Tôi chuyển dần dần chủ đề này từ mục "Xem Tứ Trụ" về mục "Kiến Thức Tứ Trụ" này cho đúng với mục về "Trao Đổi Học Thuật"
(Tôi không có thời gian tô mầu các chữ hay các câu cần nhấn mạnh nên ai muốn đẹp sang bên Tử Vi Lý Số cùng chủ đề tại mục Tử Bình để đọc hay coppy.)
Binh Pháp Tử Bình về Luận Hành Vận và dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược của VULONG
Binh Pháp Tử Bình về Luận Hành Vận của VULONG
Binh Pháp này được phát biểu như sau:
(Chú ý: Theo đại sư Lưu Bá Ôn chỉ lấy hành của các Can đại vận là hỷ dụng thần thì các đại vận đó được gọi là các vận hỷ dụng thần, còn các Can là kỵ thần thì các đại vận đó được gọi là các vận kỵ thần (tức coi Can đại vận quan trọng hơn Chi).
Còn người bình là Nhâm Thiết Tiều ngược lại lấy Chi của các đại vận là hỷ hay kỵ thì gọi các đại vận đó là hỷ hay kỵ (tức là coi Chi đại vận quan trọng hơn Can).)
Phương pháp luận hành vận của VULONG là theo đại sư Lưu Bá Ôn, tức lấy Can đại vận làm trọng nhưng VULONG không bỏ qua Chi đại vận mà coi Chi đại vận đóng vai trò giống như chi tháng trong Tứ Trụ (được coi là Lệnh Tháng). Tức coi chi đại vận là Lệnh Đại Vận để xác định vượng suy của tất cả các can chi trong Tứ Trụ và cả can chi của đại vận tại đại vận đó. Tất nhiên nếu chi đại vận hợp với chi trong Tứ Trụ hóa cục là hỷ dụng thần thì tốt còn hóa cục là kỵ thần thì xấu nhưng Lệnh Đại Vận vẫn không thay đổi.
Đây là Kim Chỉ Nam cho tất cả những ai muốn nghiên cứu Tử Bình về luận hành vận
Để kiểm tra Binh Pháp Tử Bình này đúng hay sai ta chỉ cần lấy các ví dụ thực tế mà ta đã biết rõ cuộc đười người đó tốt xấu ra sao sẽ biết ngay.
Ví dụ số 1: Là ví dụ số 1 (Vua Càn Long) trong cuốn Trích Thiên Tủy
“VD 1- Càn tạo mệnh:
Tân Mão - Đinh Dậu - Canh Ngọ - Bính Tý
Đại vận: bính thân/ ất mùi/ giáp ngọ/ quý tị/ nhâm thìn/ tân mão/ canh dần / kỷ sửu/ mậu tý
Thiên can canh tân bính đinh, chính phối hỏa luyện thu kim; địa chi tý ngọ mão dậu, cư ở bốn cung khảm ly chấn đoài. Cả bốn chi đều ở tứ chính, khí quán tám phương, nhưng ngũ hành thiếu thổ, tuy sinh vào mùa thu đương lệnh, chẳng luận vượng. rất cần tý ngọ gặp xung, thủy khắc hỏa, khiến cho ngọ hỏa chẳng khắc phá dậu kim, mà sinh phù nhật chủ; đổi lại mão dậu gặp xung, kim khắc mộc, tắc mão mộc không thể sinh trợ ngọ hỏa, chế phục đắc cách, sinh hóa hữu tình. Mão dậu tức chấn đoài chủ nhân nghĩa hơn người; tý ngọ tức khảm ly, là khí đứng đầu trong trời đất. Với lại khảm ly đắc nhật nguyệt chi chính thể, vô tiêu vô diệt, một tươi nhuận một ấm áp, tọa tại đoan môn, thủy hỏa ký tế. Cho nên tám phương qui phục, bốn biển cùng về, thiên hạ thái bình thịnh thế vậy (Thanh cao tông-Càn Long. Trích trong ái tân giác la mệnh phổ“).
Ta thấy cả cuộc đời của vua Càn Long đều thành công huy hoàng, rực rỡ…hết cỡ, điều này phải ứng với tất cả các đại vận phải có các Can đều là hỷ dụng thần.
