“Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Trao đổi kiến thức về tứ trụ (tử bình, bát tự)
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục trao đổi kiến thức về tứ trụ (bát tự, tử bình) dành cho thành viên chính thức. Các bài viết trao đổi cần có nội dung kiến thức hoặc cung cấp thông tin nghiệm lý. Muốn nhờ xem, luận giải lá số vui lòng đăng tại mục Xem tứ trụ.
Các bài viết và thành viên vi phạm sẽ bị xử lý.
VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1064
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Ví dụ mẫu 4 : Nữ sinh ngày 17/9/1966 dương lịch lúc 0,30’ có tứ trụ :
Bính Ngọ – Đinh Dậu – ngày Kỷ Mão – Giáp Tý
Sơ đồ biểu diễn tứ trụ này :
Hình ảnh
Qua sơ đồ trên ta thấy ngũ hợp của Giáp với Kỷ không thể hóa Thổ (vì không có Thần dẫn, nếu có Thần dẫn thì cũng không thể hóa Thổ được vì có Mão mang hành Mộc - Quan Sát - khắc hành của hóa cục Thổ, hơn nữa cho dù không có Mão thì Giáp đóng trên đất ướt là Tý đủ để nuôi dưỡng nó thì làm sao thành Mộc chết để hóa thành đất - Thổ - được cơ chứ. Nên Giáp ở đây được gọi là Mộc sống), còn Dậu bị khắc trực tiếp.
Theo ví dụ mẫu 3 ở trên thì Giáp có 4,1đv và Mão có 3,1đv, còn các điểm vượng khác vẫn như dự kiến.
Ta thấy Nhật can Kỷ có điểm đắc địa Lộc tại Ngọ là 4,05đv, còn Bính không có điểm đắc địa Kình dương tại Ngọ vì Bính không phải hành của Nhật can (Thổ) nên muốn có điểm đắc địa thì Bính phải có ít nhất 2 chi mang hành Hỏa trong tứ trụ.

Theo sơ đồ trên ta thấy Thân chỉ có 4,03đv trong khi Quan Sát có tới 7,2đv nên Thân là nhược.
Ví dụ này ông Thiệu Vĩ Hoa đã xác định Thân vượng để luận. Nếu Thân vượng thì Thân cần thêm Xđv là:
Xđv + 4,3đv = 7,2đv + 1đv
X = 3,9đv
Ta thấy điểm đắc địa của Kỷ ở Ngọ trụ năm đã tính rồi mà vẫn thiếu tới 3,9đv.
Vậy thì còn thông tin nào có thể mang tới 3,9đv này ?

Sau khi suy nghĩ kỹ tôi thấy muốn Thân tăng thêm điểm vượng chỉ có thể dựa vào 2 yếu tố chính là Tỷ Kiếp để phù Thân và Kiêu Ấn để sinh Thân. Mà ở đây yếu tố phù ThânTỷ Kiếp đã tính đến chỉ còn lại yếu tố Kiêu Ấn sinh Thân là chưa. Vậy thì bây giờ ta chỉ cần tập chung vào Kiêu Ấn xem sao?
Ta thấy trong sơ đồ Kỷ bị hợp lại còn bị khắc gần bởi Giáp và bị khắc trực tiếp bởi Mão cùng trụ nên cho dù Nhật can không bị hợp cũng không thể nhận được điểm vượng của Bính Đinh sinh cho, còn điểm đắc địa Lộc tàng trong Ngọ trụ năm cũng không thể nhận được sự sinh của Bính cùng trụ (vì nó không phải là chính khí của Ngọ). Vậy thì ta đành phải bó tay hay sao?
Thôi thì đành “Cố đấm để ăn xôi” vậy! Ta phải giả sử điểm vượng trong vùng tâm của Kiêu Ấn có thể sinh cho Thân xem sao (cho dù đến giờ tôi vẫn không thể giải thích được, giống như ông Thiệu có nói "Nhiều cái áp dụng thấy đúng nhưng không thể giải thích được") ?

