Tham khảo Lịch sử TQ để nghiên cứu HOÀNG CỰC KINH THẾ

Các bài viết học thuật về dịch lý, thái ất, kỳ môn...
Trả lời bài viết
Em Tho
Chính thức
Chính thức
Bài viết: 58
Tham gia: 12:38, 30/04/09

Tham khảo Lịch sử TQ để nghiên cứu HOÀNG CỰC KINH THẾ

Gửi bài gửi bởi Em Tho »

THAM KHẢO LỊCH SỬ ĐỂ NGHIÊN CỨU HOÀNG CỰC KINH THẾ
TRUNG HOA CÁC TRIỀU ĐẠI
THỜI KỲ THƯỢNG CỔ
Theo truyền thuyết, nguồn gốc người Trung Hoa thời kỳ Nguyên thủy có những dòng họ sau:
- Họ Hữu Sào (có tổ).
- Họ Toại Nhân.
- Họ Phục Hy.
- Họ Nữ Oa: Phục Hy ăn ở với Nữ Oa, mở đầu phát triển giống nòi.
- Họ Thần Nông, còn có tên Liệt Sơn (đốt núi), có 3 người tiêu biểu: Thái Hiệu, Viêm Đế và Xuy Vưu. Viêm Đế và Hoàng Đế diệt được Xuy Vưu, ngày nay Lịch sử nhắc lại với tên Viêm Hoàng.
THỜI KỲ NGŨ ĐẾ
Thời Ngũ Đế hình thành vào khoảng đầu thế kỷ 26 tr.CN đến thế kỷ 21 tr.CN
1- Hoàng Đế
2- Chuyên Húc
3- Đế Cốc
4- Nghiêu
5- Thuấn
Dòng dõi các Họ Hoa tộc thời cổ đại có 3 họ đứng đầu là: Nghiêu, Thuấn, Vũ truyền ngôi cho nhau. Nghiêu lên ngôi vua, đóng đô ở Bình Dương (nay Sơn Tây). Khi Nghiêu chết, Thuấn chính thức lên ngôi kế tục sự nghiệp mà Nghiêu giao cho. Thời gian sau, Thuấn noi gương Nghiêu, truyền ngôi lại cho Vũ. Khi Vũ đang làm Vua, đã cử Cao Giao thay cho Vũ sau này, nhưng Cao Giao lại chết trước Vũ, rồi lại cử con của Cao Giao là Ích thay thế. Khi Vũ chết, con của Vũ là Khải cướp ngôi của Ích, làm Vua.
NHÀ HẠ
Hình thành từ cuối thế kỷ 22 đầu thế kỷ 21 tr.CN cho đến thế kỷ 17 tr.CN
Gồm có các vua Đế hiệu:
1- Vũ 8- Mang 15- Kiệt
2- Khải 9- Tiết
3- Thái Khang 10- Quynh
4- Trương 11- Cẩn
5- Thiếu Khang 12- Khổng Giáp
6- Trữ 13- Cảo
7- Hòe 14- Phát
Vua Vũ trị vì, con là Khải lên ngôi, lấy đất An Ấp (nay tỉnh Sơn Tây) để đóng Đô, đặt tên cho triều đại là Hạ. Phương pháp làm lịch bắt đầu hình thành.
NHÀ THƯƠNG
Từ thế kỷ 17 tr.CN đến thế kỷ 11 tr.CN. Gồm có các vua Đế hiệu:
1- Thang 9- Thái Tuất
2- Ngoại Bính 10- Trọng Đinh
3- Ngoại Nhâm 11- Hà Đản Giáp
4- Thái Giáp 12- Tổ Ất
5- Ốc Đinh 13- Tổ Tân
6- Thái Khang 14- Ốc Giáp
7- Tiểu Giáp 15- Tổ Đinh
8- Ung Kỷ 16- Dương Giáp
17- Bàn Canh
Nhà Thương là con cháu của vua Tiết, đời vua thứ 9 nhà Hạ. Cuối nhà Hạ, Vua Kiệt là ông vua hung bạo, Thang đã diệt vua Kiệt, lập nên nhà Thương, lên ngôi vua tự xưng là Võ Vương. Nhà Thương có 17 đời, 30 vua, trong đó có 14 vua là em nối ngôi anh.
NHÀ THƯƠNG ÂN
1- Bàn Canh 7- Lẫm Tân
2- Tiểu Tân 8- Khang Đinh
3- Tiểu Ất 9- Vũ Ất
4- Vũ Đinh 10- Thái Đinh (Văn Đinh)
5- Tổ Canh 11- Đế Ất
6- Tổ Giáp 12- Trụ
Vua Bàn Canh dời Đô về đất Ân, gọi tên là nhà Ân. Cuối thời Ân lại đổi tên gọi lại là nhà Thương. Từ đó gọi là Thương Ân. Chữ Giáp Cốt được hình thành từ đây, phát minh ra việc “đào giếng” lấy nước ăn, mở rộng được diện tích trăn nuôi trồng trọt. Thời kỳ toàn thịnh của nhà Thương Ân đã có những thuộc quốc. Phía Đông có Tề, phía Tây có Chu, phía Nam có Quang, phía Bắc có Thao. Trung tâm chính trị nhà Thương Ân gồm toàn tỉnh Hà Nam, Sơn Đông, Hà Bắc, Sơn Tây, Thiểm Tây và An Huy ngày nay. Nhà Thương trị vì thiên hạ được 661 năm, đến đời vua Trụ thì sụp đổ, bị Võ Vương nhà Chu tiêu diệt mất nước. Trụ Vương (Tân Hoàng Đế) vào khoảng từ năm 1166 tr.CN đến 1134 tr.CN, là ông vua cuối cùng của nhà Thương. Tổ chức Quốc gia bắt đầu hình thành từ nhà Thương, tiền tệ xuất hiện, khởi nguồn của giai cấp đối lập, có người bóc lột và bị bóc lột. Có thống trị, có bị trị, các thuộc quốc không được chế tạo và tàng trữ binh khí. Vua từ xưng “Thiên tử”, hình thành chế độ thế tập, thần quyền được xác lập địa vị.
