Nghe gì về "manh phái" (phái thầy mù)? Của VDTT tuvilyso.net

Hỏi đáp, luận giải, trao đổi về tử bình (tứ trụ, bát tự)
VULONG
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 955
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: Nghe gì về "manh phái" (phái thầy mù)? Của VDTT tuvilyso

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Mina đã viết:
Ôi đó là chuyện thị phi mà, ai cũng gặp không riêng gì Đoàn Kiến Nghiệp, đưa lên đây sợ fan Manh phái buồn. Tôi bắt đầu học Bát tự thì cũng bắt đầu là sách cụ Thiệu thôi, dịch những bài của Đoàn Kiến Nghiệp là do anh VULONG muốn có tư liệu Manh phái cho việc nghiên cứu phản biện của anh ấy, còn tôi thì thông qua việc dịch để tìm hiểu Manh phái ra làm sao, còn các bạn khác thì cũng có tài liệu để nghiên cứu Manh phái nếu thích!

Thân
Cám ơn Mina đã dịch các đoạn trên của "Manh Phái", tôi vẫn đang đọc và nghiên cứu xem ông ta có hở Bí Quyết gì không để "Chôm", vì không có Thuyết nào tất cả đều sai cả, chỉ có những Viện Sĩ của "Học Viên Sài Đồng Sổng VanQuyTang" thỉnh thoảng vẫn "Sổng" Viện ra lang thang đây đó là không biết mà thôi.

Tôi đã phản biện 7 Kỳ đầu tiên của ông Đoàn Kiến Nghiệp mà ông Phiêu Diêu đã dịnh với một chủ đề "Các Tuyệt Chiêu của Đoàn Kiến Nghiệp" là quá đủ chứng minh cho mọi người bình thường biết rồi, thiết nghĩ không cần phải mất thêm thì giờ vô ích nữa , trừ khi chính ông Đoàn Kiến Nghiệp lộ mặt (trả lời).
Đầu trang

Mina
Mới gia nhập
Mới gia nhập
Bài viết: 18
Tham gia: 09:48, 12/09/11

TL: Nghe gì về "manh phái" (phái thầy mù)? Của VDTT tuvilyso

Gửi bài gửi bởi Mina »

Để thay đổi không khí, tôi đưa chuyên đề tai họa lao ngục trong tài liệu của Triệu Vũ, đồng môn sư huynh của Đoàn Kiến Nghiệp lên cho các bạn tham khảo, do hai người này là đồng môn nên đôi khi họ dùng những ví dụ giống nhau.

Lao ngục chuyên tập

A) Cách xem tai họa lao ngục

1- Những chữ biểu thị lao ngục trong bát tự: Hợi thủy, Sửu thổ, Thìn thổ, là địa chi âm trong 12 địa chi, có tượng lao ngục, bị những chữ này hoại, có khả năng bị tù. Nếu dương chế âm thì không bị tù.

2- Thủy nhiều, kim chìm là lao ngục.

3- Kiêu thần đoạt Thực là lao ngục, Thực Thương là thành phần quan trọng để làm "công" trong bát tự, nếu bị Kiêu thần đoạt là mất tự do, ngồi tù.

4- Tổ hợp Kiếp Tài, Thương Quan, chủ về kết băng nhóm làm chuyện phi pháp, nếu thêm Quan Sát đối kháng tất là lao ngục.

5- Hễ xuất hiện tình huống phản cục, trong cục có Thìn hoặc Sửu, đa số ứng lao ngục.

B) Đặc điểm của phạm tội:

Thương Quan và Quan Sát bất hòa là đặc điểm của lao ngục, biểu thị lối suy nghĩ và hành động của nhật chủ xung đột với luật pháp. Thực Thương đắc vượng thường tỏ ra ta đây, thiếu khả năng ước thúc bản thân, nhưng bắt buộc phải là năm Quan xuất hiện mới xảy ra tai họa lao ngục. Khi Quan tinh không xuất hiện, thì không thấy được sự lợi hại của Quan, chỉ khi Quan xuất hiện rồi mới ý thức là đã phạm Quan.

C) Cách xem ra tù:

Vào năm mà nhật chủ đắc Lộc hoặc năm nhật chủ hợp xuất, xung xuất nhật chủ thì ra tù; nếu lao ngục là kho, xung, xuyên hoại kho thì ra tù.

Càn tạo: Giáp Dần Đinh Mão Ất Sửu Canh Thìn

Chạy vận Tỵ trong đại vận Kỷ Tỵ, năm Nhâm Thân do ăn cướp mà bị xử 05 năm. Tỷ Kiếp Thương Quan sợ gặp Quan.


Khôn tạo: Kỷ Dậu Giáp Tuất Giáp Thân Ất Dậu

Vận Đinh trong đại vận Đinh Sửu, đi tù 05 năm. Cũng là do Tỷ Kiếp Thương Quan, sợ gặp Quan tinh và Thương Quan tinh đối kháng nhau, nguyên cục Quan Sát tinh vượng, không hình thành nổi đối kháng, đến năm Tuất vận Đinh, hình thành đối kháng nên đi tù.


Càn tạo: Ất Mão Mậu Dần Bính Tuất Nhâm Thìn

Mệnh này là tổ hợp chế Sát, nguyên cục nhìn không thấy lao ngục, nhưng đến vận Hợi, Sát hợp lấy Dần, là phản cục. Xung chế không hỷ hợp, hợp thì sẽ phản. Hợi là tượng lao ngục. Năm Tân Tỵ vận Hợi do tiền bạc mà bị phán đi tù 05 năm. Năm Tân Tỵ Bính Tân hợp, Tỵ hỏa là Lộc gặp Hợi, tượng vô tù. Người này vận Tuất thì ra tù, năm Bính Tuất ra.


Càn tạo: Giáp Thìn Đinh Sửu Bính Dần Kỷ Hợi

Người này Dần Ấn bị Thìn Sửu thổ hối chế (hối Bính hỏa trong Dần), Dần Hợi hợp diệt đi Bính hỏa trong Dần, vận Tỵ của đại vận Tân Tỵ, Tỵ hỏa là Lộc xuất hiện bị Thìn Sửu hối, bị Hợi xung, lại xuyên Dần Ấn, người này là tội phạm giết người, bị phán tử hình. Năm Quí Dậu bị bắt, Quí thủy Thất Sát là kỵ, tọa Ấn thấu can, không thể gặp Thất Sát, nên chết.


Càn tạo: Mậu Thân Nhâm Tuất Kỷ Tỵ Mậu Thìn

Người này Tỵ hỏa Ấn tinh bị Thìn thổ hối chế, Tuất xung Thìn chế không hết, ngược lại còn bị thổ ướt ở trong mệnh hoại mất. Lúc vào đại vận Quí Tỵ, Tỵ hỏa đến và bị Thìn hối hỏa và còn nhập vào kho Tuất nữa, người này là tội phạm giết người.


Càn tạo: Kỷ Tỵ Nhâm Thân Kỷ Mùi Ất Sửu

Mệnh này tọa chi Mùi thổ xung Sửu có ý chế Tài, nhưng Tỵ Thân hợp thành ra là có ý chế Ấn, trở thành phản cục (phản cục xung hợp), kết cấu chủ vị gặp xung tân(khách) vị hợp là phản cục, đại bộ phận kết cấu phản cục đều chủ về tượng lao ngục, hơn nữa Sửu thổ cũng là tượng lao ngục.


