Hộ trì chánh pháp

Trao đổi về y học, võ thuật, văn hóa, phong tục, tín ngưỡng
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Diệu Khởi
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 145
Tham gia: 18:45, 23/09/25
Đến từ: Zalo O942842751

TL: Hộ trì chánh pháp

Gửi bài gửi bởi Diệu Khởi »

Tuổi thơ đi thật tưng bừng,
Hồn nhiên trong sáng chưa từng âu lo.

Thế rồi cái tuổi đã qua,
Con chim oanh đã bay xa vào đời.

Hoàng hôn ngả phía chân trời,
Tôi yêu về thủa thiếu thời của tôi.

Giờ đây thương mến con người,
Sống chung vũ trụ, bầu trời thân thương.

Từ trong cái lẽ vô thường,
An nhiên, tự tại, can trường bão giông.
Đầu trang

Diệu Khởi
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 145
Tham gia: 18:45, 23/09/25
Đến từ: Zalo O942842751

TL: Hộ trì chánh pháp

Gửi bài gửi bởi Diệu Khởi »

Ta nhẹ lòng đi trong miền sỏi đá
Mùi hương sen lan tỏa khắp càn khôn
Dĩ hòa vang giữa chánh niệm mõ dồn
Nghe từ bi đẹp ngôn “chân thiện mỹ”.

Luật luân hồi chẳng bao giờ thi vị
Cõi sắc không đạo lý thật công bình
Ta và người cũng qua cửa tử sinh
Nợ tiền duyên nghĩa tình đời vay trả.
Đầu trang

Diệu Khởi
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 145
Tham gia: 18:45, 23/09/25
Đến từ: Zalo O942842751

TL: Hộ trì chánh pháp

Gửi bài gửi bởi Diệu Khởi »

Kẻ gian tham rơi xuống vùng đại ngã
Tình mưu mô xảo trá dạ sói lang
Gây đau thương cho những tấm lòng vàng

Chịu cay đắng lệ tràn đầy thống khổ
Ta mải mê ngắm nhìn hoa đá trổ
Và hiểu rằng bến đỗ của nhục vinh

Người kiên trung tự đứng thẳng thân mình
Sống thanh tao lộ trình duyên, nghiệp, quả.
Đầu trang

Diệu Khởi
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 145
Tham gia: 18:45, 23/09/25
Đến từ: Zalo O942842751

TL: Hộ trì chánh pháp

Gửi bài gửi bởi Diệu Khởi »

Luân trầm há phải tại mùa sinh?
Sướng khổ tùy duyên lỗi tại mình
Nếu đã bần thanh nào sợ nhục?

Còn hơn vượng phú để cầu vinh
Vì gieo nghiệt khẩu đành quên nghĩa
Bởi rắc tà tâm phải phụ tình

Nhắn gửi đôi điều âu cũng đạo
Sen đài hướng Phật niệm cầu kinh.
Đầu trang

Diệu Khởi
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 145
Tham gia: 18:45, 23/09/25
Đến từ: Zalo O942842751

TL: Hộ trì chánh pháp

Gửi bài gửi bởi Diệu Khởi »

Miệng đời nào nuôi ta lớn
Thói đời bạc bẽo, răn dạy ta khôn.

Người đời thích nói sướng mồm
Miệng tạo thêm nghiệp, chẳng phiền để tâm.

Thôi thì ta cứ giả câm
Không nghe không thấy, lỗi lầm thứ tha.

Cuộc đời dể hiểu thôi mà
Nhìn hình đoán chữ, mới là hanh thông.
Đầu trang

Diệu Khởi
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 145
Tham gia: 18:45, 23/09/25
Đến từ: Zalo O942842751

TL: Hộ trì chánh pháp

Gửi bài gửi bởi Diệu Khởi »

Tự tâm cởi mở tấm lòng
An nhiên tự tại, cảm thông cho đời.
Ai ơi xin nhắn đôi lời
Đừng vội phán xét, cuộc đời người ta.