Ta thấy 5 đại vận đầu có các can là Nhâm, Quý, Giáp, Ất, Bính là Thực Thương, Tài tinh và Quan Sát phải là các hỷ dụng thần nên Tứ Trụ này phải có Thân vượng.
2 vận tiếp là Tân Mão và Canh Dần, mặc dù là vận kỵ thần (vì Canh và Tân là kỵ thần) nhưng bị Bính trụ giờ vượng ở đại vận Dần, Mão hợp khắc làm Tân và Canh bị thương tổn nặng thêm Canh và Tân đều tử tuyệt ở vận Dần và Mão nên 2 vận này từ vận kỵ thần chuyển thành vận hỷ thần (tức tốt nhiều hơn xấu).
Kết luận: Cả 7 vận đầu tiên đều là các vận hỷ dụng thần nên hoàn toàn phù hợp với cuộc đời của vua Càn Long.
Từ đây kết luận Tứ Trụ của vua Càn Long phải có Thân vượng.
Ví dụ số 2: Là ví dụ số 50 trong cuốn Trích Thiên Tủy
“50 - Nhâm Thân - Bính Ngọ - Canh Ngọ - Canh Thìn
Ðinh mùi/ mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý
Trụ này bính hỏa sát tinh tuy vượng, nhâm thủy có căn gốc ở thân kim, nhật chủ được canh kim tương trợ, được chi thìn thổ tương sinh. Dụng nhâm thủy chế sát, thiên can đồng thuận; địa chi đồng thuận, nhất chế nhất hóa, thật là hữu tình. Vận kim thủy thật đẹp, quan lộ hiển hách, làm quan đến chức tổng đốc“.
Ta thấy Tứ Trụ này có 1 thông tin đẹp là “Thực thần (Nhâm) chế Sát (Bính) là anh hùng áp đảo vạn người“.
Và thực tế cho biết người này có “quan lộ hiển hách, làm quan đến chức tổng đốc“, tức là người làm cỡ Tướng Soái thống lĩnh vạn quân (hay áp đảo vạn người), điều này quá đúng theo câu phú Từ Bình này.
Ta thấy các vận trung niên là Mâu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất có can chi đều là Thổ và Kim mà Thổ và Kim là hành Kiêu Ấn và Thân (Kim) nên muốn phù hợp với thực tế đẹp như vậy thì 2 vận này phải là hỷ dụng thần.
Từ đây kết luận ví dụ 50 phải có Thân nhược.
(Còn tiếp)
...............................................................................................
Trước khi sang phần 2 là phần sử dụng 4 ví dụ trên để kiểm tra phương pháp "Dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược của VULONG" đúng tới mức nào, ta phân tích thêm một chút về phần luận hành vận của ví dụ 1 này.
Ở đây ta chỉ nói thêm ở vận Canh Dần và Tân Mão thì theo lý thuyết của đại sư Lưu Bá Ôn thì chỉ sử dụng đến Can đại vận để luận mà không hề nhắc tới Chi đại vận.
Do vậy 2 vận này có can là Canh và Tân mang hành Kim là hành của Thân nên rõ ràng nó là kỵ thần (vì kết luận là Thân vượng qua 4 vận đầu).
Vì là vận kỵ thần thì dĩ nhiên nó phải xấu nhưng thực tế vua Càn Long trong 2 vận này tiền bạc và quyền lực không hề suy yếu còn sức khỏe thì mỗi đêm Quất tới 10 cô thiếu nữ không biết mệt (nói tếu một tý thôi) thì làm sao là vận kỵ thần được.
Từ đây ta có thể suy ra lý thuyết của đại sư Lưu Bá Ôn về luận hành vận vẫn còn yếu khuyết chưa hoàn thiện.
Còn lý thuyết luận hành vận của VULONG lấy thêm chi đại vận làm Lệnh Đại vận để xác định sự vượng suy của tất cả các can chi trong Tứ Trụ và can chi của đại vận tại đại vận đó.
Chính vì có sự bổ xung này mà ta có thể luận thêm rằng mặc dù 2 vận này là kỵ vận nhưng Canh và Tân đều Tử Tuyệt tại vận Dần và Mão còn Bính trụ giờ lại cường vượng ở vận Dần và Mão nên khắc Canh Tân chết hẳn (tức bị thương tổn nặng). Hiểu một cách đơn giản là một tên cướp ốm yếu vào nhà bị cao thủ võ lâm trong nhà đánh cho thừa sống thiếu chết thì còn cướp được gì nữa cơ chứ?
