“Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Trao đổi kiến thức về tứ trụ (tử bình, bát tự)
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục trao đổi kiến thức về tứ trụ (bát tự, tử bình) dành cho thành viên chính thức. Các bài viết trao đổi cần có nội dung kiến thức hoặc cung cấp thông tin nghiệm lý. Muốn nhờ xem, luận giải lá số vui lòng đăng tại mục Xem tứ trụ.
Các bài viết và thành viên vi phạm sẽ bị xử lý.
VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1064
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Tôi xin sửa lại "Bảng Sinh Thành Lão Tử Dưỡng" (tức "Bảng Sinh Vượng Tử Tuyệt") như sau :
Hình ảnh
(Điểm vượng của mỗi trạng thái trong bảng chính xác tới nay - 22/9/2025.)
Đầu trang

VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1064
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Xin sửa lại "Bảng tra can trụ tháng theo can trụ năm" là :
Hình ảnh
Xin sửa lại "Bảng tra can trụ giờ theo can trụ ngày" là :
Hình ảnh
Đầu trang

VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1064
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Gửi bài gửi bởi VULONG »

III – Thân - Vùng Tâm - Dụng Thần của Tứ Trụ

1 - Thân của tứ trụ
Hành và vị trí của can trụ ngày được gọi là Nhật Chủ, Nhật Nguyên hay Thân, nó đại diện cho người có tứ trụ đó. Can trụ ngày mang hành gì thì Thân mang hành đó. Can trụ ngày chỉ có 1 điểm vượng ở lệnh tháng theo “Bảng Sinh Thành Lão Tử Dưỡng” nhưng Thân ngoài điểm vượng này ra nó còn có thêm điểm vượng hỗ trợ từ các can chi khác trong tứ trụ có thể sinh hay phù trợ cho nó (như các can chi Kiêu Ấn hay Tỷ Kiếp... có thể sinh hay phù trợ cho hành của Thân). Trong đó ta phải xét đến số điểm vượng còn lại của các can chi này khắc nhau ở xa hay gần (ở đây chỉ xét về khắc ngũ hành) trong tứ trụ với nhau. Cuối cùng các điểm vượng còn lại của các can chi này (sau khi đã khắc nhau) ở xa hay gần can trụ ngày có tác động tới can trụ ngày (coi như là vị trí nhà ở của Thân) phải khác nhau. Cho nên ta gọi vùng tâm là vùng mà các điểm vượng này tác động với nhau là như nhau. Hiểu đơn giản là tổng điểm hạn trong vùng tâm của 5 hành có thể so sánh với nhau mà không còn sợ chúng ở xa hay gần với nhau (tức không còn chuyện “Nước xa không cứu nổi lửa gần” nữa), khi đó mới biết Thân là vượng hay nhược so với 4 hành kia. Do vậy tôi đã định nghĩa trong vùng tâm, hành của Thân phải lớn hơn mỗi hành kia ít nhất là 1 điểm vượng thì mới được gọi là Thân vượng còn lại là Thân nhược (không có Thân trung bình).

2 - Vùng tâm và vùng ngoài
Các quy ước trong sơ đồ :
a - Tại các góc của các hình chữ nhật là vị trí của các can và chi của tứ trụ.
b - Các can chi trong chữ V (mầu xanh) được coi là ở trong vùng tâm còn các can chi ở ngoài chữ V (mầu trắng) được xem là ở vùng ngoài.
c - Hai can chi được coi là gần với nhau khi chúng không phải đi qua một can chi nào cả (kể cả can chi cùng trụ).
d - Hai can chi bị coi là cách một ngôi khi chúng phải đi qua 1 can hay 1 chi.
e - Hai can chi bị coi là cách 2 ngôi khi chúng phải đi qua 2 can chi.
f - Hai can chi bị coi là cách 3 ngôi khi chúng phải đi qua 3 can chi.

Sơ đồ ví dụ 1 : Nam sinh ngày 10/9/1992 lúc 5,47’ có tứ trụ :
Năm Nhâm Thân – tháng Canh Tuất – ngày Kỷ Sửu – giờ Đinh Mão
Được biểu diễn qua sơ đồ sau :
Hình ảnh
Vì can trụ ngày trong tứ trụ này là Kỷ mang hành Thổ nên Thân của tứ trụ này mang hành Thổ.
Ta thấy sơ đồ hình chữ nhật trên có 4 trụ, trụ đầu tiên là trụ năm Nhâm Thân, tới trụ thứ hai là trụ tháng Canh Tuất, trụ thứ ba là trụ ngày Kỷ Sửu và trụ thứ tư là trụ giờ Đinh Mão.
Qua “Bảng Sinh Thành Lão Tử Dưỡng” ta ghi các điểm vượng theo lệnh tháng Tuất của các can chi trong tứ trụ ngay bên cạnh chúng như sơ đồ trên đã mô tả (các điểm vượng này chính xác tới nay 25/9/2025).
Trong vùng chữ V trên có mầu xanh được gọi là vùng tâm gồm có can Canh, Kỷ, Đinh và chi Sửu, còn vùng ngoài mầu trắng có can Nhâm, chi Thân, TuấtMão.
Qua các ví dụ thực tế kiểm nghiệm tôi đã tìm ra can Nhâm, chi Tuất Mão khi vào vào vùng tâm điểm vượng của nó giảm đi 2/5, còn chi Thân là xa nhất khi vào tới vùng tâm điểm vượng của nó giảm đi 1/2. Hiểu một cách đơn giản là khi đã vào vùng tâm thì số điểm vượng của 5 hành này không còn yếu tố xa hay gần với nhau nữa.
Nhưng đầu tiên ta phải xét đến sự tương sinh hay tương khắc ngũ hành của các can chi ở xa hay gần nhau trong tứ trụ, sau đó mới tính đến chúng vào vùng tâm thì còn lại là bao nhiêu điểm vượng ?