Lời xấu từ miệng thốt ra
Nghiệp từ cửa miệng, do ta tạo thành.
Hoa thơm hương ngát vây quanh
Lựa lời mà nói, cho xanh cõi lòng.
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2164
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Hộ trì chánh pháp

Gửi bài gửi bởi KMD »

NHẬN THỨC VỀ TÁI SANH - CHỨNG NGỘ - VÃNG SANH
Hòa Thượng Thích Giác Khang


Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được. Với lòng bi mẫn, trong 49 năm, Ngài đã đi khắp nơi giảng đạo nhằm giúp chúng sanh thay đổi nhận thức để thành Phật như Ngài. Và Đức Phật đã truyền lại pho tạng Kinh-Luật cho người đời nương vào đó để mà “văn - tư - tu”. Trong quá trình tư - tu các vị Tổ Sư đã triển khai Kinh - Luật thành Luận. Nay, thông qua “Kinh-Luật-Luận” để tìm hiểu: Như thế nào gọi là Tái sanh? Như thế nào gọi là Chứng ngộ? Như thế nào gọi là Vãng sanh? Và ba cái này giống nhau và khác nhau ra sao?


Tái sanh:

Tái sanh tức là luân hồi đồng nghĩa với không giải thoát. Tái sanh là do nghiệp lực chiêu cảm mà sanh trở lại cõi Ta bà, tức là khi thọ mạng chấm dứt, mống tâm tác ý muốn hiện hữu do đó tái sanh dưới hình thức một xác thân mới.

Qua “Kinh - Luật - Luận”, hiểu rằng, trong cuộc sống hàng ngày, ngay xác thân ngũ uẩn, tiến trình tâm thức trải dài qua 15 hạng chúng sanh từ địa ngục cho tới Như lai, nhưng vì mê muội khó mà nhận biết. Nếu tâm thức dừng lại rồi tư tưởng phân biệt dính mắc tham đắm vào đâu thì khi thọ mạng chấm dứt sẽ tái sanh mang một xác thân mới ứng hợp với tâm thức cùng cảnh giới đang dính mắc.

Tâm thức lờ đờ dừng ở bề mặt của 5 căn phù trần không có cái biết. Khi thọ mạng dứt, lập tức sa đọa vào cảnh giới Địa ngục.

Tâm thức dừng lại ở cảm giác lờ mờ chưa phân biệt của 5 thức đầu, dục vọng phát khởi làm tăng trưởng cảm giác đam mê trau chuốt xác thân, dẫn đến tham lam chiếm hữu ngoại sắc thô tháo. Khi thọ mạng dứt, lập tức sa đọa vào cảnh giới Ngạ quỷ.

Tâm thức dừng lại ở óc có sự phân biệt lờ mờ dục vọng bản năng, không suy tính trong mọi hành động chiếm hữu ngoại sắc, vì thế thường thất bại nên dễ quạu quọ sân giận. Khi thọ mạng dứt lập tức sa đọa vào cảnh giới Súc sanh.

Tâm thức dừng lại ở tư tưởng phân biệt lờ mờ trên phương diện tật đố, ganh tỵ. Luôn tranh giành chiếm hữu ngũ dục bằng bạo lực qua hành động của thân - khẩu. Khi thọ mạng dứt, lập tức sa đọa vào cảnh giới Atula.

Tâm thức dừng lại ở ý chí. Khi đối cảnh, tư tưởng tập trung vào mỗi giác quan để so đo phân biệt theo luân lý, rồi dùng ý chí đè nén dục vọng bản năng cải sửa hành động hướng thiện, bằng lòng với hoàn cảnh sống hiện tại. Khi thọ mạng dứt, nếu không bị nghịch duyên sẽ tái sanh vào cảnh giới Người.

Tâm thức dừng lại ở ý chí và kinh nghiệm. Tư tưởng tổng hợp sự hiểu biết qua 5 giác quan kết hợp với kiến thức qua sách vở làm cho kinh nghiệm ngày càng phong phú, dễ thành công trong mọi lĩnh vực hoạt động, chiếm hữu ngoại sắc thanh cao, vui sống với cảnh an nhàn. Khi thọ mạng dứt, nếu không bị nghịch duyên sẽ tái sanh vào cảnh trời Dục giới.

Tâm thức dừng lại ở ý chí mạnh và kinh nghiệm dồi dào dễ dàng nhập định sơ thiền- nhị thiền- tam thiền, chìm đắm chiếm hữu nội sắc để tận hưởng cảm giác hỷ lạc, xem đây là cảnh thiên đường trần gian. Khi thọ mạng dứt lập tức tái sanh vào cảnh trời Sắc giới.