NHÀ TÂY CHU
Thế kỷ 11 tr.CN đến năm 771 tr.CN
Gồm các triều vua Đế hiệu:
1- Chu Vũ Vương – tên Cơ Phát. Còn gọi là Vũ Vương Cơ Phát
2- Chu Thành Vương – tên Cơ Tung. (Vũ Vương Cơ Tung)
3- Chu Khang Vương – tên Cơ Chiêu (Khang Vương Cơ Chiêu)
4- Chu Chiêu Vương – tên Cơ Hà (Chiêu Vương Cơ Hà)
5- Chu Mục Vương – tên Cơ Mãn (Mục Vương Cơ Mãn)
6- Chu Cộng Vương – tên Cơ Tử Ý (Công Vương Cơ Tử Ý)
7- Chu Ý Vương – tên Cơ Kiên (Ý Vương Cơ Kiên)
8- Chu Hiếu Vương – tên Cơ Bích (Hiếu Vương Cơ Bích)
9- Chu Di Vương – tên Cơ Tạ (Di Vương Cơ Tạ)
10- Chu Lệ Vương – tên Cơ Hồ (Cộng Hòa), làm vua 14 năm.
11- Chu Tuyên Vương – tên Cơ Tính, làm vua 48 năm
12- Chu U Vương – tên Cơ Cung Thăng, làm vua 11 năm
Bộ tộc Chu, khởi đầu ở lưu vực sông Vị, tỉnh Thiểm Tây. Bấy giờ, hai bộ tộc lớn là Ân và Chu luôn tranh đấu nhau giành quyền lợi và ngôi vị. Tộc Chu trôi dạt đến vùng Tây-Bắc khoảng năm 1200 tr.CN. Chu Công là người kiệt xuất tộc Chu, đã quyết định Đông trinh chinh phục được cả vùng hạ du rộng lớn sông Hoài, loại bỏ được Vũ Khang và Quản Thúc cùng đồng bọn trong 3 năm, phân hóa toàn bộ những người trong bộ tộc Ân còn lại. Sách Chu Lễ và Kinh Dịch ra đời.
Chu Vũ Vương họ Cơ tên Phát, là ông Vua khai quốc vương triều Chu, Cơ Phát kế vị vua cha làm Tây Bá, tiến hành Đông trinh, vua Trụ đại bại ở Hà Nam, triều Ân Thương diệt vong. Vũ Vương đóng Đô ở Cảo Kinh, nay là Tây An tỉnh Thiểm Tây, khoảng thế kỷ 11 tr.CN. Chu Lệ Vương để có nhiều của cải, lấy quyền chúa tể đặt ra nhiều luật lệ hà khắc. Nội bộ triều Chu mâu thuẫn, cuộc đấu tranh nội bộ đã lật đổ được Chu Lệ Vương, từ năm 841 trCN đến năm 828 tr.CN, tất cả 14 năm với chế độ “cộng hòa” của Lệ Vương Cơ Hồ.
Năm 841 trước công nguyên, lịch sử Trung quốc được xác thực bắt đầu. Từ đó về sau, lịch sử Trung quốc mới có niên đại chuẩn xác.
Chu Lệ Vương chết, Chu Tuyên Vương lên ngôi kế vị năm 827 tr.CN, nhà Chu bắt đầu xuống dốc. Năm 781 tr.CN, Chu U Vương lên ngôi, triều đình loạn lạc, Thái tử phận con đã tấn công giết chết Chu U Vương. Đến năm 770 tr.CN, Chu Bình Vương lên ngôi, dời Đô về phía Đông, cho nên gọi là Đông Chu.
NHÀ ĐÔNG CHU
Năm 770 tr.CN đến năm 475 tr.CN.
Năm 770 tr.CN Chu Bình Vương dời Đô về phía Đông, bỏ lại Kinh đô Lạc Ấp cho 3 nước Hàn, Triệu, Ngụy tranh giành quyền lực, Sử gọi là thời Xuân Thu.
THỜI XUÂN THU
Năm 770 tr.CN đến năm 475 tr.CN
Gồm các triều vua Đế hiệu:
1- Chu Bình Vương; tên Cơ Nghi Cưu, ở ngôi 51 năm.
2- Chu Hoàn Vương; tên Cơ Lâm, lên ngôi 719 tr.CN, ở ngôi 23 năm.
3- Chu Trang Vương; tên Cơ Đà, lên ngôi 696 tr.CN, ở ngôi 15 năm.
4- Chu Hy Vương; tên Cơ Hồ Tề, lên ngôi 681 tr.CN, ở ngôi 5 năm.
5- Chu Huệ Vương; tên Cơ Lương, lên ngôi 676 tr.CN, ở ngôi 25 năm.
6- Chu Trương Vương; tên Cơ Trịnh, lên ngôi 651 tr.CN, ở ngôi 33 năm.
7- Chu Khoanh Vương; tên Cơ Nhâm Thần, lên ngôi 618 tr.CN, ở ngôi 6 năm.
8- Chu Khang Vương; tên Cơ Ban, lên ngôi 612 tr.CN, ở ngôi 6 năm.
9- Chu Định Vương; tên Cơ Du, lên ngôi 606 tr.CN, ở ngôi 21 năm
10- Chu Giản Vương; tên Cơ Di, lên ngôi 585 tr.CN, ở ngôi 14 năm.
11- Chu Linh Vương; tên Cơ Tiết Tâm, lên ngôi 571 tr.CN, ở ngôi 27 năm.
12- Chu Cảnh Vương; tên Cơ Quý, lên ngôi 544 tr.CN, ở ngôi 25 năm.
13- Chu Hiệu Vương; tên Cơ Mãnh, lên ngôi 520 tr.CN, ở ngôi 1 năm.
14- Chu Kính Vương; tên Cơ Cái, lên ngôi 519 tr.CN, ở ngôi 44 năm.