Nếu Kiêu Ấn sinh được 40%đv trong vùng tâm của nó cho Thân thì Thân được thêm 8,44.40/100đv = 3,376đv nên Thân vẫn nhược.
Nếu Kiêu Ấn sinh được 45%đv trong vùng tâm của nó cho Thân thì Thân được thêm 8,44.45/100đv = 3,798đv, nên Thân vẫn nhược.
Nếu Kiêu Ấn sinh được 50%đv trong vùng tâm của nó cho Thân thì Thân được thêm 8,44.50%đv = 4,22đv. Lúc này Thân mới trở thành vượng, vì 4,22đv lớn hơn số điểm vượng cần được thêm là 3,9đv.
Qua kiểm nghiệm các ví dụ trong thực tế tôi thấy trường hợp này được gọi là trường hợp đầu tiên mà Kiêu Ấn sinh được 50%đv trong vùng tâm của nó cho Thân "Chỉ khi Thân nhược mà Nhật can được lệnh và Kiêu Ấn lớn hơn Tài tinh và Thực Thương".

Lúc đầu tiên tôi dự kiến các trường hợp Tử, MộTuyệt 0đv nhưng khi áp dụng vào các ví dụ trong thực tế thì thấy sai bét nhè, khi nâng lên 1đv rồi 2đv vẫn thấy như vậy, cuối cùng tôi nâng lên 3đv thì thấy rất đúng. Do vậy điểm vượng trong vùng tâm của Hỏa ở đây là 8,44đv có thể yên tâm chấp nhận được.

Cho nên Kiêu Ấn sinh được 50%đv trong vùng tâm của nó cho Thân ở đây là chính xác, vì không còn cách nào khác.
Đầu trang

VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1064
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Ví dụ mẫu 5 : Sau đây là ví dụ số 127 trong cuốn Tích Thiên Tủy

127 - Quý dậu - Giáp tý - ngày Đinh mão - Bính ngọ
Quý hợi/ nhâm tuất/ tân dậu/ canh thân/ ất mùi/ mậu ngọ

Trụ này can chi đều sát sanh ấn, ấn sanh Thân, giờ ngọ quy lộc nên nhật chủ vượng; thật vi diệu tứ xung phản ngược thành tứ trợ, kim sanh thủy mà không khắc mộc, thủy gặp mộc không khắc hỏa mà trở lại sanh mộc, trụ này tự nhiên trung hòa sanh hóa vi diệu. Nhật chủ từ nhược biến thành vượng, gặp vận thủy vẫn có thể sanh mộc; gặp vận kim vẫn có thể sanh thủy, ấn thụ không bị thương khắc, cho nên sớm thi đậu hương bảng, làm quan.”

