HOÀNG CỰC KINH THẾ - QUYỂN 3

Các bài viết học thuật về dịch lý, thái ất, kỳ môn...
Trả lời bài viết
Em Tho
Chính thức
Chính thức
Bài viết: 58
Tham gia: 12:38, 30/04/09

HOÀNG CỰC KINH THẾ - QUYỂN 3

Gửi bài gửi bởi Em Tho »

BÀI TỰA
Xưa nay, sách làm sáng tỏ Đạo có Kinh dịch và Thiên Hồng phạm, vì 1 gốc ở Hà đồ 1 gốc ở Lạc thư. Hà đồ Lạc thư vốn liên hệ tượng dĩ nhiên của Trời Đất, hai đồ vuông tượng đất, đồ tròn tượng trời, mà trời có thể bọc được đất, đất không thể tóm được trời. Cho nên Thiệu Khang Tiết truyền cái học Tiên thiên, suy diễn nghĩa đồ tròn mầu nhiệm, viết thành sách Hoàng Cực Kinh Thế, lấy ngày Đông chí, nửa giờ Tý làm giờ Thiên khai, tự đó lấy đến Khôn, trừ 4 quẻ chính Càn Khôn Khảm Ly, lấy 60 quẻ làm 1 Nguyên, trải 12 Hội. Lại lấy 1 quẻ biến 6 quẻ, 60 quẻ biến 360 quẻ trải 360 Vận. Lại lấy 360 x 6 hào biến thành 2160 quẻ, mỗi quẻ thẳng tới hai đời trải 4320 đời. Lại lấy 2160 x 6 hào biến thành 12960 quẻ, mỗi quẻ thẳng tới 10 năm trải 129600 năm. Lại khởi Vận quái, lần lượt suy thuận làm quẻ trực niên, mở Vật ở Dần đóng Vật ở Tuất, mà trên suy đời đã qua, dưới ngược đời tương lai, chẳng gì là chẳng rõ ràng như trên bàn tay, trăm đời đức Thánh có thể biết được nghĩa ấy. Lại lấy 4 quẻ Càn-Đoài-Ly-Chấn làm mặt Trời, mặt Trăng, các vì Sao làm âm dương thái thiếu của thời (tức là Thái âm, Thái dương, Thiếu âm, Thiếu dương). 4 quẻ Khôn-Cấn-Khảm-Tốn trước làm thủy-hỏa-thổ-thạch, sau làm cương-nhu-thái-thiếu của đất. Thanh sướng lên ở trên Trời, âm họa lại ở dưới Đất, được gọi là xem Vật, mà âm dương tiêu trưởng của trời đất, biến hóa sinh thành của Người và Vật, bên trong là then máy của thân-tâm-tính-mệnh, bên ngoài là kinh tế về tu-tế-trị-bình, lớn rất mực là việc trị loạn hưng suy của các bậc Hoàng-Đế-Vương-Bá, nhỏ thì đến cỏ, cây, cá, sâu bọ sinh ra, khô đi tươi tốt rụng đi đều không thể vượt qua phép này. Trình Tử suy tôn Thiệu Tử có cái học trong Thánh ngoài Vương. Lưu Đẩn thuật được Hoàng Việt Châu chú thích, diễn làm Tự ngôn, trong thiên dẫn lời của Chúc thị Bật và Chu Ẩn Lão, lời nào cũng tinh diệu rất mực phát minh cho nhau, trọng về lý mà tin dùng về số. Trong thiên suy ngôi vua nhà Hán dài ngắn với đồ thanh âm sướng họa, sau cử lên một chữ “thiếu” để phát mimh cái phàm tục như thế là lý vậy mà nói việc đều ngụ ý ở trong, tiếc chưa tuyên bố rõ ý niệm về sự bí mật của Trời Đất cố nhiên không muốn tiết lậu ra khiến cho kẻ hậu tiến được nhìn cửa mà lao bước tới. Khi tôi còn búi tóc đi học, đã được nghe danh tiếng sách Hoàng Cực, khổ nỗi không tiền mua mà đọc, đến năm Mậu Ngọ mới được thấy bản sao, phủ phục mà đọc, tìm tòi ý nghĩa sâu xa, vì rộng mênh mang không thể được trong muôn một vậy, rồi thì đưa gấp vào bản khắc in, bấy giờ là mùa Thu năm Kỷ Mùi, mà tôi tuổi đã tới 60 rồi. Xưa còn nhỏ mà tập, cố sức học vài chục năm, hoặc vị tất chẳng được gì, tiếc lắm thay. Nay thuật lại nghĩa ấy, lấy Càn Khôn làm Đại phụ mẫu từ hữu sang tả, trở lại lấy quẻ Phục Cấu làm Tiểu phụ mẫu từ tả sang hữu chuyển đi cũng chỉ nắm lấy cái cốt yếu lớn mà đến chỗ sở tại tinh vi, chẳng dám phỏng đoán là lời nói vậy.
Cẩn tựa, Gia Khánh năm thứ 4.
Tiền đường hậu học Bao Diệu Lệ thị viết.
QUYỂN 3
Lấy Vận kinh Thế đã đủ, lấy Hội kinh Vận ở trước đã bầy rõ ràng. Lại chia Niên quái ở 6 Giáp, thay đổi vòng khắp ở dưới, cất lệ để thấy, chia thẳng để dùng tế nhị vậy. Bầy 1 Hội thâu tóm 5 quẻ, mỗi quẻ đều 6 hào chia làm 6 Vận, thông 5 quẻ có 30 Vận. Tiếp tục, 1 Vận nhỏ chia theo 6 quẻ, đều theo hào ở 6 quẻ biến, làm 1 quẻ quản 10 năm, 30 năm làm 1 Thế, 3 mà 2 đấy, thì 60 năm làm Thế ấy, 2 lần khắp 1 Kỷ 6 Giáp, 3 Giáp trước gồm Giáp Tý, Giáp Tuất, Giáp Thân, 3 tuần Giáp này chia trước, 3 tuần Giáp Ngọ, Giáp Thìn, Giáp Dần, làm 3 Giáp chia sau, 3 Giáp trước và sau, mỗi 1 Giáp tương đương với 1 hào thẳng quẻ đến 10 năm.
Lấy Giáp Tý-Giáp Ngọ làm đầu của 1 Thế, Quý Tị-Quý Hợi làm cuối hết của Thế, 1 Vận 6 quẻ thâu tóm 12 Thế, ứng với 6 hào là 60 năm, vòng Trời đi 360 làm 1 Vận số, cho nên Vận lấy Thế làm Vỹ (dọc), Thế lấy Vận làm Kinh (ngang). Lấy Vận Kinh Thế, quẻ của Thế thâu tóm quẻ của Vận mà năm làm Thế dọc (vỹ), quẻ của năm lại thông suốt trong quẻ của Thế vậy. Theo quẻ của Thế nhất nhất suy đấy, thì quẻ của Năm theo có thể biết hết vậy. Lấy đó mà cân Nguyệt Nhật thì chia thẳng dùng quẻ, cũng không có gì khác vậy. Điều cốt yếu lớn, Tháng kinh Ngày thì 1 quẻ từ hào 1 đến hào 6 biến được 6 quẻ làm Kinh (ngang), lại từ 6 quẻ làm Kinh mỗi quẻ lại biến 6 hào, 6-6 làm vỹ (dọc), 6 gồm 3 tài mà lại 2 đấy, 6 x 6 = 36 thì gồm sách số của Càn-Khôn mà bằng đấy, theo xét vậy, 1 Vỹ về Kinh, Kinh về Đạo.
Lấy Vận kinh Thế dùng 1, Thiên quan Vận thứ 27
Kinh Nguyên dùng Giáp 1, Kinh Hội dùng Tị 6
Kinh Vận dùng Quý 180
Kinh Thế dùng Tý 2147
Kinh Thế dùng Ngọ 2155
Kinh Thế dùng Mùi 2156
Kinh Thế dùng Thân 2157
Kinh Thế dùng Dậu 2158
Kinh Thế dùng Tuất 2159
Kinh Thế dùng hợi 2160
Đây bàn về Hội Tị, Vận thứ 30, thẳng quẻ Quải đến quẻ Càn, gồm có 12 Thế, theo quẻ của Thế chia ra quẻ Càn hào sơ biến Cấu, hào 2 biến Đồng nhân, hào 3 biến Lý, hào 4 biến Tiếu súc, thì từ đây khởi Tiểu súc đến Giáp Ngọ, thời vừa ở Càn trước 3 hào quẻ theo thẳng kể 180 năm gồm cả gốc quẻ Tiểu súc trước 3 quẻ theo thẳng kể 30 năm, đều lược đó không rõ làm hàng, đời Đường Ngu trở về trước hoang xa không chép, kinh Thế quan Vật xem 1 Trời Đất mà về xem ở Người, Người tất theo Thế (đời) giữ Vật sáng đủ, trị loạn hưng suy, có dấu vết mà có thể thấy để chia mà xem. Cho nên bắt đầu ở Tiểu súc Giáp ngọ, vì đương đạo của Càn bèn Cách mà văn đức tất rõ ràng chiếu sáng ở ngay trong Kinh Thư trị xét vậy, đầu Dịch là Càn, đầu Kinh Thư là Nghiêu, Thiệu ta theo Càn, chí ấy nên suy từ hào 4 quẻ Càn biến ra Tiểu súc, chia biến làm Vận nhỏ dùng Tiểu súc hào sơ biến Tốn, hào 2 biến Gia nhân, hào 3 biến Trung phu, mỗi quẻ đều quản 10 năm, thì Giáp Ngọ 30 năm thẳng quẻ Càn, Giáp Thìn 30 năm thẳng quẻ Đại súc, đó là chia Thế quái trong dùng 1 lại chia Càn dùng Tiểu súc, lại Tiểu súc dùng Càn mỗi 10 năm thẳng 1 hào, 6 lần 6 hào vị thứ lần khắp, 6 Giáp đó vậy. Đồ của năm Giáp Thìn đời Nghiêu chia thẳng quẻ Tùy, đó là theo quẻ Tiểu súc chia quẻ Càn hào 4, lần lượt 60 quẻ, thứ đang đến (tri lai) cầu đấy, tức là được theo thẳng Năm làm quẻ gì, như Giáp Tý quẻ Tiểu