Sau khi Chu Vũ Vương dời đô về phía Đông, nhà Chu bắt đầu suy yếu đến mức không thể tự tồn tại được. Do biến động về kinh tế, những người sản xuất nhỏ, có người đã trở thành “kẻ sỹ”, vua các nước như Tề Uy Vương, Yên Chiêu Vương, Ngụy Huệ Vương cũng một thời đã làm kẻ sỹ, những người đã nuôi kẻ sỹ, được các nước gọi là “Quân”. Kẻ sỹ là tiền thân của bọn quan liêu sau này.
Nhà Đông Chu, thời Xuân Thu gồm có 14 nước chư hầu: Tần, Tấn, Sở, Lỗ, Tề, Vệ, Yên, Tào, Tống, Trần, Sái, Trịnh.
Thời Xuân Thu, dần hình thành các nước lớn có thế lực, buộc các nước khác phải hàng phục quy thuận. Các nước ở Sơn Đông phải quy hàng nước Tề, vùng Tây-Bắc nổi lên nước Tần, vùng Hoa Bắc, Sơn Tây có nước Tấn, vùng Giang Hán Hoài có nước Sở. Thời ban đầu hình thành triều Chu, có tới 1800 nước lớn nhỏ, đến thời Xuân Thu, chỉ còn hơn 100 nước, nhưng chỉ có 14 nước lớn là: Tần, Tấn, Sở, Lỗ, Tề, Vệ, Yên, Tào, Tống, Trần, Sái, Trịnh, trong đó có 4 nước mạnh vượt trội hơn hẳn là: Tần, Tấn, Tề, Sở.
THỜI CHIẾN QUỐC
Năm 475 tr.CN đến năm 221 tr.CN
Gồm các triều vua Đế hiệu:
15- Chu Nguyên Vương; tên Cơ Nhân, lên ngôi 475 tr.CN, ở ngôi 7 năm.
16- Trinh Định Vương; tên Cơ Giới, lên ngôi 468 tr.CN, ở ngôi 28 năm.
17- Ai Vương; tên Cơ Khứ Tật, lên ngôi 441 tr.CN, ở ngôi 1 năm.
18- Tư Vương; tên Cơ Thúc, lên ngôi 441 tr.CN, ở ngôi 1 năm.
19- Khảo Vương; tên Cơ Vỹ, lên ngôi 440 tr.CN, ở ngôi 15 năm.
20- Uy Liệt Vương, tên Cơ Ngọ, lên ngôi 425 tr.CN, ở ngôi 24 năm.
21- An Vương; tên Cơ Kiều, lên ngôi 401 tr.CN, ở ngôi 26 năm.
22- Liệt Vương; tên Cơ Hỷ, lên ngôi 375 tr.CN, ở ngôi 7 năm.
23- Hiển Vương; tên Cơ Thiên, lên ngôi 368 tr.CN, ở ngôi 48 năm.
24- Thâm Kính Vương; tên Cơ Định, lên ngôi 320 tr.CN, ở ngôi 6 năm.
25- Noãn Vương; tên Cơ Diên, lên ngôi 314 tr.CN, ở ngôi 59 năm.
Gồm các nước chư hầu: Tần, Sở, Yên, Tề, Hán, Triệu, Ngụy.
VƯƠNG TRIỀU TẦN
ĐẾ QUỐC TẦN
221 ĐẾN 206 tr.CN
Năm Kỷ Tị (năm 256 tr.CN) Chu Nạn Vương, nước Tần tiêu diệt nhà Chu
Năm 255 tr.CN, vua Tần Chiêu Tương Vương trị vì đến Tần Vương Chính
Năm Ất Mão (năm 222 tr.CN) bắt đầu đánh chiếm thôn tính các nước khác
Năm 221 tr.CN, Tần Vương Chính hoàn thành thống nhất Trung Hoa, lên ngôi Hoàng Đế, xưng là Tần Thủy Hoàng Đế.
Vương triều Tần gồm có các vua Đế hiệu:
1- Chiêu Tương Vương; tên Doanh Tắc, lên ngôi 306 tr.CN, ở ngôi 56 năm.
2- Hiếu Văn Vương; tên Doanh Trụ, lên ngôi 250 tr.CN, ở ngôi 1 năm.
3- Trang Tương Vương; tên Doanh Tử Sở, lên ngôi 249 tr.CN, ở ngôi 3 năm.
4- Thủy Hoàng Đế; tên Doanh Chính, lên ngôi 246 tr.CN, ở ngôi 37 năm.
5- Nhị Đế Hoàng Đế; tên Doanh Hồ Hợi, lên ngôi 209 tr.CN, ở ngôi 3 năm.
Trong 7 nước thời Chiến quốc, nước Tần lạc hậu hơn cả. Khi Tần Hiếu Công lên cầm quyền (năm 362 tr.CN đến năm 359 tr.CN), đã thực hiện Biến pháp của Thương Ưởng: “tùy theo tình hình đương thời mà định luật pháp, vì sự việc mà đặt ra lễ nghi”. Pháp lệnh của Thương Ưởng đã đặt cơ sở vật chất để Tần hơn hẳn 6 nước. Tần hùng mạnh, là sự uy hiếp lớn cho 6 nước Sơn Đông. Tình hình này phát sinh hai phái “Hợp tung” và “Liên hoành”. “Hợp tung” là một phái hoạt động có sách lược chính trị chống Tần, theo hướng Nam-Bắc từ Yên đến Sở. Còn “Liên hoành” do nước Tần khởi xướng để liên hợp với các nước phía Đông. Hai phái đều có một số thuyết khách (ngoại thích) nổi trội hơn cả là Trương Nghi và Tô Tần.