Sơ đồ tứ trụ này như sau :
Hình ảnh
Đầu tiên qua sơ đồ trên ta thấy có trụ năm Quý Dậu TKĐK trụ ngày Đinh Mão nhưng không có tổ hợp. Ta thấy tứ trụ này rất đẹp vì hầu như tất cả các can chi đều tạo thành dòng lưu chẩy trong tứ trụ, trừ mỗi can Bính trụ giờ.
Thứ hai trong tứ trụ xuất hiện Đinh lộ ở can trụ tháng, điều này cho biết vào vận Nhâm sẽ có tin đẹp là “Đinh Nhâm hóa Mộc ở giờ Dần thì văn chương cái thế” ứng hợp với câu cho nên sớm thi đậu hương bảng, làm quan. Mà vận Nhâm Tuất rõ ràng là vận thứ 2 (trong khoảng trên dưới 20 tuổi), không phải là “sớm thi đậu hương bảng, làm quan” hay sao?
Tiếp sau là các vận Tân DậuCanh Thân phải đẹp (vì không thấy tác giả nói xấu về chúng) mà can chi hai vận đều là Tài tinh (tiền tài không cần phải nói), điều này quá đủ cho chúng ta biết Tài tinh là hỷ dụng thần nên Thân của tứ trụ này phải vượng đúng như tác giả đã luận “Nhật chủ từ nhược biến thành vượng” (Chú ý : Nhật ChủThân còn Nhật Can chỉ là can trụ ngày).
Chỉ cần các bạn biết suy luận qua loa như vậy thì có cần phải tính toán như tôi đã hướng dẫn để xác định Thân vượng hay nhược nữa không?
Nói vui như vậy thôi còn thực tế không đơn giản đâu, vì tứ trụ này không những có nhiều dòng lưu dẫn đến các can chi sinh cho nhau lại còn phải xác định lại điểm vượng các trạng thái...nên tôi phải hướng dẫn tiếp.
Qua sơ đồ trên ta thấy dòng lưu bắt đầu xuất phát từ chi Dậu trụ năm chẩy theo 2 dòng chính:
Dòng thứ nhất đi từ Dậu trụ năm đến Quý, tiếp đến Giáp rồi tới Đinh thì dừng.
Dòng thứ 2 thì rắc rối hơn, xuất phát từ Dậu trụ năm đến Tý, rồi Mão cuối cùng dừng ở Ngọ. Dòng này từ Tý lại tách ra thành dòng phụ nhỏ chẩy đến Giáp rồi tới Đinh thì dừng. Dòng này từ Mão lại tách ra thành nhánh phụ chẩy và dừng lại ở Đinh. Nói chung các dòng lưu này đều dừng lại ở Đinh và Ngọ. Ta thấy can Đinh, Bính và chi Ngọ gần nhau lại cùng một hành tựa như cái hồ để chứa các dòng chẩy này là rất đẹp, nhưng đẹp nhất khi can trụ giờ là Mậu hay Kỷ mới tuyệt vời, vì dòng lưu chẩy qua hết các can chi trong tứ trụ... không bị dừng ở đâu cả.
Ta thấy hàng chi có dòng lưu chẩy từ Dậu đến Tý, Mão rồi tới Ngọ thì dừng.
Ta thấy :
1 - Dậu trụ năm có 6đv bị giảm 1/9đv của nó bởi Đinh khắc cách 2 ngôi (cùng dấu), bị giảm 1/10đv của nó bởi Ngọ khắc cách 2 ngôi (khác dấu), giảm tiếp 1/20đv của nó vì Bính khắc cách 3 ngôi (khác dấu), giảm tiếp 1/2đv của nó vì vào vùng tâm, còn lại 6.8/9.9/10.19/20.1/2đv = 2,28đv.
2 - Tý trụ tháng có 10đv vào vùng tâm giảm 2/5đv của nó còn 10.3/5đv = 6đv. Nhưng Tý có 10đv sinh được cho Mão 1/6,5đv của nó là 10.1/6,5đv = 1,54đv và Tý còn sinh được cho Giáp cùng trụ 1/2đv của nó là 10.1/2đv = 5đv.
3 - Mão trụ ngày có 4,83đv được thêm 1,34đv của Tý sinh cho thành 6,37đv, bị giảm 2/5đv của nó do Dậu khắc cách 1 ngôi (cùng dấu), còn lại 6,37.3/5đv = 4,78đv. Nhưng Mão sinh được cho Đinh cùng trụ 1/2đv của nó là 4,78.1/2đv = 2,39đv, và Mão còn sinh được cho Ngọ 1/6,5đv của nó là 4,78.1/6,5đv = 0,74đv
4 - Ngọ trụ giờ có 4,1đv được thêm 4,05đv đắc địa Lộc của Nhật can Đinh tại Ngọ, còn nhận thêm 0,74đv của Mão sinh cho thành (4,1 + 4,05 + 0,74)đv = 8,89đv nhưng bị giảm 1/4đv của nó vì bị Tý khắc cách 1 ngôi (cùng dấu), giảm tiếp 1/20đv do Quý trụ năm khắc cách 3 ngôi (khác dấu) và vào vùng tâm giảm tiếp 2/5đv, còn 8,89.3/4.19/20.3/5đv = 3,8đv.
Ta thấy hàng can có dòng lưu chẩy từ Quý trụ năm tới Giáp và dừng lại tại Đinh trụ giờ :
5 - Quý trụ năm có 9đv vào vùng tâm giảm 2/5đv của nó còn 5,4đv.
6 - Giáp trụ tháng có 7đv được nhận thêm 5đv của Tý cùng trụ sinh cho thành 12đv, bị giảm 1/5đv của nó do bị Dậu khắc cách 1 ngôi (khác dấu), còn 12.4/5đv = 9,6đv. Nhưng Giáp sinh được 1/6,5đv của nó cho Đinh là 9,6.1/6,5đv = 1,48đv.
7 - Đinh trụ ngày có 3,1đv nhận được 1,48đv của Giáp sinh cho, và nhận thêm 2,39đv của Mão cùng trụ sinh cho. Đinh tổng cộng có (3,1 + 1,48 + 2,39)đv = 6,97đv nhưng bị giảm 1/4đv của nó do Quý khắc cách 1 ngôi (cùng dấu), và giảm thêm 1/5đv của nó do Tý khắc cách 1 ngôi (khác dấu), còn lại là 6,97.3/4.4/5đv = 4,182đv.
8 – Bính trụ giờ có 4,1đv bị giảm 1/10đv của nó do bị Quý khắc cách 2 ngôi (khác dấu), và giảm thêm 1/9đv của nó do bị Nhâm khắc cách 2 ngôi (cùng dấu), còn lại 4,1.8/9.9/10đv = 3,28đv.
Qua sơ đồ trên ta thấy Thân (Hỏa) có 11,262đv nhỏ hơn Quan Sát (Thủy) có 11,4đv nên Thân là nhược. Trường hợp này chỉ cần Thân được thêm 11,4đv – 11,262đv = 0,138đv thì Kiêu Ấn sẽ sinh được 50%đv trong vùng tâm của nó cho Thân theo “Trường hợp 2” (cũng như ví dụ trước ta phải đưa ra vì không còn cách nào khác). Do vậy ta chỉ cần thêm cho điểm vượng của trạng thái Tuyệt và Thai một chút là có thể được ?