3 - Khả năng khắc nhau của các can chi trong tứ trụ
a - Can và chi cùng trụ khắc với nhau được gọi là khắc trực tiếp. Can hay chi bị khắc trực tiếp giảm 1/2đv (điểm vượng) của nó và nó trở thành vô dụng không còn khả năng sinh hay nhận được sinh hoặc khắc - viết tắt là sinh khắc hay tác động với các can chi khác (do vậy ta phải khoanh tròn can chi này để tránh nhầm lẫn).
b - Can hay chi bị khắc gần (tức không cùng trụ) bị giảm 1/4đv của nó nếu khác dấu (tức âm khắc dương và ngược lại), giảm 1/3 đv của nó nếu cùng dấu (tức âm khắc âm hay dương khắc dương), nó cũng trở thành vô dụng không còn khả năng tác động tới các can chi khác (do vậy ta phải khoanh tròn can chi này để tránh nhầm lẫn).
Ví dụ như sơ đồ trên ta phải khoanh tròn chi Sửu vì Sửu bị Mão khắc gần giảm 1/3đv của nó (vì khắc cùng dấu, âm với âm).
c - Nếu can hay chi bị khắc cách 1 ngôi thì bị giảm 1/5đv của nó nếu khác dấu, giảm 1/4đv của nó nếu cùng dấu, nhưng nó vẫn còn khả năng tác động tới các can chi khác.
Ví dụ như sơ đồ trên ta thấy Kỷ bị Mão khắc cách 1 ngôi giảm 1/4đv của nó (vì khắc cùng dấu), còn Tuất bị Mão khắc cách 1 ngôi giảm 1/5đv của nó (vì khắc khác dấu, âm với dương). Canh bị Đinh khắc cách 1 ngôi giảm 1/5đv của nó (vì khắc khắc dấu). Nhâm bị Kỷ khắc cách 1 ngôi giảm 1/5đv của nó (vì khắc khắc dấu), Nhâm còn bị Tuất khắc cách 1 ngôi giảm 1/4đv của nó (vì khắc cùng dấu).
d - Nếu can hay chi bị khắc cách 2 ngôi thì nó bị giảm 1/10đv của nó nếu khác dấu, giảm 1/9đv của nó nếu cùng dấu, nhưng nó vẫn còn khả năng tác động tới các can chi khác.
e - Nếu can hay chi bị khắc cách 3 ngôi thì nó bị giảm 1/20đv của nó nếu khác dấu, giảm 1/19đv của nó nếu cùng dấu, nhưng nó vẫn còn khả năng tác động tới các can chi khác.
Ví dụ như sơ đồ trên ta thấy Thân bị Đinh khắc cách 3 ngôi giảm 1/20đv của nó (vì khắc khắc dấu).

4 - Khả năng sinh cho nhau của các can chi trong tứ trụ
a - Can hay chi cùng trụ không bị can chi bên cạnh nó khắc gần có thể sinh được cho nhau khi can hay chi đó có can hay chi bên cạnh mang hành sinh cho nó (kể cả hành trước và sau khi hóa cục khác hành) thì nó sinh được cho can hay chi cùng trụ 1/2đv của nó (điểm vượng của nó sau khi sinh không bị giảm), sinh được 1/3đv của nó nếu can hay chi bên cạnh cùng hành với nó.
Ví dụ như sơ đồ trên ta thấy trụ năm là Nhâm Thân, cả Nhâm và Thân không bị khắc gần mà chi Thân mang hành Kim có thể sinh được cho Nhâm mang hành Thủy. Do vậy khi bên cạnh chi Thân là chi Tuất mang hành Thổ sinh cho Thân mang hành Kim nên Thân đã sinh được cho Nhâm 1/2đv của nó (chưa tính đến điểm vượng của Thân bị giảm 1/20đv của nó do Đinh trụ giờ khắc cách 3 ngôi),
Ví dụ như sơ đồ trên ta thấy trụ tháng Canh Tuất, cả Canh và Tuất đều không bị khắc gần nên Tuất mang hành Thổ có thể sinh được cho can Canh cùng trụ. Do vậy khi bên cạnh chi Tuất có Sửu cùng hành (Thổ) nên Tuất sinh được cho Canh (Kim) cùng trụ 1/3đv của nó (chưa tính đến điểm vượng của Tuất bị giảm 1/5đv của nó do Mão trụ giờ khắc cách 1 ngôi).
b - Ít nhất 3 can hay 3 chi liền nhau không bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp mà tương sinh liên tiếp được cho nhau thì can hay chi ở giữa có thể sinh được cho can hay chi sinh tiếp (thứ ba) là 1/6,5đv của nó, nhưng chỉ sinh được 1/12đv của nó khi can hay chi đầu tiên (thứ nhất) cùng hành với nó.
Ví dụ như sơ đồ trên ta thấy cả 4 can của tứ trụ là Đinh, Kỷ, Canh và Nhâm đều không bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp mà chúng tương sinh liên tiếp được cho nhau (từ 4 can chi trở lên như vậy được gọi là Dòng Lưu). Do vậy Kỷ trụ ngày có thể sinh được cho Canh trụ tháng 1/6,5đv của nó (nếu can trụ giờ cùng hành với Kỷ trụ ngày - như Mậu hay Kỷ - thì Kỷ trụ ngày chỉ sinh được cho Canh trụ tháng 1/12đv của nó), Canh trụ tháng có thể sinh được 1/6,5đv của nó cho Nhâm trụ năm (ở đây chưa tính điểm vượng của Kỷ hay Canh bị giảm do Mão hay Đinh khắc cách 1 ngôi).