Tâm thức dừng lại ở ý chí mạnh mẽ và kinh nghiệm tuyệt vời, tự tại xuất nhập định, an trú trong cảm giác bất lạc bất khổ thọ của tứ thiền - tứ không, tư tưởng say mê tạo dựng cảnh giới mông lung, vui sống trong “hiện tại lạc trú và tịch tịnh trú”. Khi thọ mạng dứt lập tức tái sanh vào cảnh trời Vô sắc giới.

Tóm lại: Sau khi hết thọ mạng, sẽ tái sanh theo nghiệp vào các cõi người - trời không có Phật pháp. Có nhiều hướng tái sanh, nhưng tạm phân có 2: một là thường nghiệp lôi kéo sẽ tái sanh cảnh giới người- trời Dục giới; hai là trọng nghiệp thiện lập tức tái sanh vào cảnh trời Sắc giới và trời Vô sắc giới, còn nếu là trọng nghiệp ác lập tức sa đọa xuống 4 đường ác. Tái sanh là cũng để trả nghiệp cũ, song song đó tạo nghiệp mới bằng thân - khẩu - ý.


Chứng ngộ:

Chứng ngộ tức giải thoát. Chứng ngộ có tự độ và độ tha.

1/ Tự độ: là tự tu - tự chứng - tự đắc tức là tự mình tu tập, tự chứng ngộ Phật tánh và đắc quả Tứ Sa môn. Trước hết cần giữ giới (3-5-8-10-250) để đạt định nhất niệm rồi tâm thức sẽ trong sáng. Và nhờ thức trong sáng, có Thiện tri thức khai ngộ nhận lại Phật tánh, từng bước, tâm lặng lẽ nhìn-thấy-biết rõ tiến trình tâm thức trải dài qua 8 cảnh giới từ Địa ngục tới trời Phi tưởng phi phi tưởng, trở về “Niết bàn tịch tịnh”, chấm dứt tái sanh.

Thánh đầu tiên nhận lại Phật tánh là Nhập lưu, đây là quả Thánh quan trọng nhất vì “giải thoát đầu tiên cũng là giải thoát cuối cùng”. “Hơn thống lãnh cõi đất. Hơn được sanh cõi trời. Hơn chủ trì võ trụ. Quả Dự lưu tối thắng.”.

Thánh Nhập lưu, tâm lặng lẽ nhìn thấy biết rõ 16 oai nghi của thân sinh lý, tiến trình diễn biến phát sinh tâm tham lam, sân giận, tật đố. Do rõ biết nên vĩnh viễn không dính mắc vào cảnh giới 4 đường ác, nhưng nếu không tiến mà giậm chân một chỗ sẽ tái sanh vào cảnh giới người - trời Dục giới tối đa 7 lần.

Thánh Nhất vãng lai, tâm lặng lẽ nhìn thấy biết rõ tiến trình tư tưởng, ý chí cải sửa dục vọng theo hướng thiện hoặc ác và tư tưởng phân tích tổng hợp đúc kết thành kinh nghiệm như thế nào nhận như thế nấy. Vì rõ biết nên vĩnh viễn không dính mắc vào cảnh giới người - trời Dục giới. Nếu giậm chân một chỗ sẽ tái sanh vào cảnh trời Sắc giới tối đa 1 lần.

Thánh Bất lai, tâm lặng lẽ thấy biết rõ tư tưởng, ý chí dùng kinh nghiệm dồi dào nhập định kéo dài cảm giác hỷ lạc, vì rõ biết nên vĩnh viễn không dính mắc vào cảnh trời Sắc giới. Nếu giậm chân một chỗ sẽ tái sanh vào cảnh trời Vô sắc giới tối đa 1 lần.

Thánh Alahán, trở về Chân tâm như thật biết: ý chí mạnh mẽ, kinh nghiệm tuyệt vời tự tại xuất nhập định, tư tưởng tạo dựng cảnh giới mông lung và tiến trình tâm thức trải dài từ địa ngục đến trời Vô sắc giới, từ Thánh Nhập lưu đến Bất lai ngay xác thân ngũ uẩn của chính mình diễn biến như thế nhận như thế đó. Vì như thật biết nên tự độ đã xong, chấm dứt tái sanh, an trụ Niết bàn tịch tịnh.

2/ Độ tha: Thánh Alahán phát Bồ đề tâm, thực hiện hạnh Bồ tát, từ “Niết bàn tịch tịnh” trở ra hiện tượng giới để cứu độ chúng sanh.

