Một số câu chuyện về oan gia trái chủ

Trao đổi về phong tục, tín ngưỡng
Trả lời bài viết
Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

Một số câu chuyện về oan gia trái chủ

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »


Oan gia trái chủ


Lẽ ra tôi định post câu chuyện này vào “Chuyện của tôi” trong phần Hồi ký, nhưng ngẫm thấy nhờ câu chuyện này mà ngày ngày nhắc nhở tôi phải niệm Phật, niệm Phật. Âu cũng là một bài học kinh nghiệm để tu tập vậy.


Mỗi một người, ai cũng có oan gia trái chủ, điều đó là không tránh khỏi. Vì từ nhiều đời, nhiều kiếp, mình đã u mê, lầm lỗi, sát hại và gây thù chuốc oán với bao nhiêu con người, bao nhiêu sinh vật mà mình không hay. Bạn đã sát sinh hay bạn đã vô tình dẫm chân lên 1 con kiến, như vậy cũng đã đủ cho bạn kết thêm oan gia trái chủ của mình, vì mỗi một loài vật đều có tánh linh, chúng cũng có sân, hận, yêu thương và đau khổ của mình.


Năm ấy tôi vừa tốt nghiệp ra trường, tuổi còn trẻ, nên trong lòng hoài bão tràn đầy nhựa sống. Có biết bao dự định tương lai, chỉ còn vài tháng nữa là tôi hoàn thành xong khóa học 5 năm tiếng Nhật và tìm kiếm học bổng để sang Nhật du học. Nhưng không may, tôi đã mắc một bệnh hiểm nghèo (chắc là do điều kiện đi làm trong môi trường điều hòa quá lạnh, tối về lại tiếp tục đi học, ôn thi…).


Tôi phải nhập viện trong tình trạng sốt cao và gần như là hôn mê. Bác sỹ đã có lúc đành lòng thông báo cho Gia đình tôi được biết là tôi không thể qua khỏi và một đêm họ đã chuyển tôi đến Phòng “chờ chết”. Tôi còn nhớ, chồng tôi (lúc bấy giờ là bạn trai) chăm sóc tôi không quản ngày đêm đã bật khóc giữa bệnh viện.


Nhưng điều khủng khiếp nhất đối với tôi không phải là bệnh tật hành hạ, mà đêm nào tôi cũng bị những hồn ma đến quấy rối. Giờ theo con đường Phật pháp, tôi mới hiểu được họ chính là những oan gia trái chủ của tôi, chờ thời cơ là ùa đến đòi nợ, oan oan tương báo. Nếu tôi mất lúc đó thì chắc chắn tôi đã bị đọa lạc, bị họ lôi kéo vào địa ngục không hay. Nghĩ lại, thật là rùng mình.


Có đêm, bạn trai tôi nằm sát ngay dưới bên cạnh giường bệnh, vậy mà rõ ràng tôi nhìn thấy 1 người đàn ông to lớn quấn băng trắng nhờ nhờ kín cổ từ đầu đến chân, cố kéo màn ra và dùng xi lanh định tiêm vào đầu tôi. Lúc đó không hiểu sao tôi lại có ý thức giằng co tấm màn mong manh lại, và niệm chú “Om Mani Padme hum”, niệm “Nam mô A DI ĐÀ PHẬT”, bởi chỉ cần lơ là để ông ta tiêm vào đầu thì không biết tôi sẽ ra sao. Niệm chú xong thì ông ta đi mất.


Khi bệnh của tôi dần dần thuyên giảm, về nhà hàng đêm tôi lại nằm mơ thấy một người con gái trẻ tuổi, tóc dài và mặc áo trắng đến đòi nợ, kéo áo tôi và bảo: “Kiếp trước mày đã hại tao, giờ tao sẽ hại mày”. Và diễn tả lại cảnh tôi đã từng vô tình lái xe ô tô đâm vào cô ta đến chết. Đêm nào cũng vậy.


Cuộc sống quả có điều diệu kỳ hoặc tôi chưa đến số mãn báo thân. Một năm sau, bệnh tình tôi dần dần hồi phục, đến nay thì đã hoàn toàn không còn. Một người Thầy đã nói tôi được Phật Bà Quan Âm cứu mạng. Thời gian phục hồi sức khỏe, tôi cũng không còn nằm mơ thấy những oan gia trái chủ đến nữa, hoặc thỉnh thoảng họ có xuất hiện nhưng người tôi như có thần hộ mệnh bảo vệ, tỏa ánh hào quang làm họ phải đi ngay, không dám lại gần tôi nữa.


Câu chuyện của bản thân nhắc nhở tôi hàng ngày phải niệm Phật thật tinh tấn. Khi bệnh tật, không cần cầu hết bệnh, mà chỉ cầu được vãng sinh về Tây phương. Nếu số mệnh chưa mãn báo thì bệnh khắc tự khỏi, còn không thì được vãng sinh về thế giới an lành.


Các bạn hãy mau mau niệm Phật, còn chần chừ gì nữa. Mặc dù Đức Phật A DI ĐÀ trong một lời nguyện của mình đã nói Người nào dù phát tâm niệm Phật chỉ cần 10 câu trước lúc lâm chung cũng sẽ được Đức Phật đón về Tây phương. Nhưng liệu con người có biết bao oan gia trái chủ, trước lúc lâm chung họ đến bủa vây quanh ta, thân ta đau đớn, cảnh giới hãi hùng… lúc đó ta có thể nhớ đến câu niệm Phật được chăng? Vì vậy, từng thời khắc ta phải niệm Phật, lúc lâm chung tiếng Phật niệm cũng tự nhiên mà khởi được là vậy.


Tuy nhiên, điều quan trọng nữa là hàng ngày các bạn niệm Phật, cũng phải nguyện vãng sinh về Tây phương cực lạchồi hướng công đức của mình về Tây phương, cho oan gia trái chủ, cho Cửu huyền thất tổ, ông bà cha mẹ từ nhiều đời nhiều kiếp của mình. Niệm Phật và cùng khuyên họ niệm Phật để cùng đồng sinh cực lạc quốc. Có như vậy, con đường vãng sinh của bạn mới không bị cản trở.


Công đức có thể có bằng nhiều cách, làm từ thiện, phóng sinh… Bạn đã vô tình sát sinh, vậy làm cách nào để hóa giải. Bạn có thể phóng sinh, giải thoát cho các loài vật đang bị giam cầm, đang chuẩn bị làm thức ăn cho loài người. Tôi vừa xem xong đĩa: “Mười công đức phóng sinh” do huynh Từ Khánh gửi tặng. Bạn nào cần có thể liên hệ và đăng ký với tôi, tôi sẽ sao in lại và gửi các bạn.


Còn cách Nguyện và Hồi hướng vãng sinh, tôi xin nhờ huynh Từ Khánh post lại lên đây giúp mọi người, hoặc các bạn có thể tham khảo cách của huynh Phúc Tiến tại đây: http://hoibongsen.com/diendan/showthread.php?t=4794


Tôi xin chân thành cảm ơn các bạn đã chia sẻ câu chuyện của tôi!Hình ảnh

Nguồn:
Oan gia trái chủ - Hội Bông Sen

__________________

Phương Pháp Hóa Giải Hận Thù





http://tuvienhuequang.com




Hình ảnh
Những điều cần biết khi muốn hóa giải oan gia
(Tranh chấp trong gia đình, nhà cửa lục đục, thân thuộc phân ly, oan gia gặp nhau v.v.. đều thuộc dạng oan gia đến đòi nợ)