Trường hợp thứ 2, Kiêu Ấn sinh được 50%đv trong vùng tâm của nó cho Thân :
2 - Khi Thân nhược, Nhật can thất lệnh phải có can chi Tỷ Kiếp (ví dụ Lão bán đậu hủ) hay Nhật can nhận được điểm vượng từ chi cùng trụ sinh cho (ví dụ số 190/T³ giờ Tân Mão, giờ Đinh Dậu trong sách sai) thì Kiêu Ấn phải lớn hơn Tài tinh và Thực Thương, cũng như Thân phải lớn hơn Tài tinh và Quan Sát.” (Phần tô đỏ là sau tôi mới thêm vào).

Trước đây chính ví dụ này tôi đã chọn trạng thái Tuyệt có 3,25đv còn trạng thái Thai có 4,15đv thì số điểm của Thân trong vùng tâm là 11,414đv. Số điểm này đã lớn hơn Quan Sát chỉ có 11,4đv nên Kiêu Ấn sinh được 50%đv trong vùng tâm của nó cho Thân. Thân có (11,4.1/2 + 11,414)đvđv = 17,114đv đã trở thành vượng.
Nhưng bây giờ tôi không chọn chúng nữa mà chọn trạng thái Tuyệt có 3,15đv còn trạng thái Thai có 4,2đv thì thấy hợp lý hơn nhiều (bạn đọc có thể chọn con số nào mà bạn thấy đúng cũng được miễn là áp dụng chúng vào thực tế phải đúng). Ta có kết quả như trên sơ đồ là Thân11,415đv trong vùng tâm lớn hơn Quan Sát11,4đv nên theo “Trường hợp 2” Kiêu Ấn sinh được 50%đv trong vùng tâm của nó cho Thân được áp dụng thành (11,4.1/2 + 11,415)đv = 17,115đv nên Thân đã thành vượng.
Ví dụ mẫu 5 này có thể chứng minh điểm đắc địa LộcKình dương ở mức khoảng từ 4đv đến 4,3 là hợp lý nhất. Vì nếu càng nhỏ hơn 4đv thì điểm vượng của các trạng thái TuyệtThai càng cao như vậy thì thấy kkông hợp lý, logic tí nào cả.