Bích chi, Duyên giác hòa nhập vào cảnh giới chúng sanh cùng cõi để tìm hiểu tâm thức.

Bồ tát Thánh ứng hóa một thân đến nhiều thân chúng sanh hòa nhập vào một cảnh giới đến nhiều cảnh giới để từng bước hiểu rõ nguồn cội tâm thức chúng sanh trong pháp giới.

Như lai lập tức ứng hiện vô lượng thân chúng sanh trong vô biên cảnh giới, từ đó thấu suốt cội nguồn tâm thức chúng sanh trong pháp giới vũ trụ.

Tóm lại: Ba bậc Thánh hữu học chứng ngộ Phật tánh từng phần: 1/4, 2/4, 3/4. Vì còn tư tưởng chi phối, nếu các Ngài không tiến mà giậm chân một chỗ sẽ tái sanh vào cảnh giới người - trời có Phật pháp để tiếp tục tu học và trả nghiệp. Thánh Alahán chứng ngộ Phật tánh 4/4 an trụ Niết bàn tịch tịnh. Ba bậc Tam tôn “tịch chiếu” vào pháp giới, thị hiện ứng hóa nhiều thân chúng sanh trong nhiều cảnh giới, đến khi lập tức ứng hiện vô lượng thân chúng sanh trong vô biên cảnh giới thành tựu Như lai. Và chỉ có Như lai mới thật sự thấu suốt cội nguồn tâm thức tất cả chúng sanh trong toàn thể pháp giới.


Vãng sanh:

Vãng sanh tức giải thoát. Vãng sanh do tự lực cá nhân và tha lực của Phật A-Di-Đà tiếp dẫn về thế giới Cực lạc yểm ly thế giới Ta bà. Tự lực là tự mình hành trì câu niệm Phật đạt nhất niệm rồi phát nguyện cảm ứng đạo giao với Phật lực A-Di-Đà. Tha lực là Đức Phật A-Di-Đà phóng quang tiếp dẫn tâm thức chúng sanh về cõi Cực lạc.

Với tâm đại từ bi, Đức Phật A-Di-Đà phát 48 đại thệ nguyện, dùng Phật lực quán trong 5 a tăng kỳ kiếp lập thành thế giới Cực lạc, sau đó Ngài phát nguyện độ hết tất cả chúng sanh có duyên với Ngài về thế giới Cực lạc, thoát luân hồi sanh tử khổ.

Cực lạc là thế giới: vô lượng quang, vô lượng thọ, vô lượng công đức. Vô lượng quang vì toàn thể cảnh giới Cực lạc là do Phật lực của Đức Phật tạo thành, mặc dù mỗi chúng sanh, mỗi sự vật có hình tướng nhưng đều kết bằng hào quang xuyên suốt không chướng ngại. Vô lượng thọ vì thế giới Cực lạc chuyển biến sátna, là thế giới phát hiện nên vô lượng vô biên với hằng hà sa số chúng sanh có tuổi thọ vô cùng tận. Vô lượng công đức vì thế giới Cực lạc do công đức Đức Phật thành lập và Ngài là Đại Pháp Vương, vì thế, chúng sanh ở đây đều được thấm đẫm hào quang công đức của Phật và sau khi nghe Đức Phật thuyết một thời pháp đều phát trí tuệ đắc Thánh quả tối thiểu là Nhập lưu, có ngay lục thông được vay mượn từ Phật lực của Ngài, và tiến thẳng một đường thành Như lai. Đặc biệt, những chúng sanh nào còn mang nghiệp mà được vãng sanh, nhờ Phật lực sẽ trả bằng ý nghiệp cho đến chấm dứt nghiệp mà không tạo nghiệp mới.

Nhưng muốn được vãng sanh về Cực lạc cần có 3 điều kiện: Tín - Hạnh - Nguyện.

Tín: Tin sự là có thế giới Cực lạc ở hướng Tây. Tin lý là thế giới Cực lạc phát hiện từ Chân tâm là báo thân của Đức Phật A-Di-Đà. Và tin phải sâu tức là niệm Phật tối thiểu phải đạt nhất niệm.

Hạnh là thực hành chuyên cần niệm-nhớ-nghĩ-tưởng đến Phật A-Di-Đà trong mọi oai nghi đạt nhất niệm, nhưng muốn đạt nhất niệm đòi hỏi phải trì giới thật kỹ lưỡng. Tin sâu và hành chuyên luôn bổ sung hỗ tương cho nhau, có tin sâu thì hành mới chuyên và ngược lại.