Càn tạo: Mậu Tuất Bính Thìn Nhâm Thân Mậu Thân

Mệnh này Thân Thìn củng thủy cục, kim thủy thành khí, hỷ Bính hỏa Tài tinh hư thấu, Bính hỏa là tài hoa trí tuệ, không ưa trụ năm Mậu Tuất Thất Sát quá mạnh, trụ năm Mậu Thổ không được chế hóa phản thành hung. Thất Sát không bị chế chính là một kết cấu phạm tội, lại tọa kho Tài, có tượng của tai họa lao ngục. Lệnh tháng Thìn thổ là kho Kiếp Tài, xung kho Tài là hành vi phạm tội thông qua phương thức cướp tiền. Người này là Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ thành phố Ôn Lĩnh, vì ăn hối lộ 420 ngàn Nhân Dân Tệ, năm Đinh Mùi bị xử 09 năm tù giam. Người này đại vận Tân Dậu thiên địa hợp với lệnh tháng Bình Thìn, thiên can Tài hợp Ấn, địa chi Ấn hợp Sát đóng lại kho Kiếp Tài, lại có Dậu Tuất xuyên đảo Tuất mộ là tín hiệu đi tù. Năm Quí Mùi Mậu Quí hợp, Thất Sát hợp Kiếp là ứng kỳ.


Ăn trộm: Kiếp Tài là bàn tay, Quan là đạo tặc, tổ hợp Kiếp Tài và Quan ở chủ vị là ăn trộm.


Càn tạo: Tân Hợi Bính Thân Kỷ Sửu Giáp Tuất

Mệnh này vốn kim thủy thành khí thế, Sửu thổ là kho Tài hình kho Ấn, kho Tài hỷ hình xung vốn có thể có tiền nhưng không hỷ trụ giờ Giáp mộc Chính Quan hợp thân, nhật chủ muốn cầu quan, dùng Kiếp Tài lấy tiền, thành ra ăn trộm, có ý hướng phản cục. Thiên can muốn cầu quan, địa chi muốn cầu tài, có ý phản cục.


Càn tạo: Nhâm Dần Quí Sửu Tân Mùi Canh Dần

Câu quyết: Tỷ Kiếp bản thị vô tri vật, nhất ngộ Thương Quan thế tất qui (Ý là Tỷ Kiếp gặp Thương Quan thì sinh Thương Quan, có tâm tính của Thương Quan). Mệnh này năm Quí Hợi vận Bính Thìn vào tù, vì Bính Quan hợp thân, Thương Quan Thực Thần đều nhập vào kho Thìn. Thìn Sửu cùng một đảng, tượng lao ngục, hoại mất dương tính trong bát tự, cho nên phải vào tù.

Vốn Thực Thương phải đi sinh Tài nhưng Dần Tài nhập kho Mùi, Sửu Mùi xung mở kho Tài, phát tài mệnh, nhưng đến vận Thìn Thực Thương đều nhập kho, vì Thực Thương cũng biểu thị tự do, nhập kho là mất đi tự do, không thể liên hệ với thế giới bên ngoài. Thực Thương là tư tưởng, ý thức, biểu đạt, hư thấu là nói bừa, không nói thật, Thực Thương hỗn tạp thấu xuất, toàn nói những lời lừa gạt người khác, là kết cấu của lừa đảo. Vào tù 10 năm, đến năm Quí Dậu Thìn Dậu hợp, đóng kho Thìn, người này ra tù. Người này 32 tuổi đến 42 tuổi chạy vận Đinh Tỵ, nguyên cục Thực Thương sợ gặp Thất Sát mà lại vào vận Sát, tuy Đinh Nhâm hợp nhưng không hợp chặt, Dần Tỵ tương xuyên xuyên Tài, Thực Thương không thể sinh Tài, cho nên người này lao ngục kiện tụng liên miên. Tỷ Kiếp gặp Thương Quan là một loại kết cấu phạm tội, vì Tỷ Kiếp gặp Thương Quan huynh đệ đồng đảng nhiều, đều nghe lời anh ta, vì nhật chủ tọa Ấn, Ấn là quyền lực, Tỷ Kiếp Thương Quan đều là coi thường luật pháp.


Càn tạo: Mậu Thân Bính Thìn Giáp Dần Bính Dần

Bính hỏa là văn hóa tại thiên can, nhưng địa chi Dần mộc Lộc tinh xung chế trụ năm Thân kim Thất Sát, Thất Sát lại có nguyên thần, Lộc và Thất Sát đối kháng là một loại kết cấu phạm tội. Bính hỏa là Thực Thần, người nàu có trí nhớ siêu phàm. Vô vận Kỷ Mùi rất nguy, Thất Sát bị chế vì Mùi Thân xuyên Thất Sát, nhật chủ hợp Tài đắc tài, vì Quan nhược chế không được nhật chủ. Vận Canh Thân Thất Sát đến, bị bắt và xử tử hình. Người này là trùm xã hội đen thành phố Thái Nguyên.


Càn tạo: Nhâm Thân Kỷ Dậu Quí Tỵ Tân Dậu

Tỵ hỏa là Tài tọa nhật chi là tiền của mình, Quí Tỵ tự hợp, Tỵ Thân hợp, Thân kim đổi tượng thành Tài, Tân kim Dậu kim cũng biến thành Tài. Ông ta đưa tiền cho người khác với mục đích có nhiều tiền hơn quay trở lại, vì Tỵ Dậu hợp củng cục lại hợp trở về. Người này là một tên trùm lừa đảo tài chính. Vận Dần trong vận Giáp Dần vào tù, hoại mất Tỵ Thân hợp trong cục.


Càn tạo: Giáp Dần Mậu Thân Mậu Tý Quí Sửu

Thân nhược Tài nặng, cả đời nghèo khổ. Trụ năm Thất Sát không có chế hóa, Tỷ Kiếp nhiều đối kháng Thất Sát, tức đối kháng pháp luật, là một tổ hợp có kết cấu tội phạm. Vận Tỵ trong vận Kỷ Tỵ phạm tội, do Tỵ hỏa là Lộc xuyên Dần Sát, chủ về vi phạm pháp luật, năm Mậu Thìn phạm tội vì Thìn thổ hối mất hỏa Lộc, năm Canh Ngọ vào tù, Ngọ hỏa Ấn bị Thìn Sửu hối, Tý xung Ngọ cũng chỉ mất tự do. Phán 20 năm tù, vận Tân thì ra. Đây là ví dụ trong " Mệnh thuật dật văn" mục thiếu niên phạm.


Càn tạo: Ất Dậu Ất Dậu Canh Dần Bính Tuất

Mệnh này Dương Nhận xuyên kho Sát Tuất thổ, Tuất là kho hỏa, kho súng, vì giết người nên bị xử bắn. Tên này tổng cộng đã giết hơn hai mươi người.