Năm 332 tr.CN, Ngụy Huệ Vương hợp tác với nước Tần, sử dụng Trương Nghi là tướng nước Tần sang làm tướng cho nước Ngụy. 5 nước Tề, Sở, Yên, Triệu, Hàn thấy bị uy hiếp, nên năm 319 tr.CN đã thay Công Tôn làm tướng nước Nguy, hình thành thế “hợp tung”. Năm 317 tr.CN, 6 nước liên kết với nhau đánh Tần. Năm 298 tr.CN, Mạnh Thường Quân đề xướng 3 nước Tề, Hàn, Ngụy cùng tấn công nước Tần, trong 2 năm phái “hợp tung” thu được thắng lợi, Tô Tần được cử đứng đầu phái ‘hợp tung”. Nhưng Trương Nghi là thuyết khách cho phái “Liên hoành”, đại diện cho nhà Tần, đã hợp tác với các nước phía Đông phá Tề, là nước đối đầu hùng mạnh trong 6 nước, cuối cùng Tề đại bại, 5 nước còn lại đều hàng phục, nước Tần trở thành cường quốc, thống nhất Trung Hoa. Lãnh thổ của nước Tần sau khi phát động chiến tranh chinh phục thống nhất gồm có:
- Quan trung
- Ba Thục (Tứ Xuyên)
- Hán Trung (phía Nam tỉnh Thiểm Tây)
- Uyển (Nam Dương – Hà Nam)
- Ảnh - Thượng Quận (phía Bắc tỉnh Thiểm Tây)
- Hà Đông – Thai Nguyên - Thượng Đảng (ba tỉnh này ở vùng biên giới tỉnh Sơn Tây), trong đó có vùng Vinh Dương, nơi triều Chu đóng đô, nay thuộc tỉnh Hà Nam.
Nước Tần thống nhất, về lãnh thổ mà nói có ưu thế tuyệt đối, đất đai mầu mỡ, lại được nước Trịnh giúp về thủy lợi nên mùa màng bội thu. Tần Thủy Hoàng cho tu bổ đường xá, hạ tầng cơ sở, lấy Hàm Dương làm trung tâm, phía Đông nối liền với Yên, Tề, phía Nam nối đến Ngô, Sở, nó đã có tác dụng lớn thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, thống nhất văn bản dùng một thứ tiếng, chế độ đo lường đều thống nhất, quy định tiền tề: Thương tệ bằng vàng, Đồng tề bằng đồng.
Năm 147 tr.CN Tần Trang Vương qua đời, Thái tử Doanh Chính nối ngôi, mới 13 tuổi, mọi quyền lực đều ở tay Tướng quốc Lã Bất Vi. Năm 238 tr.CN, năm thứ 9 Vương triều Tần, Doanh Chính đã 22 tuổi mới thực sự nắm quyền điều hành đất nước, đặt Quốc hiệu là Tần Doanh Chính. Tần Thủy Hoàng biết Lã Bất Vi có nhiều âm mưu thủ đoạn nhằm lũng loạn triều đình, đã bãi chức Tướng quốc, còn bắt giam giữ tại Hà Nam. Lã Bất Vi không chựu sự quản chế của Tần Thủy Hoàng, đã cam tâm lợi dụng điều kiện đất Trung nguyên, liên kết với các chư hầu, âm mưu hoạt động chống phá vương triểu Tần. Năm thứ 12 Tần Doanh Chính, Lã Bất Vi bị bức vào đất Thục, cuối cùng tự sát. Năm thứ 14 Tần Doanh Chính, nước Hàn cắt đất cầu hòa với Tần, xin làm thần triều cống và phái công tử Hàn Phi làm sứ giả. Tần Thủy Hoàng nghe theo lời tể tướng Lý Tư, giữ vững chế độ độc tài quận huyện, thống nhất hành chính, và cả thống nhất tư tưởng, với nhiều biện pháp cứng rắn, phản đối chế độ phong kiến phân quyền. Tần Thủy Hoàng có hơn hai chục người con trai, con cả là Phù Tô vì trực tiếp can gián chính sách “đốt sách chôn học trò” nên bị tống ra biên cương giám sát quân lính của tướng Mông Điềm, duy chỉ có Hồ Hợi người con trai thứ 18 được Tần Thủy Hoàng yêu mến thường cho theo tuần du.
Năm 37 tuổi, tháng 7, đi tuần du đến Sa Khâu, nay là Địa Bình Đài thuộc tỉnh Hà Bắc, Tần Thủy Hoàng lâm bệnh nặng chết. Sau khi Tần Thủy Hoàng chết, Tần Nhị Thế Hồ Hợi mưu sát anh cả Phù Tô cướp ngôi. Nhị Thế còn hung ác tàn bạo hơn Tần Thủy Hoàng. Ngoài cuộc khởi nghĩa của Trần Thắng và Ngô Quảng ra, 6 nước vùng Sơn Đông cũng thừa cơ khởi binh, trong đó có 2 thế lực Lưu Bang và Hạng Vũ là mạnh hơn cả. Hạng Vũ và Lưu Bang cùng chung sức đánh bại nhà Tần. Nền thống trị của đế quốc Tần tan rã.
VƯƠNG TRIỀU LƯỠNG HÁN
TỪ NĂM 206 tr.CN ĐẾN NĂM 220 SAU CN
TRIỀU TÂY HÁN
Từ năm 206 tr.CN đến năm 25 sau CN
Gồm các triều Vua:
1- Hán Cao Đế, tên Lưu Bang, lên ngôi 206 tr.CN, ở ngôi 12 năm.
2- Hán Huệ Đế, tên Lưu Doanh, lên ngôi 194 tr.CN, ở ngôi 7 năm.
3- Cao Hậu, tên Lã Trĩ, lên ngôi 187 tr.CN, ở ngôi 8 năm
4- Hán Văn Đế, tên Lưu Hằng, lên ngôi 179 tr. CN, ở ngôi 16 năm.
- Đổi niên hiệu là Hậu Nguyên năm 163 tr.CN, ở ngôi 7 năm.
5- Hán Cảnh Đế, tên Lưu Khởi, lên ngôi 156 tr.CN, ở ngôi 7 năm
- Đổi niên hiệu Trung Nguyên năm 149 tr.CN, ở ngôi 6 năm.
- Đổi niên hiệu Hậu Nguyên năm 143 tr.CN, ở ngôi 3 năm.