Nguyện thuộc trí huệ, nghĩa là phải hiểu rõ thế giới Cực lạc và chí thành tha thiết nguyện cầu tha lực của Phật A-Di-Đà phóng quang tiếp dẫn về thế giới Cực lạc. Nguyện là yếu tố quyết định cho sự vãng sanh. Trong nguyện bao hàm cả tin sâu và hành chuyên.

Vậy, nếu niệm Phật tâm đạt nhất niệm trở lên và có phát nguyện cảm ứng với Phật lực mới được A-Di-Đà tiếp dẫn về thế giới Cực lạc.

- Chúng sanh 4 đường ác tâm tán loạn và tạp niệm nên khó thể cảm ứng với Phật lực A-Di-Đà do đó không vãng sanh.

- Chúng sanh người - trời Dục giới tâm được nhất niệm nhưng không liên tục, do đó sắp lâm chung, muốn chắc chắn vãng sanh bắt buộc phải đủ 3 yếu tố: thiện căn, phước đức, nhân duyên.Thiện căn là bản thân phải đầy đủ tín-hạnh-nguyện, Phước đức là có Ban hộ niệm và người nhắc niệm trợ duyên tích cực nhắc nhở người sắp lâm chung tâm thức luôn tỉnh táo niệm-nhớ-tưởng Phật A-Di-Đà, nhân duyên là thân tộc hân hoan cùng một lòng trợ lực với Ban hộ niệm giúp người sắp lâm chung được vãng sanh.

- Chúng sanh trời Sắc giới và trời Vô sắc giới nhờ tâm đạt định nhất niệm cao, sâu, liên tục do đó các vị muốn vãng sanh chỉ cần phát nguyện liền cảm ứng với Phật lực, lập tức được A-Di-Đà phóng quang tiếp dẫn về Cực lạc.

- Ba bậc Thánh hữu học: Nhập lưu, Nhất vãng lai, Bất lai đã nhận Phật tánh tức tâm vô niệm, nhưng vì còn tư tưởng, do đó nếu muốn vãng sanh thì các Ngài hướng tâm phát nguyện, lập tức Phật A-Di-Đà tiếp dẫn ngay về Cực lạc. Thánh Alahán có huệ lực trở về báo thân thường trụ, các Ngài chỉ hướng tâm đúng tần số là phát hiện ra thế giới Cực lạc.

- Ba bậc Tam Tôn tâm vô niệm mà niệm, niệm mà vô niệm, vì vậy chỉ hướng tâm là thế giới Cực lạc hiện tiền.

Tóm lại: Chúng ta biết rằng “cảnh giới treo trên đầu một tâm niệm”. Vì vậy muốn được vãng sanh về thế giới Cực lạc cần tối thiểu đạt tâm nhất niệm và phát nguyện. Người – trời Dục giới sắp lâm chung cần thêm 3 yếu tố: thiện căn – phước đức – nhân duyên mới chắc chắn vãng sanh. Trời Sắc giới và Vô sắc giới tâm định nhất niệm cao khi phát nguyện là “hiện tại” vãng sanh. Ba bậc Thánh hữu học tâm vô niệm khi phát nguyện là “hiện tiền” vãng sanh. Thánh Alahán có huệ lực và ba bậc Tam Tôn thì vô niệm-niệm, niệm-vô niệm, chỉ cần hướng tâm lập tức an trụ ngay thế giới Cực lạc.



Tái sanh – Chứng ngộ - Vãng sanh giống nhau ra sao và khác nhau như thế nào?

1/ Tái sanh Vãng sanh khác nhau rất xa.

- Tái sanh là luân hồi trong cõi Uế độ do cộng nghiệp của chúng sanh phàm phu trong 3 cõi lập thành, gọi là thế giới “Dân lập”, là thế giới chuyển biến chu kỳ, có không gian và thời gian tương ưng, có điều kiện, có: đi- đến, xa- gần, trước- sau, nhanh- chậm, lớn- nhỏ, có sanh- già- bệnh- chết,…Tái sanh để rồi trả nghiệp cũ đồng thời tạo nghiệp mới bằng thân – khẩu – ý.