Rất nhiều người cảm thấy mình là người tốt, tâm địa hiền lành, chưa từng có ý muốn hại người thì làm gì có việc oan gia đến đòi nợ? Kỳ thật trong vô số kiếp đến nay thân, khẩu, ý của chúng ta đã tạo ra quá nhiều ác nghiệp tham, sân, si, sát sanh, trộm cướp, tà dâm v.v.. đã kết không ít oán thù với vô số chúng sanh. Những nghiệp ác khác tạm thời chưa bàn, chỉ nói đến việc sát sanh ăn thịt là đã kết oán thù thâm sâu với chúng sanh rồi.
Đại sư Ấn Quang nói: “Phàm gặp phải những bệnh nguy hiểm đa số đều là do nghiệp của đời trước và kiếp này tạo nên.” Trong một bát thịt, oan hồn lẩn quẩn; một niệm sát sanh, tội nợ khó tránh. Khi chúng bị con người giết hại, đau đớn vô ngần, sự oán hận này giống như chiếc cùm vô hình khóa chặt sự thống khổ của chúng, khiến cho chúng lúc nào cũng bị dày vò trong niềm thống hận mà không có cách nào giải mở được. Niềm đau của chúng lớn như vậy, chả trách kiếp này gặp lại người đã từng giết hại mình, chúng lập tức muốn đòi nợ ngay – đòi lại một sự công bằng. Chúng ta thường không chịu nổi khi phải chứng kiến cảnh tượng thống khổ của một người lúc lâm chung và tự hỏi tại sao họ lại bị vằn vặt đến thế? Đó đều là do oan gia của họ đến đòi nợ. Chúng ta do không hiểu rõ đạo lý này nên chỉ biết gây tạo nghiệp duyên chẳng lành với chúng sanh, không biết rằng oan gia trái chủ từ nhiều kiếp của mình đến nay đa số đều là những chúng sanh đã từng bị mình ăn nuốt.
Không chỉ là thống khổ, mà ngay cả vô số việc trái ý nghịch lòng trong cuộc sống hằng ngày cũng thường do oán thân trái chủ quấy nhiễu mà thành. Trong “Kinh Địa Tạng” nói: “Người làm thiện ở cõi Ta bà, khi lâm chung cũng có trăm ngàn hung thần ác quỷ biến thành hình cha mẹ hoặc quyến thuộc đến gạt gẫm dẫn họ vào đường ác, huống chi người vốn sẵn tạo nghiệp bất thiện.” Những hung thần ác qủy giả dạng khi chúng ta lâm chung cũng đều là những oan gia trái chủ biến hiện ra lừa dẫn chúng ta vào ba đường ác chịu cảnh thống khổ.
Do đây, khi chúng ta mắc phải những bệnh nghiêm trọng, hoặc gặp phải nghịch cảnh thì nên y theo pháp Phật dạy, dũng cảm đối mặt, không nên chạy vạy khắp nơi cầu thần xem bói hầu mong hóa giải nạn kiếp, cách làm này không những tiêu tốn rất nhiều tiền của mà kết cục vẫn uổng công vô ích. Đại sư Ấn Quang nói: “Người đời gặp phải bệnh tật hay tai nạn nguy hiểm v.v.. đã không biết niệm Phật tu thiện, lại còn vọng tưởng cầu khấn quỷ thần, thậm chí giết hại sanh mệnh chúng sanh để cúng tế, như vậy nghiệp ác chồng thêm nghiệp ác, thật đáng thương xót! Con người sanh ra trên đời, mỗi người đều có một cảnh ngộ riêng, đó đều do túc nghiệp chiêu cảm. Đã đau khổ thì nên niệm Phật hành thiện, sám hối tội căn, nhờ đó nghiệp tiêu bệnh giảm. Bản thân của những quỷ thần kia vẫn còn ở trong biển nghiệp thì làm sao có thể giúp người tiêu trừ nghiệp chướng được chứ? Cho dù là những vị đại tiên có uy lực lớn thì uy lực ấy so với Phật và Bồ tát cũng giống như đom đóm sánh với ánh mặt trời. Là đệ tử Phật, sao chúng ta không cầu nguyện Phật và Bồ tát mà lại đi cầu khấn quỷ thần? Đó là tà kiến, trái lại lời Phật dạy.”

Bịnh tật có 3 loại:


1. Bệnh về sinh lý: Do ăn uống không phù hợp hoặc không để ý đến sự nóng lạnh của thân mà sinh bệnh. Ví như bị cảm hoặc nóng sốt thì phải làm sao đây? Phải nhanh chóng đến bệnh viện khám bệnh, mua thuốc hay chích thuốc, không nên chậm trễ. Vì cơ thể sau khi lên cơn sốt sẽ phát bệnh, hoặc dẫn đến sự biến chứng của các bệnh khác, không nên kéo dài, phải nhanh chóng đi khám bệnh, chích thuốc, vài ngày sau bệnh sẽ khỏi ngay.
2. Bệnh nghiệp: Phàm những bệnh đến bệnh viện kiểm tra được, gọi là bệnh nghiệp. Nếu bạn thành tâm niệm Phật sẽ tiêu trừ được bệnh nghiệp này. Ở Trung Quốc có một vị cư sĩ, trong phổi nổi lên một khối u to hơn cả trứng gà, trong thời gian phát bệnh, ông luôn ối ra máu. Bác sĩ thấy không thể chạy chữa được nữa, liền phát thông báo cho mọi người biết. Mẹ của vị cư sĩ là người tin Phật, bà bảo với ông: “Con trai, chúng ta không trị ở đây nữa, mẹ sẽ đi tìm cho con một vị bác sĩ tài giỏi khác.” Tìm ai hở Mẹ? Tìm một vị Đại y vương. “Con trai, con cứ chuyên tâm nệm Phật, nếu có chết, con cũng sẽ đến được thế giới Cực lạc của đức Phật A Di Đà!” Nghe lời mẹ, vị cư sĩ một lòng niệm Phật cầu vãng sanh. Niệm Phật suốt hai tháng, sau khi về đến nhà, ông ối ra máu, ối ra thịt thối, ối cả thảy bốn lần và thôi không ối nữa. Sau đó, ông đến bệnh viện kiểm tra thì phát hiện khối u đã không còn nữa.
Đây là do nghiệp lực của mình chiêu cảm thành bệnh nghiệp (các chứng bệnh ngặt nghèo, làm người bệnh đau khổ, khó trị khỏi như ung thư, tiểu đường, cao huyết áp, tim mạch v.v.. đều có thể quy về bệnh nghiệp, đặc biệt là chúng ta sau khi tu học theo Phật, rất nhiều người do nghiệp chướng hiện tiền chiêu cảm mà mắc phải các chứng bệnh hiểm nghèo, đây đều là bệnh nghiệp đến để ngăn trở việc tu học của chúng ta). Làm thế nào để tiêu trừ bệnh nghiệp đây? Nghiệp của mình tạo thì phải do chính mình diệt. Như vị cư sĩ đề cập trên, không cần phải tiêu tốn tiền bạc, chỉ cần chuyên tâm niệm Phật, rốt cuộc ung thư cũng không còn. Trong 10 đại nguyện, Bồ tát Phổ Hiền dạy chúng ta phải “sám hối nghiệp chướng”, trên lộ trình tu học chúng ta thành tâm sám hối, đó mới là phương pháp chủ yếu tiêu trừ nghiệp chướng.
Bệnh nghiệp có cần phải uống thuốc không? Cũng cần phải uống thuốc, nhưng phải hiểu rõ uống thuốc chỉ là trợ duyên, giúp bạn chóng khỏi, nguyên nhân chủ yếu để trị lành bệnh nghiệp đó là dùng tâm thành kính thanh tịnh tụng kinh niệm Phật, sám hối nghiệp chướng, cầu Phật Bồ tát gia hộ cho mình. Trong tâm không còn ba độc tham sân si, thì các chất độc bên ngoài không thể xâm nhập được, lại dùng các nhân tố khách quan như uống thuốc để trợ duyên thì bệnh căn sẽ càng chóng khỏi.
3. Bệnh khó trị lành. Là những bệnh gì? Là những bệnh do oan gia đến đòi nợ? Thế nào là những bệnh do oan gia đến đòi nợ? Tức những bệnh cho dù đến bệnh viện bác sĩ cũng không tìm ra, nhưng mình lại cảm thấy bản thân thật sự có bệnh. Duyên do của bệnh là gì? Là do oan gia trái chủ đến quấy rối, như quỷ nhập xác.
Bác sĩ bó tay, uống thuốc cũng không hề có tác dụng. Đối với loại bệnh này thì phải trị như thế nào đây? Tụng kinh siêu độ, hóa giải oan kết trong Phật giáo rất có công hiệu đối với loại bệnh này. Siêu độ, dùng từ ngữ hiện đại để nói là một cách khuyên giải, dẫn dắt. Vì quá khứ bản thân người bệnh đã phạm phải lỗi lầm, nên giờ cầu xin tha thứ. Mục đích của việc tụng kinh, sám hối là để khuyên giải, nếu chủ nợ tiếp nhận thì họ sẽ rời khỏi xác, khiến người bệnh được lành mạnh trở lại.
Người thời nay bị oan gia trái chủ nhập xác rất nhiều, thần trí thất thường, nói năng lộn xộn, người bị nặng phải đưa vào bệnh viện tâm thần để trị liệu, kết quả là càng trị bệnh càng nặng thêm
Bệnh do oan gia đến đòi, tốt nhất nên đi tìm một vị Cao tăng đại đức để hóa giải oan kết. Vậy phải đi đâu tìm Cao tăng đại đức? Cao tăng đại đức có thể gặp nhưng không thể cầu. Nếu tìm không gặp thì phải làm sao? Phải đối trước Phật sám hối nghiệp chướng, tự mình hóa giải, hằng ngày đều phải sám hối, nên tụng “Kinh Địa Tạng”, niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng Vương, sau đó hồi hướng công đức cho oan gia trái chủ. Hôm nay họ không quấy nhiễu bạn, nhưng ngày mai, ngày mốt họ lại đến làm phiền bạn, cho đến khi nào bạn có thể làm cho họ cảm động mới thôi. Vì sao phải niệm danh hiệu Phật “A Di Đà”? Vì công đức của mỗi một câu Phật hiệu không thể nghĩ bàn, Bồ tát đăng địa còn chưa thể biết được công đức của mỗi một câu Phật hiệu là bao nhiêu, nói chi đến chúng quỷ thần còn ở trong sáu nẻo luân hồi! Đại sư Ngẫu Ích trong “Di Đà Yếu Giải” có nói: “Một tiếng Phật hiệu A Di Đà là pháp khiến cho Đức Bổn Sư Thích Ca đạt được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác ngay trong cõi ác năm trược này. Nay trao toàn bộ quả giác này cho chúng sanh trong đời trược ác, đó là cảnh giới tu hành của chư Phật. Chỉ có Phật và Phật mới thấu suốt, chẳng phải là điều mà chúng sanh trong ngũ giới tự mình có thể tin hiểu được.” Đại sư Ấn Quang cũng đề cập: “Pháp môn Tịnh Độ là pháp chỉ có chư Phật với nhau mới hiểu cùng tận, Bồ tát đăng địa vẫn chưa thấu tỏ.”
Pháp không phân cao thấp, ứng hợp căn cơ đó là pháp hay; thuốc không quý hèn, trị lành bệnh đều là lương dược.” Trong “Kinh Địa Tạng”, Đức Phật Thích Ca giao phó chúng sanh trong cõi Ta bà sau khi Ngài diệt độ trước khi Phật Di Lặc ra đời cho Bồ tát Địa Tạng, nhờ Ngài trông nom và cứu độ. Nói cách khác, Phật không còn tại thế thì Bồ tát Địa Tạng sẽ thay thế Ngài.
Người không hiểu rõ lý này, không biết hóa giải oan kết phải hóa giải từ hận thù trong tâm của chủ nợ, trái lại dùng phương thức “quỷ lớn đuổi quỷ nhỏ” áp đảo, nhờ vào những quỷ thần mà họ sùng bái hoặc bùa chú để tống cổ oan gia trái chủ, cưỡng bức chúng tránh xa. Cách làm này không những hiệu quả không cao mà lại còn kết thêm oán thù với chúng nữa. Tuy chúng tạm thời bị thế lực của quỷ lớn khuất phục, tạm thời bỏ đi không đến đòi nợ, nhưng đợi đến khi nhân duyên hội đủ, chúng trở lại thanh toán món nợ này càng ác liệt hơn. Giống như con nợ, không những không thành tâm trả nợ mà lại còn dùng thủ đoạn ngang tàng hung bạo đối với chủ nợ, dẫn đến thù chất thêm thù, oan oan tương báo, khổ không thể nói hết.
Người sáng suốt, hiểu được mọi việc đều do nhân duyên, “muốn biết nhân đời trước, nên xem sự thọ nhận trong đời này; muốn biết quả đời sau, nên xem sự tạo tác trong hiện tại.” Vì hóa giải triệt để oan kết, giúp đỡ đối phương lìa khổ được vui, ta nên dùng tâm từ bi, chân thành niệm Phật tụng kinh và hồi hướng công đức ấy cho oan gia trái chủ. Nhờ vào tâm chân thành sám hối của mình và pháp lực đại từ đại bi của Phật Bồ tát sẽ hóa giải được hận thù trong tâm của oan gia trái chủ, giải trừ được nỗi thống khổ thân tâm của chúng, đồng thời giúp cho chúng được thác sanh vào đường lành hoặc vãng sanh về thế giới Cực Lạc, như thế mới thật sự cởi mở được những ác duyên ràng buộc từ xưa, thật sự giải trừ được oan oan tương báo.