6- Hán Vũ Đế, tên Lưu Triệt, hiệu Kiến Nguyên, lên ngôi 140 tr.CN, ở ngôi 6 năm.
- Đổi niên hiệu là Nguyên Quang, năm 143 tr.CN, ở ngôi 6 năm
- Đổi niên hiệu là Nguyên Sóc, năm 128 tr.CN, ở ngôi 6 năm
- Đổi niên hiệu là Nguên Phú, năm 122 tr.CN, ở ngôi 6 năm.
- Đổi niên hiệu là Nguyên Đỉnh, năm 116 tr.CN, ở ngôi 6 năm.
- Đổi niên hiệu là Nguyên Phong, năm 110 tr.CN, ở ngôi 6 năm.
- Đổi niên hiệu là Thái Sơ năm 104 tr.CN, ở ngôi 4 năm.
- Đổi niên hiệu là Thiên Hán năm 100 tr.CN, ở ngôi 4 năm.
- Đổi niên hiệu là Thái Thủy Chinh năm 96 tr.CN, ở ngôi 4 năm.
- Đổi niên hiệu là Hòa Nguyên năm 92 tr.CN, ở ngôi 4 năm.
- Đổi niên hiệu là Hậu Nguyên năm 88 tr.CN, ở ngôi 2 năm.
7- Hán Chiêu Đế, tên Lưu Phất Thăng, hiệu Nguyên Thủy, lên ngôi 86tr.CN, ở 7 n.
- Đổi niên hiệu là Nguyên Phượng năm 80 tr.CN, ở ngôi 6 năm.
- Đổi niên hiệu là Nguyên Bình năm 74 tr.CN, ở ngôi 1 năm.
8- Tuyên Đế, tên Lưu Tuân, hiệu Bản Thủy, lên ngôi 73 tr.CN, ở ngôi 4 năm.
- Đổi niên hiệu là Địa Tiết năm 69 tr.CN, ở ngôi 4 năm.
- Đổi niên hiệu là Nguyên Khang năm 65 trCN, ở ngôi 5 năm.
- Đổi niên hiệu là Thần Tước năm 61 tr.CN, ở ngôi 4 năm.
- Đổi niên hiệu là Ngũ Phượng năm 57 tr.CN, ở ngôi 4 năm.
- Đổi niên hiệu là Cam Lộ năm 53 tr.CN, ở ngôi 4 năm.
- Đổi niên hiệu là Hoàng Long năm 49 tr.CN, ở ngôi 1 năm.
9- Nguyên Đế, tên Lưu Thế, hiệu Sơ Nguyên, lên ngôi 48 tr.CN, ở ngôi 5 năm.
- Lấy niên hiệu là Vĩnh Quang năm 43 tr.CN, ở ngôi 5 năm
- Lấy niên hiệu là Kiến Chiêu năm 38 tr.CN, ở ngôi 5 năm.
- Lấy niên hiệu Cảnh Ninh năm 33 tr.CN, ở ngôi 1 năm.
10- Thành Đế, tên Lưu Ngao, hiệu Kiến Thủy, lên ngôi 32 tr.CN, ở ngôi 4 năm.
- Lấy niên hiệu Hà Bình năm 28 tr.CN, ở ngôi 4 năm.
- Lấy niên hiệu Dương Sóc năm 24 tr.CN, ở ngôi 4 năm.
- Lấy niên hiệu Hồng Gia năm 20 tr.CN, ở ngôi 4 năm.
- Lấy niên hiệu Vĩnh Thủy năm 16 tr.CN, ở ngôi 4 năm.
- Lấy niên hiệu Nguyên Diên năm 12 tr.CN, ở ngôi 4 năm.
- Lấy niên hiệu Viên Hòa năm 8 tr.CN, ở ngôi 2 năm.
11- Ai Đế, tên Lưu Hân, hiệu Kiến Bình, lên ngôi năm 6 tr.CN, ở ngôi 4 năm.
- Lấy niên hiệu Nguyên Thọ năm 2 tr.CN, ở ngôi 2 năm.
12- Bình Đế, tên Lưu Khan, hiệu Nguyên Thủy, lên ngôi 1 s.CN, ở ngôi 5 năm.
13- Nhũ Tử Anh bị Vương Mãng cướp ngôi, lên ngôi năm 8 s.CN, ở ngôi 14 năm
14- Vương Mãng Tân lấy niên hiệu Thủy Kiến Quốc ở ngôi 1 năm.
- Lấy niên hiệu Thiên Phượng năm 14 s.CN, ở ngôi 6 năm.
- Lấy niên hiệu Địa Hoàng năm 20 s.CN, ở ngôi 4 năm.
15- Cánh Huyền Đế, tên Lưu Huyền, hiệu Cánh Thủy, lên ngôi 23 s.CN, ở ngôi 3 n.
Chiến tranh Sở Hán và Tây Hán: Lưu Bang vào Quan Trung đến tận Hàm Dương, đã bãi bỏ tất cả luật pháp của nhà Tần nên thỏa mãn khát vọng của dân thời Chiến Quốc. Về phần Hạng Vũ, đã đem 40 vạn quân thiện chiến kéo đến đất Tần, mặc dù vào Quan Trung sau Lưu Bang, trước sức mạnh của mình, Hạng Vũ đã buộc Lưu Bang phải tuân lệnh làm vua Ba Thục – Hán Trung. Hạng Vũ sau khi chiếm đất phía Đông, tự xưng là “Tây Sở Bá Vương”, đóng đô ở Bành Thành tỉnh Giang Tô.