- Vãng sanh là hoàn toàn giải thoát và an trụ trong cõi Cực lạc do Phật lực của A-Di-Đà lập thành, gọi là thế giới “Phật lập”, thế giới rặt ròng hào quang, là thế giới phát hiện, thế giới chuyển biến sátna, chỉ có thời gian tuyệt đối, bất sanh bất tử,…Và đặc biệt vãng sanh được đới nghiệp gọi là “Đới nghiệp vãng sanh” nghĩa là mang nghiệp cũ về Cực lạc trả bằng ý nghiệp mà không bao giờ tạo nghiệp mới.

2/ Chứng ngộ Tái sanh giống nhau là cùng tái sanh vào cõi người- trời, nhưng khác nhau là có Phật pháp hay không Phật pháp.

- Chứng ngộ: nếu giậm chân một chỗ thì ba bậc Thánh hữu học còn tái sanh vào cõi người- trời nhưng có Phật pháp.

- Tái sanh: theo nghiệp lực của mỗi cá nhân mà tái sanh vào cõi người- trời nhưng không Phật pháp

3/ Vãng sanh Chứng ngộ: vãng sanh tức chứng ngộ, chứng ngộ có phát nguyện tức vãng sanh.

- Vãng sanh thù thắng nhất, nhờ Phật lực đương nhiên đắc Thánh bất thối chuyển, từ Nhập lưu tiến thẳng tới Như lai – Có lục thông – Được “Đới nghiệp vãng sanh”.

- Chứng ngộ tự chứng ngộ mà đắc Thánh quả. Nhưng nếu không có Phật tại thế, ba bậc Thánh hữu học dễ bị giậm chân tại chỗ, nên còn phải tái sanh để trả nghiệp.

Vậy, chúng ta thấy rằng, Đức Phật Thích Ca giới thiệu pháp môn Tịnh Độ cho chúng sanh trong thời mạt pháp là rất cần thiết và tối ưu quan trọng. Chúng ta cần tin sâu – hành chuyên – nguyện thiết sẽ được vãng sanh về xứ Cực lạc của Đức Phật A-Di-Đà. Đây là thế giới an vui, giải thoát và thù thắng nhất, không có gì sánh bằng.
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2164
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Hộ trì chánh pháp

Gửi bài gửi bởi KMD »

7 Pháp Thanh Tịnh
Thuyết Giảng: Hòa Thượng Thích Viên Minh

https://www.youtube.com/watch?v=SRlPG6Gwcbg
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2164
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Hộ trì chánh pháp

Gửi bài gửi bởi KMD »

GIẢI THOÁT TRONG PHẬT GIÁO
Hòa Thượng Thích Thiện Siêu


GIẢI THOÁT

Giải thoát là một thắng đức trong ba đức của Phật: Pháp Thân, Bát Nhã, Giải thoát. Nếu như ba thắng đức ấy hoàn toàn viên mãn thì gọi là Phật. Vậy nên giải thoát hoàn toàn và tuyệt đối là sự chung kết của Phật Đà, cũng là chỗ xu hướng chung của mọi loài chúng sanh. Không những nhân loại mà loại nào cũng thế vì đang ở trong mê lầm đau khổ nên đều có quan niệm lánh khổ tìm vui, mong cầu giải thoát. Cũng vì vậy người đời thường gọi Đạo Phật là đạo giải thoát chung cho tất cả chúng sanh, hay gọi là tôn giáo của chúng sanh đau khổ.

Nhưng trừ các bậc đã cứu cánh giác ngộ, thì chúng sanh mấy ai đặng giải thoát? Tuy hết sức mong cầu mà vẫn luôn luôn sống trong cảnh ngộ ngang trái khổ đau. Nguyên do vì chúng sanh chỉ biết tìm giải thoát nơi bên ngoài mà không tìm giải thoát chính ở nơi mình. Chính ta là nguyên nhân, là hình ảnh của đau khổ, mà ta cũng là nguyên nhân là hình ảnh của giải thoát. Nếu không thâm nhập sự thật ấy thì chưa thể giải thoát chơn thật hoàn toàn. Thế nên bản hoài của Phật xuất thế là cốt dạy chúng sanh diệt bỏ mê lầm, giác ngộ chân lý, và đem an vui đến cho mọi loài. Ngài không quan tâm đến sự khoái lạc huy hoàng của một đế vương, không dừng chân trong rừng khổ hạnh, cũng không thỏa mãn với những cõi trời Tứ thiền, Tứ không mà các hàng ngoại đạo đều cho là nơi rốt ráo cuối cùng của đạo họ. Bao nhiêu nỗi vui đẹp ở những chỗ ấy đối với Ngài đều là cái vui trá hình, chưa phải là dứt hẳn được mê lầm, giải thoát ngoài vòng luân hồi sanh tử.