5 - Các bước lần lượt xác định Thân vượng hay nhược
..................................................................................
..................................................................................
Đầu trang

VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1064
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Tôi xin đăng lại cả bài viết trên như sau:

III – Thân - Vùng Tâm - Dụng Thần của Tứ Trụ

1 - Thân của tứ trụ
Hành và vị trí của can trụ ngày được gọi là Nhật Chủ, Nhật Nguyên hay Thân, nó đại diện cho người có tứ trụ đó. Can trụ ngày mang hành gì thì Thân mang hành đó. Can trụ ngày chỉ có 1 điểm vượng ở lệnh tháng theo “Bảng Sinh Thành Lão Tử Dưỡng” nhưng Thân ngoài điểm vượng này ra nó còn có thêm điểm vượng hỗ trợ từ các can chi khác trong tứ trụ có thể sinh hay phù trợ cho nó (như các can chi Kiêu Ấn hay Tỷ Kiếp... có thể sinh hay phù trợ cho hành của Thân). Trong đó ta phải xét đến số điểm vượng còn lại của các can chi này khắc nhau ở xa hay gần (ở đây chỉ xét về khắc ngũ hành) trong tứ trụ với nhau. Cuối cùng các điểm vượng còn lại của các can chi này (sau khi đã khắc nhau) ở xa hay gần can trụ ngày có tác động tới can trụ ngày (coi như là vị trí nhà ở của Thân) phải khác nhau. Cho nên ta gọi vùng tâm là vùng mà các điểm vượng này tác động với nhau là như nhau. Hiểu đơn giản là tổng điểm hạn trong vùng tâm của 5 hành có thể so sánh với nhau mà không còn sợ chúng ở xa hay gần với nhau (tức không còn chuyện “Nước xa không cứu nổi lửa gần” nữa), khi đó mới biết Thân là vượng hay nhược so với 4 hành kia. Do vậy tôi đã định nghĩa trong vùng tâm, hành của Thân phải lớn hơn mỗi hành kia ít nhất là 1 điểm vượng thì mới được gọi là Thân vượng còn lại là Thân nhược (không có Thân trung bình).

2 - Vùng tâm và vùng ngoài
Các quy ước trong sơ đồ :
a - Tại các góc của các hình chữ nhật là vị trí của các can và chi trong tứ trụ.
b - Các can chi trong chữ V (mầu xanh) được coi là ở trong vùng tâm còn các can chi ở ngoài chữ V (mầu trắng) được xem là ở vùng ngoài.
c - Hai can chi được coi là gần với nhau khi chúng không phải đi qua một can chi nào cả (kể cả can chi cùng trụ).
d - Hai can chi bị coi là cách một ngôi khi chúng phải đi qua 1 can hay 1 chi.
e - Hai can chi bị coi là cách 2 ngôi khi chúng phải đi qua 2 can chi.
f - Hai can chi bị coi là cách 3 ngôi khi chúng phải đi qua 3 can chi.

Sơ đồ ví dụ 1 : Nam sinh ngày 10/9/1992 lúc 5,47’ có tứ trụ :
Năm Nhâm Thân – tháng Canh Tuất – ngày Kỷ Sửu – giờ Đinh Mão
Được biểu diễn qua sơ đồ sau :

Hình ảnh
Vì can trụ ngày trong tứ trụ này là Kỷ mang hành Thổ nên Thân của tứ trụ này mang hành Thổ.
Ta thấy sơ đồ hình chữ nhật trên có 4 trụ, trụ đầu tiên là trụ năm Nhâm Thân, tới trụ thứ hai là trụ tháng Canh Tuất, trụ thứ ba là trụ ngày Kỷ Sửu và trụ thứ tư là trụ giờ Đinh Mão.
Qua “Bảng Sinh Thành Lão Tử Dưỡng” ta ghi các điểm vượng theo lệnh tháng Tuất của các can chi trong tứ trụ ngay bên cạnh chúng như sơ đồ trên đã mô tả (chính xác tới nay 22/9/2025).
Trong vùng chữ V trên có mầu xanh được gọi là vùng tâm gồm có can Canh, Kỷ, Đinh và chi Sửu, còn vùng ngoài mầu trắng có can Nhâm, chi Thân, TuấtMão.
Qua các ví dụ thực tế kiểm nghiệm tôi đã tìm ra can Nhâm, chi Tuất Mão khi vào vào vùng tâm điểm vượng của nó giảm đi 2/5, còn chi Thân là xa nhất khi vào tới vùng tâm điểm vượng của nó giảm đi 1/2. Vì các can chi khi càng xa can trụ ngày thì sự tác động của nó tới can trụ ngày phải yếu đi mới đúng theo câu “Nước Xa Không Cứu Nổi Lửa Gần”. Hiểu một cách đơn giản là khi đã vào vùng tâm thì số điểm vượng của 5 hành này không còn yếu tố xa hay gần với nhau nữa.
Nhưng đầu tiên ta phải xét đến sự tương sinh hay tương khắc ngũ hành của các can chi ở xa hay gần nhau trong tứ trụ, sau đó mới tính đến chúng vào vùng tâm thì còn lại là bao nhiêu điểm vượng.