Bây giờ tôi có thể giải thích vì sao ở “Ví dụ mẫu 1” tôi đã nhắc khéo về điểm đắc địa Lộc4,05đv bằng dấu hỏi. Bởi vì ví dụ đó Kiêu ấn sinh được 50%đv trong vùng tâm của nó cho Thân theo “Trường hợp 1” là :

1 - Khi Thân nhược, Nhật can được lệnh và Kiêu Ấn lớn hơn Tài tinh và Thực Thương.”

Khi tôi viết lại Ví dụ mẫu 4 mới phát hiện ra cái sai của Ví dụ mẫu 1 (vì 2 ví dụ này giống nhau đều phải áp dụng "Trường hợp 1" của Kiêu Ấn sinh 50%đv của nó cho Thân).
Ví dụ mẫu 1 sau khi Thân nhận được 50%đv trong vùng tâm của Kiêu Ấn thì Thân chỉ còn thiếu 1,35đv để trở thành vượng nên điểm đắc địa Lộc có ít nhất (min) 1,35đv chứ không phải là min 4,05đv.
Vậy thì tạo sao hơn 10 năm qua tôi lại không phát hiện ra cái sai này? Chắc vì khi áp dụng nó vào trong thực tế không thấy sai thì phải?

Đây là một trường hợp lạ vì ra kết quả sai mà thực tế áp dụng lại đúng.
Đầu trang

VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1064
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Gửi bài gửi bởi VULONG »

10 -Kiêu Ấn sinh được 50%đv trong vùng tâm của nó cho Thân
Tất cả các trường hợp dưới đây Nhật can không được ở trạng thái Tử hay Mộ (ví dụ số 253/T³) vì khi đó Thân không thể nhận được sự sinh từ Kiêu Ấn.

1 - Khi Thân nhược, Nhật can được lệnh và Kiêu Ấn lớn hơn Tài tinh và Thực Thương.
2 - Khi Thân nhược, Nhật can thất lệnh phải có can chi Tỷ Kiếp (ví dụ Lão bán đậu hủ) hay Nhật can nhận được điểm vượng từ can cùng trụ sinh cho (ví dụ số 190/T³ giờ Tân Mão mới đúng) thì Kiêu Ấn phải lớn hơn Tài tinh và Thực Thương, cũng như Thân phải lớn hơn Tài tinh và Quan Sát.
3 - Khi Thân nhược, Kiêu Ấn nhỏ hơn thực Thương và Tài Tinh thì Nhật can phải được lệnh và Thân phải lớn hơn Tài tinh, Quan Sát và Thực Thương.
4 - Khi Thân nhược mà can trụ tháng hay trụ giờ là Kiêu Ấn được lệnh còn nhận được điểm vượng từ chi cùng trụ sinh cho.
5 - Khi Thân nhược mà can trụ năm sinh cho can trụ tháng và can trụ tháng sinh cho can trụ ngày tạo thành dòng lưu (tức 3 can này không bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp), và can trụ tháng phải ở trạng thái Lâm quan hay Đế vượng.
6 - Khi Thân nhược, Nhật can thất lệnh mà =18pxKiêu Ấn lớn hơn Tài tinh và Quan Sát nhưng nhỏ hơn Thực Thương thì Thân phải lớn hơn Tài tinh, Quan Sát và Thực Thương (ví dụ 306/T³ - Gõ lên Google chủ đề “Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận” còn muốn đọc phần đầu cuốn sách này thì gõ lên Google chủ đề “VULONG1 - Trích Thiên Tủy”).
7 - Khi Thân nhược, Nhật can thất lệnh mà Kiêu Ấn nhỏ hơn Tài tinh và Quan Sát nhưng lớn hơn Thực Thương thì Thân phải lớn hơn Tài tinh, Quan Sát và Thực Thương (ví dụ số 397/T³).
8 - ….................................?

Bảng Sinh Thành Lão Tử Dưỡng (1/10/2025)
(Tức“Bảng Sinh Vượng Tử Tuyệt”)
Hình ảnh
Bảng này vừa rồi tôi đăng không hiểu sao điểm vượng trạng thái Dưỡng tôi lại ghi là 4,4đv ? Thành thật xin lỗi mọi người.

