TẠP CHÍ “TRI TÂN”

Chia sẻ các loại tài liệu, sách, phần mềm
Trả lời bài viết
Hình đại diện của thành viên
Vạn Kiếm Nhất
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1772
Tham gia: 09:16, 28/09/10
Đến từ: Trúc Phong Đạo quán !!!
Liên hệ:

TẠP CHÍ “TRI TÂN”

Gửi bài gửi bởi Vạn Kiếm Nhất »

LỜI GIỚI THIỆU SƯU TẬP TẠP CHÍ “TRI TÂN”
do Viện Viễn Đông bác cổ Pháp thực hiện, 2009
Lại Nguyên Ân
Trong số những cơ quan báo chí có vai trò quan trọng đối với sinh hoạt văn hoá và học thuật Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XX, bên cạnh những tờ nhưĐông Dương tạp chí(1913-19),Nam phong(1917-34),Thanh nghị(1941-45), người ta không thể không kể tới tạp chíTri tân(1941-46).
Tri tânxuất bản số đầu tiên vào ngày 3/6/1941 và ngay từ đầu đã tự xác định là tạp chí văn hoá ra hằng tuần (revue culturelle hebdomadaire); với 24 trang khổ 20x25 cm mỗi số, sau 5 năm liên tục,Tri tânđã ra được 214 số với trên 5.000 trang (gồm 212 số “Tri tânloại cũ” từ số 1 đến số 212, ngày 22/11/1945, và 2 số“Tri tânloại mới”, đánh số lại từ số 1, ngày 6/6/1946, đến số 2, ngày 16/6/1946, trên thực tế là số cuối cùng).
Toà soạn lúc đầu đặt tại số nhà 349 Phố Huế, Hà Nội, từ 8/8/1941 chuyển tới số nhà 195 phố Hàng Bông, từTri tânsố 100, ngày 24/6/1943 chuyển tới số nhà 95-97 phố Chanceaulme (nay là Tô Hiến Thành).
Chủ nhiệm (directeur)Tri tânlà Nguyễn Tường Phượng; quản lý (administrateur gérant) là Dương Tụ Quán; từ đầu tháng 7/1943, Nguyễn Tường Phượng đảm nhiệm cả hai vai trò nói trên (directeur gérant).
Cái tênTri tânđặt cho tạp chí này là rút từ mệnh đề của thánh hiền Nho giáo “ôn cố tri tân” (溫 故 知 新 : ôn cũ biết mới).