Đoàn Vinh tướng nước Tề nổi loạn ở Liêu Đông. Bành Việt lại liên kết Tề với Sở. Tướng nước Triệu là Trần Dư cũng tiến đánh Hạng Vũ, chiếm lấy đất phía Bắc Trường Giang, vì lúc này Hạng Vũ đang đem quân đi chinh phạt phía Đông, nên Hạng Vũ không thể khống chế nổi. Lưu Bang thừa cơ xuất quân vào Quan Trung, đánh xuống phía Đông chiếm Lạc Dương, gây nên cuộc chiến tranh kéo dài gần 5 năm, từ 206 tr.CN đến 202 tr.CN. Hạng Vũ chỉ muốn khôi phục lại bộ mặt thời Chiến Quốc, chính điều này đã quyết định chuyển biến chiến cục. Lưu Bang càng đánh càng mạnh, nhờ có quần thần tài năng Trương Lương, Tiêu Hà, cùng các chủ tướng Phàn Khoái, Quán Anh, đã diệt Triệu, phá Tề, bắt Yên đầu hàng, chiếm cứ cả vùng phía sông Hoàng, quân nhà Hán uy hiếp hậu phương của Hạng Vũ, quân của Bành Việt chiếm cứ cả vùng phía Tây-Nam Sơn Đông cắt đứt quân vận chuyển lương thảo của quân Sở, cuối cùng quân Hán và quân Sở đụng đầu ở Cai Hạ (nay là huyện Linh Bính tỉnh An Huy), hai bên quyết chiến, Hạng Vũ đại bại, chết ở sông Ô Cai Hạ (nay là Huyện Hòa, tỉnh An Huy). Tháng 2 năm 206 tr.CN, Lưu Bang xưng đế: Hán Cao Tổ, kiến lập chính quyền đế quốc Hán nổi tiếng trên toàn bộ đất nước Trung Hoa. Lúc đầu nhà Hán đóng đô ở Lạc Dương, sau dời về Trường An. Từ khi Lưu Bang xưng Đế cho tới khi Vương Mãng làm loạn cướp ngôi, Sử gọi là Tây Hán hay Tiền Hán.
Lã Hậu vợ Lưu Bang là một phụ nữ cứng cỏi, quyết đoán, cơ mưu trong việc triều chính, diệt phản dẹp loạn và tàn nhẫn, cùng với Lưu Bang nếm đủ mọi gian truân trong những năm tháng dấy binh phá Tần, diệt Sở. Lã Hậu có con trai tên Lưu Doanh được lập làm Thái tử. Thích Cơ là thứ phi được Hán Cao Tổ rất sủng ái, có con trai tên Như Ý được phong làm Triệu Vương (Vương nước Triệu). Quá yêu Thích Cơ, Hán Cao Tổ nhiều lần muốn truất bỏ Doanh, lập Như Ý làm Thái tử. Nhưng không thực hiện được bởi thế lực của Lã Hậu, mọi hoạt động của Lã Hậu đều nhằm tiêu diệt vây cánh của họ Lưu (họ nhà chồng). Hán Cao Tổ mất, Lã Hậu nắm quyền lớn, việc đầu tiên Lã Hậu sai người chặt tay, chân của Thích Cơ, cắt tai, móc mắt cho uống thuốc thành câm, rồi nhốt vào nhà xí gọi là “con lợn người”, áp bức con của Thích Cơ là Như Ý uống thuốc độc chết. Lưu Doanh là con đẻ lên ngôi, Hiếu Huệ Đế buồn bực mâu thuẫn với mẹ đẻ là Lã Hậu vì những hành động tàn bạo của mẹ, nên Hiếu Huệ Đế chẳng thiết gì đến chính sự, sinh ra riệu chè rồi ốm nặng ít lâu sau qua đời. Do mưu kế của Lã Hậu, đã lập con hờ của Huệ Đế lên ngôi, để nắm quyền lớn, Lã Hậu bèn tuyên cáo Vua bị bệnh nặng, rồi sai thủ tiêu luôn, sau đó lập Hán Hiếu Đế lên ngôi. Cho đến những ngày cuối đời, Lã Hậu đã giết rất nhiều vương công đại thần thuộc phe cánh họ Lưu. Sau khi Lã Hậu mất, các đại thần văn võ trung thành với Hán Cao Tổ phản kích quy mô lớn, tiêu diệt hết vây cánh họ Lã, buộc Hán Thiếu Đế phải tự thú, tôn con của Hán Cao Tổ lên ngôi là Hiếu Văn Đế.
Hán Bình Đế lên ngôi hãy còn nhỏ 9 tuổi, Thái Hậu Vương Chính Quân phải lâm triều uỷ quyền hành cho Vương Mãng. Năm thứ 8 sau Công nguyên, Vương Mãng dùng thủ đoạn dâng riệu thuốc độc giết Hán Bình Đế, lúc này vua mới 14 tuổi, Lưu Anh là đứa con 2 tuổi của Hán Bình Đế được lập làm Thái tử. Vương Mãng giở hết thủ đoạn, năm thứ nhất niên hiệu Sơ Thủy, Vương Mãng buộc Thái Hậu trao quyền xưng chế thiết triều, phế Thái Tử Lưu Anh, tự xưng là Châu Hoàng Đế, đổi quốc hiệu là Tân, ngồi trên ngôi Hoàng đế 14 năm. Nhà Tây Hán cáo trung.
TRIỀU ĐÔNG HÁN
Từ năm 25 đến năm 220 sau CN
Gồm các triều Vua:
1-Quang Vũ Đế, tên Lưu Tú, hiệu Kiến Vũ, lên ngôi năm 25 s.CN, ở ngôi 32 năm.
- Lấy niên hiệu Trung Nguyên năm 56 s.CN, ở ngôi được 2 năm.
2- Minh Đế, tên Lưu Trang, hiệu Thủy Bình, lên ngôi 58 s.CN, ở ngôi 18 năm.
3- Chương Đế, tên Lưu Đáp, hiệu Kiến Sơ, lên ngôi năm 76 s.CN, ở ngôi 9 năm.
- Lấy niên hiệu Nguyên Hòa năm 84 s.CN, ở ngôi 4 năm.
- Lấy niên hiệu Chương Hòa năm 87 s.CN, ở ngôi 2 năm.
4- Hòa Đế, tên Lưu Triệu, hiệu Vĩnh Nguyên, lên ngôi năm 89 s.CN, ở ngôi 17 năm
- Lấy niên hiệu Nguyên Hưng năm 105 s.CN, ở ngôi 1 năm.