súc, Ất Sửu quẻ Đại tráng, thuận thứ tự tính, đến Giáp Tuất quẻ Cổ, Giáp Thân quẻ Hàm, Giáp Ngọ quẻ Dự, Giáp Thìn quẻ Tùy vậy. Giáp Dần đến Quý Hợi tích Tốn đến Nhu, bèn cuối cùng Tiểu súc 60 năm, quẻ theo trực chia xem theo ứng, nên có “tiết tuyên” trong khoảng Trời-Người ấy. Do đó, chia Càn dùng 5 Giáp Tý khởi Đại hữu, chí Càn dùng thượng Giáp Tý khởi Quải, hàng năm theo thứ tự đi 6 Giáp, ứng với từ Nghiêu đến Thuấn, Vũ chựu mệnh ăn theo quẻ trực niên nhất nhất khá tìm. Khi xem ở dĩ vãng, khá lệ việc tới nay, cất 1 góc lên, khá biết trăm biến, Thiệu ta ước lược thấy ở đồ, theo bảo ở sau cho kẻ đọc điều cốt yếu vậy. Tuy vậy ông Trương tử hỏi 10 Thế có thể biết được không ? Đức Phu tử bảo lần lượt lấy Hạ, Ân, Chu cái lẽ cùng nhân chẳng biến, cùng Tổn-Ích thông biến, việc dùng nên cho dân chúng, vì chứng cứ theo lý mà chẳng phải suy ở số vậy. Tuy số ở đó khá có kẻ cứu cũng còn nói đại khái vậy. Lại xét vua Nghiêu được “số trung”, giữ đạo “trung” làm phép muôn đời, khi trao cho cử 4 tháng Trọng, 2 ngày Chí, 2 ngày Phân, đều căn cứ lấy theo “trung” để định niên quái, gây dựng ngôi ở Bình dương từ quẻ Tùy đến Cách, trị trải thì sáng sủa, thử như kính trao việc sửa sang công nghệ dấy lên mọi việc thành vậy, như thế thì nói Hoàng cực đại trung. Ở dùng lý lẽ lịch luật, phép lại càng rõ ràng chủ mật vậy. Chu thị Ẩn nói rằng: Thần ấy là Trời Trăng theo hợp chia độ vòng trời 12 thứ vậy, 28 vị tú thứ tự mà ở. Thần chia làm 4 thì mỗi đoạn là 3, Mộc Hỏa Kim Thủy đều có 2, mà mình Thổ có 4 tự theo làm nói đấy vậy. Tự chia làm 4, thì mỗi đoạn có 7 sao, năm hành đều có 2 cùng mặt Trời mặt Trăng một mình đều theo 1 tự theo ở nói đấy vậy. Lấy Sao (tinh) để nói, Kim Thủy thời có trước mặt Trời mà mọc, sau mặt Trời mà lặn đó vậy, song sao Kim Thủy thường gần mặt Trời mà đi. Sao Mộc Hỏa thế thời có 12 năm một vòng, 2 năm một vòng, 28 mà bắt đầu một vòng. Gần mặt Trời thường nhanh, xa mặt Trời thường chậm, cách mặt Trời càng xa thì lại có cái thế hết thường lưu lại. Tùy theo đến, đều lấy theo biến để cầu, có thể nhanh hoặc chậm cùng giữa nhanh chậm đều khá được mà khảo cứu, lấy mặt Trăng mà nói thì xanh, đỏ, trắng, đen theo Đạo đều 2, cùng với Hoàng đạo mà 9, 9 mà 8 đấy làm 72 đạo, tùy theo chỗ đến, lấy theo mỗi biến cầu đấy, thời hoặc nghiêng hoặc ngay thẳng, cùng giữa sự tà chính, đều theo đó để khảo cứu. Lấy mặt Trời mà nói thì Đông-Tây-Nam-Bắc, theo đạo đều khác, cùng với xích đạo cùng giao, giao mà biến làm 2, đến 2 phần, tùy nơi chỗ đến, mỗi nơi chỗ đến lấy theo biến để cầu, hoặc dài lâu hay ngắn, cùng giữa dài ngắn, đều theo đó mà khảo cứu. Theo nơi chỗ Tứ trải phương theo đi, dẫn mối ở ban đầu, cất chính ở giữa, về lại ở sau, mà 4 mùa thành vậy, đó là việc theo lấy dấy lên. Lịch pháp thời Nghiêu, không hẳn còn đến nay, mà cái lý chưa thường chẳng còn. Ngoại thiên, Thiệu ta đã nói rõ, cho nên ở đây chỉ nói qua mà thôi. Ta xem Tam Hoàng mà ngâm rằng: Càn Khôn to lớn từ ta tuyên ta; Ngoài Càn Khôn còn nói gì nữa; Ban đầu chia đạo lớn chẳng phải đạo thường; Đầu có Tiên thiên cuối có Hậu thiên; Làm phép vi diệu Khí xem thấy dấu vết; Thu cộng rất lâu dài chẳng biết năm nào; Nếu khiến người trên đời bàn cộng nghiệp; Liệu được lại không có người ở trước. Ta xem Ngũ Đế mà ngâm rằng: Tiến lui chựu xem thiên hạ nhường cho nhau; Tỏ nói năng gì dường như vẻ ung dung; Nơi áo xiêm rủ xuống thời uy nghi thịnh; Theo sửa ngọc lụa ý tứ cung kính; Mọi vật hết thẩy noi theo chí lý; Người người tự xin lập công lạ; Bấy giờ tỏ sao được như thế; Chỉ bởi tiếng tăm giống như giữa mặt Trời.
Trang thị Hành Thành bảo: Niên quái từ đời Nghiêu năm Giáp Thìn khởi quẻ Thăng, Mông, Cổ, Tỉnh, nhưng Chúc thị bì hết sức cho là không phải, bảo là Thế quái làm Thủy Hỏa Ký tế hào 5-6, hợp với Sơn Hỏa Bí hào Sơ hào 2 làm Thiên Hỏa Đồng nhân, Lôi Hỏa Phong, Sơn Trạch Tổn, Sơn Địa Bác, 4 quẻ biến niên quái được Hỏa Thiên Đại Hữu, lấy Ký tế hợp Đại hữu, ở đồ Ký tế làm Vị tế, Tấn hợp quẻ làm … quái, hay lấy chứng nhân chính, có thể lấy vương vậy, theo vạn vật như thế lại nói: thế quái thì vua Nghiêu, ban đầu biến Đồng nhân, theo bảo rằng cùng với người mà không có ta, cho nên lấy Đồng nhân tương đương với quẻ Thái vậy. Xét Trương thị Hành Thành trở xuống theo bàn đến thấy ở đồ hậu thuyết trung phụ lục lại sẽ đính.
Lấy Vận kinh Thế dùng 2, Thiên quan vận thứ 28
Kinh Thế dùng Giáp 1, kinh dùng Hội Ngọ 7
Kinh Vận dùng Giáp 181,
Kinh Thế dùng Tý 2161, kinh Thế dùng Sửu 2162
Kinh Thế dùng Dần 2163, kinh Thế dùng Mão 2164
Kinh Thế dùng Thìn 2165, kinh Thế dùng Tị 2166
Kinh Thế dùng Ngọ 2167, kinh Thế dùng Mùi 2168
Kinh Thế dùng Thân 2169, kinh Thế dùng Dậu 2170
Kinh Thế dùng Tuất 2171, kinh Thế dùng Hợi 2172
Đây là Hội ngọ Vận thứ 1, thẳng Cấu đến Càn là 12 Thế, khởi từ vua Hạ Vũ năm thứ 8 Giáp Tý quẻ Cấu, đến vua Hạ Khổng Giáp năm thứ 12 Quý Hợi quẻ Đại hữu, gồm 360 năm. Niên quái từ quẻ Cấu, lần lượt thứ tự tính thuận số thẳng 6 vòng 6 Giáp, như theo thứ tự rằng: việc ứng thì theo Vận, chia Thế theo Thế, chia năm Đại quái Tiểu quái đều có theo, chủ ở thâu tóm mà xem, chuyển quẩn lạc đấy, kẻ đọc không nên câu nệ. Thiệu ta xem Tam Vương ngâm rằng: Một mẳnh Trung nguyên hơn vạn dặm; Không phải người đủ đức theo ở nhà Hạ; Nhà Thương chỉnh sóc hay còn rộng ra; Vua Thang, Vũ giáo mác chưa tiện dong duổi; Trạch Hỏa có tiếng mới chựu Cách; Thủy Thiên không ứng chẳng thành Nhu; Biết rõ nhân-nghĩa làm lòng ấy; Không chựu là thiếu Trượng phu ở nhân gian.
Lấy Vận kinh Thế dùng 3, Thiên quan vật thứ 29
Kinh Nguyên chọn dùng Giáp 1, dùng kinh Hội Ngọ thứ 7
Kinh Vận dùng Ất 182.
Kinh Thế Tý 2173, Thế Sửu 2174, Thế Dần 2175, Thế Mão 2176, Thế Thìn 2167, Thế Tị 2178, Thế Ngọ 2179, Thế Mùi 2180, Thế Thân 2181, Thế Dậu 2182, Thế Tuất 2183, kinh Thế Hợi 2184.
Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 2, thẳng quẻ Cấu đến quẻ Độn gồm có 12 Thế, khởi từ vua Hạ Khổng Giáp năm thứ 12, năm Giáp Tý quẻ Độn đến Đồng nhân, đến mãi đời vua Tổ Tân năm thứ 9, năm Quý Hợi, trải Giáp Tý 6 Kỷ 360, trong thời gian này thì trị, loạn, hưng, vong đều dùng theo Thế quái để chia niên quái dùng thẳng, đại khái đều theo phép trước để mà tìm.
Lấy Vận kinh Thế dùng 4, Thiên quan vật thứ 30.
Kinh Nguyên dùng Giáp 1, dùng kinh Hội Ngọ thứ 7
Kinh Vận dùng Bính 183.