(1)
Lời phi lộ đăng ở đầu số 1 nói rõ tôn chỉ của tạp chí này:
“Ôn cũ! Biết mới!” Nhằm cái đích ấy, TRI TÂN đi riêng con đường văn hoá. Với cặp kính khảo cứu, TRI TÂN lần dở từng trang lịch sử; bằng con mắt nhận chân và lạc quan, TRI TÂN ngó rộng chân trời tri thức. Ghé vai gánh gạch xe vôi, TRI TÂN đứng vào hàng ngũ công binh, xây dựng lâu đài văn hoá Nam Việt.”
Tuy cái tên “tri tân” hướng về sự “biết mới” nhưng hoạt động khảo cứu trên tờ tuần san này lại nghiêng nhiều hơn về sự “ôn cố” tức là ôn lại cái cũ. Xu hướng tìm về di sản dân tộc bộc lộ từ đầu và được duy trì suốt thời gian hoạt động của tạp chí này.
Ở thời hoạt động củaTri tân, báo chí chữ Việt nói chung chưa được chuyên môn hoá sâu ở mức như sau này. Bản thân định hướng khảo sát văn hoá ởTri tânđã bao hàm một sự tự giới hạn về thể tài báo chí theo hướng chuyên môn hoá ở mức hẹp hơn, xác định hơn so với mặt bằng chung của báo chí đương thời. Tuy thế,Tri tânvẫn chưa ra khỏi khuôn khổ chung của loại tuần báo tổng hợp đương thời, mặc dù phương diện văn hoá ở đây luôn luôn được nhấn mạnh.
Trong thể tài tuần san,Tri tânhầu như dành toàn bộ tờ tạp chí cho các nội dung văn hoá với hai loại chính: 1/ đăng tải bài vở nghiên cứu, biên khảo, giới thiệu về các vấn đề văn hoá, và 2/ đăng tải các sáng tác văn thơ.
Phần đăng tải về khảo cứu văn hoá là phần hàm chứa nhiều giá trị hơn cả.Tritâncó bài vở về hầu hết các lĩnh vực sử học, dân tộc học, triết học, ngôn ngữ học, nghiên cứu và phê bình văn học, v.v… Bên cạnh các nội dung thuộc các khoa học xã hội và nhân văn nói trên, tạp chí còn đăng một số bài về khoa học tự nhiên, công nghệ.
Chính ở mảng khảo cứu văn hoá,Tri tânđã trở thành nơi quy tụ nhiều học giả tài năng và tâm huyết với di sản văn hoá Việt Nam.
Tiêu biểu về mặt này là Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố (1889-1947), khi đó làm việc tại Học viện Viễn Đông bác cổ Pháp (đặt tại Hà Nội) đồng thời là nhà hoạt động xã hội trong các cương vị Hội trưởng hội Trí tri, Hội trưởng Hội Truyền bá quốc ngữ, đã có mặt thường xuyên trên hầu hết các sốTri tânvới rất nhiều loại bài viết, nghiên cứu về lịch sử trung đại Việt Nam (mà tiêu biểu là những chuyên khảoĐại Nam dật sử, Những ông nghè triều Lê,đượcTri tânđăng dài kỳ, và nhiều bài khảo cứu khác), về văn học trung đại Việt Nam (đặc biệt là chuyên khảoTài liệu để đính chính những bài văn cổ), và về nhiều vấn đề văn hoá khác.
Bên cạnh Nguyễn Văn Tố là một loạt nhà nghiên cứu thuộc thế hệ thứ hai (tính từ đầu thế kỷ XX), xuất thân tân học (từ nền học Pháp-Việt), quan tâm đến lịch sử văn hoá quá khứ của nước nhà. Họ gặp nhau trên các trangTri tân, tạo thành hạt nhân và cơ sở cho xu hướng tìm về truyền thống với tinh thần phục hưng văn hoá dân tộc trong sự giao tiếp với văn hoá và học thuật thế giới, − một xu hướng đang mạnh dần lên trong đời sống văn hoá ở Việt Nam những năm 1940. Đó là những cây bút như Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm (1902-77), Tiên Đàm Nguyễn Tường Phượng (1899-1974), Chu Thiên Hoàng Minh Giám (1913-91), Trúc Khê Ngô Văn Triện (1901-47), Nhật Nham Trịnh Như Tấu (1915-47?), Hoàng Thiếu Sơn (1920-2005), Lê Thọ Xuân (1904-78), Đào Duy Anh (1904-88), Trần Huy Bá (1901-87), Đào Trọng Đủ, v.v… Với các loại bài vở nghiên cứu, biên khảo của các cây bút này,Tri tânđã phác họa lại những trang sử giành độc lập và xây dựng quốc gia tự chủ của người Việt từ thời cổ và trung đại đến cận đại, kiểm định những đóng góp của các nhân vật lịch sử.Tri tâncó đóng góp đáng kể trong việc kiểm kê các nguồn thư tịch Hán Nôm liên quan đến sử học, văn học. Các vấn đề về soạn thảo văn học sử Việt Nam được đưa ra bàn luận nghiêm túc trên tạp chí này. Các khía cạnh tư liệu liên quan đến các tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam thời trung đại đã được đề cập một cách cẩn trọng, khách quan.Tri tân, với việc đăng tải mảng khảo cứu văn hoá, chẳng những đã là nơi trưởng thành của một loạt nhà nghiên cứu, mà còn là nơi bồi dưỡng những học giả lớp sau trong số những độc giả của mình.