Càn tạo: Gáp Dần Quí Dậu Giáp Tý Nhâm Thân

Giáp mộc không có sợ thấy gốc, không có Giáp Dần mộc mà tốt hơn. Thấy gốc sợ gốc bị hoại, không thấy thì không xảy ra chuyện. Mệnh này nếu không có Quí thủy ở trụ tháng, Dần mộc không được xem là gốc của Giáp mộc, vì Quí thủy sinh niên can Giáp mộc, Giáp mộc này thông gốc Dần mộc, Quiq thủy lại sinh nhật chủ, liên thông như vậy thì Dần có thể xem là gốc của Giáp mộc. Tỷ Kiên kháng Sát, xung Dần Lộc, xung hoại chết gốc. Vì sao không phải bệnh chết mà là phạm tội bị bắt mà chết, bởi vì Tỷ Kiên kháng Sát là tượng phạm tội. Xung sợ hợp, chết ở tháng Hợi. Thất Sát Dương Nhận là súng, Kim cũng là súng, xung Lộc, trên trụ năm là súng nhà nước, xử bắn! Nếu trụ năm không có Dần sẽ không bị hung tử như vậy, nguyên cục thủy mộc tương sinh liên hoàn, thiên can thủy sinh mộc, địa chi có thủy sinh, Giáp phục ngâm vào năm, gốc bị hoại. Người này năm Giáp Thân 2004 bị xử bắn (giết ngưới xong bị xử bắn).


Càn tạo: Ất Dậu Kỷ Mão Giáp Tuất Tân Mùi
01 tuổi vận: Mậu Dần Đinh Sửu Bính Tý Ất Hợi        

Mệnh này lưu niên Qui Mão, đại vận Đinh Sửu, 19 tuổi, vì tội hiếp dâm mà bị xử 17 năm tù.
Ngày Giáp tọa Tuất, kho Thương Quan tương xuyên với chi năm Dậu Quan tinh, Kiếp Tài Thương Quan xuyên Quan là tổ hợp phạm tội, vì chuyện gì phạm tội? Giáp Kỷ hợp Tài, đối với đàn ông Tài là phụ nữ, Thương Quan cũng có nghĩa buông thả, Đinh hỏa trong Tuất trong vận xuất hiện hư thấu là ứng kỳ, Dậu Quan trong nguyên cục yếu, không hình thành nổi sức đối kháng, vào vận Sửu, Sửu thổ trợ khởi Dậu Quan, có thể hình thành đối kháng, cho nên bị tù.


Càn tạo: Bính Thân Tân Sửu Bính Thân Quí Tỵ
Đại vận: Bính Ngọ

Mệnh này Lộc ngồi trên đầu là Quan, số làm quan, nhật chủ Bính thấy Tỵ là Lộc, Mậu thổ trong Tỵ khắc hợp Quí thủy Quan tinh, tượng đắc quan, Tài ở can tháng là tiền của người ta, còn có thể nói là tiền của nhà nước, nhật chủ Bính hợp hợp can tháng Tân kim Tài lấy làm của mình, Tỵ là nguyên thân của Bính, Tỵ Thân hợp do đó ý hướng của Bính đi hợp Tài, vận Ất Tỵ thăng Phó huyện trưởng, tham nhũng hơn cả triệu Nhân Dân Tệ, lưu niên Giáp Thân vận Bính Ngọ bị vào tù.
Vì sao vào tù? Sửu là âm, Tỵ là dương, Sửu có tượng lao ngục. Nguyên cục hợp, vận Ngọ của đại vận Bính Ngọ, Sửu Ngọ xuyên, phản cục. Cho nên bị tù.


Khôn tạo: Tân Mão Kỷ Hợi Kỷ Tỵ Mậu Thìn
04 tuổi vận: Canh Tý Tân Sửu Nhâm Dần Quí Mão Giáp Thìn

Bà này vận Giáp Thìn dùng danh nghĩa mua vé số mà lừa rất nhiều bạn bè được hơn 3 triệu Tệ, tháng 05 năm Quí Mùi bị bắt giam, năm Giáp Thân phán ở tù 20 năm. Nguyên cục có Hợi Thìn là tượng lao ngục, Tỵ hỏa dương bị âm hối. Chỉ có Mão mới có thể sinh Tỵ, sợ vận Thìn, Thìn xuyên đảo Mão không sinh Tỵ được cho nên bị tù. Ứng năm Quí Mùi do Quí đến Thìn đến.


Càn tạo: Mậu Thân Kỷ Mùi Quí Tỵ Kỷ Mùi

Là tay mở sòng bạc ở Thượng Hải, có gia tài hơn mấy tỷ. Vận Quí Hợi năm Ất Dậu vào tù. Song Sát giáp khắc thân là tượng quan tai. Quí là tự mình đến, năm Ất, Mùi(Sát) đến là ứng kỳ.


Càn tạo: Ất Tỵ Kỷ Sửu Nhâm Thìn Tân Sửu

Thìn Sửu có tượng lao ngục, dương bị âm hối. Vận Tuất phát tài 400 triệu, vận Ất trong vận Ất Dậu năm đầu tiên đã bị bắt, xử 10 năm. Vận Ất biểu thị Thìn đến, Tân khắc đi Ất, gia sản mất sạch.


Càn tạo: Bính Ngọ Tân Sửu Mậu Tuất Mậu Ngọ

Năm Quí Mùi đi tù một năm. Nguyên cục Tuất hình Sửu, chế rất tốt, không thích có Mùi đến phá cục, hoại mất ý nghĩa của nguyên cục. Là một loại phản cục vậy. Người này là một ông sếp lớn khống chế trong tay hơn mấy mưới tỷ.


Ví dụ tương tự nữa, càn tạo: Canh Tuất Kỷ Sửu Bính Thìn Nhâm Thìn

Người này có gia sản hơn hai tỷ, có nhà máy điện và mỏ khoáng sản. Năm Quí Mùi tam hình, phá loạn nguyên cục, đi tù một năm.


Càn tạo: Mậu Thân Giáp Dần Tân Mão Quí Tỵ

Mệnh này nguyên cục hiệu suất rất cao, chế đi Thân kim, nhưng kỵ vận Thìn, năm năm vận Thìn của đại vận Bính Thìn ngồi tù. Thìn là tượng lao ngục, vận này phản cục.


Càn tạo: Bính Ngọ Tân Sửu Kỷ Mão Tân Mùi

Mệnh này kho Sát chế kho Thực Thần, mệnh làm quan to. Hiệu suất chế ngự nguyên cục rất cao, nhưng không ưa đại vận Giáp Thìn, 10 năm ở tù. Thìn Sửu là tượng lao ngục, phản cục.
Được cảm ơn bởi: nguyenmiu
Đầu trang

VULONG
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 955
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: Nghe gì về "manh phái" (phái thầy mù)? Của VDTT tuvilyso

Gửi bài gửi bởi VULONG »

(Tiếp)

Xác định giờ sinh với Tứ Trụ của Steve Jobs là quá dễ dàng với phương pháp của tôi. Bởi vì Tứ Trụ này chỉ có thể vượng khi Kiêu Ấn sinh được 50% đv của nó cho Thân. Điều này xẩy ra khi điểm vượng của Kiêu Ấn ít nhất phải bằng điểm vượng của Thực Thương (vì Nhật can đã được lệnh hoặc Thân đã lớn hơn Tài Quan).

