hysshu đã viết: ↑10:35, 10/06/21
kimhoai đã viết: ↑23:16, 09/06/21
Có 1 điểm tệ ngoài mấy cái mệnh cục khắc nhau, âm dương nghịch lý, thì có 1 điểm hơi dở là mệnh ôm hoá kỵ lại phi kị nhập thiên di.
Xét mệnh VCD Nhật Nguyệt Sửu Mùi xung chiếu, cung thiên di có chữ Ất Sửu, thiên di tự hóa: can Ất thì Thái âm hóa kỵ. Thiên di tự hóa kỵ thì cần cẩn thận trong hoạt động giao thông, nhưng Thiên di là Nhật Nguyệt Sửu Mùi, có thêm Kỵ vào thì có lẽ lại càng tốt ?. Vì có Hóa Kỵ đồng cung với Nhật Nguyệt Sửu Mùi, nó như vầng mây ngũ sắc làm tăng thêm độ sáng cho Nhật-Nguyệt.
Mong bạn có ý kiến về cung Thiên di có Nhật nguyệt Sửu Mùi tự hóa kỵ, trong trường hợp này cung Thiên di có thuận lợi, tốt nhiều không ? ( giả thiết ko phải tuổi Giáp)
Nhật nguyệt sửu mùi nhìn chung là kém. Nhật nguyệt tối trọng độ sáng. Sửu- mùi là trục giao của âm dương. Sửu: nguyệt chuyển từ sáng qua tối, mùi: Nhật qua vượng vào suy. nhìn chung là cả 2 đều kém.
Tứ hoá phi tinh, hoá kị chủ trương gây ra mọi vấn đề trục trặc.
Mấy cái ví von hoá kỵ như vầng mây ngũ sắc gì đó không phải hoàn toàn vớ vẩn, nhưng cần phải xem hoá kỵ đóng ở đâu, và bản chất của tượng hình trong phép hội sao. cách ví von này thường chỉ áp dụng cho hoá kị năm sinh không áp dụng phi tinh.
- Hoá kị hành thuỷ đắc ở tứ mộ, gọi là đắc địa vì hành thuỷ của sao bị hành thổ của cung át chế, ác tính của hoá kị giảm bớt nên coi là đắc. nếu đứng chung với âm dương thì chỉ 2 cung được coi là tốt là tại thìn và tuất. sửu mùi kém hơn vì âm dương đang thiếu sáng, gặp phải hoá kị độ sáng càng suy yếu.
- Thiên di là đối của mệnh cung. Kị xung đáng ngại hơn kị thủ, thiên di có hoá kị đồng nghĩa mệnh cung trong thế chiếu tướng.
- Như ls bạn nói còn phải xem các cung tam phương tứ chính mới biết cách tốt hay xấu, nếu chỉ coi hoá kị can cung tự hoá thì chỉ luận theo cách cung di tự hoá kị như các sách viết, không nên ghép thêm nhiều thứ quá. Ghép càng nhiều càng loạn