Bên cạnh mảng khảo cứu văn hoá quá khứ, trênTri tâncũng có một số trang đáng kể dành cho phê bình văn học, − tức là điểm bình, nhận xét, thảo luận về các sáng tác văn học, các cuốn sách biên khảo mới xuất hiện. Về mặt này,Tri tânđã là nơi trưởng thành của một số tác gia phê bình như Lê Thanh (1913-44), Kiều Thanh Quế (1914-47?), là nơi xuất hiện những bài viết sớm của những tên tuổi mà sau đó sẽ rất nổi tiếng như Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, v.v…
TrênTri tânđã có những bài phê bình nhiều tác phẩm mới ra đời, từ thơ ca (nhưTiếng thucủa Lưu Trọng Lư,Hương cố nhâncủa Nguyễn Bính,Thi văn tậpcủa Phan Mạnh Danh); kịch bản và sân khấu kịch (nhưĐồng bệnhcủa Khái Hưng,Vân Muộicủa Vũ Hoàng Chương,Kinh KhaÔng ký Cópcủa Vy Huyền Đắc,Quán biên thuỳcủa Thao Thao,Thế Chiến Quốccủa Trần Tử Anh,Bóng giai nhâncủa Nguyễn Bính và Yến Lan,Ghencủa Đoàn Phú Tứ), truyện và ký (nhưThiếu quê hương,Vang bóng một thời, Tuỳ bútcủa Nguyễn Tuân,Nắng thucủa Nhất Linh,Mực mài nước mắtcủa Lan Khai,Kinh cầu tựcủa Huy Cận,Quê ngườicủa Tô Hoài,Chân trời cũcủa Hồ Dzếnh,Chồng concủa Trần Tiêu,Ngõ hẻmcủa Nguyễn Đình Lạp,Nhà nhocủa Chu Thiên,Sợ sốngcủa Lê Văn Trương,Bảy Hựucủa Nguyên Hồng,…) đến nghiên cứu biên khảo (nhưViệt Nam văn học: I.Văn học đời Lýcủa Ngô Tất Tố,Thi nhân Việt Nam 1932-1941của Hoài Thanh và Hoài Chân,Thi sĩ Trung Nam,Nhà văn hiện đạicủa Vũ Ngọc Phan,Việt Nam cổ văn học sửcủa Nguyễn Đổng Chi,Việt Nam văn học sử yếucủa Dương Quảng Hàm,Hàn Mạc Tửcủa Trần Thanh Mại,Triết học Nietzschecủa Nguyễn Đình Thi,Việt Nam thi ca luậncủa Lương Đức Thiệp, v.v…).
TrênTritâncũng có không ít những thảo luận về thơ, ví dụ về luật thơ, về các thể thơ, nhất là những vấn đề được đặt ra từ những cách tân của phong trào thơ mới; trênTri tânthường có những tranh luận về nhiều nội dung văn học sử Việt Nam, phác thảo diện mạo nhiều mảng văn học, trong đó, nói riêng, mảng văn học của các tác gia nữ người Việt đã là nội dung 2 số chuyên đề cuảTri tân;trên tạp chí cũng có những thảo luận về ranh giới giữa vay mượn, phóng tác và “đạo văn” (nhân so sánh bàiTiếng thucủa Lưu Trọng Lư với một bài thơ Nhật Bản, so sánh kịchGhencủa Đoàn Phú Tứ vớiJalousiecủa S. Guitry, v.v…), những ý kiến phê phán không khoan nhượng trước những sai phạm về dịch thuật, về những khuynh hướng được xem là có hại cho công chúng.
Phần đăng sáng tác thơ văn thường không chiếm nhiều trang tạp chíTri tân. Nét đặc sắc của mảng này ở đây có lẽ là nằm trong sự tương ứng với mảng khảo cứu “ôn cũ”: được chọn đăngTri tânchủ yếu là các sáng tác về đề tài lịch sử. Trọn vẹn các cuốn tiểu thuyết lịch sử của Chu Thiên (Bà quận Mỹ, Thoát cung vua Mạc, Trúc mai xum họp), các tiểu thuyết và kịch lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng (Đêm hội Long Trì,An Tư, Vũ Như Tô), một loạt kịch thơ hoặc bài thơ dài hoặc ngắn về đề tài lịch sử nhưTrần Can, Lý Chiêu Hoàng, Phạm Tháicủa Phan Khắc Khoan,Hát Giang trường lệ, Sóng Bạch Đằng, Tạo hoá và Nhân loạicủa Minh Tuyền,Ngọc Hâncủa Tân Phương,Lê Lai đổi áocủa Lưu Quang Thuận, v.v… đã đượcTri tânđăng tải. Trên tạp chí này cũng thường đăng những thiên du ký, nhất là những du khảo điền dã, kể về những cuộc viếng thăm các di tích lịch sử (Tức Mạc, Kiếp Bạc, chùa Bà Đanh, miếu Hát, Hoa Lư, tháp Bình Sơn, chùa Bối Khê ở miền Bắc, di tích Indrapura Đồng Dương, đền thờ Thiên Ya Na ở miền Trung, gò Ốc Eo, mộ Cử Trị ở miền Nam). Có thể nóiTri tânđã kích thích và giành “đất’” cho sự phát triển mảng sáng tác về đề tài lịch sử ở văn học Việt Nam những năm 1940, một khuynh hướng không đặc trưng ở sự nhạy bén đáp ứng văn hoá đô thị hiện đại hoá đương thời, nhưng đặc trưng ở tinh thần “tìm nguồn”, “về nguồn” trong đề tài văn học.
Đặt trong đời sống văn hoá đương thời,Tri tânđã tồn tại được trên thị trường báo chí từ 1941 đến 1946 tức là đã có được một lớp độc giả nhất định,
(2)