Theo: China net


Nguồn: Phương Pháp Hóa Giải Hận Thù
Được cảm ơn bởi: Ncarter, cocacola, virgo_o0o, kimthoa_0412, TiT_TinhKhong_TiT, tieuhodo_hnue, huongkeongot, Mickey1407, minhhanh062, Văn Khúc
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Một số câu chuyện về oan gia trái chủ

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »


CON MÈO ĐÒI NỢ, YÊU CẦU SIÊU ĐỘ


Phàm người khi mạng sắp lâm chung, ngoài con đường Thánh ở Tây phương ra, thì nếu không vào được cõi trời hay loài người, thì cũng ắt vào các đường: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Quyến thuộc của người mạng chung, nếu có thể giúp cho họ niệm Phật, đó là đưa thần thức của họ vãng sanh vào đường Thánh Tây phương mãi mãi thoát ly được biển khổ sanh tử. Nhưng cái ngày sắp mạng chung, giống như ngày 30 tháng chạp, những oan nghiệp đời trước, các chủ nợ đều đến, đâu có chịu cho anh đi dễ dàng! Nợ đã tính chưa xong, lâm chung làm sao để cho anh tiêu dao tự tại? Trong khoảnh sát na này thì phần lớn trách nhiệm ở nơi quyến thuộc và những người trợ niệm, cho nên người niệm Phật tu hành nhất thiết không nên ỷ vào mình tu hành nhiều năm, công phu rất tốt, các thứ công đức bố thí v.v… nhiều. Ngoài các bậc hành giả thật sự nắm chắc được việc tự tại muốn đi thì đi; còn lại, lúc sắp mạng chung vẫn phải lấy trợ niệm làm quan trọng. Bây giờ đơn cử ra một vị liên hữu vào tháng trước vãng sanh để chứng minh.

Vị liên hữu Hồng Hoàn trưởng ban của ban 48 nguyện kiêm ban trưởng của ban thí tài ở Liên xã Đài Trung, năm nay sáu mươi hai tuổi. Trong hai mươi năm gần gũi, đồng tu với ân sư Bính Công, có thể nói là người có phước báo nhứt, thành khẩn nhứt, phát tâm lớn nhứt, không có ai là sánh được với bà. Phước báo của bà ta là gia đình thanh nhàn nhứt, con cái, dâu rể, cháu ngoại đều hiếu thuận, cả nhà tin Phật, niệm Phật và của cải dư dã, bố thí từ nào đến giờ không có lận tiếc, cho nên sư phụ cho bà ta làm ban trưởng ban thí tài. Lòng thành khẩn đối với việc tin Phật của bà là mỗi khi sư phụ giảng kinh hoặc mở hội v.v… thì bà đều đi đủ không có mưa gió gì có thể ngăn trở; chẳng những tự tu tự lợi như thế, mà còn tâm tâm niệm niệm luôn nghĩ đến việc “lợi tha”. Tôi thường khen ngợi Hồng Hoàn với mọi người, hạng mà khó độ nhứt là bà con trong gia đình và những người hàng xóm, nhưng mà Hồng Hoàn thì sao? Thật có thể nói bà là bậc “bi trí song vận” (bi trí đầy đủ), phương tiện khéo léo, không những trong gia đình bà con đồng chí đồng đạo, ngay đến bà con hàng xóm xa gần, cả đến trong những ngõ hẻm ngóc ngách, hầu như nhà nào cũng đều phụng thờ tượng Tây phương Tam Thánh, có thể độ được cả một con hẻm đều tin Phật, thật là hiếm thấy! Đây đều là cái thành quả phát Bồ đề tâm của bà. Chẳng những như thế, bà lại còn đảm nhiệm làm cán sự hội phụ nữ khu Bắc thành phố Đài Trung, đã từng khuyên dứt mười mấy gia đình bất hòa, năm đó có cặp vợ chồng trẻ, cảm tình sắp bị tan vỡ, lúc chồng vợ con cái sắp chia tay, thì nhờ biện tài vô ngại của bà khuyên bảo, gia đình trở lại tốt đẹp, và tốt hơn nữa là đều quy y Tam Bảo. Cho nên ai cũng đều khen ngợi hoàn cảnh gia đình của sư tỷ Hồng Hoàn là tốt đẹp, cùng với tinh thần từ bi ưa xả thí của bà, trong đời có thể nói là “thập toàn thập mỹ” (mười phân vẹn mười).

Tuy nhiên, trong cái đẹp có cái khiếm khuyết. Cái khiếm khuyết của sư tỷ Hồng Hoàn là vào năm ngoái bỗng nhiên bị bệnh ruột dư, đã đi bệnh viện khoa ngoại mổ một lần, đến trung tuần tháng 2 năm nay bệnh biến đổi nặng, đã qua Đông Tây y dược trị liệu vẫn không có hiệu quả. Lúc bệnh nặng đã từng có thỉnh thầy Bính Công đến khai thị, thầy thấy bà uống thuốc an thần, mơ mơ hồ hồ, liền dặn con cái của bà: “Về sau nhất thiết không nên tiếp tục cho bà uống thuốc an thần nữa, lúc trợ niệm tinh thần sẽ mơ hồ hồ như thế, thần thức sẽ không thể vãng sanh Tây phương được!”. Đến 3 giờ buổi chiều ngày 17, tôi nhận được điện thoại của con gái của bà, nói là mẹ của cô đã hôn mê bất tỉnh nhân sự. Tôi lập tức cùng với sư tỷ Ngọc Trinh và mấy người nữa đi đến trợ niệm, lúc đó mọi người chúng tôi đều thấy bà ta hổn hển thở gấp, không còn biết gì, hai tay giở lên buông xuống liên tục, bộ dạng như đang muốn đẩy cái gì. Chúng tôi liên tục niệm Phật, niệm đến khoảng hơn 5 giờ, hơi thở gấp của bà đã từ từ ổn định lại, hai tay cũng không còn giở lên giở xuống nữa, dần dần tỉnh táo trở lại và đã có thể nói chuyện được rồi, bà nói với chúng tôi: “Sư tỷ, cám ơn các sư tỷ nhiều! Được rồi, các sư tỷ nghỉ đi!”. Tôi nói bà ta nên tĩnh tâm nhớ Phật, không nên nói chuyện nhiều. Lúc đó đã 6 giờ, tôi liền dặn dò con cái của bà rằng “Nếu như lúc nửa đêm khuya khoắt, nguy hiểm, các con cháu, mọi người đều phải cố gắng niệm Phật, nhưng nhất định phải đồng thanh, không nên có người thì niệm “A”, có người thì niệm “Đà”, có người thì niệm “Di”, trước sau lộn xộn, như thế làm nhiễu loạn nhĩ căn của người sắp mạng chung”. Sau khi tôi dặn dò xong, liền cùng các liên hữu ai về nhà nấy.