Các trường hợp bổ xung thêm cho điểm vượng trong vùng tâm của các hành :

1 - Một hành trong tứ trụ có từ 4 can chi trở lên thì mỗi can chi có 0,25đv (có bị giảm khi bị khắc hay vào vùng tâm hay không ?).
2 - Nếu các can đều ở tử, mộ và tuyệt tại lệnh tháng và tất cả 4 chi trong tứ trụ có cùng một hành thì các can này chỉ khắc được các chi cùng trụ (chỉ xét về khắc ngũ hành), như ví dụ tứ trụ có 4 trụ đều là Tân Mão.
3 - …....... hy vọng các bạn giúp tôi viết tiếp.
…...................................................................................................

Tôi thấy đến đây các ví dụ mẫu xác định điểm vượng các trạng thái có thể đã đủ, không cần thêm nữa. Vì mấy Ví dụ mẫu này đủ để các bạn biết tự chỉnh sửa điểm vượng của các trạng thái như tôi.
Nếu các bạn thấy chỗ nào chưa hiểu, sai hay đoạn nào viết không rõ ràng, thiếu súc tích hãy đưa lên đây tôi sẽ giải đáp và sửa ngay.

Phần tiếp theo đáng nhẽ sẽ là "IV - Dụng thần của Tứ Trụ" nhưng tôi chuyển thành "IV - Binh pháp Tử Bình về luận hành vận" còn phần Dụng thần này tôi chuyển sang "Phần Cao Cấp" thấy hợp lý hơn.
Đầu trang

VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1064
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Gửi bài gửi bởi VULONG »

IV - Binh pháp Tử Bình về luận hành vận

Nguyên văn (do chính tác giả Trầm Hiếu Chiêm viết trong cuốn “Tử Bình Chân Thuyên Bình Chú“Chương 25 - Luận Hành Vận” (ai muốn đọc gõ lên Google chủ đề “Đề tài : Tử Bình Chân Thuyên Bình Chú”). Cuốn này và cuốn “Trích Thiên Tủy” là 2 cuốn sách hay nhất về Tử Bình hiện nay) :

Phương pháp luận Vận xem Mệnh cũng không khác nhau. Xem Mệnh lấy can chi Tứ Trụ phối với hỷ kỵ (tức hỷ dụng thần và kỵ thần) nguyệt lệnh (tức can trụ tháng), còn luận Vận thì lại lấy can của Vận phối với hỷ kỵ (tức hỷ dụng thần và kỵ thần) Bát Tự (tức Tứ Trụ). Cho nên hành Vận, mỗi Vận là một chữ, tất lấy chữ này phối với can chi trong Mệnh để thống nhất xem toàn cục, là hỷ hay kỵ, cát hung phân rõ ra.
(Các câu tô đen trong đoạn trích trên là câu tôi thêm vào để giảng nghĩa.)

Rõ ràng đoạn trích này tác giả Trầm Hiếu Chiêm đã khẳng định : “…lấy can của Vận phối với hỷ kỵ Bát Tự, nghĩa là đại vận chỉ lấy Can (Vận) xem nó là hỷ dụng thần hay kỵ thần trong Tứ Trụ. Thì rõ ràng tác giả muốn nói nếu can Vận mang hành hỷ dụng thần trong Tứ Trụ thì nó là Vận hỷ dụng thần còn nếu nó mang hành kỵ thần trong Tứ Trụ thì nó là Vận kỵ thần. Đơn giản chỉ có vậy còn nghi ngờ gì nữa?

Tác giả Trầm Hiếu Chiêm còn nói thêm : Cho nên hành Vận, mỗi Vận là một chữ, tất lấy chữ này phối với can chi trong Mệnh để thống nhất xem toàn cục, là hỷ hay kỵ, cát hung phân rõ ra.
Câu hành Vận, mỗi Vận là một chữcùng câu trên tác giả đã nói “luận Vận thì lại lấy can của Vậnthì Chi của Vận làm gì có cửa để xuất hiện ở đây ?