đã quy tụ được một loạt tác giả ở khắp ba miền đất nước.
Tuy vậy, ngay đương thời, trước một lớp thanh niên tân học thường hướng về sinh hoạt đô thị hiện đại, hướng về văn hoá văn chương Pháp, tạp chíTri tânkhông khỏi bị một số người công kích là thủ cựu, gàn dở. Nhiều nhà văn nhà thơ trẻ đương thời giữ khoảng cách “kính nhi viễn chi” với tạp chí này, thậm chí không ít người thường chế diễuTri tânlà tờ báo “của các vị tờ A tờ B”,
(3)

− đây là theo hồi ức của Tô Hoài, khi ấy là một nhà văn trẻ. Những người cộng sản hoạt động trong bí mật, vào năm 1943 đã quyết định mở rộng phạm vi tranh đấu của mình sang lĩnh vực văn hoá bằng “Đề cương về văn hoá Việt Nam”. Một trong những lãnh tụ của đảng, ông Trường Chinh, khi giải thích ba khẩu hiệu “dân tộc hoá, khoa học hoá, đại chúng hoá” như phương châm vận động văn hoá mới do đảng đề xuất, tuy xác nhận nhóm
Tri tân “thiên trọng về khẩu hiệu dân tộc hoá”, tức là có chỗ gần gũi với ba nguyên tắc đảng vừa đề ra, nhưng lại phê phán Tri tân là “phong kiến”, “nệ cổ”.
(4)

Những đại diện của nhóm Văn hoá Cứu quốc (thuộc Mặt trận Việt Minh) là Nguyễn Hữu Đang và Nguyễn Đình Thi, khi vận dụng đề cương nói trên của đảng để phân tích thực trạng văn hoá Việt Nam đương thời, đã xem nhóm
Tri tân là tiêu biểu cho xu hướng “tái sinh văn hoá phong kiến” với tính chất “bảo thủ, thụt lùi” trong văn hoá Việt Nam những năm 1940, thậm chí mỉa mai rằng Tri tân “có công đầu” trong việc quảng cáo cho khẩu hiệu “Việt Nam hoá” trong văn hoá, “đi tìm những gì là ‘Việt Nam’ là ‘Á Đông’ trong tư tưởng, trong văn chương, trong nghệ thuật, để rồi nhắm mắt phụng thờ, dù những giá trị gọi là Việt Nam ấy cản trở cuộc tiến hoá của dân tộc”, tựu

trung là rơi vào âm mưu của phát-xít Nhật với thuyết đại Đông Á của chúng
.(5) “Những tác phẩm và những bài nghiên cứu các chiến công oanh liệt của những anh hùng cứu quốc thời xưa không phải để kích thích và nung nấu tinh thần quật khởi mà, trái lại, để hòng chia rẽ hai dân tộc Hoa-Việt khỏi thành một khối duy nhất chống phát-xít. Đại biểu cho phong trào này là nhóm
Tri tân”.
(6)
Mặc dầu về khách quan, tạp chí Tri tân đã góp phần không nhỏ vào việc gây dựng lại tinh thần phục hưng dân tộc, chuẩn bị về tinh thần, tư tưởng cho thế hệ thanh niên sẽ tham gia cách mạng và kháng chiến cứu nước,
(7)