Đến sáng ngày hôm sau, nhớ nghĩ người bạn tri âm sắp từ biệt cõi đời, không khỏi ngậm ngùi nhớ tiếc, tức khắc chạy đi xem coi tối qua như thế nào? Lúc tôi mới vào cửa A Hoàn nghe được tiếng tôi liền lớn tiếng kêu lên: “Sư tỷ Khán Trị lại đây, lại đây!”, tôi liền ngồi trên mép giường của bà, bà nói với tôi “Chiều hôm qua may mà có các sư tỷ niệm Phật cho tôi, do vì lúc đó dường như đang bị cái chụp muỗi đen đè cứng, cái chụp đó nặng có mấy ngàn ký, đè đến nỗi tôi không thở nổi, chỉ còn có hai tay còn tự do, nên hai tay giở lên giở xuống muốn đẩy nó ra, nhưng lại đẩy không nổi”. Tôi hỏi bà ta “Tại sao chị không niệm A Di Đà Phật?”. Bà nói: “Khắp mình bị đè thở không ra hơi, không những miệng niệm không ra, ngay cả trong tâm cũng không niệm được! May mà còn có thể nghe được tiếng niệm Phật của các chị, tiếng vừa to vừa rõ ràng, cái chụp muỗi đen đó dần dần biến mất, tôi mới cảm thấy thân thể nhẹ nhàng, từ từ tỉnh lại”.

Hồng Hoàn lại nói: “Sư tỷ Khán Trị à! Tôi hôm qua lại còn nhìn thấy một cảnh giới nữa, kể ra rất dài”. Tôi hỏi bà muốn nói cái gì, bà nói: “Tối qua khoảng 2 giờ, tôi nhìn thấy một đứa bé khoảng chưa đầy tám tuổi mặc đồ trắng hiện ra trong phòng tôi, tôi hỏi nó: “Mày là ăn trộm đến trộm đồ phải không?”, thằng nhỏ liền phủ nhận: “Không phải, không phải!”. Tôi hỏi tiếp nó: “Vậy mày ở đâu đến đây? Đến làm cái gì?”. Nó nói: “Tôi từ lục đạo luân hồi đến, muốn đến đòi nợ bà, tính sổ với bà”. Tôi nói: “Ta làm người thanh bạch, chưa từng thiếu nợ của người nào”. Thằng nhỏ đó lại nói: “Không phải đời này, mà là nợ đời trước. Do vì bà đời trước ở Đài Bắc làm người hiếu sát (hay giết, ưa giết), đã giết bốn mươi con mèo rồi đều vứt bỏ xuống sông Cô Long (tên cũ), không tin, bà đi kiểm tra lại thì biết, tôi là một con trong đó, do vì sau khi bà giết chết tôi bà vẫn cứ ném vào trong sông, tôi rớt xuống bên bờ, có một người họ Hứa cứu tôi, nhưng tôi đã không thể sống tiếp, nên đã dùng một sợi dây cột tôi lại, treo lên trên cây, tôi nhờ tinh hoa của mặt trời mặt trăng cho nên có thể được hình người này, nhưng còn ba mươi chín anh, chị, em của tôi vẫn còn hình dáng mèo chịu khổ ở nơi đó. Tôi đến đây là muốn bà siêu độ cho bầy mèo anh chị em của tôi thoát khổ.” Tôi vội vàng nói: “Được, được! Liên xã chúng tôi trong tháng sắp cúng tế Tổ, thuận tiện sẽ siêu độ cho các ngươi luôn”. Đứa bé đó lại nói: “Không được không được! Nhất định phải làm hai cái giỏ tre đi đựng ba mươi chín con mèo kia. Chính bà tụng kinh siêu độ tại nhà bà.” Tôi liền nhận lời, sáng hôm nay kêu Canh Thân viết thư cho một người bà con ở Đài Bắc hỏi thăm rồi”.

Qua ba ngày, người bà con ở Đài Bắc gởi thư hồi âm nói: trước đây rất lâu ở Đài Bắc thật có con sông này. Việc này của Hồng Hoàn không những nói với tôi, còn nói với rất nhiều liên hữu nữa. Bà liền thỉnh cư sĩ Triệu Đàm Thuyên, Vương Thanh Hán, mười mấy vị liên hữu đến nhà bà tụng Kinh Địa Tạng, tụng kinh sám ba ngày để siêu độ cho bốn mươi con mèo kia. Buổi tối ngày cuối cùng lại làm một nhà “phổ thí” (thí khắp) để mở hết những oan kết cho bà.

Đến sáng sớm mồng 5 tháng 3 âm lịch, có người gọi điện thoại đến nói Hồng Hoàn sắp vãng sanh rồi, hiện chỉ còn thở thoi thóp. Tôi liền lại cùng với sư tỷ Ngọc Trinh và mấy vị đến nhà bà niệm Phật, niệm được hơn một giờ, thì Tố Cầm con gái của bà, nói với tôi: “Sư tỷ! Má con bắt đầu từ đêm qua, chỉ còn một hơi thở mong manh như thế, đến bây giờ vẫn chưa được vãng sanh; má con trước đây từng có dặn dò con: cần phải trước khi vãng sanh, trước nên thay đồ dùm cho bà, không biết phải hay không là chưa thay đồ, nên không chịu vãng sanh? Sư tỷ! Bây giờ thay đồ cho má con được không?”. Tôi nói: “Không được, không được! Bây giờ động dời bà ta e rằng gây cho bà ta phiền não thì không được vãng sanh”. Thế là lại niệm hơn nửa tiếng đồng hồ, vẫn cứ như thế, tôi nghĩ có lẽ bà ta thật sự chấp phải thay đồ trước, liền kêu mọi người tạm ngừng niệm Phật, tôi đến bên tai của bà lớn tiếng nói: “Sư tỷ A Hoàn, chị niệm Phật hai mươi năm, tâm tâm niệm niệm đều là muốn vãng sanh Tây phương, chị đã hiểu thế giới Ta bà này là giả, là khổ, đời người ở đời trong mấy chục năm, mỗi con người cuối cùng đều phải chết, chỉ là trước sau mà thôi, thế giới Cực Lạc mới là quê nhà an ổn của chúng ta; Phật A Di Đà là cha lành của chúng ta, sắp đến tiếp dẫn chị, chị phải buông bỏ hết vạn duyên, nhứt tâm niệm Phật, mọi người chúng tôi sẽ tiếp tục giúp chị niệm Phật, đưa chị vãng sanh Tây phương Cực lạc thế giới, sau này chị còn phải thừa nguyện lực trở lại quảng độ chúng sanh. A Hoàn! Chị phải buông bỏ tất cả, chúng tôi thỉnh Phật A Di Đà đến tiếp dẫn chị, chị phải niệm Phật theo đại chúng!”. Thật là không thể nghĩ bàn, mọi người đều nhìn thấy lúc tôi nói chuyện với bà, mắt của bà mở ra, đầu thì gật không ngớt, bày tỏ dáng điệu rất hài lòng, chúng tôi bèn niệm tiếp được năm phút, bà liền mỉm cười ra đi. Lúc đó là 11 giờ trưa ngày mồng 5 tháng 3. Sau khi bà dứt thở chúng tôi lại còn niệm tám giờ nữa mới để con cháu bà tắm rửa thay đổi y phục và lo đám tang.

Từ chuyện đơn cử có thật trên đây, chúng ta thấy: trước khi Hồng liên hữu lâm chung nhìn thấy một cái chụp đen nặng cả ngàn ký đè bà ta đến nỗi đau khổ vô cùng, tự mình không cách gì đẩy ra được; nếu như không có các vị liên hữu bên mình bà niệm Phật cho bà, thì làm sao có thể hồi dương được hơn mười ngày, dùng Phật pháp làm những công đức giải oan thích kết (mở bỏ những oan trái) cho những con mèo nhỏ kia. Mà những oan hồn kia biết Hồng liên hữu thường ngày niệm Phật, sẽ sanh Tây phương thì món oan trái này sẽ không còn cách gì đòi cho được, bèn hiện thân ra đứa nhỏ thẳng thắn nói ra đoạn oan nghiệp bị giết hại đời trước, yêu cầu tụng kinh siêu độ cho chúng thoát khổ. Có thể nhìn thấy nhân quả đáng sợ, rất nguy hiểm biết bao! Tôi viết đến đây tự nhiên lông tóc dựng ngược, cảm thán mãi! Thật là “Thân này không lo tu ngay trong đời này, còn đợi đến đời nào mới độ được thân này!”.