Mục đích của người theo đạo Phật là sự giải thoát nên Phật tử không được chú trọng việc cầu tài, cầu phúc, cầu quả báo tốt đẹp ở nhân thiên. Mà cần phải phát tâm hướng mạnh về giải thoát, thì sự tu hành mới càng lâu càng bền, càng khó càng dai và có ngày mới đạt được mục đích cuối cùng như chư Phật. Trái lại như Ngài Lục Tổ nói trong Kinh Pháp Bảo Đàn: "Nếu tự tánh chân thật đang mê thì phước nào cứu đặng?" Nhưng giải thoát hoàn toàn là thế nào? Muốn hiểu, trước cũng nên biết thế nào là giải thoát chưa viên mãn.


GIẢI THOÁT HOÀN CẢNH

Hoàn cảnh bên ngoài vẫn gây nên đau khổ, cho nên tất cả chúng sanh đều cần đến sự giải thoát cho mình trong đời sống hiện tại, nghĩa là được sống với quyền sống rộng rãi thiêng liêng của mình đang ở giữa cõi trần này, mà không bị kềm hãm trong sự bất công mạnh hiếp yếu, khôn hiếp dại, lớn hiếp bé v.v... Có hai cách giải thoát khỏi những ràng buộc đau khổ của hoàn cảnh đối với bản thân:

1. Cải tạo hoàn cảnh vật chất cho thật hết sức tốt đẹp như xứ Bắc Câu Lô Châu theo trong kinh Phật dạy. Nhân loại ở đây chẳng có đâu bằng, vì ở đây nhân loại đã đến trình độ văn minh vật chất cực điểm. Đồ ăn mặc khí dụng lúc nào cũng sẳn sàng để cho người ta dùng tùy ý, không cần làm việc mà không thiếu thốn, không lập cơ quan cai trị mà vẫn đặng thuận hòa an ninh, cho đến sanh con đẻ cái chỉ do công chúng nuôi, không nhọc nhằn cha mẹ cấp dưỡng. Họ đẹp đẽ, họ mạnh mẽ, họ giàu sang, họ trường thọ, không bị điều chi đau khổ. Nhưng Phật kết luận sanh về Bắc câu lô châu là một cái nạn, vì ở đấy người chỉ biết đắm say theo vật dụng không phát đạo tâm và thường phải sa đọa.

2. Không chú trọng đến hoàn cảnh bên ngoài như những người xuất gia trong Phật giáo, họ ẩn mình vào nơi thanh vắng của chùa chiền, rừng núi, thâu hẹp đời sống vật chất mà mở rộng đời sống tinh thần. Vật chất phồn hoa đối với họ là mồi ngon của dục vọng, trợ lực của cạnh tranh, và nhân đó chúng sanh sẽ gieo trồng ác nhân mà sẽ nhận lấy ác quả, vật chất đã không hay nên cần phải xa lìa để huân tu về đạo lý. Đến khi đời sống vật chất trở nên món đồ phụ thuộc hẳn, thì không cần lợi danh vinh nhục gì bên ngoài đến ràng buộc và lay chuyển. Sánh với hạng trên thì hai đàng khác nhau, một bên tìm sống trong vật chất đầy đủ, một bên không quan tâm đến vật chất bên ngoài. Cả hai đều mới đến phương diện của giải thoát, giải thoát về hoàn cảnh.