5- Thương Đế, tên Lưu Long, hiệu Diên Bình, lên ngôi 106 s.CN, ở ngôi 1 năm.
6- An Đế, tên Lưu Hựu, hiệu Vĩnh Sơ, lên ngôi năm 107 s.CN, ở ngôi 7 năm.
- Lấy niên hiệu Nguyên Sơ năm 114 s.CN, ở ngôi 7 năm.
- Lấy niên hiệu Vĩnh Ninh năm 120 s.CN, ở ngôi 2 năm.
- Lấy niên hiệu Kiến Quang năm 121 s.CN, ở ngôi 2 năm.
- Lấy niên hiệu Diên Quang năm 122 s.CN, ở ngôi 4 năm.
7- Thuận Đế, tên Lưu Bảo, hiệu Vĩnh Kiến, lên ngôi năm126 s.CN, ở ngôi 7 năm.
- Lấy niên hiệu Dương Gia năm 132 s.CN, ở ngôi 4 năm.
- Lấy niên hiệu Vĩnh Hòa năm 136 s.CN, ở ngôi 6 năm.
- Lấy niên hiệu Hán An năm 142 s.CN, ở ngôi 3 năm.
- Lấy niên hiệu Kiến Khang năm 144 s.CN, ở ngôi được 1 năm.
8- Xung Đế, tên Lưu Bỉnh, hiệu Vĩnh Hy, lên ngôi năm 145, ở ngôi 1 năm.
9- Chất Đế, tên Lưu Toán, hiệu Bản Sơ, lên ngôi năm 146, ở ngôi 1 năm.
10- Hoàn Đế, tên Lưu Chí, hiệu Kiến Hòa, lên ngôi năm 147, ở ngôi 3 năm
- Lấy niên hiệu Hòa Bình năm 150 s.CN, ở ngôi được 1 năm.
- Lấy niên hiệu Nguyên Gia năm 151 sCN, ở ngôi 3 năm
- Lấy niên hiệu Vĩnh Hưng năm 153 s.CN, ở ngôi 2 năm.
- Lấy niên hiệu Vĩnh Thọ năm 155 s.CN, ở ngôi được 4 năm.
- Lấy niên hiệu Diên Hy năm 158 s.CN, ở ngôi được 10 năm.
- Lấy niên hiệu Vĩnh Khang năm 167 s.CN, ở ngôi 1 năm.
11- Linh Đế, tên Lưu Hùng, hiệu Kiến Ninh, lên ngôi năm 168, ở ngôi 5 năm.
- Lấy niên hiệu Hi Bình năm 172 s.CN, ở ngôi được 7 năm.
- Lấy niên hiệu Quang Hòa năm 178 s.CN, ở ngôi được 7 năm.
- Lây niên hiệu Trung Bình năm 184 s.CN, ở ngôi được 6 năm.
12- Hiến Đế, tên Lưu Hiệp, hiệu Sơ Bình, lên ngôi năm 190, ở ngôi 4 năm.
- Lấy niên hiệu Hưng Bình năm 193 s.CN, ở ngôi được 2 năm
- Lấy niên hiệu Kiến An năm 196 s.CN, ở ngôi được 25 năm.
- Lấy niên hiệu Diên Khang năm 220 s.CN, ở ngôi được 4 năm.
Lưu Tú nhân cơ hội quần chúng bạo động chống Vương Mãng đã phục hồi lại vương triều nhà Hán, năm 25 s.CN, Lưu Tú xưng Quang Vũ Đế, đóng đô tại Lạc Dương, Sử gọi là Đông Hán hay Hậu Hán. Năm 217, Lưu Tú đánh bại quân Xích Mi do Phàn Sùng cầm đầu và quân khởi nghĩa Lục Lâm, mất 10 năm mới thống nhất được đất nước. Lợi dụng mâu thuẫn nội bộ của triều Đông Hán trong những năm đầu, cùng với nền thống trị chưa ổn định, các nước xung quanh thừa cơ gây chiến tranh cướp bóc lẫn nhau, có cuộc chiến tranh với Hung Nô là đặc biệt nhất. Năm 46 – 48 s.CN bản thân mâu thuẫn nội bộ Hung Nô chia làm hai phái Nam và Bắc, Bắc Hung Nô chạy về Tây-Bắc, còn Nam Hung Nô đầu hàng nhà Hán. Đời Hán Minh Đế do thế lực đã đủ mạnh, cử tướng Ban Siêu đến Tây vực dẹp Bắc Hung Nô giành thắng lợi. Nhà Đông Hán thúc đẩy quy mô hướng ngoại, mở đường thông thương với phương Tây.
Trong nội bộ triều đình Đông Hán, bọn ngoại thích và hoạn quan luôn luôn tranh quyền đoạt lợi, luôn phát sinh mâu thuẫn và xung đột. Các Hoàng đế Đông Hán đều chết sớm, các Thái tử lên kế vị còn nhỏ, triều đình thường do Thái hậu và ngoại thích chấp chính, từ đó lũng loạn triều chính. Khi Hoàng đế đến tuổi điều hành, không có người trợ giúp nên bị cô lập, bèn dựa vào bọn hoạn quan để đoạt lại chính quyền trong tay bọn ngoại thích, do vậy mà chính quyền thường bị bọn hoạn quan thao túng, thế lực ngày càng lớn mạnh. Đây là bối cảnh tranh chấp các bè phái thời Đông Hán.
THỜI TAM QUỐC
220 – 280
NHÀ NGỤY
220 – 262
Gồm các triều Vua:
1-Văn Đế, tên Tào Phi, hiệu Hoàng Sơ, lên ngôi năm 220, ở ngôi được 7 năm
2- Minh Đế, tên Tào Duệ, hiệu Thái Hòa, lên ngôi năm 227, ở ngôi được 7 năm.
- Đổi niên hiệu là Thanh Long năm 233, ở ngôi được 5 năm.