Chưa tính can chi trụ giờ thì Mộc đã có 11,4đv còn Thổ có 6,1đv nếu Thìn trụ ngày bị khắc, và 8,5đv nếu Thìn trụ ngày không bị khắc. Nếu tính lần lượt từng giờ thì chỉ có giờ Mậu Tý và Mậu Tuất là Thân nhược nên Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp (Đinh, Bính, Ất, Giáp) mới là hỷ dụng phù hợp với các vận của Steve Jobs. Trong đó giờ Mậu Tý có tổng số điểm hạn quá thấp (với năm 2011) là không thể chấp nhận được cho dù phải hay không phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm. Do vậy Steve Jobs sinh giờ Tuất là một điều không thể chối cãi được.

Nếu Steve Jobs sinh giờ Tuất thì sơ đồ tính điểm hạn vào ngày 5/10/2011 như sau :
Hình ảnh

5/10/2011 là năm Tân Mão thuộc đại vận Quý Dậu và tiểu vận Tân Sửu.
1 - Tứ Trụ này có Thân nhược mà Thực Thương là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn/ Ất ở trụ năm.
2 – Vào đại vận Quý Dậu và năm Tân Mão có :
2 Mậu trong Tứ Trụ hợp với Quý đại vận là tranh hợp thật.
Bính trụ ngày hợp với Tân lưu niên không hóa.
Tam hội Dần Mão Thìn hóa Mộc (vì Dậu đại vận xung gần Mão không thể phá được tam hội cục).
Đến tiểu vận Tân Sửu có Dậu hợp với Sửu tiểu vận hóa Kim.
Nếu không phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm thì tổng điểm hạn rất thấp là không thể chấp nhận được.

Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết :

"Nếu 2 can trong Tứ Trụ hợp với tuế vận là tranh hợp thật mà có ít nhất một địa chi trong Tứ Trụ hợp với tuế vận hóa cục thay đổi hành của nó thì phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm".

Nếu sử dụng giả thiết này thì điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại. Mộc có 11,4đv được thêm 3,6đv của Thìn trụ ngày thành 15đv. Thổ có 15,06 mất 3,6đv của Thìn còn 11,46đv (nếu điểm vượng của 2 Mậu cũng bị mất thì Thổ chỉ còn 4,6đv). Ta thấy Kiêu Ấn sinh được cho Thân 50% đv của nó, vì vậy Thân có 13,5đv. Thân trở thành vượng mà Kiêu Ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Tân tàng trong Tuất ở trụ giờ. Mộc là kỵ 1 động nên ta phải tính thêm các điểm vượng ở tuế vận. Mộc có 15đv được thêm 2.9đv của Mão thái tuế thành 33đv. Kim có 0đv được thêm 2.3,1đv của Tân lưu niên, 5,07đv của Dậu đại vận và 5,02đv của Sửu tiểu vận thành 10,27đv. Mộc là kỵ vượng nhưng điểm kỵ vượng không được gấp đôi (vì Mộc không phải kỵ 1 từ khi mới sinh).

Kim cục ở tiểu vận chỉ có 1,5 chi là hỷ dụng khắc Mộc cục là kỵ thần có 3 chi, vì vậy Mộc cục và Kim cục đã gây ra ĐC-1 có (0,7.4 + 0,35)đv = 3,15đh, vì vậy Kim cục có 1đh còn Mộc cục có 0,75đh. Thái tuế Mão có 0,5đh kỵ vượng.
3 - Dụng thần Tân tử tuyệt tại lưu niên có 1đh.
4 - Nhật can Bính vượng ở lưu niên có -1đh.
5 – Bính trụ ngày vượng ở lưu niên khắc Tân có 0,5đh, vì vậy Tân chỉ vượng ở đại vận có -0,5đh, nhưng nó bị giảm 50% còn -0,25đh.

Tổng số là 5,65đh. Tam hội Dần Mão Thìn ngoài Tứ Trụ hóa Mộc có 2 chi khác nhau trong Tứ Trụ được giảm 1đh nên tổng số còn 4,65đh. Số điểm này là không thể chấp nhận được.

Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải áp dụng giả thiết 202/63 (xem tai họa năm 2009 phía dưới) thì Kim lưỡi kiếm ở đại vận có Quý vượng ở lưu niên (là can tranh hợp thật) nên khắc gỗ đồng bằng trụ giờ có 1.3/4 đh = 0,75đh. Tổng điểm hạn là 5,4. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

Sơ đồ tính điểm hạn bị mổ để cấy ghép gen vào tháng 6/2009 do sự mất cân bằng hocmon :
Hình ảnh

6/2009 là năm Kỷ Sửu thuộc đại vận Quý Dậu và tiểu vận Quý Mão.
1 – Thân nhược và dụng thần là Ất ở trụ năm.
2 – 2 Mậu trong Tứ Trụ hợp với Quý đại vận là tranh hợp thật.
Mão tiểu vận xung Dậu đại vận phá tan bán hợp hay lục hợp của Dậu với Sửu thái tuế hay Thìn trụ ngày.
3 - Trụ năm Ất Mùi TKĐX với lưu niên Kỷ Sửu có 0,25đh + 0,05đh (vì Ất được lệnh nhưng nhược ở tuế vận).
4 - Dụng thần Ất nhược ở lưu niên có 0đh.
5 - Nhật can Bính nhược ở lưu niên có 0đh.
6 - Ất trụ năm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận có 1đh và khắc Kỷ lưu niên có 0,25đh.
Kỷ lưu niên chỉ vượng ở đại vận có 0,25đh nhưng bị giảm 25% (bị khắc bởi Kỷ) chỉ còn 0,25.0,75đh = 0,19đh. Kỷ khắc Quý tiểu vận có 0,5.1/2= 0,25đh (vì khắc can tiểu vận) nhưng cũng bị giảm 25% còn 0,19đh (vì bị Ất khắc). Quý tiểu vận có 1 cát thần có -0,13đh nhưng bị giảm 19% do Kỷ khắc còn -0,11đh.
Dậu đại vận xung Mão tiểu vận có 0,15đh và hại Tuất trụ giờ có 1đh., vì vậy Tuất không hình được Sửu thái tuế.
Mùi trụ năm xung Sửu thái tuế có 0,65đh, vì vậy Sửu thái tuế hình Mùi trụ năm có 1đh nhưng bị giảm ¾ còn 1.1/4 đh = 0,25đh.
7 – Sét ở lưu niên có Kỷ chỉ vượng ở đại vận nên khắc Kim lưỡi kiếm ở đại vận và Đất trên thành ở trụ tháng, mỗi lực có 0,25.1/2 đh = 0,13đh (vì Kỷ đã sử dụng 0,5đk).

Tổng số là 4,13đh. Số điểm này là không thể chấp nhận được.

Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết 202/63 (tôi mới bổ xung thêm từ ví dụ này):

"202/63 – Lực khắc của nạp âm với các nạp âm khác không bị giảm khi chi của nó bị xung hay bị khắc (trừ giả thiết 201/ ) nhưng bị giảm khoảng ¼ nếu can của nó là tranh hợp thật".