3 - Khả năng khắc nhau của các can chi trong tứ trụ
a - Can và chi cùng trụ khắc với nhau được gọi là khắc trực tiếp. Can hay chi bị khắc trực tiếp giảm 1/2đv (điểm vượng) của nó và nó trở thành vô dụng không còn khả năng sinh hay nhận được sinh hoặc khắc - viết tắt là sinh khắc hay tác động với các can chi khác (do vậy ta phải khoanh tròn can chi này để tránh nhầm lẫn).
b - Can hay chi bị khắc gần (tức không cùng trụ) bị giảm 1/3đv của nó nếu khác dấu (tức âm khắc dương và ngược lại), giảm 1/2,5 đv của nó nếu cùng dấu (tức âm khắc âm hay dương khắc dương), nó cũng trở thành vô dụng không còn khả năng tác động tới các can chi khác (do vậy ta phải khoanh tròn can chi này để tránh nhầm lẫn).
Ví dụ như sơ đồ trên ta phải khoanh tròn chi Sửu vì Sửu bị Mão khắc gần giảm 1/2,5đv của nó (vì khắc cùng dấu, âm với âm).
c - Nếu can hay chi bị khắc cách 1 ngôi thì bị giảm 1/5đv của nó nếu khác dấu, giảm 1/4đv của nó nếu cùng dấu, nhưng nó vẫn còn khả năng tác động tới các can chi khác.
Ví dụ như sơ đồ trên ta thấy Kỷ bị Mão khắc cách 1 ngôi giảm 1/4đv của nó (vì khắc cùng dấu), còn Tuất bị Mão khắc cách 1 ngôi giảm 1/5đv của nó (vì khắc khác dấu, âm với dương). Canh bị Đinh khắc cách 1 ngôi giảm 1/5đv của nó (vì khắc khắc dấu). Nhâm bị Kỷ khắc cách 1 ngôi giảm 1/5đv của nó (vì khắc khắc dấu), Nhâm còn bị Tuất khắc cách 1 ngôi giảm 1/4đv của nó (vì khắc cùng dấu).
d - Nếu can hay chi bị khắc cách 2 ngôi thì nó bị giảm 1/10đv của nó nếu khác dấu, giảm 1/9đv nếu cùng dấu, nhưng nó vẫn còn khả năng tác động tới các can chi khác.
e - Nếu can hay chi bị khắc cách 3 ngôi thì nó bị giảm 1/20đv của nó nếu khác dấu, giảm 1/19đv nếu cùng dấu, nhưng nó vẫn còn khả năng tác động tới các can chi khác.
Ví dụ như sơ đồ trên ta thấy Thân bị Đinh khắc cách 3 ngôi giảm 1/20đv của nó (vì khắc khắc dấu).

Bảng tra can chi khắc nhau trong tứ trụ
Hình ảnh
4 - Khả năng sinh cho nhau của các can chi trong tứ trụ
a - Can hay chi cùng trụ không bị can chi bên cạnh nó khắc gần có thể sinh được cho nhau khi can hay chi đó có can hay chi bên cạnh mang hành sinh cho nó (kể cả hành trước và sau khi hóa cục khác hành) thì nó sinh được cho can hay chi cùng trụ 1/2đv của nó (điểm vượng của nó sau khi sinh không bị giảm), sinh được 1/3đv của nó nếu can hay chi bên cạnh cùng hành với nó.
Ví dụ nhưsơ đồ trên ta thấy trụ năm là Nhâm Thân, cả Nhâm và Thân không bị khắc gần mà chi Thân mang hành Kim có thể sinh được cho Nhâm mang hành Thủy. Do vậy khi bên cạnh chi Thân là chi Tuất mang hành Thổ sinh cho Thân mang hành Kim nên Thân đã sinh được cho Nhâm 1/2đv của nó (chưa tính đến điểm vượng của Thân bị giảm 1/20đv của nó do Đinh trụ giờ khắc cách 3 ngôi),
Ví dụ như sơ đồ trên ta thấy trụ tháng Canh Tuất, cả Canh và Tuất đều không bị khắc gần nên Tuất mang hành Thổ có thể sinh được cho can Canh cùng trụ. Do vậy khi bên cạnh chi Tuất có Sửu cùng hành (Thổ) nên Tuất sinh được cho Canh (Kim) cùng trụ 1/3đv của nó (chưa tính đến điểm vượng của Tuất bị giảm 1/5đv của nó do Mão trụ giờ khắc cách 1 ngôi).
b - Ít nhất 3 can hay 3 chi liền nhau không bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp mà tương sinh liên tiếp được cho nhau thì can hay chi ở giữa có thể sinh được cho can hay chi sinh tiếp (thứ ba) là 1/6,5đv của nó, nhưng chỉ sinh được 1/12đv của nó khi can hay chi đầu tiên (thứ nhất) cùng hành với nó.
Ví dụ như sơ đồ trên ta thấy cả 4 can của tứ trụ là Đinh, Kỷ, Canh và Nhâm đều không bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp mà chúng tương sinh liên tiếp được cho nhau (từ 4 can chi trở lên như vậy được gọi là Dòng Lưu). Do vậy Kỷ trụ ngày có thể sinh được cho Canh trụ tháng 1/6,5đv của nó (nếu can trụ giờ cùng hành với Kỷ trụ ngày - như Mậu hay Kỷ - thì Kỷ trụ ngày chỉ sinh được cho Canh trụ tháng 1/12đv của nó), Canh trụ tháng có thể sinh được 1/6,5đv của nó cho Nhâm trụ năm (ở đây chưa tính điểm vượng của Kỷ hay Canh bị giảm do Mão hay Đinh khắc cách 1 ngôi).

5 - Các bước lần lượt xác định Thân vượng hay nhược
......................................................................
....................................................................
Đầu trang

VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1064
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Bảng tra can chi khắc nhau trong tứ trụ

Hình ảnh
Được thay bằng bảng sau :

Hình ảnh
Để thuận tiện cho mọi người hơn.
Đầu trang

VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1064
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Gửi bài gửi bởi VULONG »

5 - Các bước lần lượt xác định Thân vượng hay nhược
a – Lập sơ đồ Tứ Trụ và viết điểm vượng của các can chi theo lệnh tháng bên cạnh các can chi đó.
b - Xác định các TKĐX trong tứ trụ.
c - Xét xem trong tứ trụ có các tổ hợp nào còn lại cục hay hợp không bị phá (sẽ nói sau), rồi khoanh tròn các can hay chi trong các tổ hợp, sau đó nối mỗi 2 can hay 2 chi hợp nhau bằng 3 đoạn gẫy khúc.
d - Khoanh tròn các can hay chi bị khắc trực tiếp hay bị khắc gần để biết chúng không còn khả năng tác động (sinh khắc) với các can chi khác (chỉ xét khi chưa có tuế vận).
e - Xác định điểm vượng còn lại của các can chi trong tứ trụ theo lệnh tháng sau khi được sinh, rồi bị khắc (xa hay gần) giảm bao nhiêu, cuối cùng vào vùng tâm giảm tiếp còn lại bao nhiêu?
f - Cộng tất cả các điểm vượng của từng hành trong vùng tâm thì :
Thân vượng nếu hành của nó lớn hơn mỗi hành kia ít nhất là 1đv, còn lại là Thân nhược (không có Thân trung bình).