Kinh Thế dùng Tý 2185, dùng Sửu 2186, dùng Dần 2187, dùng Mão 2188 dùng Thìn 2189, dùng Tị 2190, dùng Ngọ 2191, dùng Mùi 2192, dùng Thân 2193, dùng Dậu 2194, dùng Tuất 2195, kinh Thế dùng Hợi 2196.
Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 3, thẳng quẻ Cấu đến quẻ Tụng gồm có 12 Thế vậy. Khởi từ vua Tổ Tân nhà Thương năm thứ 10, từ quẻ Tụng đến Lý, đến mãi Văn Vương nhà Chu chựu mệnh làm Tây bá, quẻ năm Quý Hợi vẫn thẳng quẻ Tụng, gồm 360 năm, trong thời gian này khảo xét mà xem có rất nhiều nghiệm ứng, như Văn Vương niên quái thẳng Cổ, bị tù ở Dữu lý, đến quẻ Tụng thời cho dùng cung tên chuyên việc đánh dẹp, vị tất chẳng phải Đai lớn chựu mặc ở Tây bá, mà suốt buổi 3 lần cởi áo, ứng vào việc đánh nước Sùng vậy. Quẻ Minh di, Tụng theo lời Thoán mà rằng Văn Vương làm đấy. Có kẻ vảo rằng: Dịch như mặt Trời, mặt Trăng ở trên Trời, sáng ứng ở dưới Đất, xem theo đối sáng, không có gì mà chẳng hợp vậy.
Lấy Vận kinh Thế dùng 5, Thiên quan vật thứ 31
Lấy Nguyên dùng Giáp 1, dùng kinh Hội Ngọ thứ 7
Kinh Vận dùng Đinh 184.
Kinh Thế dùng Tý 2197, dùng Sửu 2198, dùng Dần 2199, dùng Mão 2200, dùng Thìn 2201, dùng Tị 2202, dùng Ngọ 2203, dùng Mùi 2204, dùng Thân 2205, dùng Dậu 2206, dùng Tuất 2207, kinh Thế dùng Hợi 2208.
Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 4, thẳng quẻ Cấu đến quẻ thuần Tốn gồm có 12 Thế vậy. Khởi từ Chu Văn Vương Giáp Tý quẻ Tiểu súc đến đời U Vương năm thứ 4 Quý Hợi quẻ Tốn là 360 năm, việc trong thời gian này có thể kê cứu theo càng dễ chứng thực, đó là Tiểu súc, mây dầy đặc mà không mưa từ Tây giao ta, cùng với quẻ Đại quá, ông già, kẻ sỹ, vợ qua lấy lời cùng giống nhau, như Văn Vương thờ vua Trụ nhà Ân, vua U Vương yêu nàng Bao Tự vậy, những việc khác có thể đại khái vậy.
Lấy Vận kinh hế dùng 6, Thiên quan vật thứ 32
Lấy Nguyên Giáp 1, kinh Hội Ngọ 7
Kinh Vận dùng Mậu 185
Kinh Thế dùng Tý 2209, dùng Sửu 2210, dùng Dần 2211, dùng Mão 2212, dùng Thìn 2213, dùng Tị 2214, dùng Ngọ 2215, dùg Mùi 2216, dùng Thân 2217, dùng Dậu 2218, dùng Tuất 2219, kinh Thế dùng Hợi 2220.
Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 5, thẳng quẻ Cấu đến quẻ Đỉnh gồm có 12 Thế vậy. Khởi từ Chu U Vương năm thứ 5 Giáp Tý đến Chu Uy Liệt Vương năm thứ 8 Quý Hợi quẻ Đỉnh gồm 360 năm. Trong thời gian này, bậc Vương giáng xuống bậc Bá. Xét Cấu hào 5 biến Đỉnh là Trời đất cùng gặp, cương gặp hào trung chính, vậy còn Càn hào 5 làm thành Vật thấy cùng Tượng mà Đỉnh Nguyên cát, hanh, hưởng đức Thượng đế nuôi Thánh hiền để lấy ngôi ngưng mệnh là khá vậy. Từ Đỉnh mà đến Cổ, cương trên nhu dưới, khắp vòng Trời đi trước Giáp sau Giáp, quẻ trọn thì có ban đầu, nên có việc làm chấn hưng lòng dân, nuôi đức ở Thời ấy. Sao bậc vương giả không thấy dấy lên, chỉ thấy Ngũ bá ganh đua dài mà đương đấy. Lúc bấy giờ đức Khổng tử là Tổ Vương sinh năm Canh Tuất đời Chu Linh Vương, ứng quẻ Ích thẳng đến Cấn, đến Đỉnh, đến Cổ, niên quái năm sinh lại thẳng Lý 1 thân mình, đủ đạo Hoàng, đức Đế, công Vương, mà lại Tỉnh nên sức lực Bá, mà tiến lui công hay tội đây. Cho nên đời Xuân Thu dẫu có chép nhiều việc Bá, thẳng đấy Cổ mà phản dùng trị, mà làm Tam tài Đỉnh cao trót muôn Vật, nhà đều văn võ. Thiệu ta xem Ngũ bá ngâm rằng: Ý riêng biết tôn danh, danh càng thiếu; Người người đều chạy mệnh chẳng xiết nhọc; Dàn gươm giáo sinh hoạt trong rừng; Đạo công của cải lại vào trong bụng; Dẫu thời còn hưởng sống hay yêu lễ; Nài sao Phượng hót chưa về chầu; Nhà Đông Chu trong hơn 500 năm; Than tiếc thời ấy một ông Trọng Ny! Thiệu ta lại ngâm Trọng Ny rằng: Trọng Ny sinh ở Lỗ trước ta; Cách đời Thánh hơn 1 ngàn 500 năm; Nay nay ai hay biết còn đạo ấy; Bấy giờ người ta tự ví với Trời; Hoàng, Vương, Đế, Bá làm chủ Trung nguyên; Cha con, vua tôi quyền muôn đời; Sông Hà không ra đồ ta thôi vậy; Ý tứ sửa kinh há thôi sao ?
Lấy Vận kinh Thế dùng 7, Thiên quan vật thứ 33
Kinh Nguyên Giáp 1, kinh Hội Ngọ 7
Kinh Vận dùng Kỷ 186
Kinh Thế Tý 2221, Thế Sửu 2222, Thế Dần 2223, Thế Mão 2224, Thế Thìn 2225, Thế Tị 2226, Thế Ngọ 2227, Thế Mùi 2228, Thế Thân 2229, Thế Dậu 2230, Thế Tuất 2231, Thế Hợi 2232.
Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 6, thẳng quẻ Cấu đến quẻ Đại quá, gồm có 12 Thế. Khởi từ Chu Uy Liệt Vương năm thứ 9 Giáp Tý quẻ Quải đến Hán Tuyên Đế năm thứ 6 Quý Hợi quẻ Quải gồm 360 năm. Chu bị Tần giết, Tần bị Sở diệt, Sở bị Hán giết, ứng cung Gióc mà không khỏi trước sau bị suy yểu, cái hung lên quá cao, thường luôn thấy như vậy. Tần bạo mà giệt Chu nhân, Hán nhân mà giệt Sở bạo, đương chia sự kéo dài và rút ngắn, theo đó mà biết. Nói rằng: Tần giết Bá vào Dịch, Hán bá gần được là Vương. Phu Chúc thị Bí nói: Dương Hùng lấy 3 thống lịch, nghĩ Mạnh Hỷ làm ra Thái nguyên đều biết ngôi vua của nước ở pháp ngôn cuối rằng: Hán dấy 210 năm, mà Tiên thiên thời ấy biết nhà Tần không thể làm mất Hán, còn có số Hậu thiên Quang Vũ dựng lại hơn 200. Lấy số mà xét, Hán Cao Tổ lấy từ Thìn 2225 đến Ngọ 2227, mà vào cửa quan qua Giáp Ngọ vào Thìn đến Mùi 2228 mà làm Vương ở Quan trung, Thế quái được Vận dùng Thế, dùng Nguyên, dùng Thế Ký tế hào 9-5 lấy quẻ Ký tế xét đấy số 12597 ức 1200 vạn không có số nhân, lấy Hội chia ra 13 ức 9978 vạn trừ đi được 900, ôi âm dương hợp nhau mà thành vật, chiết 900 mà nửa đấy được 450, đó là Hán được hưng ngôi Vua. Ở trong trừ Nhuận mỗi 19 mà trừ 1, giảm đi 34 năm, tức là số năm của hai nhà Hán là 426 năm vậy. Thiệu ta xem 7 nước ngâm rằng: Đương lúc đường cùng, chuộng dọc ngang; Vốn không nghe lời nói nhân nghĩa; Khương bảo phá Tề còn tức Mặc; Hay thắng Hàn Triệu hết Tràng bình; Buổi sớm còn thấy chưa làm quái; Ngày Trăng giết người sao đủ sợ; Tô Tần Trương Nghi múa 3 tấc lưỡi; Chẹn họng cái thế không cầu sống. Xem nhà Doanh Chính ngâm rằng: Oanh oanh 7 nước chính chen 1 mưu; Lợi hại cùng mài chưa bèn thôi; Số đến một lòng mạnh địch; Như bốn biển máu trôi ngang; Ba ngàn khách đương thành giấc mơ; Trăm hai núi công lại biến đổi; Chớ nói bãi hầu hay để giữ; Triệu Cao vốn không phải để phong hầu.
Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 7, thấy Đại qúa đến Quải gồm 12 Thế vậy. Khởi từ Hán Tuyên Đế năm thứ 17 Giáp Tý quẻ Quải đến quẻ Đại quá năm Tấn Huệ Đế năm thứ 14 Quý Hợi gồm 360 năm. Trong thời gian này, Tây Vương Mãng cướp ngôi nhà Tây Hán, Tào Man cướp ngôi nhà Đông Hán, Tư Mã Chiêu lại cướp ngôi nhà Ngụy, giặc làm loạn (loạn tặc) nối tiếp gét nhau đều ứng vào quẻ bói “có quân không hiệu lệnh, duy gốc ngọn đã yếu, nóc nhà suy yếu, mất việc giúp đỡ, quên kính sợ đến thương xót, bèn kịp đến hung”. Xét đấy, thời Mãng, Thác, Chiêu, Viêm, cũng đều như cành khô nở hoa, sao có thể lâu dài được. Ở ngôi vua nhà Hán trước sau hai lần dấy lên, còn kéo dài yên một mình ở Tây Thục, sau chót làm chính thống, thời Tiêu Vương lại dựng lên ở Đời giữa, mà nhờ dùng cỏ tranh trắng, lại có tài vương tá từ nơi nhà tranh ra vậy, thứ đến quá niên nhất nhá khá tường. Thiệu ta xem 2 nhà Hán ngâm rằng: Nhà Tần phá non sông chiến trường cũ; Có hẹn đâu dân lại thấy làm ruộng trồng dâu; Chín ngàn lại đâm mở mang bờ cõi; Hơn bốn trăm năm sưng hiệu Đế vương; Bóc mắt đã gặp Mãng và Đổng Trác; Sửa sang chín không nghĩ đến vua Cao Quang; Bấy giờ vạn vật thịnh như thế; Thành lại bởi đâu từ ao cạn; Thiệu ta xem Tam quốc ngâm rằng: Ầm ầm chân vạc dậy tiếng sấm; Xướng to chỗ tìm được tung tích; Nhạc một phương tình chưa nổi tiếng; Đao cung muôn dặm sức khó dùng; Bàn việc bình ở Long Thạch thà không ý; Ngựa uống nước sông Hà có lòng sông vậy; Tuy rằng thời Trời cũng việc người; Ai biết ngoài việc lo mất vàng. Thiệu ta xem Tây Tốn ngâm rằng: Tiếp được bình trị hãy còn lo; Yên mà quên lo chẳng phải hay; Tài ngoài nhà nói mát nhã nhặn; Chim muông ấy việc cách phong lưu; Có dao khó mổ bụng Công Sứ; Không cấy sao được đầu nguyên Hải; Một câu vạ ở đình Tịch dương; Lộn cửa Đông kêu sóng và vũ; Theo bảo Công sứ là Giả sung; Tên tự Nguyên Hải là Lưu Uyên đó.
Lấy Vận kinh Thế dùng 8, Thiên quan vật 34,
Kinh Nguyên Giáp 1, dùng Hội Ngọ 7,
Kinh Vận dùng Canh 187
Kinh Thế Tý 2233, Thế Sửu 2234, Thế Dần 2235, Thế Mão 2236, Thế Thìn 2237, Thế Tị 2238, Thế Ngọ 2239, Thế Mùi 2240, Thế Thân 2241, Thế Dậu 2242, Thế Tuất 2243, Thế Hợi 2244.
Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 8, thẳng quẻ Đại quá đến quẻ Hàm gồm có 12 Thế vậy. Khởi từ vua Tấn Huệ năm thứ 15 Giáp Tý quẻ Hàm đến Cách vua Đường Cao Tông năm thứ 14 Quý Hợi quẻ Độn trung trải 360 năm, Tấn, Tề, Lương, Trần mà thống nhất ở Tùy lấy nhường ngôi nhà Đường, phương Bắc 6 rợ Hồ, Đông Tây hai nhà Ngụy, không để các nước tiến hiệu vua, cùng cái thang ở cành khô, cùng với hoa toàn nở toàn tàn rụng ở cơn gió Thu. Trong khoảng Đoài Tốn, gốc ngọn đều yếu, đường Càn không kéo dài, theo Thế (đời) chia Hàm Cách, bụng chân không nơi ở, cướp giết cùng úp nhau, đổi biến không thường, họ hiểu sợ đổi nhà cùng coi bỏ mà con giết cha, nhà hưởng bầy rồng mà em giết anh. Hàm phản lại Lý không ? Cách nghiêm mệnh Đỉnh, hối hận không hay quên, lỗi này lớn vậy. Kẻ thức giả bấy giờ thông xem thường biến ở Trời-Người, xiết bao cảm khái vậy. Thứ đến niên quái từ Tấn đến Đường, Thiệu ta xem 16 nước ngâm rằng: Khắp dưới Trời gọi: hoàn khu ; Đại Vũ đã từng trị nước lụt ; Áo đến lúc rách, rận lớn nhỏ ; Quả dưa khô nứt nhiều bọ sâu ; Tờ sắc rằng không nhờ giặc bỏ ; Cửa đón vội rợ Hồ loạn dân ; Hy Phụ có nói chỗ để ý ; Bấy giờ chỉ thiếu Quản di Ngô. Thiệu ta xem Nam Bắc triều ngâm rằng: Đương khi thiên hạ chia Nam Bắc ; Cứ đi sinh sao thường dứt đi về ; Chỉ bậc Bá giữ điển phép tắc ; Tiêu Khang vẫn đeo hôi tanh cũ ; Tiếng tốt Lạc dương khen Thôi Hạc ; Tài lạ Giang Biểu phục Tạ An ; Hai trăm bốn năm cùng cương ngựa ; Đừng đem gì Lễ thưởng việc làm. Lại xem triều Tùy ngâm rằng: Trước tính ngày giờ đã không hay; Tiếp nối với nhau giết hại sau ; Sâu bọ nhân dân tham đất cát ; Bùn cát vàng lụa đẹp Cơ Khương ; Sánh đất ý tứ phục nơi hoang ; Đi thuyền biện Hoài Châu cùng Vị lương ; Ba mươi năm thẳng quét đất ; Không thế thiên hạ đến nhà Đường. Chu thị Ẩn lão nói: Hoàn Ôn lấy năm Bính Thìn khôi phục Lạc Dương, thời nên tự giữ, 1 năm trốn yên, 3 năm trí hướng mọi người hòa hợp nhau, rồi sau phấn khởi sức thừa thời phương Tây có thể bẻ gãy nhà Tần, phương Bắc có thể giật nước Yên, họ há có tài hơn người vậy sao ? Tần chẳng qua có tướng mạnh, Yên chẳng qua có Kệ Dung, trong đều có tài, sống theo sở giúp không chính, không đủ để chính can thiệp ta. Từ Bính Thìn đến Mậu Ngọ đã 3 năm. Giáp Tý thời theo 3 năm lâu mà đến nỗi cướp vậy, ấy thời chưa từng nuôi dân, lòng dân chẳng bền vậy, chưa từng với kẻ sỹ, khí kẻ sỹ chẳng phấn chấn vậy, ai thực chủ đây. Lỗi ông Ôn vậy, năm Ất Sửu Lạc Dương bị hãm về nước Yên, lính của Trần Hựu có 3 ngàn, Trần Kính 1 ngàn, đến lúc người Yên đến bức bách thì Hựu ra 5 phần 6 mà trái đấy, còn 1 phần cùng với Kính vừa được 800 người, ấy không đủ để giữ Lạc dương, chỉ đủ để giết Kính, Kính chết thời kẻ trung dũng ở đất Lạc chết hết, thời núi Gò nguy, đó là lỗi của Ôn vậy. Năm Kỷ Tị đánh Yên không lợi, đổ tội cho Viên Chân, Chân lấy Thọ Xương vào ở Yên. Năm Tân Mùi bình được Thọ Xương, về làm sự phế lập, để hả cơn giận, có phải do người sao ? Phủ Kiên giệt Yên đánh Tấn, Tạ Ân thua lấy lại Lạc dương 15 năm, lại bị Diêu Hưng lấy mất. Tân Cung Tinh Hiến đắp thành cổ, giữ trải hơn trăm ngày, sức khuất thế cùng, về sau thấy được trước không lạy Hưng, sau không trái Tần, thoát tù mà trốn sau về nước, thời theo giữ ấy chưa phải người ấy vậy, vì Tần không có viện binh. Năm ấy Kệ Dung đức lấy Thanh Châu, đóng đô ở Quảng Cô Trúc lặng lấy Chu Dịch bói nói rằng Yên suy. Canh Tuất niên thời 1 Kỷ, thế thời kịp Tý mà Nam Yên truyền Siêu giết ở năm Kỷ Dậu cũng ngõ hầu biết trước. Song Lạc dương năm Bính Thìn lại bị hãm về Tấn, thời chưa có biết trước đó vậy. Sao vậy ? Cuối cùng Lưu Dụ bình Tràng an, về gấp để cướp ngôi, sai đứa trẻ con giữ, gồm cả Lạc dương đều mất về Rợ Dịch, tướng mạnh lính đinh đều bị mưu toan hết, bao năm mà bị bỏ đi 1 sớm, há chẳng thương vậy thay, nếu Dụ có lòng với Tấn, nhịn chút chẳng về trấn yên hết thẩy theo đạo chí hướng mọi người cùng hòa hợp nhau, thì người Tây Bắc sao hay kíp lấy được, vậy do 2 bề tôi bất trung nên Trung nguyên không khôi phục lại được. Do đó nói là do người vậy, không phải do Trời vậy, là lý vậy, không phải do số vậy.
Lấy Vận kinh Thế dùng 9, Thiên quan vật thứ 35
Kinh Nguyên Giáp 1, kinh Hội Ngọ 7
Kinh Vận dùng Tân 188
Kinh Thế Tý 2245, Thế Sửu 2246, Thế Dần 2247, Thế Mão 2248, Thế Thìn 2249, Thế Tị 2250, Thế Ngọ 2251, Thế Mùi 2252, Thế Thân 2253, Thế Dậu 2254, Thế Tuất 2255, Thế Hợi 2256.
Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 9, thẳng Đại quá đến Khốn, gồm có 12 Thế, khởi từ Đường Cao Tông Lân đức năm đầu Giáp Tý quẻ Khốn đến quẻ Đoài, đến Tống Nhân Tông Thiên thánh năm đầu Quý Hợi quẻ Tỉnh gồm 360 năm, nay đến Tống Thái Tổ Càn đức năm đầu Vị tế chỉ kịp 10 đời. Bậc Nho giả trước đã qua không dám bàn đời này vậy! Xét Đường đấy 40 năm thẳng quẻ Đoài, Đoài thiếu nữ làm thiếp, thứ tự giữ vàng mùa Thu. Đường Lý Mộc thu về mùa Thu, nhận vàng theo Cách con gái, vợ được mà lỗi cùng vợ già đẹp mà khó lâu dài, tin vậy, bèn lại nóc nhà theo Vy Nạo Trạch ủy cho vây cánh khi 1 khí Chấn khởi cơ đồ thịnh, lại về Linh Vũ Hà Bồ tát Kim cương, lính con gái gối nhờ trong thời gian quan hoạn lộng quyền, ngoài phiên cướp xe vua, cái hạn về con gái và tiểu nhân trọn đời Đường vậy, tức là trước sau lan khắp qua, hai lần mất, hai lần dấy lên, đấy bởi người trung hiếu, mất bởi hoạn quan và tỳ thiếp, dương không thắng âm, đại khái thấy vậy. Đến như Lương, Đường, Tần, Hán, Chu thay đổi nhau lấn ngôi vua. Kịp đến nhà Tống dấy lên, trời sinh bậc thánh nhân, từ đấy thiên hạ thái bình. Dịch sau cùng quẻ Vị tế, Thiên tử biên niên quái mà thôi ở đây, há không có ý sao ? Trộm vì xem thêm ở sau, thì vua Tống Tổ mở nước, chính thẳng Tụng làm Sư mau tốt lúc ban đầu. Lý (lên) ngôi không phải dùng đến việc binh nhung, phàm vì: đếm gốc cây dâu bền chặt (tiên hệ đến bào tang), bản tấu thay đổi, Hoán Hán đến hào, đồ Vị tế Tổ dùng sau. Đến đời Thái Tông, Chân Tông, Nhân Tông, 3 vua 1 đức là bởi vận đương Khốn mà càng hưởng vậy. Như Vận thứ 10, Thế thứ 12, thẳng Đại quá đến Tỉnh, khởi từ Tống Nhân Tông niên hiệu Thiên thánh thứ 2 năm Giáp Tý quẻ Tỉnh đến Nhu, sau đến Minh Thái Tổ niên hiệu Hồng Võ năm thứ 16 Quý Hợi quẻ Đại súc, trong khoảng giữa Tống nguyên gồm cả kim niên quái, việc ứng bậc tiên hiền, chia rõ ràng chẳng phải kẻ hậu học theo hay lấy ý riêng mà tường tận, còn thì đại khái lấy phụ vào kinh Thế quan vật cho trọn vẹn, Thiệu tử ta xem Hữu Đường ngâm rằng: Trời sinh thần võ đặt trung ương, chẳng dễ hung thần đánh đuổi được; Đời Trinh nếu không gió giữ dội; Đời Khải sao khí ngùn ngụt lên; Ngồi cao mới thấy non sông mạnh; Vào hè mới biết ngày tháng dài, trong hai trăm năm hay thống nhất; Sự tuy thành đạo vầng sáng không. Xem Ngũ Đại ngâm rằng: Khi cuối đời Đường rường vua đổ; Sinh linh thiên hạ bị nhiễu nhương; Xã tắc yên nguy lệ quân lính; Triều đình khoanh tay phương phên dậu; Mùa đông sầu lạnh vốn không thoát; Tị Mùi niên sao nhỏ còn sáng; Năm hai năm dòng, họ đổi năm; Mới biết quét trừ đợi Chân Vương. Sinh thế Thiệu ngâm rằng: Hy Nghiêu Thuấn Vũ Thang Hoàn văn; Hoàng Đế Vương Bá vua tôi cha con; Đạo lý bốn bậc Tần gây hạn; Hán Đế hai nhà, lại chia ba; Đông Tây rối Nam Bắc bởi Ngũ hổ; Nhập tính cương kỷ Trời hầu cháy; Không có Đường Tống nước không còn; Ngàn đời luôn bởi người Trung nguyên. Thiệu làm Kinh Thế nhất nguyên ngâm rằng: Trời đất lồng chở mà cao quá; Trời Trăng đi lại không nghỉ ngơi; Tuế niên trên dưới khó lường số; Một nguyên nói lý còn dễ biết; Số đến quá vạn thật mơ hồ; Sách chép dấu vết một suốt đấy; Minh trải người làm để đời sau.
Nguyên 12 có Hội, dùng quẻ Vận chia vậy, xem quẻ Thế, quẻ Thế chia vậy, xem niên quái, bèn niên quái 1 thẳng, trị loạn ứng khác nhau cớ sao vậy ? Chúc Thị bảo là: thẳng niên quái cùng là quẻ ứng khác nhau, là ở quẻ trực Vận, trực Thế thay đổi nhau 5 mà thành chương, không khá làm điển yếu vậy. Hơn nữa, niên Vận ứng Trời, quanh quẩn ở người, như Tùy mở Thái là tốt vậy. Âm theo Dương thì tốt, Dương theo Âm thì hung, dưới ra lệnh trên thường theo không thể Thái, cố đến ở trên hung vậy. Âm cô Dương là hung, Dương cô Âm là cát. Con sửa lỗi cha, lỗi chẳng đến: Bĩ vậy. Bĩ mà đến dùng Tùy Thái, mà đến dùng Cổ, trên xem vận trời, đạo ở quanh Càn, Bắc mà đến Nam, Nam mà đến Bắc, dưới nghiệm khí đất, đạo ở chuyển Khôn. Đó là sự kỳ lạ về nghiệm ứng, cũng tự khó lường. Vua Hán Võ đánh hung Nô quẻ Phệ được cành khô nảy hoa, thua binh ứng niên quái ở quẻ Đại quá. Đặng Ngãi vào Thục mơ thấy ngồi trên núi có nước, ứng xe tù niên quái quẻ Kiển cùng Hàm chóng Hằng lâu. Nam Bắc triều Tùy thẳng quẻ Hàm, Hán Văn Đế, Minh Thái Tổ thẳng quẻ Hằng, văn Đế tên là Hằng, hóa nên đạo lâu dài, Thái Tổ dựng niên hiệu Đạo Minh, ứng vào quẻ Dịch: mặt Trời mặt Trăng được Trời mà hay chiếu lâu dài, các loại đó có phải ngẫu nhiên sao ?
Nguyên kinh Hội cất Năm thấy Tháng. Hội kinh Vận cất Tháng thấy Ngày. Vận kinh Thế cất Ngày thấy Giờ. Năm 1, tháng 12, ngày 30, giờ cũng 12. Quy giờ đầu có 8 khắc, bèn dùng đắp đổi Thế tóm tắt tượng mà xem vậy. Đắp đổi Thế, tóm tắt tượng đều 4 quẻ chia 8 khắc, Kiêu thị Ứng Hoài nói rằng: 1 giờ định đúng 1 ngày, 30 giờ là 2 ngày rưỡi định 1 tháng, mỗi tháng ngày mồng 1 giờ Tý đến ngày mồng 3 giờ Tị là tháng Giêng, từ ngày mồng 3 giờ Ngọ đến mồng 5 giờ Hợi là tháng 2. Mỗi tháng lại định một năm, mà tháng đủ định 30 giờ đúng 1 tháng. Tháng thiếu có 29 giờ cũng đúng 1 tháng. Tháng đủ thì có 360 giờ, 12 theo 30. Tháng thiếu thì 1 tháng có 348 giờ, 12 theo 29. Dẫn mà cho là phải đấy, trong 1 Nguyên lớn (đủ) nhỏ (thiếu) đều không sai vậy. Đem những điều kiện đó để tìm Nguyên-Hội-Vận-Thế, 12 cùng 30 lần lượt nhân lên, số đều cất lên. Rất nhỏ chẳng gì bằng sao, thì 30 Phân làm 360 Sao, 1 Sao thừa ra, thông qua Luật, Lữ, Thanh, Âm tính không kể Nhuận, thì từ đây trở lên đến ngày-tháng-năm đều 24 Nhuận, 24 Nhuận ấy là 360 số thừa Phân tích, sử dụng điều này bèn được phép Hỗ thể ước tượng, hay số Vận là số Ngày, số của Thế là số Thời (giờ). Cất giờ-ngày-tháng, tức là thông qua Giờ thì biết Thế, kẻ hậu học tóm tắt tượng ấy mà nên vậy.
