3đv của nó (chưa tính đến điểm vượng của Tuất bị giảm 1/5đv của nó do Mão trụ giờ khắc cách 1 ngôi).
b - Ít nhất 3 can hay 3 chi liền nhau không bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp mà tương sinh liên tiếp được cho nhau thì can hay chi ở giữa có thể sinh được cho can hay chi sinh tiếp (thứ ba) là 1/6,5đv của nó, nhưng chỉ sinh được 1/12đv của nó khi can hay chi đầu tiên (thứ nhất) cùng hành với nó.
Ví dụ như sơ đồ trên ta thấy cả 4 can của tứ trụ là Đinh, Kỷ, Canh và Nhâm đều không bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp mà chúng tương sinh liên tiếp được cho nhau (từ 4 can chi trở lên như vậy được gọi là Dòng Lưu). Do vậy Kỷ trụ ngày có thể sinh được cho Canh trụ tháng 1/6,5đv của nó (nếu can trụ giờ cùng hành với Kỷ trụ ngày - như Mậu hay Kỷ - thì Kỷ trụ ngày chỉ sinh được cho Canh trụ tháng 1/12đv của nó), Canh trụ tháng có thể sinh được 1/6,5đv của nó cho Nhâm trụ năm (ở đây chưa tính điểm vượng của Kỷ hay Canh bị giảm do Mão hay Đinh khắc cách 1 ngôi).
5 - Các bước lần lượt xác định Thân vượng hay nhược
......................................................................
....................................................................