6 - Các can chi ở trong hay ngoài tổ hợp sinh khắc với nhau
(Ở đây chưa xét đến các tổ hợp hóa hay không hóa cục bị phá hay không ?)
a - Tất cả các can chi tự do đều có thể sinh hay khắc với nhau như bình thường, trừ khi chúng bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp.
b - Nếu một tổ hợp không hóa cục thì các can chi trong cùng tổ hợp vẫn có khả năng sinh hay khắc với nhau như bình thường, trừ khi can hay chi đó bị khắc gần bởi can hay chi cùng trong tổ hợp, còn nếu can chi đó chỉ bị khắc trực tiếp bởi can chi cùng trụ thì nó vẫn là can chi bị khắc trực tiếp nhưng nó vẫn còn khả năng sinh khắc (tác động) với can chi khác trong cùng tổ hợp như bình thường.
c - Nếu các can chi trong cùng tổ hợp hóa cục thì chúng chỉ có thể sinh hay khắc được với các can chi cùng trụ với chúng nếu các can chi này không bị hợp, nhưng nếu can chi cùng trụ này cũng ở trong hợp hóa hay không hóa cục thì chúng có thể sinh hay khắc cùng trụ với nhau chỉ khi mỗi trụ của cả 4 trụ đều phải có ít nhất 1 can hay 1 chi ở trong hợp (chưa đủ ví dụ để chứng minh).
d - Nếu can chi trong tổ hợp hóa cục hay không hóa cục bị can hay chi cùng trụ không bị hợp khắc thì nó cũng được xem là bị khắc trực tiếp, nhưng nó vẫn còn khả năng tác động (sinh khắc) được với các can chi trong cùng tổ hợp như bình thường (nếu tổ hợp này không hóa cục).
e - Nếu can hay chi ở ngoài tổ hợp bị can hay chi cùng trụ trong tổ hợp hóa cục hay không hóa cục khắc thì nó cũng được xem là bị khắc trực tiếp, nhưng nó vẫn còn khả năng tác động được với các can hay chi khác ngoài tổ hợp như bình thường.
(Không biết còn trường hợp nào quên, tôi không đưa ra ở đây?)

7 - Cách xác định điểm vượng trong “Bảng Sinh Thành Lão Tử Dưỡng”
Để xác định chính xác độ vượng suy các trạng thái của các can chi trong tứ trụ theo Lệnh tháng, chúng ta không thể ước lượng theo Định Tính được (tức chỉ ước lượng vượng nhược nhiều hay ít), điều này may ra chỉ có một số Cao Thủ Tử Bình thực thụ mới có khả năng như vậy. Chính khó khăn này mà tôi đã phải sử dụng Toán Học để xác định độ vượng hay nhược của các trạng thái trong “Bảng Sinh Thành Lão Tử Dưỡng”.
Chính tôi đã “Chôm” được ý tưởng của ông Thiệu Vĩ Hoa khi ông đã dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược trong cuốn “Dự Đoán Theo Tư Trụ” của ông ta. Nhưng đáng tiếc công trình theo phương pháp luận của ông đã sai lầm lên kết quả là không thể sử dụng được.
Do vậy để tránh các sai lầm mà ông Thiệu đã mắc, tôi tìm phương pháp suy luận hợp lý, có logic và chính xác, nhất là gắn liền với thực tế hơn. Đầu tiên tôi thấy không gì đẹp, phù hợp với thực tế hơn là lấy số 10 đại diện cho điểm vượng cao nhất đặc trưng cho trạng thái Đế vượng, số 9 cho trạng thái Lâm quan, số 8 cho Quan đới, số 7 cho Mộc dục, số 6 cho Trường sinh, số 5 cho Suy Bệnh, số 3 cho Tử, Mộ Tuyệt, số 4 cho Thai Dưỡng.
Các số đặc trưng cho các trạng thái từ trường sinh đến đế vượng (tăng theo tỉ lệ thuận) cũng như trạng thái Tử, Mộ Tuyệt (bằng nhau) là có vẻ hợp lý. Vì theo suy luận thì từ lúc chết (Tử) tới khi chôn (Mộ) thời gian cách nhau là quá ngắn, còn trường hợp Tuyệt thì số điểm có thay đổi cũng không thể nhiều được nên có thể chấp nhận. Nhưng các trạng thái Suy Bệnh hay Thai Dưỡng có số điểm bằng nhau là chưa hợp lý cần phải kiểm tra đầu tiên.
Vậy thì những ví dụ nào là đáng tin cậy để có thể kiểm tra được chúng ?

Theo như tôi biết ông Thiệu Vĩ Hoa là cháu nội đời thứ 29 (?) của cụ Thiệu Khang Tiết là một nhà dịch học nổi tiếng của Trung Quốc và bây giờ ông Thiệu Vĩ Hoa cũng là một nhà mệnh học nổi tiếng. Để xác định một ví dụ có Thân vượng hay nhược, ông Thiệu đã không những chỉ dùng tài năng của mình mà còn sử dụng kinh nghiệm của cả 29 đời mệnh học gia truyền của dòng họ nữa. Cho nên tôi đã không ngần ngại lấy các ví dụ của ông để xác định điểm vượng đặc trưng cho các trạng thái trong “Bảng Sinh Thành Lão Tư Dưỡng” . Mặc dù cụ đã công bố công trình của cụ nhưng đáng tiếc không thể sử dụng được. Do vậy tôi đành lấy các ví dụ trong sách làm mẫu của cụ (chỉ lúc đầu, còn sau chủ yếu tôi đã lấy các ví dụ trong cuốn “Trích Thiên Tủy” - vì sau tôi mới có cuốn này) đã luận theo Thân vượng hay nhược là được (vì chính ông Thiệu không hề sử dụng phương pháp mà ông đã công bố trong sách để xác định Thân vượng hay nhược trong các ví dụ mẫu trong sách của ông).