Nếu áp dụng giả thiết này thì Kim lưỡi kiếm ở đại vận có Quý vượng ở lưu niên nhưng là can tranh hợp thật nên lực khắc gỗ đồng bằng ở trụ giờ bị giảm 1/4 và bị giảm thêm 13% do bị sét khắc còn 1.3/4.0,87đh = 0,65đh.

Tổng số là 4,78đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

Nếu lực khắc của Kim lưỡi kiếm ở đại vận với gỗ đồng bằng không bị giảm 1/4 thì tổng số là 5,00đh. Số điểm này có thể là hơi cao (?).

Sơ đồ tính điểm hạn bị mổ vào tháng 8/2004 bởi ung thư tuyến tụy :
Hình ảnh

8/2004 là năm GiápThân thuộc đại vận Quý Dậu, tiểu vận Mậu Thân và tháng 8 của lưu niên là Nhâm Thân.
1 - Tứ Trụ này có Thân nhược, dụng thần là Ất ở trụ năm.
2 – Có 3 Mậu hợp với Quý đại vận và tam hội Thân Dậu Tuất ngoài Tứ Trụ có 3 chi không hóa. Nhìn qua ta thấy tổng điểm hạn là một số âm vì mỗi Mậu trong Tứ Trụ khắc Quý có -0,5đh can trong khi chỉ có 0,5đh + 0,05đh của trụ tháng Mậu Dần TKĐX với lưu niên GiápThân (vì Giáp nhược ở tuế vận). Do vậy nếu giờ sinh là đúng và không có các điểm hạn dương do bên ngoài tác động vào mệnh của người này thì bắt buộc tam hội Thân Dậu Tuất phải bị phá mới có hy vọng giải thích được tai họa này.

Nhưng với các giả thiết đã có thì chỉ có Tý, Ngọ, Mão và Dậu xung nhau gần trong Tứ Trụ mới có thể phá được tam hội ngoài Tứ Trụ có 3 chi, mà ở đây chỉ có Dần xung Thân thái tuế. Vậy thì làm sao có thể "Bói" ra giả thiết như thế nào mà có thể phá được tam hội này ?

Giả thiết này có thể phát biểu như sau :

"Tam hội có 3 chi không hóa ngoài Tứ Trụ có thể bị phá khi có ít nhất một trụ của nó TKĐX với một trụ ở bên ngoài và có ít nhất 2 chi của nó bị xung hay bị khắc gần bởi 2 chi ở bên ngoài".

Nếu áp dụng giả thiết này thì rõ ràng có lưu niên Giáp Thân TKĐX với trụ tháng Mậu Dần, Dần xung Thân và Thìn xung Tuất đều là xung gần, vì vậy tam hội đã bị phá.
3 - Dụng thần Ất nhược ở lưu niên có 0đh.
4 - Nhật can Bính nhược ở lưu niên có 0đh
5 – 2 Mậu trong Tứ Trụ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên mỗi Mậu có -0,5đh can động và khắc Quý đại vận mỗi lực có 0,13đh.
Dần trụ tháng xung Thân thái tuế có 0,65đh , vì vậy Thái tuế xung lại lệnh tháng có 0,5đh và hình lại Dần trụ tháng có 1.1/2 đh = 0,5đh (vì bị Dần xung).
Dậu đại vận hại Tuất trụ giờ có 1đh.

Tổng số là 2,46đh. Số điểm này quá thấp là không thể chấp nhận được. Vậy thì đành phải bó tay sao ? Theo châm ngôn : "Còn nước còn tát" hay "Thà Giết Nhầm còn hơn Bỏ Sót""Binh Pháp của Đạo XXX" gì đó đã dạy mang áp dụng vào đây thành "Thà Sai còn hơn Sót Bỏ" như sau :

"Nếu lưu niên và trụ tháng của lưu niên có chi giống nhau cùng TKĐX với 1 trụ trong Tứ Trụ mà các chi của chúng không bị hợp thì các lực tác động của trụ tháng này (can, chi, nạp âm,...của nó) với các trụ trong Tứ Trụ bị giảm ít nhất 1/2".

Nếu áp dụng giả thiết này thì Dần xung 2 Thân nên Thân thái tuế hình lại Dần chỉ bị giảm 1/3 còn 1.2/3 đh = 0,67đh.
Dần xung Thân (của trụ tháng Nhâm Thân) bị giảm ½ còn 1,3.1/2 đh = 0,65đh và Thân trụ tháng này hình Dần có 0,67.1/2 đh = 0,34đh.
Nhâm vượng ở lưu niên có 0,5đh can và khắc Bính trụ ngày có 1.1/2 đh = 0,5đh. Bính trụ ngày được lệnh nhưng nhược ở lưu niên có -0,5đh (các điểm hạn can không bị giảm vì chúng không phải là các điểm hạn xung khắc hay hình hại nhau).
Kim lưỡi kiếm ở trụ Nhâm Thân có Nhâm vượng ở lưu niên khắc Gỗ đồng bằng trụ giờ có 1.1/2 đh = 0,5đh.
Trụ tháng Mậu Dần TKĐX với trụ Nhâm Thân có 0,25.1/2 đh = 0,13đh (vì Mậu được lệnh nhưng nhược ở tuế vận). Có 3 trụ TKĐX với nhau có thêm 0,1đh.

Tổng số là 4,82đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được

(Chú ý : ở đây ta mới chỉ xét đến các thông tin giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận, còn nếu tai họa này là do các thông tin bên ngoài tác động vào mệnh của người này gây lên thì giả thiết này là sai).
Được cảm ơn bởi: Căng Đét
Đầu trang

Mina
Mới gia nhập
Mới gia nhập
Bài viết: 18
Tham gia: 09:48, 12/09/11

TL: Nghe gì về "manh phái" (phái thầy mù)? Của VDTT tuvilyso

Gửi bài gửi bởi Mina »

Mệnh lý trân bảo - Đoàn Kiến Nghiệp


Kỳ 47 Chu Nguyên Chương


Nguyên thủ khai quốc triều Minh Chu Nguyên Chương cuộc đời lắm ly kỳ, hồi nhỏ mất cha mẹ, về già thì con trai chết; từ một nhà sư xin ăn trở thành vua. Những chuyện như vậy có thấy được trong bát tự không?

Càn tạo: Mậu Thìn Nhâm Tuất Đinh Sửu Đinh Mùi

6 Quí Mùi 16 Giáp Tý 26 Ất Sửu 36 Bính Dần 46 Đinh Mão 56 Mậu Thìn 66 Kỷ Tỵ

Những việc trải qua: Sinh ra trong miếu. Năm Giáp Thân vận Giáp Tý do hạn hán và ôn dịch nên cả nhà chết sạch. Bất đắc dĩ phải xuất gia làm sư, sau đi khất thực ba năm. Đến năm Mậu Tý trở về chùa Hoàng Giác.   
  
Năm cuối cùng của vận Giáp Tý đi theo quân Hồng cân, lấy con gái nuôi của Quách Tử Hưng làm vợ, thăng chức Tổng binh.  