Vậy thì 2 vận này là kỵ vận nhưng luận theo lý thuyết của VULONG thì nó không còn là kỵ vận nữa mà phải là vận hỷ thần (vì có mất mát về tiền bạc hay thương tổn về người, vật gì đâu). Chỉ có như vậy mới phù hợp với thực tế của vua Càn Long.
Qua đây đủ để chứng minh lý thuyết về luận hành vận của VULONG cao hơn lý thuyết về luận hành vận của đại sư Lưu Bá Ôn một bậc.
Điều này đã đúng với câu trong dân gian thường nói "Đứng Trên Vai Người Khổng Lồ" là vậy.
Đây chính là thắc mắc của Khoai.To là vào các vận kỵ thần nhưng vẫn đẹp là vậy.
Binh Pháp Tử Bình về Luận Hành Vận và dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược của VULONG
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục trao đổi kiến thức về tứ trụ (bát tự, tử bình) dành cho thành viên chính thức. Các bài viết trao đổi cần có nội dung kiến thức hoặc cung cấp thông tin nghiệm lý. Muốn nhờ xem, luận giải lá số vui lòng đăng tại mục Xem tứ trụ.
Các bài viết và thành viên vi phạm sẽ bị xử lý.
Đây là chuyên mục trao đổi kiến thức về tứ trụ (bát tự, tử bình) dành cho thành viên chính thức. Các bài viết trao đổi cần có nội dung kiến thức hoặc cung cấp thông tin nghiệm lý. Muốn nhờ xem, luận giải lá số vui lòng đăng tại mục Xem tứ trụ.
Các bài viết và thành viên vi phạm sẽ bị xử lý.
Binh Pháp Tử Bình về Luận Hành Vận và dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược của VULONG
Sửa lần cuối bởi VULONG vào lúc 18:50, 17/11/24 với 2 lần sửa.
TL: Binh Pháp Tử Bình về Luận Hành Vận và dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược của VULONG
(Tiếp theo)
Ví dụ số 3: Là ví dụ số 51 trong cuốn Trích Thiên Tủy
“51 - Nhâm Ngọ - Bính Ngọ - Canh Thân - Mậu Dần
Ðinh mùi/ mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý
Mệnh này với mệnh trên, đại đồng mà tiểu dị, nhật chủ tọa lộc thân kim, nhâm thủy cũng khẩn chế sát, cớ sao danh lợi đều không, mệnh này chung thân không phát được sao? Cái khác nhau là mệnh trên nhâm thủy tọa thân kim, thực thần vượng có thể chế sát, mệnh này nhâm thủy tọa ngọ tức lâm tuyệt địa, không có lực chế sát vậy; mệnh trên thiên can thấu canh có thể trợ nhật chủ lại có thể sinh nhâm thủy, mệnh này thiên can thấu mậu thổ khắc thủy, không thể sanh thực thần. Tả hữu không tình hiệp vậy“.
Ví dụ này giống ví dụ 50 cũng có 1 thông tin đẹp là “Thực thần (Nhâm) chế Sát (Bính) là anh hùng áp đảo vạn người“.
Nhực tế cho biết người này có “mệnh này chung thân không phát được sao?“, tức người này tuổi chung niên chỉ là người bình thường.
Ta thấy các vận chung niên là Mâu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất có can chi đều là Thổ và Kim mà Thổ và Kim là hành Kiêu Ấn và Thân (Kim) nên muốn phù hợp với thực tế xấu như vậy thì 2 hành này phải là kỵ thần (tức phải ngược với ví dụ 50).
Từ đây ta kết luân ví dụ 51 phải có Thân vượng.