Sách Chu Lễ chép 3 Kinh Dịch: nhà Hạ gọi là Liên Sơn, nhà Thương gọi là Quy Tàng, nhà Chu gộp mà dùng gọi là Chu Dịch. Trần Hy Di bảo rằng: vua Hy Hoàng mới vạch 3 hào thành quái, chồng lên làm 64 quẻ mỗi quẻ 6 hào, không lập ra văn tự, khiến người trong thiên hạ xem tượng mà đã có thể như tượng thì cát, hung ứng khi trái tượng Trời nên cái hung phản lại. Đời sau quẻ, vạch không tỏ tường, đạo Dịch không truyền dùng, Thánh nhân bất đắc dĩ mà có lời nói “Từ”. Học giả bảo Dịch chỉ dùng thế, lại không biết có vạch vậy. Xét Liên Sơn có 8 vạn chữ, Quy Tàng có 4300 chữ, Liên sơn dùng 36 chước, Quy tàng dùng 45 chước, mà tên quẻ như Khôn là Thích, Khảm là Bạc, Chấn làm Ly, Nhu gọi là Nhục, , Vô vọng gọi là Vô, Tùy gọi là Cù, Bác gọi là Bộc, Hàm gọi là Khâm,…, hào từ như Đại hữu dùng Phệ hạp gặp Đại hữu dùng Càn nói rằng: cùng trở lại ở cha, kính như vua, sở truyền chú thích, sở dẫn như cù, hữu từ, hữu hồ. Kịp đến quân tử răn đi xe, tiểu nhân răn đi không; đều là 2 Dịch. Nay từng tên quẻ Chu Dịch, âm nghĩa phần nhiều gồm như nhau, song bàn về Chu Dịch thì Càn Khôn định trước, 6 con thứ tự sinh ra giao lẫn nhau mà thành 64 quẻ, trong đó đủ 384 hào, xem cát hung cốt ở “trung - chính”, hào 2-5 dưới trên giữa 2 thể, là “trung” vậy, hào 3 -4 trong một quẻ là ở giữa toàn thể, đó là trong ngoài thẩm thấu, trên dưới giao nhau, vạn sự vạn vật không có cái gì là không thẩm thấu lẫn nhau, mà Dịch nói “trong hung có ẩn chứa cát, trong cát có mầm mống của hung”. “Chính” thì vị dương hào dương, vị âm hào âm, trái thế không phải là “chính”, đó là điều cốt yếu lớn vậy. Thông quá nghiệm rằng: Bỉ Hy làm Dịch, Trọng-Mạnh đưa duy Kỷ hành, Chu Văn thêm thông tiết 8, ấy 8 chuyển thứ tự 384 hào để ràng buộc cài mối Vương mệnh, cho nên “chính” là theo gốc mà muôn vật tri lý, mất chỉ hào tri lý mà sai tới ngàn dặm. Trọng nói ở đây là 4 giữa (mạnh-trọng-quý) mệnh đức thời Chấn-Đoài-Khảm-Ly, “duy” ấy là 4 duy, kỷ hành thời Cấn-Tốn-Khôn-Càn. Tượng-từ-biến-chiêm, Chu Công nhân tựa của Văn Vương mà cả đủ, xét đồng ý chí, không ngoài “trung-chính” làm cốt yếu. Kinh lấy “trung-chính” mà làm biến, làm giao, tả hữu quanh hợp nhau. Chúc thị nói: Càn Khôn là Đại phụ mẫu, quẻ đều đi phía hữu theo Thái dương vậy. Phục-Cấu là Tiểu phụ mẫu quẻ đều đi phía tả, bắt chước theo 4 mùa vậy. Quẻ đi bên phía hữu, 1 sinh 2, 2 sinh 4, 4 sinh 8, 8 sinh 16, 16 sinh 32, 32 sinh 64, đến chỗ trở lại sinh 17 quẻ mà lại hội số vô cực, tức là Nguyên hết lại có lý Nguyên vậy. Quẻ đi cùng cực đấy tức là Nguyên hết. Quẻ đi phía tả, từ 1 đến 2, thứ tự cùng nhân nhau, tiếp nhau, vòng quanh không manh mối, là lý năm hết lại đổi năm khác vậy. Hai phía đó nghịch thuận đi khác nhau, số dùng sai đến vạn vạn mà cùng cực, Dương duỗi ra, Âm co lại. Thiệu ta bảo Nguyên có 2, theo thuyết mà tả hữu suy đấy, tả dương hữu âm, như Cấu hào 1 biến sinh thì Phục lại được 1 dương, biến hết thời đến quẻ Quy muội, trước sau gồm 22 dương, rồi đều được Ký tế mà trai có vợ. Bỏ 4 tượng 80 âm hợp thượng thể 48 dương làm thành 112, Đông chí trở về sau lẻ thuận, dương trước âm sau, thì âm lại theo dương vậy. Khôn 1 biến sinh Cấn, được 1 âm hết 6 biến thành Tiệm, trước sau 32 âm đều được Vị tế mà gái có chồng, gồm Cấn Khảm 4 con dương, hợp với thượng thể 48 âm làm Âm (tiếng) 152. Từ Hạ chí trở về sau là nghịch, âm trước dương sau, nên dương phải theo âm. Còn 1 mà 2 làm Quải, mà 4 làm Đại tráng (đồ tròn nghịch Càn 1, Quải 2, Đại hữu 3, Đại tráng 4, Tiểu súc 5,…) đến 64 là Cấu, đều trở lại theo cung. Mặt Trời cùng Trời hợp ở Quy muội-Tiệm rất thay nhau Ký tế-Vị tế, hay Thái-Bĩ rồi lại thay nhau Quy muội-Tiệm. Quẻ Dự giao Tiểu súc làm Thái, làm Ích, Lý, giao Dự làm Bĩ, làm Tốn, mọi…mất chữ…Tụng, Tấn, Minh di biến thành Thái, Bĩ, Ký tế, Vị tế; cùng Di, Trung phu, Đại quá, Tiểu quá biến làm Tổn, Ích, Hàm, Hằng; thế nay tượng quẻ mà giao biến quanh hợp kỳ diệu khá tả hữu gặp gốc (biết suốt ý sâu kín) vậy.
Chia Thượng kinh làm 18 cung, Hạ kinh làm 18 cung, hợp làm 36 cung. Kinh Dịch thì Thượng kinh có 30 quẻ, gồm 30 x 6 = 180 hào, số quẻ trùng Thượng kinh là 4, thêm số hào trùng 180 + 24 = 206 hào. Hạ kinh có 34 quẻ, gồm 34 x 6 = 204 hào . Số quẻ trùng Hạ kinh là 2, thêm cả 12 hào trùng là 204 + 12 = 216. Đây là đồ số 36 cung. Mỗi 1 quẻ gồm 2, cùng trở đi trở lại đối nhau, khu dùng lại làm 1 cung. Đường ngày của kỳ 1 năm gồm 12 tháng, mỗi tháng chia thành 6 hậu, mỗi hậu đều có 5 ngày, như vậy 1 năm có 72 hậu = 360 / 5, số 72 này tính đôi thẻ Càn dùng trùng là 36 x 2, tương đương với tính 3 lần quẻ Khôn dùng trùng 24 x 3 = 72 vậy. Số 36 cung này, 6 theo 6, 4 theo 9, 3 theo 12, 2 theo 18 đều về 36 cung. Theo Hán Dịch, ở kinh trên bầy 18 cung tương đương với 30 quẻ, trong đó phản dịch có 6, ở kinh dưới bầy 18 cung tương đương với 34 quẻ mà phản dịch là 16, bớt dịch ấy 2, gồm 12 dùng 16 làm 28 cung, gồm 2 dùng 6 làm 8 cung, gồm 8 cung dùng 28 cung làm 36 cung, diệu với kinh trên 30 phối kinh dưới 34, quẻ không bầy bằng, hào không đều bằng, mà trên dưới đều bằng đều 18 cung, thời lấy kinh dưới Trung phu, Tiểu quá bất dịch, dùng 2 quẻ dương kinh trên Di, Đại quá bất dịch, dùng 2 quẻ bất dịch phối kinh trên với Càn-Khôn-Khảm-Ly, dùng 4 quẻ bất dịch phối kinh dưới với Chấn-Cấn-Tốn-Đoài, hỗ dịch dùng 4 quẻ. Cho nên quẻ không bầy bằng, hào không đều nhau mà gần đều vậy, theo nhiều ít làm đối nhau, hết thẩy đều hợp tự nhiên vậy. Vị tế 64 là số trùng quái, tính gồm cả 8 kinh quái tự nó ở khoảng quay về vần chuyển mà 72 số toàn vẹn vậy. Kinh chỉ 64 quẻ gồm 2 quẻ làm 1 cung, ứng chỉ 32 cung, lại thêm 4 vậy mà gồm 8 quẻ cùng bèn 36 cung. Xét trên dưới 2 kinh đều 3 khu, mỗi khu 12 quẻ có 72 hào. Càn khôn đầu khu thứ nhất, là Thái Bĩ đầu khu thứ 2, là Bác Phục đầu khu thứ 3, ba (3) theo 12 thì ở kinh trên 30 quẻ thực bao 6 quẻ ở trong phản đối trùng kiến, Hàm Hằng đầu khu thứ 4, Quải Cấu đầu khu thứ 5, Phong Lữ đầu khu thứ 6. Lại 3 theo 12 thì ở kinh dưới 34 quẻ thực bao 2 quẻ ở giữa phản đối trùng kiến, kinh trên ít hơn 4 quẻ mà quẻ sở bao lại nhiều hơn 4, kinh dưới nhiều hơn 4 quẻ mà quẻ sở bao ít hơn 4, cho nên đều 18 cung, đều 36 quẻ mà đến quân bình, thông mà nói theo phản Dịch 28 quẻ, 2 quẻ hợp 1 cung, bất dịch 8 quẻ, mỗi 1 quẻ chuyên 1 cung, chia nói chuyên danh của quẻ, 64 quẻ, 1 quẻ chỉ về 1 lần xem, hợp nói cung gồm lệ 36 cung thì 1 quẻ đều làm 2 lần xem, tuy không đổi chuyển cung, cũng đều làm 2 lần xem. Kinh trên 6 quẻ gồm 6 mà 30 thêm 6, kinh dưới 2 quẻ gồm 2 mà 34 thêm 2, cho nên số vừa tương đương vậy. Kịp đến kinh trên dương 52 âm 56, kinh dưới dương 52 âm 56, đều 108, hợp lại là 216 ứng số Càn sách, gồm 2 quẻ trùng toàn thời 432 hào, 432 này là số hào của 72 quẻ, thâu tóm làm 36 cung biến hóa. Quẻ 64 được 384 hào, lấy 24 hào của 4 quẻ, đúng hợp sách 360 của Càn Khôn, chỉ lấy hào số của 60 quẻ đương đấy, còn thừa 4 quẻ 24 hào. Hoàn cực đã tạo cho Thiệu ta lấy ý ở Hy đồ 4 chính Ly-Càn-Khảm-Khôn, 4 quẻ chính của Kinh Phòng quái khí lấy