Nguồn:
http://www.quangduc.com/tinhdo/87niemphatcamung.html
Được cảm ơn bởi: virgo_o0o
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Một số câu chuyện về oan gia trái chủ

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »


VONG HỒN QUẤN QUÝT THEO QUẤY PHÁ, NIỆM PHẬT ĐƯỢC GIẢI OÁN KẾT


Một câu Nam mô A Di Đà Phật là thuốc A Già Đà trị hết muôn bệnh. A Di Đà Phật lại là đại chú vương, xưng niệm hoan hỷ thì giải được oán kết, gặp dữ hóa lành. Đoạn văn dưới đây chính là câu chuyện niệm A Di Đà Phật giải thoát được vong hồn quấn quýt theo quấy phá.

Năm năm trước ở một khu đất phồn hoa náo nhiệt ở thành phố Đài Bắc có một thanh niên phóng xe như bay chở một cô gái đẹp, chạy như giông như gió lạng lách ẩu tả, đến nỗi cô gái chở phía sau bị té xuống chết cũng không hay, lúc đó có rất nhiều nam nữ hiếu kỳ vây lại xem, mọi người đang lúc tội nghiệp cho cô gái này, bỗng có một người đi đến kêu to: “A Tam! A Tam!”, trong những người đứng xem có người tên A Tam liền ứng thinh đáp to: “Tôi đến đây, tôi đến đây!”. Nguyên vị A Tam này là thợ hớt tóc trong tiệm hớt tóc gần đó, do vì có khách muốn hớt tóc cho nên ông chủ cho người học việc đi kêu A Tam về hớt tóc cho khách.

Tục ngữ có câu “Trời có bão táp không lường, con người có họa phúc trong sớm tối”. A Tam, anh chàng thanh niên tốt, sống có khuôn phép này bắt đầu từ tối hôm đó, sau nửa đêm ở trong cảnh giới nửa tỉnh nửa mê nhìn thấy một cô gái đẹp đến rủ anh ra ngoài chơi, liền mở cửa sau đi theo cô ta. Đến khi trời sáng, một mình A Tam ngồi ngủ gật dưới cột điện, bị người ta phát hiện mới kêu anh ta thức dậy đi về. Liên tục một tuần lễ như thế, ban ngày làm việc, ban đêm cô gái kia đến dẫn đi chơi, sáng sớm đều nằm ngủ gật trên đất bên ngoài. A Tam tự thấy không ổn, liền bỏ việc về quê.

Quê của A Tam ở trên núi, thôn Đồng Lâm, Bắc Cấu Khanh, Vụ Phong, Đài Trung. Nhà có một mẹ già mù lòa và mấy anh em. A Tam về nhà qua ngày sau phụ giúp với ông anh cả, dùng xe tải hàng ra ngoài chở hàng cho người ta, đến tối về nhà. Bà mẹ liền kêu A Tam đến trước mặt nói: “Con mỗi lần lúc sắp ra ngoài. Mẹ đều dặn dò bảo con ở bên ngoài không nên kết giao tùm lum với con gái, con lại cứ không nghe. Con mới về ngày hôm qua, hôm nay đã có con gái đến kiếm, cái tiếng đi mang giày cao gót, lại còn miệng kêu A Tam, A Tam không ngớt! Mẹ hỏi là ai muốn tìm A Tam cũng không trả lời”. A Tam liền đáp với mẹ mình rằng: “Mẹ à! Con từ nào đến giờ ở bên ngoài sống có khuôn phép đàng hoàng, chưa từng kết giao với cô gái nào”. Tức thời liền cùng với mấy anh em của anh ta đi tìm kiếm bên trong bên ngoài nhà đều tìm không ra bóng dáng cô gái nào. Nhưng tối hôm đó vào nửa đêm thì cô gái lại đến cùng A Tam mở cửa sau ra ngoài chơi, sáng sớm A Tam lại ngồi ngủ gật dưới cây, thế là lại bị người kêu tỉnh dậy. A Tam ở Đài Bắc trong một tuần lễ, mỗi đêm đều bị chuyện như thế xảy ra, nhưng tự mình không biết là thế nào, bây giờ về ở nhà quê cũng là như thế, không biết có cách gì mới có thể giải quyết?

Lúc bấy giờ ở trên núi thôn Bắc Đồng Lâm, mọi người đều tin thờ một tượng Vương Gia Công. Mẹ của A Tam liền đi mời đồng cốt và thỉnh Vương Gia Công về hỏi bệnh của A Tam là bệnh gì? Thì ra thần cũng có chút thần thông, thần dựa vào đồng cốt nói: “Bệnh của A Tam là do mười ngày trước đây ở chỗ nào đó của Đài Bắc nhìn thấy một cô gái té chết bên đường, người bạn trai dùng xe chở cô gái này tên là A Tam. Lúc đó có người gọi to A Tam thì vị A Tam này của chúng ta cũng to tiếng trả lời “Đến
đây! Đến đây!”. Lúc đó hồn cô gái bị té chết đang trong lúc mênh mang mù mịt không có chỗ nương, nghe được cái tên A Tam, tức thời quấn theo không buông”. Đồng cốt nói tiếp: “Cách tốt nhất là đưa u hồn của cô ta về Đài Bắc”. Mẹ của A Tam lại nói “Phải dùng cách gì để đưa?”. Đồng cốt lại nói: “Phải dùng hình nộm (rơm)”. Tức thời dùng rơm làm thành một hình người, cao khoảng bốn thước (thước Tàu) mặc áo đỏ quần đen, chân cũng mang giầy, trên đầu buộc một chiếc khăn bông, vẽ mày, mắt, miệng, mũi, vào lúc sau nửa đêm, Vương Gia Công với đồng cốt đưa hình nộm này đến bên trạm xe, buộc vào dưới cột điện, đồng cốt liền đốt rất nhiều giấy vàng bạc ở đó kêu u hồn ngồi chuyến xe thứ nhứt đến Đài Bắc tìm người yêu của mình là A Tam.

Hình nộm người con gái buộc ở dưới cột điện, những người qua lại ở xa xa đã có thể nhìn thấy rồi. Ở dưới cột điện có một người con gái đẹp đứng ở đó bất động, đi lại gần nhìn mới rõ là hình nộm làm bằng rơm, làm sáng sớm hôm cô bị giật mình sợ đến hồn bất phụ thể, có thể nói sợ lớn bệnh lớn, sợ nhỏ bệnh nhỏ. Cô gái bị giật mình hoảng sợ té ngã hôn mê đó là một cô nữ sinh cao đẳng năm thứ ba họ Chu tên là A Lập. Sáng sớm mỗi ngày khi trời còn chưa sáng đã phải chạy xe đạp xuống núi, từ con đường thôn Đồng Lâm đi ngang qua Bắc Cấu Khanh, rồi lại từ Vụ Phong chuyển đến thành phố Đài Trung đi học, chuẩn bị thi đại học. Đó là một cô gái trẻ 19 tuổi tài năng và học vấn đều giỏi. Chu A Lập sáng sớm hôm đó sương mù trắng xóa mù mịt, xa xa thấy một cô gái trẻ, trong bụng nghĩ lạ quá, còn sớm như vậy đứng ở đó làm gì? Đang lúc không biết là cái gì đó thì xe đã đến qua đó, vừa xem biết là hình nộm mặc áo, tức thì lông tóc dựng đứng, đầu cảm thấy to lên như cái đấu, sức khỏe không chịu đựng được nữa, không thể đi học được, lại quay về nhà. Bắt đầu bị bệnh luôn không dậy được, đầu đau như muốn vỡ kêu khóc ầm ĩ, muôn phần đau đớn, trong một ngày mời về mấy vị Đông, Tây y bác sĩ, đều chẩn đoán không ra bệnh.

Người dân trên núi nơi A Lập ở này đều tin thờ Thái Tử Gia. Cha của A Lập liền đi thỉnh Thái Tử Gia đến cầu xin đạp đồng lên chỉ bảo. Thái Tử Gia này có thể nói là khá thông minh, ông ta dựa vào đồng cốt nói: “Cái đầu đau của A Lập thuốc men trị không hết được đâu, ta cũng không có cách nào trị lành được, do vì có một con quỷ nữ quấn theo quấy phá, thần không có cách đuổi đi, cần phải thỉnh bậc chân tu đến tụng kinh niệm Phật, siêu độ cho nó thoát khổ, đó mới là biện pháp rốt ráo (tốt nhất)”. Cha của A Lập lại hỏi Thái Tử Gia rằng: “Phải đi đến nơi nào thỉnh bậc chân tu?”. Thái Tử Gia dựa vào đồng cốt nói: “Gần thì trước mắt, xa thì ngàn dặm”. Cha của Chu A Lập tức thời nghĩ đến sư phụ Phổ Độ ở trên núi đối diện (em gái của cô Chơn tức cô Phụng đã thế phát thọ giới, truyện 27, 28, 29) và cô Chơn, hai người là chân tu hành. A Lập vẫn cứ đau đầu chịu không nổi, cha và anh của cô hai người liền đỡ cô đi gặp sư phụ Phổ Độ và cô Chơn, rồi nói rõ lại những lời của Thái Tử Gia lên đồng đã nói, xin nhờ giúp cho việc tiêu tai bạt độ.