Đầu vận Ất Sửu, năm Ất Tỵ tự chiêu mộ quân lính, lấy lễ đãi người hiền tiếp đón kẻ sĩ, tổ chức đội quân riêng của mình để mở mang bờ cõi.

Năm Bính Thân đánh hạ được thành Kim Lăng, xưng là Ngô Quốc công. Năm Canh Tý đạnh bại Trần Hữu Lượng lần đầu.

Năm Nhâm Dần, gian dâm với con gái Thiệu Vinh, Thiệu Vinh phản, suýt bị Thiệu giết. Năm này các tướng thuộc quyền làm phản bỏ đi rất nhiều.

Năm Quí Mão, đầu vận Bính Dần. Đánh bại và giết chết Trần Hữu Lượng. Xưng Ngô vương.

Năm Ất Tỵ tấn công đánh thắng Trương Sĩ Thành.

Năm Mậu Thân tháng Giêng đăng cơ.  

Năm Tân Hợi toàn quốc thống nhất
  
Năm Đinh Sửu vận Kỷ Tỵ, Thái tử chết; Chu Nguyên Chương chết năm Mậu Dần, toàn bộ phi tần đều phải tuẫn táng theo.

Sách cổ giảng giải bát tự của Chu Nguyên Chương đều nói Thìn Tuất Sửu Mùi toàn nên cát, mệnh đế vương. Tôi nghi ngờ vì sau hay gặp rất nhiều người có đủ Thìn Tuất Sửu Mùi nhưng đều không có nổi danh. Cho nên mới biết rằng sách cổ cũng lầm lẫn. Sau có một lần xem lại bát tự này mới chợt ngộ ra, bèn khảo vấn Vương Khai Vũ, ông trả lời rằng: Mệnh này chí ít cũng tới cấp bực Thủ tướng, sớm mất cha. Tôi hỏi tại sao? Đáp: Thương Quan khử Quan, thiên địa toàn khử, cho nên Quan tất lớn nhất; Tài trong Sửu bị xung, cũng bị chế mất, cho nên Tài tất cực lớn. Tôi nói: Tài Quan đều lớn nhất thì là gì? Vương Khai Vũ đốn ngộ: À hóa ra là mệnh hoàng đế.
  
Kỵ thần Tài tinh bị khử tận, tức không ai còn có thể giàu hơn ông ta; Kỵ thần Quan tinh cũng bị khử tận, tức tất cả quan đều bị thần phục, ngoài Hoàng đế ra còn ai nữa. Lý lẽ đơn giản vậy mà mấy trăm năm cũng không ai giảng cho thấu.

Chúng ta phải nghiên cứu xem tại sao ông ta khắc cha? Tại sao hồi trẻ phải đi hành khất?
  
Lấy Nhâm thủy Quan làm cha, Thương Quan khử Quan chủ về khắc cha. Có người hỏi Quan là kỵ thần khử đi phải cát chớ sao cha lại chết? Lý Hàm Thìn nói rằng phụ (cha) là kỵ thần bị chế tức là cát. Thực tế là anh ta không hiểu được sự quan trọng của cung vị. Chúng tôi đã từng nói qua khi thê tinh đắc thê vị thì dù là kỵ thần cũng không được chế, chế thì phải chết. Phụ cũng vậy, Nhâm là phụ tinh đắc vị bị chế, thì cha chết. Đương nhiên về mệnh lý mà nói thì ông ấy khắc cha lại có lợi cho đế nghiệp của ông ấy. Nói ngược lại rằng nếu cha ông ấy không chết thì không thể thành tựu đế nghiệp.

Lúc trước nói qua trong mệnh Tài cực nhược lại có nguyên thần dễ làm ăn mày. Mệnh này tuy Tài tinh có nguyên thần mà còn bị chế, nhưng Tài này bị chế sạch hết, nguyên thần không sinh Tài, cho nên lý do ăn mày không phải cái này. Hác tiên sinh có câu quyết về ăn mày như sau: "Người Thực bị xung, thiếu sữa thiếu ăn, không sao khác cứu trợ dễ thành ăn mày." Sao khác là Ấn tinh vậy. Chúng ta thấy mệnh này Ấn tinh cũng bị xung hoại, chỉ rõ ông ta không còn nơi nương tựa nào đành phải đi hành khất. Tại sao ở năm Giáp Thân vận Giáp Tý bắt đầu hành khất? Để mọi người tự suy nghiệm lấy vậy.
  
Trong cung thê Sửu thổ có Thê tinh, bị xung mất, theo lý luận là vợ phải chết, nhưng bà vợ cả là Mã thị đâu có chết sớm, tại sao? Hác tiên sinh có câu quyết: "Thê nhập mộ hỷ xung, xung mộ đắc hiền thê, bất xung mộ tắc thê hữu tai." Từ câu này cho chúng ta biết mộ khố có cách xem đặc thù như thế.
  
Được cảm ơn bởi: nguyenmiu
Đầu trang

VULONG
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 955
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: Nghe gì về "manh phái" (phái thầy mù)? Của VDTT tuvilyso

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Bên Huyền Không Lý Số Donglaiduy đã dịch đến chương 47 và 48, Mina đã dịch "Đụng Hàng" rồi.

Nếu Mina có hứng dịch giúp mọi người tiếp cuốn "Tử Bình Chân Chuyên Bình Chú" của Từ Lạc Ngô từ chương thứ 10 trở đi (bên tuvilyso.org họ không cho phép học viên của họ đăng tiếp vì sợ Thiên Hạ biết các bí kíp của họ thì còn ai đăng ký học lớp Tử Bình ở đó nữa chắc).

Thân chào.
Đầu trang

VULONG
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 955
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: Nghe gì về "manh phái" (phái thầy mù)? Của VDTT tuvilyso

Gửi bài gửi bởi VULONG »

VULONG đã viết:
Sơ đồ tính điểm hạn của Steve Jobs bị mổ vào tháng 8/2004 bởi ung thư tuyến tụy :
Hình ảnh
.

Sơ đồ tính điểm hạn trên có sai sót, đó là Dần trụ tháng xung tháng Thân của lưu niên chỉ có 0,3đh và thêm 0,5đh của tháng Thân khắc lại lệnh tháng Dần, vì vậy nó chỉ có 0,8đh. Khi bị giảm 1/2 nó chỉ còn 0,4đh. Tổng số là 4,64đh, số điểm này có thể là khá thấp (vì thực tế nếu không mổ kịp thời để giải cứu thì tính mạng khó bảo toàn). Do vậy các lực tác động này không được giảm ở mức 1/2 (tức 6/12) mà chỉ được giảm ở mức 5/12.

Sơ đồ tính điểm hạn được sửa lại như sau:
Hình ảnh

Tổng số là 4,87đh, số điểm này mới có thể chấp nhận được.
Đầu trang

Le2020
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 408
Tham gia: 22:12, 06/04/20

Re: TL: Nghe gì về "manh phái" (phái thầy mù)? Của VDTT tuvilyso

Gửi bài gửi bởi Le2020 »

VULONG đã viết: 23:23, 14/10/11 (Tiếp)

Xác định giờ sinh với Tứ Trụ của Steve Jobs là quá dễ dàng với phương pháp của tôi. Bởi vì Tứ Trụ này chỉ có thể vượng khi Kiêu Ấn sinh được 50% đv của nó cho Thân. Điều này xẩy ra khi điểm vượng của Kiêu Ấn ít nhất phải bằng điểm vượng của Thực Thương (vì Nhật can đã được lệnh hoặc Thân đã lớn hơn Tài Quan).