Các quy ước để diễn tả
Ví dụ : Nếu Thân (can của trụ ngày)Kim thì thứ tự Thập thần và hành cũng như điểm vượng của chúng trong vùng tâm được quy ước theo sơ đồ sau :

Điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm :
........Tài .......Quan/Sát...... Kiêu/Ấn...... Thân - (tỷ/kiếp)..... Thực/Thương
.......Mộc........ Hỏa..............Thổ............... Kim.................... Thủy
.......3,7......... #6 ......... .....9,62............. 8,47...................... #

Thân rất cần vượng nhưng càng thăng bằng càng tốt. Cho nên khi Thân đã vượng thì cần giảm đi như hành làm xì hơi ThânThực Thương, hành làm hao ThânTài tinh và hành khắc ThânQuan Sát đều là các hành tốt cho Thân, nên chúng được gọi là các hành Hỷ, Dụng thần (tất nhiên Thân càng vượng thì càng phải giảm nhiều). Trong trường hợp đặc biệt khi Thân vượngKiêu Ấn nhiều (nhiều ít sẽ nói sau) thì Quan Sátkỵ thần (vì khả năng khắc Thân không bằng khả năng sinh Kiêu Ấn nên thành xấu, sẽ nói kỹ sau). Thân đã vượng thì dĩ nhiên không nên được sinh thêm như Kiêu Ấn và phù trợ thêm như Tỷ Kiếp, nên chúng được gọi là các (hành) kỵ thần (vì thân đã khá vượng mà còn sinh phù thêm thì càng xấu).
Thân nhược thì dĩ nhiên các hành hỷ dụng thần sẽ ngược lại với Thân vượng. Cụ thể nếu Thân nhược thì rất cần được phù trợ như Tỷ Kiếp hay sinh phù như Kiêu Ấn nên Tỷ KiếpKiêu Ấnhỷ dụng thần, còn Thực Thương, Tài tinhQuan Sát đều là kỵ thần. Trong trường hợp đặc biệt khi Thân nhượcKiêu Ấn nhiều thì Quan Sáthỷ thần (vì khả năng khắc Thân không bằng khả năng sinh Kiêu Ấn nên thành tốt, sẽ nói kỹ sau).

1 - Theo thứ tự, đầu tiên là Tài tinh, sau đến Quan Sát, Kiêu Ấn, Thân (hành của can trụ ngày - Tỷ Kiếp), cuối cùng mới là Thực Thương (phía dưới mỗi Thập thần là hành của chúng).
2 - Dấu #, nghĩa là trong tứ trụ không có can chi thuộc hành đó (kể cả can tàng phụ của hành đó).
3 - Dấu #6, nghĩa là trong tứ trụ không có can chi thuộc hành đó nhưng có can tàng phụ cùng số điểm vượng của can đó (số điểm vượng của các can tàng trong địa chi không được tính vào vùng tâm, điều này khác với phương pháp của ông Thiệu).
4 - Tổng số Điểm vượng trong vùng tâm của mỗi hành được ghi phía dưới tên của các hành đó.
5 - Được gọi là Thân vượng khi hành của Thân (trong vùng tâm) phải lớn hơn mỗi hành kia (trong vùng tâm) ít nhất là 1 điểm vượng, còn lại là Thân nhược, không có Thân trung bình.
Riêng ở đây điểm vượng của các can chi vào tới vùng tâm phải khoanh tròn (để tránh nhầm lẫn).

Một số ví dụ mẫu xác định điểm vượng các trạng thái
............................................................................................
...............................................................................................
Đầu trang

VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1064
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Bảng tra can trụ giờ theo can trụ ngày
Hình ảnh
Tôi xin đăng lại là :
Bảng tra can trụ giờ theo can trụ ngày
Hình ảnh
Thành thật xin lỗi mọi người.
Đầu trang

VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1064
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Ví dụ mẫu 1 : Nam sinh này 9/6/1970 dương lịch lúc 2,00’ có tứ trụ :
Năm Canh Tuất – tháng Nhâm Ngọ – ngày Canh Thân – giờ Đinh Sửu
Sơ đồ của tứ trụ này như sau :
Hình ảnh
Ta thấy qua sơ đồ trên điểm vượng của các can chi theo lệnh tháng mà tôi dự kiến được ghi bên phải ngay cạnh các can chi của chúng.
Ta thấy trong tứ trụ có bán hợp của Tuất trụ năm với Ngọ trụ tháng hóa Hỏa thành công (vì có Đinh trụ giờ là Thần dẫn), rất may không có TKĐX hay tứ hành xung có thể phá hóa cục này (sẽ nói sau). Canh trụ ngày bị khắc gần bởi Đinh trụ giờ, vì vậy ta phải khoanh tròn Canh trụ ngày, Tuất và Ngọ, cũng như nối Tuất với Ngọ bằng 3 đường gẫy khúc (như trong sơ đồ trên). Mặc dù Canh trụ năm bị khắc trực tiếp bởi Tuất cùng trụ (vì Tuất đã hóa Hỏa) nhưng nó vẫn còn khả năng sinh khắc (tác động) với các can chi khác như bình thường (vì Tuất hóa Hỏa nhưng ở trong hợp). Ngọ của trụ tháng bị khắc trực tiếp bởi Nhâm cùng trụ (Ngọ đã hóa Hỏa nhưng vẫn bị khắc như bình thường).
1 - Canh trụ năm có 7đv bị giảm 1/2đv của nó bởi Tuất cùng trụ khắc trực tiếp (vì Tuất đã hóa Hỏa), giảm thêm 1/10đv của nó bởi Đinh trụ giờ khắc cách 2 ngôi (vì khác dấu) và giảm tiếp 2/5đv của nó khi vào vùng tâm, nó còn 7.1/2.9/10.3/5đv = 1,89đv.
2 - Nhâm trụ tháng (ở trong vùng tâm) có 4đv bị giảm 1/10đv của nó bởi Sửu trụ giờ khắc cách 2 ngôi (vì khác dấu), nó còn 4.9/10đv = 3,6đv.
3 - Canh trụ ngày (ở trong vùng tâm) có 7đv bị giảm 1/3đv của nó bởi Đinh trụ giờ khắc gần (vì khác dấu), nó còn 7.2/3đv = 4,67đv.
4 - Đinh trụ giờ (ở trong vùng tâm) có 9đv bị giảm 1/5đv của nó bởi Nhâm trụ tháng khắc cách 1 ngôi (vì khác dấu), nó còn 9.4/5đv = 7,2đv.
5 - Sửu trụ giờ có 9đv bị giảm 2/5đv của nó khi vào vùng tâm, nó còn 9.3/5đv = 5,4đv.
6 - Thân trụ ngày (ở trong vùng tâm) có 7đv bị giảm 1/5đv của nó bởi Đinh trụ giờ khắc cách 1 ngôi (vì khác dấu), nó còn 7.4/5đv = 5,6đv.
7 - Ngọ trụ tháng có 10đv (đã hóa Hỏa) bị giảm 1/2đv của nó bởi Nhâm cùng trụ khắc trực tiếp, giảm thêm 2/5đv của nó khi vào vùng tâm, nó còn 10.1/2.3/5đv = 3đv.
8 - Tuất trụ năm có 10đv (vì đã hóa Hỏa), bị giảm 1/2đv của nó khi vào vùng tâm, nó còn 10.1/2đv = 5đv.
Cộng tất cả các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi cùng hành, ta có tổng số điểm vượng của từng hành được biểu diễn trong sơ đồ của tứ trụ trên.