Sư Phổ Độ và cô Chơn tức thời tụng một quyển Kinh Di Đà, 49 biến chú vãng sanh, tụng chú đại bi, Bát nhã Tâm kinh mỗi thứ 7 biến, hồi hướng bố thí cho nữ quỷ được siêu sanh thoát khổ, và cho A Lập một xâu chuỗi, dạy cô cách niệm “Nam mô A Di Đà Phật”, niệm một câu lần một hột. Lại thuyết minh tiếp: “Một câu A Di Đà Phật chính là đại chú vương, muốn tránh tà tự mình niệm mới kết quả, tự mình liền có thể tiêu tai khỏi nạn do vì tà ma quỷ quái không dám lại gần”. A Lập nghe xong thấy rất có đạo lý, vô cùng cám ơn, về nhà liền gắng sức niệm Thánh hiệu “A Di Đà Phật” mãi, niệm luôn mấy giờ, đầu nhẹ nhàng như thường lúc nào không hay. Ngược lại, mẹ của A Lập kêu to đau đầu, liền kêu A Lập đem xâu chuỗi đến cho mẹ mượn niệm. Cũng lần từng hột niệm một câu A Di Đà Phật… niệm được mấy giờ khỏe rồi, nhưng cái đầu của A Lập lại đau trở lại, lại đòi xâu chuỗi trong tay của mẹ lại niệm. Cha của A Lập liền chạy qua cô Chơn lần nữa nói rõ sự việc và xin thỉnh xâu chuỗi nữa, cô Chơn một lần nữa dặn dò ông: “Niệm Phật, không phải tay cầm chuỗi mới có thể niệm được. Không có chuỗi và ở bất cứ chỗ nào, bất cứ lúc nào đều có thể niệm, chỉ ở trong giấc ngủ hoặc đang trong nhà xí thì không thể niệm ra tiếng, nhưng phải nhớ niệm thầm, cũng không phải đợi lúc đau mới niệm, lúc bình thường không kể là nam hay nữ, già hay trẻ đều phải niệm, càng niệm càng tiêu tai, tăng thêm phước thọ”. Về sau cả nhà A Lập bình an, đối với sư Phổ Độ và cô Chơn rất là cảm đội ơn đức và tin sâu Phật pháp vô biên, không thể nghĩ bàn.

Chúng ta nói trở lại câu truyện hình nộm mặc đồ kia, hai ngày nay đứng bất động dưới cột điện, một truyền ra mười, mười truyền ra một trăm, một trăm truyền ra một ngàn, người trên núi không có người nào dám đi qua đó, ông trưởng thôn bèn đi đến nhờ cô Chơn, nói: “Các sư cô, cứu người thì phải cứu đến nơi đến chốn, cái hình nộm mặc đồ buộc luôn ở đó là điều lành ít dữ nhiều, trong làng không có người nào dám đụng đến nó, xin các sư cô phát tâm từ bi mở nó ra đốt bỏ đi để tránh gây ra nhiều tai ương. Xin nhờ! Xin nhờ!”. Sư Phổ Độ và cô Chơn liền nhận lời nói: “Được rồi, sáng sớm ngày mai bắt đầu làm là được rồi”. Qua sáng sớm hôm sau, sư Phổ Độ và cô Chơn đốt ba cây nhang, hướng vào hình nộm mặc đồ nói: “Nữ cô hồn! Ngươi ở đây tạo tội nghiệt, hại người, tội rất sâu, chúng ta thương xót cho ngươi, cho nên bây giờ tụng kinh, chú, niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật bố thí cho ngươi, siêu độ cho ngươi thoát ra ba cõi, vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới, vĩnh viễn thoát khỏi cái đau khổ lớn của luân hồi sanh tử, đây mới là cứu cánh cho ngươi”. Nói xong, liền tụng một quyển Kinh A Di Đà, chú vãng sanh, chú đại bi, Bát nhã Tâm kinh, v.v… lúc niệm lại Thánh hiệu A Di Đà Phật, thuận tiện liền mở hình nộm xuống, tháo bung hết toàn thân, lấy lửa đốt, trong khoảnh khắc biến thành một đống tro. Cuối cùng lại hồi hướng rằng: “Nguyện công đức thù thắng của kinh chú này hồi hướng cho cô hồn được siêu thăng”. Tiếp theo quét đống tro đó xuống khe nước lớn, nước cuốn trôi đi. Từ đó những người dân nam nữ già trẻ trong thôn Đồng Lâm này đã biết được điều hay tốt của việc niệm Nam mô A Di Đà Phật, có rất nhiều người phát tâm quy y theo Phật.

Nguồn:http://www.quangduc.com/tinhdo/87niemphatcamung.html
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Một số câu chuyện về oan gia trái chủ

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »


GIẢI NHẬP OAN KHIÊN


Vong nhập người con gái
Thuốc khó chữa trị lành
Quán Âm thường lễ niệm
Giải oan khiên khó trừ.

Ở Ninh Hòa, cách tỉnh Nha Trang một giờ lái xe, có người con gái con một gia đình người tàu giàu có tên là A Thố. A Thố người to, tướng mạo đẹp, mạnh khỏe, phương phi như một nữ võ tướng. Tuy vậy tâm tánh của A Thố rất hiền lành, thích đến chùa làm công quả, tụng kinh, niệm Phật và may y phục cho quý thầy. Những mùa an cư, A Thố thường đến Phật học viện Hải Ðức ở Nha Trang phụ các dì nấu cơm, gánh nước cúng quý Thầy trong dịp lễ tự tứ, mãn ba tháng an cư kiết hạ. Nhờ biết tu tập, kính trọng chư Tăng, siêng năng làm việc, nói năng chất phác, vui vẽ nên từ trên Hòa Thượng Giám viện đến dưới đại chúng và các dì đều thương mến A Thố. Vì tìm được không khí an tịnh và niềm vui trong thời gian ở chùa làm công quả, nên A Thố có ý xin xuất gia làm đệ tử Ni sư Chánh Lượng ở chùa Hang, sau này gọi là chùa Hải Ấn, gần xóm Bóng, Nha Trang.

Khi biết con gái có ý định xuất gia, cha mẹ A Thố rất mừng, vì hai ông bà và cả nhà rất trọng đạo, tổ tiên nhiều đời tin Phật, quy y Tam Bảo. Nhưng ý định đi tu của A Thố không được suông sẻ, vì cha mẹ có hứa gả A Thố co một cậu con trai con một của ông bà Phú Hưng, một gia đình người Việt gốc tàu, làm tiệm thuốc bắc ở Ninh Hòa rất khá giả. Nữa lòng thì muốn xuất gia làm ni cô, nữa lòng thì muốn lấy chồng, giữ chữ tín cho cha mẹ đối với ông bà sui, cha mẹ chồng tương lai. Vì sự việc này, nguyện xuất gia của A Thố kéo dài ba năm mà chưa thành. Trong cái rủi lại gặp cái may, cậu con trai của ông bà Phú Hưng, người chồng tương lai của A Thố bị tai nạn qua đời nên việc chọn đường đi tu của A Thố trở nên dễ dàng. Chừ trong cái may lại phải gặp cái rủi. A Thố đến lúc sữa soạn vào chùa để thế phát xuất gia thì bỗng nhiên nàng bị lên cơn điên.

Bệnh điên của A Thố rất dễ sợ và khác thường. Mỗi khi A Thố lên cơn, nàng có đủ sức mạnh để lật ngược hay kéo lôi nổi một chiếc xe hơi đang chạy trên đường. A Thố rất thích và khoái chí làm việc này, nên cả nhà và ai biết tới, thấy đều kinh hoàng khiếp sợ. Vì vậy mà tay chân A Thố luôn luôn được trói bằng những sợi dây xích sắt to tướng. Thế nhưng mỗi khi A Thố lên cơn, nàng thét lên từng hồi, hai mắt đỏ ngầu như lửa, rồi nàng vùng vẫy một lúc. Cuối cùng các dây xích đều bị đứt từng khúc, tiếng kêu loảng xoảng hòa với tiếng cười vang như thách đố, ngạo nghễ vằ trêu chọc rồi nàng ném các đoạn dây xích bị đứt vào tận xa tít lên không. Cái sở thích khi A Thố lên cơn là nàng luôn giựt lấy các bóng đèn điện để ăn ngấu nghiến như nhai những ổ bánh mì nướng dòn. Những lúc đó, A Thố thường nổi cơn giận dữ, nghiến răng, dậm chân và thoát ra giọng the thé nơi cái miệng đầy máu me với âm thanh của một gã đàn ông: “Trời là kẻ đại gian ác, bất công. Trần gian là ngục tù là dày đặc bóng tối.” Câu nói này thường bị đứt quãng, vì uất nghẹn và bực tức.