Chưa tính can chi trụ giờ thì Mộc đã có 11,4đv còn Thổ có 6,1đv nếu Thìn trụ ngày bị khắc, và 8,5đv nếu Thìn trụ ngày không bị khắc. Nếu tính lần lượt từng giờ thì chỉ có giờ Mậu Tý và Mậu Tuất là Thân nhược nên Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp (Đinh, Bính, Ất, Giáp) mới là hỷ dụng phù hợp với các vận của Steve Jobs. Trong đó giờ Mậu Tý có tổng số điểm hạn quá thấp (với năm 2011) là không thể chấp nhận được cho dù phải hay không phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm. Do vậy Steve Jobs sinh giờ Tuất là một điều không thể chối cãi được.

Nếu Steve Jobs sinh giờ Tuất thì sơ đồ tính điểm hạn vào ngày 5/10/2011 như sau :
[url=http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6240212884/][img]http://farm7.static.flickr.com/6119/6240212884_aae32b4c8b_z.jpg[/img][/url]

5/10/2011 là năm Tân Mão thuộc đại vận Quý Dậu và tiểu vận Tân Sửu.
1 - Tứ Trụ này có Thân nhược mà Thực Thương là kỵ 1 nên dụng thần đầu tiên phải là Kiêu Ấn/ Ất ở trụ năm.
2 – Vào đại vận Quý Dậu và năm Tân Mão có :
2 Mậu trong Tứ Trụ hợp với Quý đại vận là tranh hợp thật.
Bính trụ ngày hợp với Tân lưu niên không hóa.
Tam hội Dần Mão Thìn hóa Mộc (vì Dậu đại vận xung gần Mão không thể phá được tam hội cục).
Đến tiểu vận Tân Sửu có Dậu hợp với Sửu tiểu vận hóa Kim.
Nếu không phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm thì tổng điểm hạn rất thấp là không thể chấp nhận được.

Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết :

"Nếu 2 can trong Tứ Trụ hợp với tuế vận là tranh hợp thật mà có ít nhất một địa chi trong Tứ Trụ hợp với tuế vận hóa cục thay đổi hành của nó thì phải tính lại điểm vượng trong vùng tâm".

Nếu sử dụng giả thiết này thì điểm vượng trong vùng tâm phải tính lại. Mộc có 11,4đv được thêm 3,6đv của Thìn trụ ngày thành 15đv. Thổ có 15,06 mất 3,6đv của Thìn còn 11,46đv (nếu điểm vượng của 2 Mậu cũng bị mất thì Thổ chỉ còn 4,6đv). Ta thấy Kiêu Ấn sinh được cho Thân 50% đv của nó, vì vậy Thân có 13,5đv. Thân trở thành vượng mà Kiêu Ấn nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Tài tinh/ Tân tàng trong Tuất ở trụ giờ. Mộc là kỵ 1 động nên ta phải tính thêm các điểm vượng ở tuế vận. Mộc có 15đv được thêm 2.9đv của Mão thái tuế thành 33đv. Kim có 0đv được thêm 2.3,1đv của Tân lưu niên, 5,07đv của Dậu đại vận và 5,02đv của Sửu tiểu vận thành 10,27đv. Mộc là kỵ vượng nhưng điểm kỵ vượng không được gấp đôi (vì Mộc không phải kỵ 1 từ khi mới sinh).

Kim cục ở tiểu vận chỉ có 1,5 chi là hỷ dụng khắc Mộc cục là kỵ thần có 3 chi, vì vậy Mộc cục và Kim cục đã gây ra ĐC-1 có (0,7.4 + 0,35)đv = 3,15đh, vì vậy Kim cục có 1đh còn Mộc cục có 0,75đh. Thái tuế Mão có 0,5đh kỵ vượng.
3 - Dụng thần Tân tử tuyệt tại lưu niên có 1đh.
4 - Nhật can Bính vượng ở lưu niên có -1đh.
5 – Bính trụ ngày vượng ở lưu niên khắc Tân có 0,5đh, vì vậy Tân chỉ vượng ở đại vận có -0,5đh, nhưng nó bị giảm 50% còn -0,25đh.

Tổng số là 5,65đh. Tam hội Dần Mão Thìn ngoài Tứ Trụ hóa Mộc có 2 chi khác nhau trong Tứ Trụ được giảm 1đh nên tổng số còn 4,65đh. Số điểm này là không thể chấp nhận được.

Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải áp dụng giả thiết 202/63 (xem tai họa năm 2009 phía dưới) thì Kim lưỡi kiếm ở đại vận có Quý vượng ở lưu niên (là can tranh hợp thật) nên khắc gỗ đồng bằng trụ giờ có 1.3/4 đh = 0,75đh. Tổng điểm hạn là 5,4. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

Sơ đồ tính điểm hạn bị mổ để cấy ghép gen vào tháng 6/2009 do sự mất cân bằng hocmon :
[url=http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6239699985/][img]http://farm7.static.flickr.com/6238/6239699985_e184cb4e16_z.jpg[/img][/url]

6/2009 là năm Kỷ Sửu thuộc đại vận Quý Dậu và tiểu vận Quý Mão.
1 – Thân nhược và dụng thần là Ất ở trụ năm.
2 – 2 Mậu trong Tứ Trụ hợp với Quý đại vận là tranh hợp thật.
Mão tiểu vận xung Dậu đại vận phá tan bán hợp hay lục hợp của Dậu với Sửu thái tuế hay Thìn trụ ngày.
3 - Trụ năm Ất Mùi TKĐX với lưu niên Kỷ Sửu có 0,25đh + 0,05đh (vì Ất được lệnh nhưng nhược ở tuế vận).
4 - Dụng thần Ất nhược ở lưu niên có 0đh.
5 - Nhật can Bính nhược ở lưu niên có 0đh.
6 - Ất trụ năm được lệnh nhưng nhược ở tuế vận có 1đh và khắc Kỷ lưu niên có 0,25đh.
Kỷ lưu niên chỉ vượng ở đại vận có 0,25đh nhưng bị giảm 25% (bị khắc bởi Kỷ) chỉ còn 0,25.0,75đh = 0,19đh. Kỷ khắc Quý tiểu vận có 0,5.1/2= 0,25đh (vì khắc can tiểu vận) nhưng cũng bị giảm 25% còn 0,19đh (vì bị Ất khắc). Quý tiểu vận có 1 cát thần có -0,13đh nhưng bị giảm 19% do Kỷ khắc còn -0,11đh.
Dậu đại vận xung Mão tiểu vận có 0,15đh và hại Tuất trụ giờ có 1đh., vì vậy Tuất không hình được Sửu thái tuế.
Mùi trụ năm xung Sửu thái tuế có 0,65đh, vì vậy Sửu thái tuế hình Mùi trụ năm có 1đh nhưng bị giảm ¾ còn 1.1/4 đh = 0,25đh.
7 – Sét ở lưu niên có Kỷ chỉ vượng ở đại vận nên khắc Kim lưỡi kiếm ở đại vận và Đất trên thành ở trụ tháng, mỗi lực có 0,25.1/2 đh = 0,13đh (vì Kỷ đã sử dụng 0,5đk).