ý ở Văn đồ là Khảm-Chấn-Ly-Đoài, 4 quẻ chính này chia thẳng 24 khí, thâu tóm 72 hậu, đều chuẩn cho Đại diễn (số 50), treo 1 lần đếm 4 về kỳ (lạ) tượng, phép Nhuận cũng đi khắp Trời 360 độ 4 phân, số phân đủ của 1 độ, mà đó lại bao 8 quẻ 48 hào ở cung phản đối trùng kiến thì dựa vào 4 theo 12, kinh trên được Càn sách qua số sắp xếp làm 12 ấy 3, kinh dưới được Càn sách số cơ chứa làm 12 ấy 1 để hợp ở đương kỳ sách số chung lẻ, gồm 24 dùng 48 được 72 sách, so sánh giờ của ngày gồm thừa 6 ngày. Chính Ngu thư 400 có 6 tuần có 6 ngày lấy tháng Nhuận định 4 mùa, tháng rằng năm.. Thiệu ta tán Thái nguyên, biết phép lịch, lại biết lịch lý, trộm bảo rằng tức là tự tán (khen), xem lời nói về xem 36 cung, khá lấy biết vậy. Song trong thơ nói: Thiên căn bảo rằng Phục, Nguyệt quật bảo rằng Cấu, từ Phục đến Cấu, từ Cấu đến Phục, giữa Tý-Ngọ chia đều 32 quẻ mà đều có quẻ bất dịch, ở phía tả thì Di, Lý, Trung phu và Càn Ly, ở phía hữu thì Đại quá, Tiểu quá gồm cả Khảm Khôn, qua lại tráo trở mà suy, như Dịch số cung ở kinh trên dưới: cung ở Phục về phương tả mà phản đối quẻ hữu phương cùng cung, ở Cấu về phương hữu mà phản đối quẻ phương tả, đều 14, lại hư hợp trùng kiến dùng 4, thâu tóm cả tả hữu đều 18 cung, thời cung lấy đồ tham thác làm chỉnh tề, theo số là quân bình thì 1, thực là khí bình phân của 4 mùa, suốt 72 hậu. Mùa Xuân là cao nguyên đầu 4 mùa, lưu đi trong sự trăng sinh thu tàng, cho nên rằng 36 cung đều là Xuân vậy, đến dùng Nguyệt quật là biết vậy. Thiên căn là biết người, Hoàng cực bầy Nhân và Vật làm 32 vị, đều chia 16 bậc, là Vật thì lấy bay-chạy-cây-cỏ, dùng chạy-bay-cây-cỏ sáng với Tốn-Khảm-Cấn-Khôn, người thì là khu lấy sỹ-nông-công-thương sánh với Càn-Đoài-Ly-Chấn, đại khái khi Càn giao với Tốn làm 1, thì 1 lần biến theo lúc đầu mà làm Cấu, tan khác chia lớn làm nhỏ, lấy khoản đến Khôn làm ngàn, ngàn thời trên mà khởi ở bay, bay dùng lớn, dưới mà cùng cực đến cỏ, cỏ dùng nhỏ, mà loài Vật khá biết. Theo Cấu đến Nguyệt quật là xem (quan) vậy, Khôn dùng giao Chấn, Khôn làm ngàn, ngàn lần biến theo lúc đầu làm Phục, thâu tóm thể dài nhỏ làm to. Lấy Khảm đến Càn làm 1, 1 thời dưới mà khởi ở thượng, thượng dùng nhỏ, trên mà cùng cực thì đến sỹ, sỹ dùng lớn mà nhân phẩm khá biết. Theo Phục đến Thiên căn là Quan (xem) vậy. Cho nên Thi rằng: “vậy tường ở trong. Thiên thứ 11”. Vì Thiệu ta xem Người và Vật, không lìa số cung dùng qua lại, ấy thể vậy. Có kẻ nói: lời nói 36 cung không nhất trí. Có thuyết lấy 12 vạch đơn 12 vạch kép đương đấy ấy. Có thuyết lấy Càn 1 đến Khôn 8 đương đấy ấy. Hợp trở đi trở lại để tìm giải này, vốn hợp để xem kỷ ý thơ đường có mỗi quẻ đều được ý thứ 36 cung, đến Cấu Phục mà bàn qua đi thì từ dưới xem lên trên, theo hào Sơ biến đến hào Trên, lộn lại thì từ trên xem xuống dưới, theo hào Trên biến xuống đến hào Sơ. Phàm 1 hào biến 1 quẻ, 1 quẻ lại được 6 hào, làm 6 lần 6 là 36, tức là hào ấy biến theo thâu tóm mà gọi đấy làm cung, như quẻ Phục thâu tóm: Khôn, Lâm, Minh di, Chấn, Truân, Di, đều 6 hào, quẻ theo thẳng là quẻ Cấu thâu tóm: Càn, Độn, Tụng, Tốn, Tỉnh, Đại quá, đều 6 hào dùng loại quẻ sở trực. Trong lúc nhàn dỗi qua lại xem ngắm quẻ Tùy mà được 36 cung, càng diễn càng nhiều, tức là khá được sinh, sinh là cái cơ không nghỉ ở Nguyên, Nguyên dùng trong cùng nối tiếp nhau mà 1, 1 xuống đến ngàn ngàn, ngàn ngàn lên đến 1, 1 đem lên Người và Vật to nhỏ đều thâu tóm ở khoảng trong, xem thuyết này mà Thiệu ta vịnh Hoàng cực quan vật ở Nguyên-Hội-Vận-Thế mà thấy lòng thiền định, không phải đem Dịch nói phiếm mà nói vậy, nghĩa tức là căn cứ ở Dịch mà suy, cũng chẳng gì mà chẳng cùng với lời nói, cùng hiệp hợp vậy, giữa lại để đợi đính sau, gồm nghĩ miệng đạo ngay. 36 cung chia trùng 6 cung, Càn-Khôn-Ly qua Khảm-Ly thông ở trên, lại chia 6, 4 lại trùng 2, Tiểu quá, Trung phu 18 cùng (ở dưới), kinh trên kinh dưới toàn 36 qua lại hào hợp 8 sơ cuối cùng, chở theo tráo trở song song bầy ra, đều là Xuân tìm 1, 1 dương ở trong quẻ. Thiệu ta điền đồ phát minh công Phục Hy, bỗng nhón lấy thẻ thần suy ý thơ, Nguyệt quật Thiên căn hỏi ông này.
Đồ tâm chứa tổng Hội. Đồ lấy số 4 quẻ làm ngang, mà trên dưới giao nhau làm dọc. 1, 2, 3, 4 là số Càn-Đoài-Ly-Chấn. 5, 6, 7, 8 là số Tốn-Khảm-Cấn-Khôn. Trong ngoài ngang đấy mà đều liên hệ lấy 2. Liên hệ ở ngoài vẫn là tròn, đồ đổi hợp dùng thứ tự quẻ. Liên hệ ở trong vốn là vuông, tròn là thẳng liền dùng thứ tự quẻ, trở đi trở lại để bầy, đều bảo rằng 1 ngang 8 dọc, là khá vậy. Ngang cùng với ngang đối, bỏ 9 ấy 4. Dọc cùng với dọc hợp, đều trùng ở 9 ấy cũng 4. Bỏ 9 ấy 4, 1 đến dùng 2 đến dùng 7 ; 6 đến dùng 6 ; 4 đến dùng 5 gồm 4 lần 9 là 36 mà mang toàn vẹn vậy, đều trùng ở 9 ấy 4, như Quải đến Bác, Lý đến Khiêm, Phục đến Cấu, Tiểu súc đến Dự, 1 thời Càn Khôn đến 9 (đồ tròn từ Càn đếm thuận hay nghịch đến 9 thì đều biến), tráo trở Đoài Cấn dùng 9, 1 thời Càn Khôn đến 9, tráo trở giao Chấn Tốn dùng 9, lệ mà tìm đấy đều được 2 lần 18 là 4 lần 9 thành 36 số, mà dọc hết thẩy lấy đủ vậy. Cho nên 8 quẻ giao lẫn, chẳng gì là không 0-9 số. Đồ hợp cả lại, trên dưới cắt mà làm đôi, thời âm dương cương nhu thái thiếu chia vậy, cũng trên dưới suốt mà 4 đấy, sen hàng ngũ lẫn lộn biến hóa là hợp vậy. Lấy lòng giải đồ này, dọc ngang như một, số thâu tóm ở Hà Lạc, lý hội ở Hy Văn, hoặc dùng đấy tùy việc mà xem, tức số mà được quẻ, nhân số quẻ mà giờ ngày định hào, lại có thần minh ở trong đó vậy.
HẾT QUYỂN 3
BẠT
Lời nói cuối sách
Một quyển Hoàng Cực Kinh Thế, luận suy số năm xưa nay, bắt đầu từ năm Giáp Thìn đời vua Nghiêu, đều chép đạo trị loạn. Soi gương đời xưa làm khuôn phép cho đời nay, biết được lại do ở số. Trước kia, Khổng Tử san định Kinh Thư, sau cùng là Thiệu Khang Tiết làm Hoàng Cực tóm ở 1 Nguyên, trước đã biết triều nối đời mà bảo kín cái ý chưa có thể biết vậy. Lưu Đẩn chép lại Tự ngôn, rộng ý nghĩa sâu xa có công cho thế đạo, sách này mới đến chỗ nghĩa khó để làm cho sáng rõ ra, chú thích thêm, hay làm bản đồ để rõ ràng thêm, tuy chưa có thể mở rộng được ý nghĩa sâu kín, dẫu không khỏi chê là làm rối, cũng không lấy ra ngoài các thuyết. Song lấy việc xưa nay đều bàn về Dịch lý thấy Dịch là rộng lớn, chỉ ở người ta tự giác ngộ. Biết đâu người sau đọc Hoàng Cực lại sinh thêm cái ý nghĩa thần diệu mà rõ cùng Trời Đất vậy.
Đầu trang