nhưng sau thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945, chính tạp chí Tri tân lại tỏ ra không thích hợp trong đời sống văn hoá những năm đầu dưới chính thể mới. Cuối tháng 11/1945, tạp chí ngừng lại sau số 212. Nửa năm sau, vào giữa tháng 6/1946, Tri tân loại mới ra mắt số 1 bằng chuyên về Nam Bộ đất Việt Nam do Long Điền biên tập; mười ngày sau ra tiếp số 2, rồi sau đó ngừng hẳn. Hầu hết những người chủ trương Tri tân hoặc từng cộng tác với tuần san này đều hăng hái tham gia các hoạt động kháng chiến kiến quốc.
Trong khi đó, những gì mà Tri tân với các thành viên và cộng tác viên của nó đã làm, thì hoặc là bị lãng quên, hoặc chỉ được nhắc tới trong chiều hướng phê phán.
Cố nhiên phải nhận rằng, trong khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam, đề tài về lịch sử hoạt động của những tờ báo, tạp chí từng có vai trò trong từng thời gian lịch sử của xã hội và văn hoá Việt Nam, cho đến tận gần đây, vẫn chưa trở thành đối tượng nghiên cứu chuyên biệt của các công trình nghiên cứu sử học. Các tác giả, tác phẩm văn học thường chỉ được giới nghiên cứu văn học tiếp cận ở dạng tách rời môi trường báo chí và sách in vốn là nơi chúng xuất hiện và đến với công chúng. Trong tình trạng các thiết chế đặc trưng cho hoạt động văn học hiện đại (ít nhất đối với Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đầu XX) là báo chí và xuất bản còn chưa lọt vào trường nhìn của giới nghiên cứu, thì không chỉ Tri tân mà một loạt tờ báo, tạp chí, nhà xuất bản từng góp sức đáng kể vào đời sống văn hoá, văn học những thời gian khác nhau, đôi khi chỉ còn xuất hiện như những ký tự mờ nghĩa, đến nỗi cái tên cũng bị nhớ sai viết sai, trong phần ghi chú của một số bài vở nghiên cứu, thông tin.
Bước vào những năm 1990, do nhiều thúc đẩy khác nhau: chuyển biến của đời sống kinh tế, sự xuất hiện và phát triển của kinh tế du lịch, sự phát triển đột biến của báo chí và các phương tiện truyền thông, những thay đổi ít nhiều về quan điểm đánh giá đối với một số triều đại (ví dụ nhà Mạc, nhà Hồ, nhà Nguyễn) và một số giá trị của quá khứ dân tộc (ví dụ việc thờ phụng gắn với tín ngưỡng dân gian hoặc tôn giáo…) từ phía lãnh đạo Đảng và cơ quan quản lý của Nhà nước, sự phát triển của các cơ sở nghiên cứu, bảo tồn văn hoá và các ngành học xã hội nhân văn ở bậc đại học, v.v… − các thực thể lịch sử văn hoá của quá khứ dần dần thoát khỏi sự kỳ thị, có thể được tiếp cận tìm hiểu khai thác dễ dàng hơn. Tuy vậy, cũng từ đây, người ta mới nhận ra rõ ràng hơn về tình trạng hư nát, mất mát trầm trọng các nguồn tư liệu tại các trung tâm lưu trữ lớn hoặc nhỏ. Công việc sưu tập, bảo tồn được đặt ra với những đối tượng tư liệu cụ thể.
Với riêng tạp chí Tri tân, đã thấy xuất hiện một cuốn biên khảo kê biên phân tích mục lục tạp chí này và vài ba sưu tập khai thác vốn bài vở đã đăng trên Tri tân, đó là:
Mục lục phân tích tạp chí TRI TÂN 1941-45, Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên biên soạn, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam xb., Hà Nội, 1998.
− Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố: Đại Nam dật sử. Sử ta so với sử Tàu /Hà Văn Tấn giới thiệu/ Hội Khoa học lịch sử Việt Nam xb., Hà Nội, 1997; 523 trang 20x14cm.
Tạp chí “Tri tân” 1941-45: Phê bình văn học. Sưu tập tư liệu /Trịnh Bá Đĩnh và Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm và biên soạn/ Hà Nội: Nxb. Hội Nhà Văn, 1999; 619 trang 20x14cm.
Tạp chí “Tri tân” 1941-45: Truyện và ký. Sưu tập tư liệu/ Lại Nguyên Ân và Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm và biên soạn/ Hà Nội: Nxb. Hội Nhà Văn, 2000; 884 trang 20x14cm.
Tạp chí Tri tân 1941-46: Các bài viết về lịch sử và văn hóa Việt Nam /Nguyễn Quang Ân, Phạm Đình Nhân, Phạm Hồng Toàn sưu tầm và tuyển chọn/ Hà Nội: Trung tâm thông tin tư liệu lịch sử & văn hóa VN xb., 2000; 591 trang 27x19cm.
Tuy vậy, các sưu tập trên đây cũng chỉ mới khai thác một phần nhỏ so với dung lượng bài vở các loại mà Tri tân đã đăng tải trong suốt hơn 5 năm hoạt động của nó. Ấy là chưa kể đến những sai lệch có thể phát sinh trong quá trình thực hiện các sưu tập.