Tổng số là 4,13đh. Số điểm này là không thể chấp nhận được.

Để phù hợp với thực tế của ví dụ này ta phải đưa ra giả thiết 202/63 (tôi mới bổ xung thêm từ ví dụ này):

"202/63 – Lực khắc của nạp âm với các nạp âm khác không bị giảm khi chi của nó bị xung hay bị khắc (trừ giả thiết 201/ ) nhưng bị giảm khoảng ¼ nếu can của nó là tranh hợp thật".

Nếu áp dụng giả thiết này thì Kim lưỡi kiếm ở đại vận có Quý vượng ở lưu niên nhưng là can tranh hợp thật nên lực khắc gỗ đồng bằng ở trụ giờ bị giảm 1/4 và bị giảm thêm 13% do bị sét khắc còn 1.3/4.0,87đh = 0,65đh.

Tổng số là 4,78đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được.

Nếu lực khắc của Kim lưỡi kiếm ở đại vận với gỗ đồng bằng không bị giảm 1/4 thì tổng số là 5,00đh. Số điểm này có thể là hơi cao (?).

Sơ đồ tính điểm hạn bị mổ vào tháng 8/2004 bởi ung thư tuyến tụy :
[url=http://www.flickr.com/photos/64592075@N04/6240253158/][img]http://farm7.static.flickr.com/6094/6240253158_da7a1cfde5_z.jpg[/img][/url]

8/2004 là năm GiápThân thuộc đại vận Quý Dậu, tiểu vận Mậu Thân và tháng 8 của lưu niên là Nhâm Thân.
1 - Tứ Trụ này có Thân nhược, dụng thần là Ất ở trụ năm.
2 – Có 3 Mậu hợp với Quý đại vận và tam hội Thân Dậu Tuất ngoài Tứ Trụ có 3 chi không hóa. Nhìn qua ta thấy tổng điểm hạn là một số âm vì mỗi Mậu trong Tứ Trụ khắc Quý có -0,5đh can trong khi chỉ có 0,5đh + 0,05đh của trụ tháng Mậu Dần TKĐX với lưu niên GiápThân (vì Giáp nhược ở tuế vận). Do vậy nếu giờ sinh là đúng và không có các điểm hạn dương do bên ngoài tác động vào mệnh của người này thì bắt buộc tam hội Thân Dậu Tuất phải bị phá mới có hy vọng giải thích được tai họa này.

Nhưng với các giả thiết đã có thì chỉ có Tý, Ngọ, Mão và Dậu xung nhau gần trong Tứ Trụ mới có thể phá được tam hội ngoài Tứ Trụ có 3 chi, mà ở đây chỉ có Dần xung Thân thái tuế. Vậy thì làm sao có thể "Bói" ra giả thiết như thế nào mà có thể phá được tam hội này ?

Giả thiết này có thể phát biểu như sau :

"Tam hội có 3 chi không hóa ngoài Tứ Trụ có thể bị phá khi có ít nhất một trụ của nó TKĐX với một trụ ở bên ngoài và có ít nhất 2 chi của nó bị xung hay bị khắc gần bởi 2 chi ở bên ngoài".

Nếu áp dụng giả thiết này thì rõ ràng có lưu niên Giáp Thân TKĐX với trụ tháng Mậu Dần, Dần xung Thân và Thìn xung Tuất đều là xung gần, vì vậy tam hội đã bị phá.
3 - Dụng thần Ất nhược ở lưu niên có 0đh.
4 - Nhật can Bính nhược ở lưu niên có 0đh
5 – 2 Mậu trong Tứ Trụ được lệnh nhưng nhược ở tuế vận nên mỗi Mậu có -0,5đh can động và khắc Quý đại vận mỗi lực có 0,13đh.
Dần trụ tháng xung Thân thái tuế có 0,65đh , vì vậy Thái tuế xung lại lệnh tháng có 0,5đh và hình lại Dần trụ tháng có 1.1/2 đh = 0,5đh (vì bị Dần xung).
Dậu đại vận hại Tuất trụ giờ có 1đh.

Tổng số là 2,46đh. Số điểm này quá thấp là không thể chấp nhận được. Vậy thì đành phải bó tay sao ? Theo châm ngôn : "Còn nước còn tát" hay "Thà Giết Nhầm còn hơn Bỏ Sót""Binh Pháp của Đạo XXX" gì đó đã dạy mang áp dụng vào đây thành "Thà Sai còn hơn Sót Bỏ" như sau :

"Nếu lưu niên và trụ tháng của lưu niên có chi giống nhau cùng TKĐX với 1 trụ trong Tứ Trụ mà các chi của chúng không bị hợp thì các lực tác động của trụ tháng này (can, chi, nạp âm,...của nó) với các trụ trong Tứ Trụ bị giảm ít nhất 1/2".

Nếu áp dụng giả thiết này thì Dần xung 2 Thân nên Thân thái tuế hình lại Dần chỉ bị giảm 1/3 còn 1.2/3 đh = 0,67đh.
Dần xung Thân (của trụ tháng Nhâm Thân) bị giảm ½ còn 1,3.1/2 đh = 0,65đh và Thân trụ tháng này hình Dần có 0,67.1/2 đh = 0,34đh.
Nhâm vượng ở lưu niên có 0,5đh can và khắc Bính trụ ngày có 1.1/2 đh = 0,5đh. Bính trụ ngày được lệnh nhưng nhược ở lưu niên có -0,5đh (các điểm hạn can không bị giảm vì chúng không phải là các điểm hạn xung khắc hay hình hại nhau).
Kim lưỡi kiếm ở trụ Nhâm Thân có Nhâm vượng ở lưu niên khắc Gỗ đồng bằng trụ giờ có 1.1/2 đh = 0,5đh.
Trụ tháng Mậu Dần TKĐX với trụ Nhâm Thân có 0,25.1/2 đh = 0,13đh (vì Mậu được lệnh nhưng nhược ở tuế vận). Có 3 trụ TKĐX với nhau có thêm 0,1đh.

Tổng số là 4,82đh. Số điểm này mới có thể chấp nhận được

(Chú ý : ở đây ta mới chỉ xét đến các thông tin giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận, còn nếu tai họa này là do các thông tin bên ngoài tác động vào mệnh của người này gây lên thì giả thiết này là sai).
Nếu đặt vấn đề giờ sinh là Tuất:
ẤT MÙI - MẬU DẦN - BÍNH THÌN - MẬU TUẤT

thì: Thìn Tuất xung, quan Quý trong Thìn bị phá.
Thìn bị hư, Tuất bị hư, không thể nào thành người tài hoa như thế.

Từ nhỏ lúc chưa kết hôn, ông đã sinh con, vậy thì Quan, Sát phải hửu lực và có thể rất vượng. Nên nếu cho rằng giờ Tuất thì e rằng không con. Nên: giờ sinh không phải Tuất.
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Luận giải Tứ trụ”