- Đổi niên hiệu là Cảnh Sơ năm 237, ở ngôi được 3 năm.
3- Tề Vương, tên Tào Phương, niên hiệu Chính Thủy, lên ngôi 240, ở ngôi 10 năm.
- Đổi niên hiệu là Gia Bình năm 249, ở ngôi được 10 năm.
4- Cao Quý Hương Công, tên Tào Man, niên hiệu Chính Nguyên, lên ngôi 254, ở ngôi được 3 năm.
- Đổi niên hiệu là Cam Lộ năm 256, ở ngôi được 5 năm.
5- Nguyên Đế Trần Lưu Vương, tên Tào Hoán, niên hiệu Cảnh Nguyên, lên ngôi năm 260, ở ngôi được 5 năm.
- Đổi niên hiệu là Hàm Hy năm 264, ở ngôi được 4 năm.
NHÀ THỤC HÁN
221 – 263
Gồm các triều Vua:
1- Chiêu Liệt Đế, tên chính Lưu Bị, niện hiệu Chương Vũ, lên ngôi năm 221 s.CN, ở ngôi được 3 năm.
- Đổi niên hiệu là Kiến Hưng năm 223 s.CN, ở ngôi được 15 năm
2- Hậu Chủ, tên Lưu Thiền, niên hiệu Diên Hy, lên ngôi năm 238, ở ngôi 20 năm.
NHÀ TÔN NGÔ
222 – 280
Gồm các triều Vua:
1- Đại Đế, tên Tôn Quyền, hiệu Hoàng Vũ, lên ngôi năm 222, ở ngôi 8 năm.
- Đổi niên hiệu là Hoàng Long năm 229, ở ngôi 3 năm.
- Đổi niên hiệu là Gia Hòa năm 232, ở ngôi 7 năm.
- Đổi niên hiệu là Xích Ô năm 238, ở ngôi 14 năm
- Đổi niên hiệu là Thái Nguyên năm 251, ở ngôi 2 năm.
- Đổi niên hiệu là Thần Phương năm 252, ở ngôi 1 năm.
2- Cối Kê Vương, tên Tôn Lượng, hiệu Kiến Hưng, lên ngôi năm 252, ở ngôi 2 năm
- Đổi niên hiệu là Ngũ Phương năm 254, ở ngôi 3 năm.
3- Cảnh Đế, tên Tôn Hưu, niên hiệu Vĩnh An, lên ngôi năm 258, ở ngôi 7 năm.
4- Ô Trình Hầu, tên Tôn Hạo, hiệu Nguyên Hưng, lên ngôi 264, ở ngôi 2 năm.
- Đổi niên hiệu là Cam Lộ năm 265, ở ngôi 2 năm.
- Đổi niên hiệu là Bảo Đỉnh năm 266, ở ngôi 4 năm.
- Đổi niên hiệu là Kiến Hoành năm 269, ở ngôi 3 năm.
- Đổi niên hiệu là Phượng Hoàng năm 272, ở ngôi 3 năm.
- Đổi niên hiệu là Thiên Sách năm 275, ở ngôi 2 năm.
- Đổi niên hiệu là Thiên Trụ năm 276, ở ngôi 1 năm.
- Đổi niên hiệu là Thiên Kỷ năm 277, ở ngôi 4 năm.
Thời đại Tam quốc nối tiếp cuộc khởi nghĩa Khăn vàng do nông dân bị áp bức vùng lên cuối đời Đông Hán. Bọn ngoại thích do Hà Tiến đứng đầu, câu kết với thế lực quý tộc quan lại triều đình do Viên Thiệu cầm đầu, đã giết hơn hai ngàn hoạn quan, thế lực bọn hoạn quan tan dã. Đổng Trác nhân cơ hội đó, tiến vào Kinh thành lấy cớ phò tá triều đình, nắm quyền lực, phế bỏ vua Hán Hiếu Đế, lập vua mới là Hán Hiến Đế. Viên Thiệu đem quân chạy ra Quan Đông, phát động chiến tranh thảo phạt Đổng Trác. Hán Hiến Đế rơi vào tay Đổng Trác, sau lại bị Tào Tháo kiềm chế ép buộc rời đô về Hứa Xương năm 196, nhà Đông Hán chỉ có danh mà không có thực. Trong vòng mấy năm, Tào Tháo đã tiêu diệt được Lã Bố, Viên Thuật, Trương Tú. Lúc bấy giờ thế lực của Viên Thiệu ở Hà Bắc cũng rất mạnh đã tiêu diệt được thế lực Công Tôn Toản. Năm 205, Tào Tháo đại phá Viên Thiệu, tiêu diệt Mã Đằng, Hàn Toại. Năm 208, Tào Tháo quay về phía Nam tấn công Kinh Châu, Lưu Tôn con Lưu Biểu đầu hàng Tào Tháo. Nhân đà, Tào Tháo tấn công Giang Đông, nhưng đại bại ở Xích Bích, do liên quân của Tôn Quyền và Lưu Bị chặn đánh. Sau trận Xích Bích, Lưu Bị chiếm vùng phía Bắc Kinh Châu, phía Nam có Vũ Lăng, Trường Xa (tỉnh Giang Nam). Năm 214, Lưu Chương đầu hàng Lưu Bị, nên Lưu Bị được cả Ích Châu. Năm 219, Tôn Quyền chiếm toàn bộ Kinh Châu, Tào Tháo quay về Bắc lấy Hán Trung. Thế chân vạc hình thành lâu dài.
Năm 220, Tào Tháo chết, con là Tào Phi phế bỏ Hán Hiến Đế, tự lên ngôi Hoàng Đế, lấy quốc hiệu là Ngụy, đóng đô ở Lạc Dương. Năm 221, Lưu Bị xưng Đế ở đất Thục, lấy quốc hiệu là Hán, đóng đô ở Thành Đô. Năm 229, Tôn Quyền xưng Đế, lấy quốc hiệu là Ngô, đóng đô ở Kiến Nghiệp (Nam Kinh).
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Kiến thức Dịch lý”