Trong điều kiện kỹ thuật hiện nay, thiết nghĩ sẽ là tốt hơn nếu chúng ta có thể đưa tới cho mỗi ai cần tìm tòi một sưu tập đầy đủ tạp chí Tri tân dưới dạng ảnh chụp từng trang của tất cả các số tạp chí đã in. Đĩa CD Tri tân này do Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp thực hiện, chính là theo hướng đó.
Đây sẽ là cơ sở cho các nhà nghiên cứu thuộc các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn khác nhau tiếp cận kỹ lưỡng nhất ở mức có thể đối với những gì từng đăng tải trên tạp chí Tri tân.
Trân trọng giới thiệu cùng các bạn.
Hà Nội, ngày 20/9/2008
Lại Nguyên Ân
VỀ MỘT SỐ TÁC GIẢ CHÍNH ĐÃ ĐĂNG BÀI TRÊN TRI TÂN
● Nguyễn Tường Phượng (1899 - 1974), biệt hiệu Mai Lâm, bút danh Tiên Đàm; quê xã Vân Tương (nay thuộc thị trấn Lim) huyện Tiên Sơn tỉnh Bắc Ninh; làm báo, dạy học, khảo cứu văn hóa. Những năm 1941-46 làm chủ nhiệm tạp chí Tri tân; tác giả nhiều bài đăng Tri tân.
● Dương Tụ Quán (1901 - 69) tự Khái Sinh; là em ruột Dương Bá Trạc và Dương Quảng Hàm; từng là nhà giáo, từ 1929 thôi dạy học, mở nhà in Đông Tây, từng đứng chủ trương nhiều tờ báo: Văn học tạp chí (1932-33), Đông Tây báo (1934-35), Ngày mai (1939), là người sáng lập kiêm quản lý (1941-45) tạp chí Tri tân; tác giả một số bài đăng Tri tân.
● Phạm Mạnh Phan (1914 – ?), còn có bút hiệu Tri Lễ, Mạnh Phan; quê làng Bạch Mai huyện Hoàn Long tỉnh Hà Đông, nay là phường Bạch Mai quận Hai Bà Trưng, Hà Nội; theo chính lời ông, ông là thư ký tòa soạn Tri tân từ số đầu đến số cuối (chức danh này không in trên manchette tờ báo). Sau 1954 làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam cho đến lúc nghỉ hưu.
● Nguyễn Văn Tố (1889 – 1947), hiệu Ứng Hòe, sinh ở Hà Nội; học chữ Nho, sau vào học trường Thông ngôn, tốt nghiệp, vào làm việc tại Học viện Viễn Đông Bác Cổ (École Franҫaise d’ Extrême Orient); là nhà hoạt động xã hội: Hội trưởng hội Trí tri, Hội trưởng hội Truyền bá chữ Quốc ngữ; là học giả có uy tín, tác giả nhiều chuyên khảo về sử học, văn hóa học đăng trên các chuyên san chữ Việt hoặc chữ Pháp (tập san của hội Trí tri, của học viện EFEO, báo Đông thanh, các tạp chí Tri tân, Thanh nghị). Sau cách mạng tháng 8/1945, là Bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời; đại biểu Quốc hội; quyền Chủ tịch Quốc hội khóa I, Quốc vụ khanh trong Chính phủ liên hiệp quốc dân. Bị quân Pháp bắt giết tại Bắc Cạn ngày 7/10/1947 trong một trận nhảy dù tập kích vào chiến khu.
● Hoa Bằng ( 1902 – 77), họ tên thật Hoàng Thúc Trâm, quê ở thôn Yên Quyết xã Yên Hòa, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông (nay thuộc quận Cầu Giấy, Hà Nội); bước vào làng báo lúc 22 tuổi, cộng tác với các tờ Thực nghiệp dân báo, Tao đàn, Nước Nam, Tri tân, Thanh nghị; từ sau 1954 làm việc ở Viện Sử học, sau đó chuyển sang ban Hán Nôm thuộc UBKHXHVN. Đã xuất bản các sách biên khảo: Quang Trung (1944), Hồ Xuân Hương (1950), Văn chương quốc văn đời Tây Sơn (1952), Lý Văn Phức (1953), Khảo luận về truyện Thạch Sanh (1957), v.v…; ông cũng viết tiểu thuyết lịch sử : Dương hậu (1949); tham gia dịch và hiệu đính bản dịch các bộ sách Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục
● Lê Thanh (1913 - 44) họ tên thật Nguyễn Văn Thanh, còn có bút danh Khiết Phủ, quê làng Cam Đà huyện Tùng Thiện tỉnh Sơn Tây; thuở nhỏ theo chú ruột sang sinh sống và học hành ở Lào; từ giữa những năm 1930 sống ở Hà Nội, vừa làm công chức vừa viết báo viết văn, từng tham gia biên tập hoặc cộng tác với các báo Tin văn, Bắc Hà, Phụ nữ, Tri tân; đã xuất bản hai tiểu thuyết Li dị, Những nấm mộ của thanh niên (1938), các sách nghiên cứu và phê bình văn học: Thi sĩ Tản Đà (1939), Văn nhân thi sĩ hiện đại. Tú Mỡ (1942), Cuộc phỏng vấn các nhà văn (1943), Trương Vĩnh Ký (1943), Cuốn sổ văn học (1944).