Có điều lạ là A Thố đã lên cơn suốt gần ba tháng, không hề chịu ăn uống gì cả mà thân thể không hề bị sút giảm, sức mạnh của A Thố còn tăng gấp mấy chục lần đối với lúc bình thường. Các bác sĩ giỏi trong các bệnh viện đều bó tay vì họ khám nghiệm đủ cách mà không tìm ra bệnh lý của A Thố. Cùng đường, gia đình được người mách bảo, họ đã xiềng A Thố vào trong một chiếc xe bọc lưới sắt và đưa A Thố đến chùa Giác Hải ở làng Xuân Tự nhờ đại sư Viên Giác chữa trị bệnh vong nhập.

Ðại sư Viên Giác là thầy của chúng tôi, người chữa bệnh điên do tà nhập, quỷ ám rất thần diệu. Thấy A Thố bị trói xích sắt, tỏ vẻ hung hăng và giận dữ, thầy chúng tôi chỉ nhìn thẳng vào mặt A Thố rồi niệm chú lâm râm một hồi. AThố quy phục và cúi đầu xuống đất. Thầy chúng tôi bảo người nhà mở trói cho bệnh nhân. A Thố ngồi yên, không la hét, không chạy nhảy và không bạo động. Thầy chúng bèn nhẩm niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát và trì ba biến chú Ðại bi vào trong chén nước trong đem cho A Thố uống. Vừa uống xong chén nước, tóc A Thố dựng ngược lên và xoay tròn như gió thổi mạnh vào một đám lau sậy. A Thố gục đầu xuống khóc rồi mở lời the thé của một vong thức đàn ông bằng tiếng Việt lơ lớ: “ta là một Anh linh ngoài vòng cương tỏa. Ai dám dùng danh nghĩa Quán Âm Bồ tát để hù ta, làm chướng ngại ước muốn của ta.”

Ðại sư Viên Giác lên tiếng:

“Ta là tỳ kheo, tự Chiếu Nhiên, trú trì chùa Giác Hải. Ta nương vào thần lực của đức Hóa thân Quán Thế Âm Bồ tát để khai tâm, độ thoát cho nhà ngươi. Nhà ngươi mau mau nói rõ tên tuổi ra để ta điểm hóa cho, chớ si mê cố chấp theo ái kiến mà phải đọa lạc luân hồi, ác thú trong kiếp này và vô lượng kiếp về sau, khổ cực vô tận, khó nguôi.”

Vẫn một âm thanh the thé của đàn ông như khó thở vì bị thương tích từ cuống họng và bị dập tim gan:

“Thưa sư phụ, con đây tên là T.M.H là vị hôn phu hụt của A Thố. Con chết vì tai nạn xe hơi khi đi chở hàng từ Sài Gòn ra Nha Trang, xe lật xuống chân núi vì mìn của lính Việt Cộng. Con chết quá đột ngột, không thể đi đầu thai được. Lại vì thương A Thố nên con đi theo A Thố để được sống bên nhau, đâu có ý làm hại A Thố.”

Ðại sư Viên Giác hạ giọng thương xót và giải khuyên: “Ta đây thật thông cảm nổi khổ đau của nhà ngươi. Thôi hãy chí thành quy y theo Phật và chí tâm sám hối, niệm Phật theo lời ta dạy để được sớm giải thoát, đi đầu thai làm người, xả sạch oán thù. Nhà ngươi hãy đọc theo lời ta: “lời hướng dẫn hằn chấn của đại sư Viên Giác:

“Nam mô tầm thanh cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ tát, xin ngài giúp con chuyển thế làm người.

Nam mô tầm thanh cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ tát, xin ngài lấy nước cam lồ rữa sạch cho con mọi oan khiên.

“Nam mô tầm thanh cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ tát, xin ngài độ cho A Thố chóng khôi phục sức khoẻ và chí tu học vững bền.”

Ðại sư tiếp tục dìu dắt vong linh:

“Con nguyện đời đời, kiếp kiếp quy y Phật.

Con nguyện đời đời, kiếp kiếp quy y Pháp.

Con nguyện đời đời, kiếp kiếp quy y Tăng.

Con đã quy y Phật rồi, không đọa vào địa ngục.

Con đã quy y Pháp rổi, không đọa vào ngạ quỷ.

Con đã quy y Tăng rồi, không đọa vào súc sanh.”

Khi đại sư Viên Giác, thầy của chúng tôi dẫn dắt vong linh kia lặp lại ba lần quy y Tam Bảo vừa xong, bỗng nhiên A Thố ngã lăn trên mặt đất chừng năm phút rồi tỉnh dậy như một giấc ngủ dài mê man. A Thố ngơ ngác không biết chuyện gì đã xảy ra cho mình. A Thố lành bệnh, sức khoẻ bình phục ngay lúc đó khiến cha mẹ và mọi người trong thân quyến A Thố hết sức vui mừng. Chùa Giác Hải nhiều người biết tới nhờ thầy chúng tôi niệm đức Quán Thế Âm chữa lành bệnh vong nhập cho A Thố. Gạo cơm chùa dư nuôi điệu chúng, vải vóc có đủ may mặc, vài căn nhà sinh hoạt được xây dựng khang trang, chính là nhờ sự phát tâm cúng dường tích cực của gia đình A Thố và bà con dòng họ của A Thố. Thầy chúng tôi có bài thơ tặng gia đình A Thố mà tôi đã nằm lòng sau đây:

Lễ Niệm Ðức Quán Thế Âm.
Hằng ngày lễ kính mẹ hiền
Quán Âm thường niệm vô biên linh mầu.
Gặp cơn rối rắm khổ đau
Quán Âm lễ niệm lệ sầu nhẹ vơi.
Sóng lòng dẫu có trùng khơi
Quán Âm lễ niệm đất trời chuyển rung
Muộn phiền oan nghiệp tương phùng
Quán Âm lễ niệm tâm không thoát nàn.
Mạng vong hồn phách cơ hàn
Quán Âm lễ niệm lạc bang hướng về.
Nguyện mau chứng quả bồ đề
Ta bà hóa hiện độ đời trầm luân.

Nguồn:Linh Ứng Quán Thế Âm
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Một số câu chuyện về oan gia trái chủ

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »


BÀN LUẬN TRỐNG RỖNG VÔ ÍCH, QUỶ THẦN TÍNH NỢ


Lại nói về sư tỷ Trương Thẩm ở Vụ Phong là một vị đệ tử Tam Bảo đầy đủ trí huệ, vào tám năm trước mới nghe Phật pháp đã trồng được hạt giống kim cang trong ruộng thức thứ tám, về sau đầy đủ chánh tri chánh kiến. Tin Phật chưa được mấy tháng, lại có một lần ở trong cảnh giới nửa tỉnh nửa mê, tranh biện cùng với quỷ lớn quỷ nhỏ, nguy hiểm chút nữa là bị quỷ đánh chết tươi rồi.

Nguyên là A Thẩm lúc trước khi chưa tin Phật, từng bị bệnh ba năm, không có ngày nào không chích thuốc, uống thuốc. Ở Vụ Phong chín năm trước còn chưa có một ngôi miếu thần nào, hay một ngôi chùa nào, chỉ có một ngôi miếu chung của dân rất nhỏ, thờ cúng là một bài vị thần chủ bằng ván. A Thẩm vì cầu cho bệnh được mau khỏi, không khỏi cầu thần, cầu quỷ phò hộ, tự mình thường hay mang giấy tiền vàng mã đến lễ lạy cầu thần ông phù hộ sức khỏe của bà sớm được bình an vô sự, nhưng cầu liên tiếp mấy năm vẫn cứ như thế.

Đến năm thứ 48 ban hoằng pháp của nữ ở Liên xã đến cơ sở hoằng pháp tại Vụ Phong, A Thẩm được nghe pháp vị như được uống nước cam lồ, như được của báu. Từ đó hai thời khóa sớm tối rất thành khẩn không gián đoạn, đối với ngôi miếu chung của dân kia không còn đi nữa, biết được tự thân họ (thần) còn không cứu được, làm sao có thể cứu người, cho nên sau khi A Thẩm tin Phật, sức khỏe liền dần dần hồi phục mạnh khỏe.

Có một hôm vị Lâm Thái Thái là bạn tri kỷ tốt đến muốn A Thẩm dẫn bà ta cùng đi vái cúng ngôi miếu chung của dân kia. A Thẩm liền cùng đi bái với bà ta, bà Lâm lễ xong nói: “Hôm nay chúng ta quên mua tiền vãng sanh và giấy vàng mã rồi!”. A Thẩm nói “Đốt giấy vàng và tiền vãng sanh làm cái gì? Bạn không nên mê tín, nếu như cần đốt tiền vãng sanh, chi bằng niệm vài biến chú vãng sanh bố thí cho họ còn hay hơn”. A Thẩm gần như nói chơi thôi, rồi cũng không niệm chú vãng sanh, thắp hương lễ xong, ai về nhà nấy.