GIẢI THOÁT VỀ TỰ TÂM

Tuy đã vượt khỏi những ràng buộc của hoàn cảnh chi phối bên ngoài nhưng bên trong còn bao nhiêu giống phiền não si mê thì vẫn chưa thoát hết nỗi thống khổ lớn lao và vững chắc do chúng gây nên, đấy là vì thấy có ta và có mọi vật. Tại sao mà giận? Tại thấy có ta và có mọi vật, tức đã nhận không làm có, nhận giả thành chơn nên mới có đau khổ. Chúng sanh hàng ngày, suốt từ sáng đến tối, thức cũng như ngủ chỉ sống với giả tướng giả danh chứ chưa bao giờ được chứng nhập với sự thật. Trái lại còn cho bao nhiêu giả ảnh ấy là thật, dùng ý thức phân biệt, để đòi hỏi tham lam, giận hờn và nghi hoặc. Không nhận sự vật một cách khách quan lại thêm vào chủ quan và tư kiến nên mãi mãi mê lầm. Tất cả phiền não từ đó mà ra thì tất cả buộc ràng đau khổ cũng từ đó mà sanh trưởng, nếu quan sát biết rõ ràng tất cả, dù hiện tượng, trừu tượng, khái niệm v.v... đều là giả dối, biến tướng của thức tâm, thì mê lầm bị tiêu diệt, trí tuệ hiện ra ứng hợp với thật lý thật sự, và đồng thời những đứa con đẻ của mê lầm như phiền não, như nghiệp, như khổ đều bị tiêu tan mà giải thoát luân hồi sanh tử. Nghĩa là giải thoát tất cả nhiễm ô trược ác, tất cả những gì của tam giới chúng sanh hiện đang chịu...


GIẢI THOÁT HOÀN TOÀN

Dứt bỏ mọi điều triền phược nơi tự tâm, thoát khỏi chốn lao tù ba cõi là một công trình lớn lao thiết thực, nhưng chưa phải là tuyệt đối hoàn toàn, chưa phải đã phá hết mê lầm thầm kín nhỏ nhiệm, đến đó chỉ phá được mê lầm về nhân ngã mà vẫn còn mê lầm về pháp ngã, nên phần trí giải cũng như phần thực hành còn ở trong vòng tương đối cả. Trí giải tương đối vì còn thấy có giải thoát và chưa giải thoát, đau khổ và an vui, Niết bàn và sanh tử, thực hành tương đối chỉ vì cải thiện hành vi xấu xa nơi mình mà tự giải thoát hành vi cá nhân còn e dè chướng ngại, chưa đủ năng lực tự tại ra vào chỗ uế trược khổ não, cũng như ra vào chỗ thanh tịnh an vui để hành động những công việc lợi lạc vị tha mà không bị nhiễm trước. Trái lại giải thoát hoàn toàn và tuyệt đối thì trí thức không còn bị thời gian và không gian hạn chế, không còn bị tâm lý sanh lý tầm thường chi phối. Trí tuệ đã chứng nhập nhân tướng của sự vật rồi nên tất cả cảnh giới đều vô ngại hiện ra trong trí Bát nhã viên dung, ngoài trí không có cảnh, ngoài cảnh không có trí , cảnh trí đều như như thì đối với uế cũng như với tịnh, ở trong sanh tử cũng tức an trú Niết bàn không thấy có chi sai khác phải bị buộc ràng, hay tìm cách giải thoát ra ngoài ba cõi. Như kinh Duy Ma Cật nói: "Không xa lìa văn tự tức là tướng giải thoát". Nhưng được giải thoát ấy chỉ là các vị Pháp thân Bồ Tát và các Đức Phật. Chư Phật tức như Chân như tự tánh mà luôn luôn khởi diệu dụng độ sanh, thi hành tất cả thiện sự, dù ở địa ngục, dù ở chư Thiên, dù ở Niết bàn hay sanh tử, cũng như hoa sen sinh ở trong bùn. Giải thoát tất cả mà không thấy có tướng giải thoát, tự tại trong công việc lợi tha, không phân biệt thân sơ, không có nhân ngã, tuy hướng dẫn mọi người mà mọi người không nhục, trên tất cả chúng sanh mà chúng sanh không cảm thấy nặng nề, thế thì còn chi ràng buộc mà không phải là giải thoát hoàn toàn tuyệt đối? Trở lại với trên kia, thấy hạnh phúc khoái lạc của phàm phu chưa phải là giải thoát, cho đến cảnh giới của Niết bàn xuất ly sanh tử của nhị thừa cũng chưa phải giải thoát hoàn toàn, chỉ duy có Đức Phật mới được như thế. Nhưng nếu trong hành vi cũng như ý nghĩ của ta mà có được đôi phần đức tính của cái chơn giải thoát ấy thì mới thật là ta có giải thoát, thiệt an vui và lợi ích thực sự cho tất cả mọi người mọi loài.
Đầu trang

Trả lời bài viết