● Kiều Thanh Quế (1914 – 47) còn có các bút hiệu Tô Kiều Phương, Mộc Khuê, Nguyễn Văn Hai; quê huyện Đất Đỏ tỉnh Bà Rịa. 1940 bị chính quyền thực dân cưỡng bức di trú, buộc sống tại Cần Thơ; 1942 mãn hạn, về sống ở Sài Gòn. 1945 tham gia kháng chiến, hy sinh khoảng cuối 1947. Kiều Thanh Quế tham gia Tri tân với tư cách cộng tác viên từ xa. Vào nghề văn với các tiểu thuyết Hai mươi tuổi (1940), Nam mô a di đà phật (1941), Đứa con của tội ác (1941) không có tiếng vang; sau chuyển sang làm phê bình khảo cứu; ngoài các bài đăng báo, đã xuất bản: Ba mươi năm văn học (1941), Phê bình văn học (19942), Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam (1943), Đàn bà và nhà văn (1943), Học thuyết Freud (1943), Thi hào Tagore (1943), Cuộc vận động cứu nước trong ‘Việt Nam vong quốc sử’ (1945), Vũ Trọng Phụng và chủ nghĩa tả thiệt xã hội (1945).
● Trần Huy Bá (1901 - 87) bút hiệu Biệt Lam, quê Vụ Bản, huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam. Tốt nghiệp trường Mỹ thuật Đông Dương (1924), khảo cứu văn hóa, mỹ thuật.
● Hoàng Thiếu Sơn (1920 – 2005) sinh ở Quảng Bình, học trường Quốc học Huế, trường Albert Sarraut Hà Nội, đại học luật Hà Nội. Từng là Thư ký tòa soạn báo France-Annam ở Huế (1939-40), chủ bút báo Tràng An ở Huế (1941-42). Sau 1945 làm việc ở bộ giáo dục (1946-49). Sau 1954 giảng dạy môn địa lý ở Đại học sư phạm Hà Nội cho đến khi nghỉ hưu. Đã xuất bản một số sách biên khảo địa lý: Địa lý đại cương tự nhiên (1965), Thế giới động vật (1980), một số tác phẩm dịch thuật: Những linh hồn chết (1985, dịch của N. Gogol), Truyện cổ Yơxta Becling (1974, dịch tiểu thuyết của Selma Lagerlof), v.v…
● Chu Thiên (1913 – 92) họ tên thật Hoàng Minh Giám, còn ký các bút danh Hoàng Minh, Minh Giám; quê xã Yên Thành huyện Ý Yên tỉnh Nam Định; từ 1938 vừa dạy học tư vừa viết văn tại Hà Nội; cộng tác với Tri tân chủ yếu bằng các tiểu thuyết lịch sử đăng nhiều kỳ. Sau 1945 làm việc ở Ủy ban hành chính huyện Ý Yên, làm biên tập báo Nam Định kháng chiến; từ 1949 dạy học tại các trường trung học phổ thông tỉnh Hà Nam, từ 1955 giảng dạy tại trường đại học tổng hợp Hà Nội cho đến khi nghỉ hưu. Đã xuất bản: Lê Thái Tổ (1941), Bà quận Mỹ (1942), Bút nghiên (1942), Nhà nho (1943), Tuyết Giang phu tử (1945), Chính trị Hồ Quý Ly (1945), Khí tiết : Tức là khí tiết của dân tộc Việt Nam qua các thời đại (1944), giá trị cách mạng Phan Bội Châu (1946), Chống quân Nguyên : Lịch sử kháng chiến đời Trần (1957), Bóng nước hồ Gươm (1970), v.v…
● Khuông Việt (? - ?) họ tên thật Nguyễn Khuông Việt, quê ở Sa Đéc tỉnh Cần Thơ, tham gia Tri tân với tư cách cộng tác viên từ tỉnh xa.
● Lê Văn Ngôn (1900 – 76) quê tỉnh Bến Tre, từng du học sang Pháp, bác sĩ y khoa, viết nhiều sách báo về y học và văn học.
● Liên Giang (1897 - 1979), họ tên thật Ngô Quý Tiếp, quê làng Dâu, Đông Anh, Hà Nội; viên chức, nghiên cứu Đông y, biên khảo văn học.
● Mãn Khánh Dương Kỵ (? - ?) quê ở Huế, viết khảo cứu văn hóa, địa lý lịch sử.
● Mộng Tuyết (1914 – 2007) họ tên thật Thái Thị Út, ký nhiều bút danh: Thái Nữ, Mộng Tuyết, Hà Tiên Cô, Thất Tiểu Muội, Bách Thảo Sương, Nàng Út; là vợ nhà thơ Đông Hồ; lafm thơ, viết truyện, biên khảo; đã xuất bản: Phấn hương rừng (1939), Đường vào Hà Tiên (1960), Nàng Ái Cơ trong chậu úp (1969), Truyện cổ Đông Tây (1969), Dưới mái trăng non (1969), Núi mộng gương hồ (1998).
● Ngân Giang (1916 – 2002), họ tên thật Đỗ Thị Quế, quê huyện Thường Tín tỉnh Hà Tây; làm thơ, viết báo từ những năm 1930; đã in: Giọt lệ xuân (1931), Tiếng vọng sông Ngân (1944), Thơ Ngân Giang (1994, 1996)
● Trịnh Như Tấu (1915 - 1947) hiệu Nhật Nham, quê làng Thương, tổng Thọ Xương, phủ Lạng Thương (nay thuộc tỉnh Bắc Giang); học trường Bưởi, đỗ tú tài, thi tuyển vào làm nhân viên tham tán toà sứ Bắc Giang, sau đó được điều động tới các toà sứ Hà Nam, Hưng Yên và Lào Cai (đầu những năm 1930)… 1941-1945, là tham tá tại ty kiểm duyệt báo chí Bắc Kỳ. Ông tham gia Tri tân với tư cách biên tập viên. Sau 1945 là đại biểu Quốc hội VNDCCH khoá 1, mất năm 1947 ở Việt Bắc. Đã xuất bản: Trịnh gia chính phả (1933), Phật giáo với thuyếtluân hồi (1935), Bắc Giang địa chí (1937), Hưng Yên địa chí (1937).
[hr][/hr]