Đến tối vào lúc nửa đêm nửa hôm, A Thẩm như tỉnh mà không phải tỉnh, như mộng mà không phải mộng, bỗng nhiên nhìn thấy mấy con quỷ đến nói với bà ta “Đại vương của chúng tôi muốn mời bà đi nói chuyện”. A Thẩm hỏi nó: “Đại vương các người là ai? Ta không đi”. Mấy con quỷ đó cũng chả nói lý lẽ gì, không đi thì cưỡng bức lôi đi, lôi đến ngôi miếu chung của dân kia, thấy trước miếu đứng rất nhiều người nam, nữ, lớn, bé, chính giữa ngồi một vị quỷ, thân thể to lớn, mặt mày hung ác, mấy con quỷ nhỏ kêu A Thẩm quỳ xuống, A Thẩm trong lòng linh cơ sáng suốt, liền to tiếng nói rằng: “Ta là đệ tử Tam Bảo, Phật pháp vô biên, các ngươi quỷ đạo chúng sanh, còn phải cần đến Phật pháp cứu giúp cho các ngươi nữa là!”. Lời nói chưa dứt, ông đại vương kia nổi giận xung thiên lớn tiếng quát rằng: “Lôi nó ra đánh chết tươi nó đi, nó dám nói lớn lối, lại không cho chúng ta tiền vàng”. Đang lúc cả một bầy quỷ ra tay sắp đánh bà ta, A Thẩm nói: “Không sợ nhà ngươi đâu! Ta thỉnh Bồ Tát lại!”. Tức thời chắp tay xưng niệm “Nam mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát ”. Niệm hết thảy chưa đến mười tiếng, trên hư không hiện ra một hình tượng Bạch y Quán Thế Âm Bồ Tát, tay phải cầm bình cam lồ, tay trái cầm nhành dương liễu, đạp mây mà xuống. A Thẩm xem thấy rất rõ ràng, bầy quỷ lớn nhỏ kia thấy được Quán Thế Âm Bồ Tát đều quỳ xuống hết, đầu mặt dập xuống đất. Khi đó A Thẩm vẫn cứ lớn tiếng niệm “Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát”. Lúc đó chồng của A Thẩm là cư sĩ Trần Thiên Trụ nghe tiếng vợ mình niệm Quán Thế Âm Bồ Tát quá lâu, nghĩ chắc là nằm thấy quái mộng gì rồi, liền kêu A Thẩm thức dậy. A Thẩm thức dậy liền đem cảnh giới trong mộng tranh biện cùng quỷ kể cho cả nhà nghe. Nếu như không biết niệm “Cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát” có lẽ tiêu mạng rồi, âm dương vĩnh viễn cách biệt. Câu chuyện trên đây cũng là tự miệng A Thẩm nói với tôi. Tục ngữ có câu: “Bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất”. Thánh nhơn cũng có nói “Kính quỷ thần mà xa họ ra”. Xin khuyên chư vị là đệ tử của Phật, ngàn vạn lần chớ nên tự khoe mình hay giỏi, nói giỡn chơi với quỷ thần. Nếu lâm vào tình trạng giống như A Thẩm, trong mộng biết niệm Thánh hiệu Bồ Tát thì không sao, còn như công phu chưa đến, thì tự rước lấy phiền toái vào thân rồi.

Nguồn:http://www.quangduc.com/tinhdo/87niemphatcamung.html
Được cảm ơn bởi: tuankietxm
Đầu trang

phuongmtt47
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 346
Tham gia: 12:41, 05/05/11

TL: Một số câu chuyện về oan gia trái chủ

Gửi bài gửi bởi phuongmtt47 »

Chú Tây Đô à, chú có biết ở Việt Nam ta có thiện tri thức nào không, cho cháu biết tên với, để khi nào có duyên xin được gặp mặt học pháp,
Đời người vốn như cơn gió thổi
Thoáng chốc là đã tan
Cõi ta bà này ưu sầu vô kiếp
Được gặp Như Lai ánh rạng hồng
Biển sinh tử vẫn đang hiện hữu
Biết làm sao mới liễu tử sinh
Chỉ còn biết gắng sức dụng công
Gặp thiện trí thức đời này vẫn mong
Đầu trang

Danner
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 109
Tham gia: 18:15, 25/06/12

TL: Một số câu chuyện về oan gia trái chủ

Gửi bài gửi bởi Danner »

phuongmtt47 đã viết:Chú Tây Đô à, chú có biết ở Việt Nam ta có thiện tri thức nào không, cho cháu biết tên với, để khi nào có duyên xin được gặp mặt học pháp,
Đời người vốn như cơn gió thổi
Thoáng chốc là đã tan
Cõi ta bà này ưu sầu vô kiếp
Được gặp Như Lai ánh rạng hồng
Biển sinh tử vẫn đang hiện hữu
Biết làm sao mới liễu tử sinh
Chỉ còn biết gắng sức dụng công
Gặp thiện trí thức đời này vẫn mong
Siêu sanh liễu tử là mục đích của người tu hành. Thời nay là thời kì Bạch Dương phổ độ. Đạo giáng khắp nơi. Không luận là người thượng trí hay kẻ hạ căn. Đều có thể chứng Đạo.
Pháp môn để tu không có chi khác hơn là niệm 6 tiếng Nam Mô A Di Đà Phật. Đó là pháp tối thắng. Được thân cận Phật A DI Đà. Lo gì không được khai ngộ.
Mấy cái ngũ hành, bát quái, tử vi, Trung Dung, Nho, Lão. Đều có thể rõ được khi mình niệm lục tự Di Đà hằng đêm.
Chưa kể tác dụng luân xa tự mở nữa chứ.
Pháp này đã là tối thắng. Ngoài ra nên thỉnh thêm các kinh Đại Thừa để học.
Vô minh tản bớt đi dần. Tâm bạn sẽ tự chuyển đến người thầy để họ chỉ điểm. Không nên hấp tấp.
XA TẬN CHÂN TRỜI.
GẦN NGAY TRƯỚC MẮT.
Nghĩa bóng có và đen cũng có. Hàm ý cũng có.
Chúc bạn sớm đoạn diệt vô minh, đắc đạo Vô Thượng Bồ Đề.
Được cảm ơn bởi: Tây Đô đạo sĩ
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
moonlight62
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 108
Tham gia: 19:24, 28/04/12

TL: Một số câu chuyện về oan gia trái chủ

Gửi bài gửi bởi moonlight62 »

Khi niệm Phật xong hoặc đi chùa thắp hương mọi người nên hồi hướng công đức cho các vị oan gia trái chủ từ vô lượng kiếp đến nay.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Một số câu chuyện về oan gia trái chủ

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »

Con cái có bốn nhân: Một là báo ân, hai là báo oán, ba là trả nợ, bốn là đòi nợ.
*********************
1) Báo ân là cha mẹ sanh con, đời trước có ân với nó, nên để báo ân bèn sanh vào làm con hòng hầu hạ, phụng dưỡng, sống thờ chết chôn, khiến cho lúc sống thì cha mẹ vui vẻ, lúc mất bèn thờ cúng. Thậm chí tận trung với vua, yêu dân, danh lưu sử xanh, khiến thiên hạ hậu thế do kính người ấy bèn kính trọng cả cha mẹ. Như ông Tăng Lỗ Công, Trần Trung Tú, Vương Quy Linh, Sử Đại Thành (Ba vị Tăng, Trần, Vương đều là danh thần đời Tống, ông Sử là trạng nguyên đầu đời Thanh. Bốn vị đều tin Phật, chỉ mình ông Trung Tú ngộ nhập rất sâu, bởi đời trước từng là cao tăng, nên dẫu có địa vị cao vẫn không quên nhân gốc). Con hiếu cháu hiền đời này đều thuộc về loại này.

2) Báo oán là cha mẹ đời trước phụ ơn. Để báo oán bèn sanh vào làm con. Nhỏ thì ngỗ nghịch mẹ cha, lớn lên gây họa vạ lây cha mẹ. Sống chẳng phụng dưỡng ngọt bùi, chết đi mang nhục nơi chín suối. Lại quá mức đến nỗi con giữ ngôi vị oai quyền, mưu mô trái lẽ, diệt môn sát tộc, quật mồ cuốc mả, khiến thiên hạ hậu thế thóa mạ kẻ ấy lẫn cha mẹ. Như Vương Mãng, Tào Tháo, Đổng Trác, Tần Cối v.v… là loại này.

3) Trả nợ là con đời trước đoạt của cha mẹ, nay để đền nợ bèn sanh vào làm con. Nếu mắc nợ nhiều thì có thể sống với cha mẹ suốt đời. Nếu nợ ít, chẳng tránh khỏi giữa đường chết mất. Như học sắp thành danh bèn táng mạng, buôn bán vừa có lời bèn mất thân.

4) Đòi nợ là cha mẹ đời trước mắc nợ tiền tài của con; để đòi nợ ấy nó bèn sanh vào làm con. Nợ nhỏ uổng phí lễ vật[12], tiền sính lễ mời thầy, cưới vợ cùng răn dạy đủ cách, mong con thành tài, nhưng đại hạn đã tới, chợt chết mất đi. Nợ nhiều thì chẳng phải chỉ vậy, ắt phải táng gia bại sản, nhà tan người chết mới thôi.

(Ấn Quang Đại Sư)
Theo FB Phật Pháp Vi Diệu - Con Đường Giác Ngộ Nhiệm Màu An Vui Và Giải Thoát
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Phong tục - Tín ngưỡng”