Vậy mà Từ Nhạc Ngô đã bình (người bình trong cuốn “Tử Bình Chân Thuyên Bình Chú) :
Từ (tức Từ Nhạc Ngô) chú thích (bình giảng):
… Riêng
Vận lấy phương làm trọng, tức quan trọng Dần Mão Thìn Đông phương, Tị Ngọ Mùi Nam phương, Thân Dậu Tuất Tây phương, hoặc Hợi Tý Sửu Bắc phương.
Rõ ràng người bình (Từ Nhạc Ngô) muốn nói là : “Xét Vận phải lấy Chi của Vận làm trọng xem nó thuộc phương nào, là Mộc (chủ phương Đông) hay Hỏa (chủ phương Nam), Thủy (chủ phương Bắc) hay Kim(chủ phương Tây) rồi phối với hỷ kỵ trong Tứ Trụ biết nó là tốt hay xấu.

Điều này rõ ràng người bình (Từ Nhạc Ngô) đã trắng trợn thay đổi ý của tác giả từ “…lấy Can của Vận phối với hỷ kỵ trong Bát Tự“ thành “lấy Chi của Vận phối với hỷ kỵ trong Bát Tự.

Hỷ Kỵ nói đến ở đây là Hỷ Dụng thần và Kỵ thần trong Tứ Trụ. Như ta đã biết khi Thân vượng thì Thực Thương, Tài tinh và Quan Sát là hỷ, dụng thần còn Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp là kỵ thần. Khi Thân nhược thì ngược lại Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp là hỷ dụng thần, còn Thực Thương, Tài tinh và Quan Sát là kỵ thần. Đây chính là hỷ kỵ trong Bát Tự hay Tứ Trụ.

Tóm lại đại sư Trầm Hiếu Chiêu đã cho chúng ta biết Binh Pháp Tử Bình về luận hành vận là lấy can (đại) Vận làm “Kim Chỉ Nam” để luận, nghĩa là can Vận là hỷ dụng thần của Tứ Trụ thì 10 năm đó đẹp còn nếu can Vận là kỵ thần của Tứ Trụ thì 10 năm đó xấu (không thấy đả động gì tới chi Vận cả).

Nhưng tôi qua thực tế kiểm nghiệm thấy Binh Pháp Tử Bình như vậy chưa đủ mà cần phải bổ xung là phải lấy thêm chi Vận làm Lệnh đại vận để xác định độ vượng suy của tất cả các can chi trong Tứ Trụ và đại vận tại đại vận đó (giống như lấy chi trụ tháng làm Lệnh tháng).

Vậy thì chúng ta thử lấy vài ví dụ đã diễn ra trong thực tế mà càng nhiều người biết đến càng tốt để kiểm nghiệm xem Binh Pháp Tử Bình về luận hành vận này đúng hay sai sẽ biết ngay thôi, đồng thời thông qua cuộc đời (tức hành Vận hay các đại Vận) của họ xấu tốt ra sao có thể xác định được Tứ Trụ của họ có Thân vượng hay nhược hay không (tức không cần tới giấy bút để tính với chả toán mới xác định được) ?

Ví dụ đầu tiên là vua Càn Long của Trung Quốc (ai muốn biết kỹ hơn cứ vào Google tra cứu sẽ biết ngay thôi).

Ví dụ số 1 : Là ví dụ 1 (vua Càn Long) trong cuốn Trích Thiên Tủy có Tứ Trụ và bài luận như sau :

Tân Mão - Đinh Dậu - ngày Canh Ngọ - Bính Tý
Đại vận: Bính Thân/Ất Mùi/Giáp Ngọ/Quý Tị/Nhâm Thìn/Tân Mão/Canh Dần/Kỷ Sửu/Mậu Tý