Ví dụ số 4: Về Lão Bán Đậu Hủ
“những câu chuyện đoán mệnh thần kỳ của manh sư Hạ Trọng Kỳ
Gửi bài bởi hoalando » 01:01, 22/08/19
Nguồn: Tubinhdieudung.net
Người dịch:Lesoi
(Hạ Trọng Kỳ là Hác Kim Dương tiên sinh)
01, Truyền kỳ về Lão đậu hủ:
Nhớ đó là năm 1986, tôi vừa biết Hạ lão sư không lâu, đang lúc ông ấy còn chưa chịu nhận tôi làm đồ đệ, tôi biết ông ấy toán rất giỏi, liền thừa dịp lúc còn rãnh rỗi, ngày hôm ấy liền tỏ bày tâm sự, muốn cùng ông ấy học tập. Trong nhà Hạ lão sư, người đến nối liền không ngớt, mỗi người đều vì mộ danh mà đến, mời lão sư toán mệnh. Khi đó ông ấy thu phí không cao. Có một quán đậu hủ, mỗi sáng sớm thường là chỉ có người lớn tuổi đến dùng; xa ở vùng ngoại thành, khi chúng tôi đến rao hàng ở chỗ này, ông ấy có âm thanh giọng rất to, ông ấy làm đậu hủ cũng không tệ, trắng mềm, khiến cho người thèm ăn mà chảy nước giải, cho nên vẫn còn rất nhiều người đến mua đậu hủ của ông, có lúc còn phải xếp hàng mà đợi.
Có một ngày, tôi đến nhà Hạ lão sư đi từ sáng sớm, lão sư vừa mới rời khỏi giường, còn chưa ăn sáng, vừa đúng nghe phía bên ngoài lão đậu hủ thét to, liền nói với tôi:
"Gọi hắn đến, mua chút đậu hủ."
Vì thế tôi đi ra cửa vẫy tay: "Mua đậu hủ, bạn qua đây." Lão Đậu hủ lập tức liền cười híp mắt quảy gánh đậu lắc lư đi qua, khi đó hắn mới khoảng 30 tuổi, đội mũ rách, trên người lại vừa bẩn thỉu, trên trán còn nhỏ giọt mồ hôi.
Tôi hỏi hắn nói: "Bạn mua bao nhiêu tiền đậu hủ?".
"Bạn có phải mua cho Hạ lão sư không?" "Dạ đúng." Lão Đậu hủ hiển nhiên biết Hạ lão sư.
"Tôi không lấy tiền bạn."
Vì thế tôi vội vả xua tay nói: "Không, không, cái này không được, ông bán đậu hủ là không dễ, đậu hủ không thể mời trắng được."
"Tôi nghe nói Hạ lão sư toán mệnh rất lợi hại, tôi muốn toán một quẻ, như vậy được không?"
Thường nói, mua bán không làm lỗ vốn, xem ra ông ấy thật sự là một người làm ăn. Bởi vì Hạ lão sư khi đó thu phí không cao, tôi tính toán tiền đoán một quẻ cùng một cân đậu hủ không sai biệt nhiều, vì vậy liền dẫn hắn đến nhà sư phụ của tôi.
Hạ lão sư hỏi giờ sinh của ông ấy, ông ấy nói là sinh ngày 24 tháng 2 năm 1955, thời gian ước chừng là sinh vào giờ ăn xong cơm tối. Hạ lão sư sắp xếp bát tự rồi nói: " Mệnh của bạn là: năm Ất Mùi, tháng Kỷ Mão, ngày Đinh Sửu, giờ Canh Tuất. Theo giờ Tuất mà suy, bạn có một anh trai, một em gái." Lão Đậu hủ gật đầu nói phải. Gặp phải tình huống giờ sinh ra không chuẩn xác, Hạ lão sư thông thường trước là thông qua suy đoán số anh em chị em bao nhiêu người để chỉnh lý, ở đây nói đúng, xem ra giờ là không có vấn đề.
Hạ lão sư nói tiếp theo: "Anh bạn tuổi so với bạn lớn hơn nhiều." "Đúng, đúng, số tuổi của chúng tôi chênh lệch 12 tuổi, đều là tuổi con Dê." Gương mặt lão Đậu hủ tin phục.
Lão sư lại nói: "Bạn lúc nhỏ, chưa từng đi học."
"Đúng, tôi lớn như vậy, chỉ có biết viết tên của mình, lớn chừng này không biết viết cái sọt giỏ." Nghe lời nói thành thực của lão đậu hủ, tôi cũng không nhịn được cười thành tiếng, cảm thấy hắn rất thẳng thắn, tính cách cũng rất hiền hòa.