Ông Thiệu Vĩ Hoa đã xác định tứ trụ này có Thân vượng để luận. Nếu Thân (Kim) vượng thì Thân phải lớn hơn 3 hành Thủy (Thực Thương), Mộc (Tài tinh) và Hỏa (Quan Sát, vì Kiêu Ấn ít, sẽ nói sau) mỗi hành ít nhất là 1đv (riêng Mộc là Kiêu Ấn thuộc phe của Thân không tính).
Vì vậy Thân thiếu Xđv để có thể thành vượng là :
12,16đv + X = 15,2 đv + 1đv
X = 4,04đv
Vì trong 8 can chi trong tứ trụ này ta chỉ cần quan tâm đến điểm vượng trạng thái Thai của Nhâm là 4đv. Ta thấy trạng thái Thai chỉ cần tăng 1đv sẽ là 5đv thành trạng thái Suy và Bệnh (có 5đv) nên không thể chấp nhận được. Các trạng thái của các can chi khác trong tứ trụ cũng vậy (càng không nên đụng tới) như Đinh trụ giờ cũng không thể tăng thêm được như vậy (còn Tuất và Ngọ thì đã là max 10đv rồi thì tăng cái gì?). Cho nên ta không thể dựa vào tăng điểm vượng của các trạng thái như vậy được.

Cho nên ta phải đi tìm yếu tố khác mà có thể tạo ra tận 4,04đv sẽ là gì đây?

Qua suy luận (vì ở đây chỉ liên quan tới âm dương, ngũ hành của can chi) ta thấy Canh đóng trên chi là Thân, đó chính là đất Lộc của Canh (vì có tới 9đv), hiểu theo nghĩa đen là dân (hành Kim) ở vùng đất (vì địa chi Thân là Kim) đó hoàn toàn ủng hộ, tin tưởng, tôn thờ,...một lòng theo Canh (hành Kim) nên có thể gọi đây là điểm vượng đắc địa Lộc của Canh. Hiểu một cách đơn giản như ở Mỹ có rất nhiều tiểu bang nhưng có một số tiểu bang luôn luôn bầu cho đảng Dân Chủ là Đảng mà họ tin tưởng thắng cử, còn một số tiểu bang khác lại luôn luôn bầu cho đảng Cộng Hòa là Đảng mà họ tin tưởng thắng cử.

Vì lúc đầu tôi chỉ muốn Thân (Kim) có lý do hợp lý để có thể tăng thêm điểm vượng của nó, sau đó tôi mới tìm thấy Thân có điểm đắc địa ở tất cả các chi cùng hành với nó trong tứ trụ (trừ hành Thổ). Tiếp sau đó tôi tìm thấy các can không thuộc hành Nhật can (can trụ ngày chứ không phải nói tới Nhật Chủ hay Nhật Nguyên) cũng có điểm đắc địa ở chi mà nó đóng nhưng phải có ít nhất từ 2 chi trở lên (trừ hành Thổ). Nếu là hành Thổ thì chi nó đóng phải là chi thuộc hành Hỏa, và nó cũng phải có ít nhất 2 chi hành Hỏa nếu nó không phải là hành của Nhật can - tức can trụ ngày.

Nếu thừa nhận điều này thì ta có điểm đắc địa Lộc của Canh là min 4,05đv (làm tròn). Điểm đắc địa này chỉ có thể bị khắc bởi có ít nhất 2 can chi trong tứ trụ mang hành khắc nó (sẽ nói sau).

Ta đã xác định được trạng thái đắc địa Lộc có ít nhất (min) 4,05đv.
(Điểm đắc địa này tôi tìm thấy từ năm 2010 nên có thể có sai sót?)

