maxminHN đã viết: 22:50, 21/10/25
Cách Nhật Nguyệt tại Sửu Mùi là cách Nhật Nguyệt tranh huy, tức là cảnh tranh tối tranh sáng của mặt trăng và mặt trời. Nhưng kỳ thực ánh trăng là thái dương quang phản xạ hình thành.
Tại cung Mùi lợi cho Thái Âm khi ngày đã tàn, ở Sửu lợi cho Thái Dương khi đêm đã lụi.
Âm Dương tại sửu mùi tối hỷ Khôi Việt khiến cho chính tinh tối hãm đắc ý trở lại: "Nhật Nguyệt phản bối hà vọng thanh quang tối hỷ ngoại triều Khôi Việt".
Khôi Việt cũng là văn tinh như Xương Khúc.
"Âm Dương hữu Xương Khúc nhi đắc lực".
Bộ tam minh Đào Hồng Hỷ cũng rất hợp với Âm Dương làm cho Nhật Nguyệt sáng thêm, là cách hưởng phúc.
Bộ Long Phượng và Tả Hữu cũng hợp cách với Nhật Nguyệt.
Đương số ở đây được các cách kể trên được gọi là đẹp.
Ngoại trừ Kỵ Đà.
Tuổi Giáp làm Thái Dương - Hóa Kỵ tức công danh chậm muộn, và Thái Dương đang dần xuống núi khuất bóng(sinh giờ Dậu).
Đà la là cản trở. Tức công việc bị cản đường.
Cung Phu này đẹp thì đối cung được nhận cái ánh sáng chiếu vào cũng đẹp theo, như ta cầm cái đèn pin chiếu vào bức tường thì bức tường cũng được sáng lên, hay ở chỗ Tuần câu hút được ánh sáng nên càng rực rỡ.
Cự Cơ là cách thạch trung ẩn ngọc(tương tự như Cự Cơ Tý ngọ) hợp với Tuần Triệt Song Hao Kình- Cự Cơ Kình có Đào Hồng Hình chiếu về là cách dùng lời nói để làm đẹp cho đời trong khuôn khổ, nguyên tắc, kỷ luật(Thiên hình- quân phục, hình phạt, quy tắc, khắt khe, kỷ luật...). Đào Hồng là cấp 1, cấp 2, cấp 3.
Vì vậy cách cục này đi võ cách, giáo dục, y học đều hợp cách. Nhưng công danh phải đi vận có Hóa Khoa(36-45) thì mới dần tăng cái tốt của Thái Dương(Quyền tinh-công danh) lên được.
Phiền nhất lạc hãm Hỏa Linh chầu về hình thành bộ Hỏa Linh Hình Việt-họa vô đơn chí, vì cái mồm(Cự môn)- cứng, hỗn quá (Kình hãm) mà thành dở. Vì vậy phải nói đúng nơi, chơi đúng chỗ.
Đánh giá 8 điểm.