Lão Đậu hủ thành khẩn hỏi: "Bán đậu hủ, cũng kiếm không được nhiều tiền lắm, tôi muốn năm tới mở phân xưởng làm đậu hủ, ông xem tôi có làm được hay không?" Nói xong, ông ấy với ánh mắt cầu xin nhìn vào lão sư, đợi lão sư nói ra với hi vọng là kết quả sẽ không làm cho hắn thất vọng.
Không ngờ Hạ lão sư cười ha hả rồi nói: "Bạn à, tương lai sẽ trở thành ức vạn phú ông!" Lời này vừa nói ra, lão đậu hủ cùng tôi đều cực kỳ kinh hãi, chẳng lẽ lão sư lại nói đùa? Lão sư an ủi hắn rồi nói: "Yên tâm đi, bạn mở xưởng làm đậu hủ, nhất định được!"
"Tôi có thể kiếm được nhiều tiền như vậy sao?" Lão sư nói cũng chưa đủ để hắn hưng phấn, gương mặt lão đậu hủ ngớ ngẫn, không tự tin, đầu rũ xuống, nhẹ giọng nói: "Tôi, tôi lại không có văn hoá và thể lực!"
Đúng vậy, tôi cũng có cảm giác là không có khả năng lớn, lúc đó vừa mở cửa cải cách, một người làm công ăn lương cũng chỉ có trăm đồng nguyên, còn hắn mua bán đậu hủ một năm cũng chỉ có tích góp khoảng 1 nghìn đồng tiền, muốn kiếm được bạc triệu, thì phải mua bán mấy đời đậu hủ nhé. Lại nói, toàn Trung Quốc cũng không có một người phú ông bạc triệu trở lên, làm sao hắn có thể chứ? Nhưng tôi rất hiểu lão sư của tôi, hắn sẽ không vì kiếm được nhiều tiền của người khác, mà nói những lời êm tai này, hiện tại hắn lại không biết là một chút đậu hủ này, mà đi nịnh hót bán hết chỗ đậu hủ này. Tôi đang miên mang suy nghĩ, chĩ nghe thấy sư phụ lại nói:
"Bạn nè, vận khí tốt, vượt qua thời đại tốt. Tương lai bạn chọn; lại sử dụng mua bán đậu hủ, có thể làm nên sự nghiệp lớn, sau cùng bạn muốn làm nhà, tửu điếm, thành ức vạn cự phú. Chàng trai, hãy làm cho thật tốt nhé, bạn từ năm 1991 sẽ bắt đầu phát tài, một năm dốc sức sẽ có tiền."
Hạ lão sư nói, khiến cho khuôn mặt lão đậu hủ nở ra như một đóa hoa, anh ta cầm thật chặt bàn tay lão sư, rất cảm động mà nói: "Lão sư, nếu như tôi đúng trở thành ức vạn phú ông, đến lúc đó nhất định sẽ không quên ông! Tôi sẽ báo đáp ông thật tốt!" .
Hạ lão sư thản nhiên nói: " Chẳng cần, bạn phải đúng là ức vạn phú ông, đó là do mệnh của bạn, cũng chẳng cần cảm tạ tôi, chỉ cần nói với ta một tiếng, làm cho tôi biết bản thân là toán chuẩn thì được rồi."
Lão Đậu hủ ngày đó lúc gần đi, quả thực là cho lão sư một cân đậu hủ.
Anh ta sai khi đi xong, tôi nói cùng lão sư: "Anh ta thật có thể trở thành ức vạn phú ông sao, làm sao thầy biết như vậy? Khiến cho hắn phát căn rễ, thì thầy cũng không dụng mỗi ngày gian khổ kiếm vài đồng tiền."
Lão sư cười nhạt nói: "Nhỏ Hình, người không hiểu, mỗi người đều có nhân mệnh, ai được ánh sáng của người nào, ai với ai có duyên đều là đã định trong mệnh, ta xem hắn phát đạt cũng sẽ không tìm lại chúng ta, không tin người chờ xem."
Trải qua không bao lâu, mỗi sáng sớm ở trước cửa nhà lão sư im bặt tiếng rao hàng mua bán đậu hủ. Có lẽ, là hắn đã khai trương xưởng làm đậu hủ rồi!
Sau này nghe hắn nhận thầu vườn hoa viên, còn mở ra công ty. Lại sau này, nghe nói đi Bắc Kinh phát triển, vài chục năm không thấy có tin tức của hắn, mãi đến năm vừa rồi tôi mới thấy xuất hiện trên truyền hình.