Ví dụ mẫu 2 : Nữ sinh ngày 21/10/1976 dương lịch lúc 20,00’ có tứ trụ :
..................................................................................................................
...................................................................................................................
Đầu trang

VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1064
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Ví dụ mẫu 2 : Nữ sinh ngày 21/10/1976 dương lịch lúc 20,00’ có tứ trụ :
Bính Thìn – Mậu Tuất – ngày Bính Ngọ – Mậu Tuất
Sơ đồ của tứ trụ này như sau :
Hình ảnh
Qua sơ đồ trên ta thấy tất cả các can và chi của tứ trụ đều ở trạng thái Mộ3đv tại lệnh tháng và không có can chi nào bị khắc gần hay trực tiếp. Nhưng có bán hợp 2 Tuất của trụ tháng và trụ giờ tranh hợp với Ngọ trụ ngày nên không thể hóa Hỏa (mặc dù có 2 Bính là Thần dẫn). Nhưng đáng tiếc rằng lực xung của Thìn trụ năm với Tuất trụ tháng và Tuất trụ giờ bằng và lớn hơn với lực hợp của Ngọ với 2 Tuất nên tổ hợp này đều bị phá (riêng tứ trụ này, tổ hợp có bị phá hay không cũng không ảnh hưởng gì tới điểm vượng trong vùng tâm của các hành).
Bởi vì lực xung của Thìn với Tuất trụ tháng là 3đv (riêng lực xung không giảm khi xung nhiều hay ít chi, nhưng lực hợp thì bị giảm) còn với Tuất trụ giờ cách 2 ngôi nên lực xung bị giảm 1/2đv (nếu cách 1 ngôi giảm 1/3đv của nó), còn 3đv.1 /2 = 1,5đv. Lực xung này bằng với lực hợp của Ngọ với 2 Tuất là 3đv.1/2 = 1,5đv (vì lực hợp phải lớn hơn lực xung mới không bị phá).
1 - Bính trụ năm có 3đv vào vùng tâm giảm 2/5đv của nó, còn 3.3/5đv = 1,8đv
2 - Mậu trụ tháng, Bính trụ ngày và Mậu trụ giờ đều ở trong vùng tâm có 3đv.
3 - Tuất trụ giờ có 3đv vào vùng tâm giảm 2/5đv của nó, còn 3.3/5đv = 1,8đv
4 - Ngọ trụ ngày ở trong vùng tâm có 3đv.
5 - Tuất trụ tháng có 3đv vào vùng tâm giảm 2/5đv của nó, còn 3.3/5đv = 1,8đv.
6 - Thìn trụ năm có 3đv vào vùng tâm giảm 1/2đv của nó, còn 1,5đv.
Qua kết quả ghi trong sơ đồ trên ta thấy Thân mang hành Hỏa có 7,8đv nhỏ hơn Thực Thương mang hành Thổ có tới 11,1đv nên tứ trụ này có Thân nhược.

Ông Thiệu Vĩ Hoa đã xác định tứ trụ này có Thân nhược để luận. Do vậy ở đây ta không phải đi tìm thêm điểm vượng để cho Thân từ nhược thành vượng nữa mà đi tìm điểm vượng đắc địa Kình dương của Nhật can Bính đóng ở Ngọ (vì Bính ở trạng thái Đế vượng tại Ngọ) lớn nhất là bao nhiêu?

Ta thấy Nhật can Bính đóng trên chi Ngọ là đất đắc địa Kình dương, vì vậy nó phải có điểm vượng đắc địa lớn hơn điểm đắc địa Lộc ở ví dụ 1 trên.
Do vậy ta giả sử Thân cần có thêm X điểm vượng để cho tứ trụ này có Thân từ nhược thành vượng là :
X + 7,8đv = 11,1đv + 1đv
X = 4,3đv

Ta đã tìm được điểm vượng đắc địa Kình dương có nhiều nhất (max) 4,3đv

Bởi vì chỉ cần nhỏ hơn 4,3 đv một tí tẹo thì Thân của tứ trụ này trở thành Thân nhược, đúng như ông Thiệu đã xác định (ở đây ta tạm thời coi trạng thái Tử và Mộ có 3đv không thay đổi).
Ta thấy số điểm vượng của 2 điểm đắc địa của LộcKình dương chỉ có thể thay đổi ở trong khoảng từ 4,05đv tới 4,3đv (nếu thừa nhận trạng thái Tử và Mộ chính xác có 3đv) này mà thôi (?).

Ví dụ mẫu 3 : Nữ sinh ngày 9/8/1965 dương lịch lúc 9,20’ có tứ trụ
.................................................................................................................
...................................................................................................................
Đầu trang

VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1064
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Ví dụ mẫu 3 : Nữ sinh ngày 9/8/1965 dương lịch lúc 9,20’ có tứ trụ
Ất Tị – Giáp Thân – ngày Ất Mùi – Tân Tị
Sơ đồ tứ trụ này như sau :
Hình ảnh
Qua sơ đồ trên ta thấy lục hợp của Tị trụ năm với Thân trụ tháng không hóa được Thủy (vì không có Thần dẫn), nên Thân trụ tháng bị khắc gần bởi Tị trụ năm, còn Tân và Mùi đều bị khắc trực tiếp bởi can chi cùng trụ, do vậy ta phải khoanh tròn các chi Tị trụ năm, Thân, Mùi và Tân, trong đó nối chi Tị trụ năm và Thân trụ tháng bằng 3 đoạn gẫy khúc như trên sơ đồ.

(Tôi thấy hướng dẫn tính điểm vượng của từng can chi khi vào vùng tâm như thế là đủ, không cần phải tiếp nữa, trừ khi gặp trường hợp mới chưa hướng dẫn.)

Ví dụ này ông Thiệu Vĩ Hoa đã xác định Thân vượng để luận, nhưng ở đây Thân (Mộc) chỉ có 9,4đv không nhiều hơn Kim (có 8,6đv) 1đv nên Thân không thể vượng. Muốn Thân vượng thì trạng thái thai (của 2 Ất) và trạng thái Tuyệt (của Giáp) phải thêm ít nhất 0,1đv (vì điểm vượng gốc của các trạng thái cần thay đổi càng ít càng chính xác nên ở đây phải nâng điểm vượng của cả 2 trạng thái này vì chúng cùng một hành). Khi đó Thân có 9,66đv lớn hơn Kim có 8,6đv trên 1đv nên Thân mới trở thành vượng.

Ta đã xác định được: Trạng thái tuyệt có ít nhất (min) 3,1đv
.................................Trạng thái thai có ít nhất (min) 4,1đv

Sau này tôi mới tìm được ví dụ xác định trạng thái Tuyệt có 3,25đv và Thai có 4,15đv như trên bảng đã đăng.
Đầu trang

Trả lời bài viết