(
1
)
Sách Luận ngữ có câu: “Ôn cố nhi tri tân,khả vi sư hĩ”; nghĩa là: Ôn lại những điều cũ mà biết được điều mới, có thể làm thầy được vậy. SáchTrung Dung có câu:Ôn cố nhi tri tân, đôn hậu dĩ sùng lễ”; nghĩa là:
Ôn lại việc đời xưa mà biết việc đời nay, đắp dày nền nhân mà sùng kính lễ.

(
2
)
Về số lượng in (tirage) từng số Tri tân, tôi (L.N. Â.) mới chỉ tìm được tài liệu của hai năm cuối: suốt năm 1945: mỗi số in 3000 bản (exemplaires); 2 số năm 1946: mỗi số in 1500 bản. Thông thường, các bản in nộp lưu chiểu (dépot légal) có đóng dấu nhà in với lời khai số lượng in bằng chữ viết tay của viên quản lý tờ báo (gérant), nhưng trong bộ sưu tập Tri tânhiện còn lưu tại Thư viện Quốc gia ở Hà Nội, thực tế chỉ có các số Tri tân
từ đầu năm 1945 là bản nộp lưu chiểu, còn lại các phần khác trong bộ sưu tập ở đây đều thuộc loại sách báo bổ sung sau này, thường là mua lại từ nguồn sách báo cũ ngoài thị trường, không phải bản nộp lưu chiểu nên không có dấu hiệu ký nhận về số lượng in mỗi số báo).

(
3
)
Tô Hoài: Những gương mặt, (tập chân dung văn học), in lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Hội Nhà Văn, 1995, tr. 290.

(
4
)
Tr. Ch.: Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hoá Việt Nam mới lúc này // Tiên phong, số 2, ngày 1/12/1945.

(
5
)
Nguyễn Đình Thi: Dưới ánh sáng cứu quốc, xét qua văn hoá Việt Nam trong sáu năm chiến tranh 1939-1945 // Tiên phong, số 1, ngày 10/11/1945, tr. 8, 9.

(
6
)
Nguyễn Hữu Đang và Nguyễn Đình Thi: Một nền văn hoá mới, Hội Văn hoá Cứu quốc Việt Nam (trong Mặt trận Việt Minh) xb., Hà Nội, 1945, tr. 12.

(
7
)
Xem: Đinh Xuân Lâm: Lời giới thiệu, trong sách Mục lục phân tích tạp chí TRI TÂN 1941-45, Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên biên soạn, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam xb., Hà Nội, 1998, tr.4.
Link:
( Từ nguồn của bác thichchoisach bên diễn đàn sách xưa )
[/color]
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Thư viện”