Thiên can canh tân bính đinh, chính phối hỏa luyện thu kim; địa chi tý ngọ mão dậu, cư ở bốn cung khảm ly chấn đoài. Cả bốn chi đều ở tứ chính, khí quán tám phương, nhưng ngũ hành thiếu thổ, tuy sinh vào mùa thu đương lệnh, chẳng luận vượng. rất cần tý ngọ gặp xung , thủy khắc hỏa, khiến cho ngọ hỏa chẳng khắc phá dậu kim, mà sinh phù nhật chủ; đổi lại mão dậu gặp xung, kim khắc mộc, tắc mão mộc không thể sinh trợ ngọ hỏa, chế phục đắc cách, sinh hóa hữu tình. Mão dậu tức chấn đoài chủ nhân nghĩa hơn người; tý ngọ tức khảm ly, là khí đứng đầu trong trời đất. Với lại khảm ly đắc nhật nguyệt chi chính thể, vô tiêu vô diệt, một tươi nhuận một ấm áp, tọa tại đoan môn, thủy hỏa ký tế. Cho nên tám phương qui phục, bốn biển cùng về, thiên hạ thái bình thịnh thế vậy(Thanh cao tông-càn long. Trích trong ái tân giác la mệnh phổ)”.


Ta thấy cả cuộc đời của vua Càn Long đều thành công huy hoàng, rực rỡ,.. hết cỡ. Điều này theo “Binh Pháp Tử Bình về luận hành vận” phải ứng với tất cả các đại vận có các can là hỷ, dụng thần.

Ta thấy 5 đại vận đầu có các can Bính, Ất, Giáp, Quý, Nhâm đều là Thực Thương, Tài tinh và Quan Sát phải là các hỷ, dụng thần nên Tứ Trụ này chắc chắn phải có Thân vượng.
Vậy mà trong sách luận là tuy sinh vào mùa thu đương lệnh, chẳng luận vượng” là sao đây ?
Hai vận sau là Tân Mão Canh Dần mặc dù là kỵ vận vì Tân và Canh là Tỷ Kiếp nên là kỵ thần, đáng nhẽ 2 vận này phải xấu sao thực tế vẫn đẹp ?
Từ chính các ví dụ như ví dụ này tôi đã phải đưa ra quy tắc lấy chi đại vận làm Lệnh đại vận là như vậy. Nếu áp dụng Binh pháp Tử Bình về luận hành vận thêm này ta thấy Tân và Canh đều hưu tù (thất lệnh), tử, tuyệt tại vận Dần, Mão lại còn bị Bính trụ giờ vượng ở đại vận Dần và Mão hợp khắc cho “lên bờ xuống ruộng” thì còn là vận xấu (kỵ thần) nữa hay không? Chắc chắn nó không đẹp như vận Dụng thần (đẹp nhất) thì nó phải đẹp như vận hỷ thần (đẹp thứ nhì).
Còn vận Kỷ Sửu Mậu Tý các can là Kiêu Ấn cũng là kỵ thần nhưng rất may là chúng đều hưu tù, tử tuyệt tại chi vận là Sửu và Tý nên không xấu nhiều (xấu vì không bị khắc như 2 vận trước), chắc xấu do tuổi già gây ra mà thôi ?

Điều này chứng tỏ đã có người “Đứng Trên Vai Người Khổng Lồ” là có thật, chứ không phải chỉ xuất hiện trong các cuốn Tiểu Thuyết.

Bây giờ ta thử dùng Toán Học đã học để xác định xem Tứ Trụ này có Thân là vượng hay nhược?
Sơ đồ tứ trụ này như sau :
Hình ảnh
Qua sơ đồ trên ta thấy Thân có 12,61đv hơn Quan Sát có 8,7đv (là hành kỵ thần có điểm vượng cao nhất) trên 1đv nên Tứ Trụ này có Thân vượng đúng như ta đã luận qua hành vận ở trên. Vậy mà người bình là Nhậm Thiết Tiều luận là chẳng luận vượng” (tức Thân nhược). Đã xác định Thân vượng hay nhược sai mà vẫn “Ba Hoa Chích Chòe” luận cho bằng được... Qua đây chúng ta thấy chả có gì đáng tin bất cứ ai cho dù tên tuổi họ nổi tiếng ra sao, khi chưa kiểm tra hay hiểu biết về họ (các bạn cứ từ từ kiểm tra lần lượt từng câu luận của Nhậm Thiết Tiều xem có thấy thật là nực cười hay không?).
Đầu trang

Trả lời bài viết