dichnhan07
Chính thức
Chính thức
Bài viết: 76
Tham gia: 22:48, 20/06/09

TL: HOÀNG CỰC KINH THẾ - QUYỂN 3

Gửi bài gửi bởi dichnhan07 »

Lời nói cuối sách


Một quyển Hoàng Cực Kinh Thế, luận suy số năm xưa nay, bắt đầu từ năm Giáp Thìn đời vua Nghiêu, đều chép đạo trị loạn. Soi gương đời xưa làm khuôn phép cho đời nay, biết được lại do ở số. Trước kia, Khổng Tử san định Kinh Thư, sau cùng là Thiệu Khang Tiết làm Hoàng Cực tóm ở 1 Nguyên, trước đã biết triều nối đời mà bảo kín cái ý chưa có thể biết vậy. Lưu Đẩn chép lại Tự ngôn, rộng ý nghĩa sâu xa có công cho thế đạo, sách này mới đến chỗ nghĩa khó để làm cho sáng rõ ra, chú thích thêm, hay làm bản đồ để rõ ràng thêm, tuy chưa có thể mở rộng được ý nghĩa sâu kín, dẫu không khỏi chê là làm rối, cũng không lấy ra ngoài các thuyết. Song lấy việc xưa nay đều bàn về Dịch lý thấy Dịch là rộng lớn, chỉ ở người ta tự giác ngộ. Biết đâu người sau đọc Hoàng Cực lại sinh thêm cái ý nghĩa thần diệu mà rõ cùng Trời Đất vậy.




“Luận chung một tập kim thời

Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi

Trượng phu có chí thời coi

Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng

Tài nầy nên đấng vẻ vang

Biết chừng đời trị biết đường đời suy

Kể từ nhân đoản mà đi

Số chưa gặp thì biết hoà chép ra

Tiếc thay hiền sĩ bao già

Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công

Thử cho tay giúp ra dùng

Tài này so cùng tài trước xem sao

Trên trời kể chín tầng cao

Tay nghe bằng một ti hào biết hay .”





Chép lại theo Đại Việt Sử Kí Toàn Thư



“ Tân Dậu, [Cảnh Thống] năm thứ 4 [1501], (Minh Hoằng Trị năm thứ 14). Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, vua ngự về Tây Kinh, cấm các quan theo hầu không được sai quân cờ chở đem vợ con hoặc kỹ nữ đi theo, bừa bãi tình dục.



Xuống chiếu rằng: Quan trông coi lính và thợ, khi đốc thúc làm việc công, nếu có ai lười biếng, vắng mặt, đáng phải xử lý thì tuyên bố tội trạng, trừng trị theo pháp luật, không được tự mình dùng gậy, dùng tay chân, gách ngói, dùi gỗ để đánh đập tàn nhẫn họ. Ai vi phạm thì phải trị tội theo luật.



Lấy Dương Trực Nguyên là Công bộ hữu thị lang.



Ngày mồng 2, hiệu định thể lệ các quan theo hầu và ở lại giữ Kinh sư gồm 7 điều.”



Chép lại theo Kinh Dịch Trọn Bộ



“ Hào Sáu Tư: Tan thửa đàn, cả tốt; tan có gò, chẳng phải thường thửa nghĩ.



Giải Nghĩa



Truyện của Trình Di: Quẻ Hoán hai hào Tư, Năm nghĩa cùng chờ nhau, cho nên mới nói thông luôn. Vì vậy lời thoán có nói là “cùng trở lên”. Hào Tư nhún thuận mà ở chính ngôi đại thần, hào Năm cứng giữa mà ở chính ngôi vua, tức là vua tôi hợp sức, cứng mềm giúp nhau để cứu vớt cuộc tan cho thiên hạ đó. Hào Tư lấy đạo nhún thuận, giúp đỡ ông vua cứng mà giữa chính, vua tôi cùng công, vì vậy mới vượt qua được cuộc tan. Thiên hạ lìa tan mà có thể khiến họ quần tụ, tức là cái tốt của sự cả hay vậy. “Tan có gò, chẳng phải thường thửa nghĩa” là lời ngợi khen nó đó. Gò là chỗ tụ họp lớn lao. Đương lìa tan mà đem đến được cuộc tụ họp lớn lao, công đó to lắm, việc đó khó lắm, sự dùng của nó rất mầu, chẳng phải kẻ kiến thức bình thường có thể nghĩ tới. “Di” là bình thường vậy.



Bản nghĩa của Chu Hy: Ở ngôi Âm, được chỗ chính, phía trên vâng thờ ông vua Chín Năm, tức là kẻ gánh cái trách nhiệm làm qua cuộc tan. Phía dưới không kẻ ứng với, là Tượng tan được bè đảng. Kẻ xem như thế thì cả hai mà tốt. Lại nói tan được đàn nhỏ, để làm nên đàn lớn, khiến kẻ bị tan họp lại dường cái gò vậy, thì đó không phải là việc mà người tầm thường nghĩ được tới nơi.



Lời Tượng nói rằng: Tan thửa đàn, cả tốt, sáng lớn vậy.



Giải Nghĩa



Truyện của Trình Di: Gọi là cả tốt, nghĩa là công đức của nó sáng lớn. “Cả tốt sáng lớn” chẳng ở hào Năm mà ở hào Tư, là vì nghĩa của hai hào thông luôn với nhau. Ở hào Tư nói về sự thi hành công dụng, ở hào Năm nói về sự thành công, đó là sự khác nhau của vua tôi vậy. ”
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Kiến thức Dịch lý”