Nếu như trong một nhân mệnh phú quý, cho dù là xuất thân bần hàn, cũng có thể một ngày nào đó, biến thành nhân sĩ thành công được mọi người tôn kính. Mà chỗ gọi là tri thức và năng lực chỉ là một vật sau vận mệnh. Do đó, lúc một người chưa biết vận mệnh của bản thân, nghìn vạn lần không thể đánh mất ý chí chiến đấu, nói không chừng không ra mấy năm, bạn cũng có thể trở thành một ức vạn phú ông chứ!
Càn tạo:
Ất Mùi - Kỷ Mão - Đinh Sửu - Canh Tuất
Các đại vận và thời gian của chúng:
Mậu Dần/ Đinh Sửu/ Bính Tý/ Ất Hợi/ Giáp Tuất/ Quý Dậu/ Nhâm Thân
…...4………... 14……......24……...34………..44………...54………....64
…1959……....69………...79………89………..99………...09………....19
Họ Hình (tức Hình Tú Phân) giải thích: Ấn tinh thái trọng, Đinh hỏa không hóa, cho nên không có học lực. Tài Quan lâm khố hỉ hình xung thì phát, cho nên người này phát tài mà không có văn hóa.
Họ Đoàn (tức Đoàn Kiến Nghiệp) chú giải: Thư viết: "Tài Quan lâm khố, không xung không phát", vật trong mộ khố không gặp hình xung là không có cách nào sử dụng. Cho nên tạo này quý ở Sửu Tài khố được hình xung“.
Ta thấy qua tiểu sử của Lão bán Đậu Hủ thì các vận Đinh Sửu và Bính Tý (từ 14 đến 34 tuổi) có can là Tỷ Kiếp (Hỏa) nếu so thu nhập (kiếm tiền) với các quan chức của CộngSản thời bao cấp đó thì tên bán Đậu Hủ này có thể được gọi là Tiểu Phú. Vậy thì Tỷ Kiếp mang hành Hỏa phải là hỷ hay dụng thần của Tứ Trụ này.
Các vận tiếp theo là Ất Hợi và Giáp Tuất (từ năm 1989 đến 2009), hắn ta bắt đầu phát tài to từ năm 1991 sau trở thành “ức vạn cự phú“, tức thành Triệu Phú đô la. Mà 2 vận này là Kiêu Ấn (Mộc). Vậy thì rõ ràng Mộc phải là dụng thần của Tứ Trụ này (tức vận Dụng Thần lên ngôi là vận huy hoàng nhất của cuộc đời).
Từ đây ta kết luận Tứ Trụ này phải có Thân nhược.
Bất kỳ phương pháp xác định Thân vượng hay nhược nào mà kiểm tra với ít nhất 4 ví dụ mẫu này mà đúng cả 4 thì phương pháp đó mới có thể đáng tin cậy.
Ví dụ số 3: Là ví dụ số 51 trong cuốn Trích Thiên Tủy
“51 - Nhâm Ngọ - Bính Ngọ - Canh Thân - Mậu Dần
Ðinh mùi/ mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý
Mệnh này với mệnh trên, đại đồng mà tiểu dị, nhật chủ tọa lộc thân kim, nhâm thủy cũng khẩn chế sát, cớ sao danh lợi đều không, mệnh này chung thân không phát được sao? Cái khác nhau là mệnh trên nhâm thủy tọa thân kim, thực thần vượng có thể chế sát, mệnh này nhâm thủy tọa ngọ tức lâm tuyệt địa, không có lực chế sát vậy; mệnh trên thiên can thấu canh có thể trợ nhật chủ lại có thể sinh nhâm thủy, mệnh này thiên can thấu mậu thổ khắc thủy, không thể sanh thực thần. Tả hữu không tình hiệp vậy“.
Ví dụ này giống ví dụ 50 cũng có 1 thông tin đẹp là “Thực thần (Nhâm) chế Sát (Bính) là anh hùng áp đảo vạn người“.
Nhực tế cho biết người này có “mệnh này chung thân không phát được sao?“, tức người này tuổi chung niên chỉ là người bình thường.
Ta thấy các vận chung niên là Mâu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất có can chi đều là Thổ và Kim mà Thổ và Kim là hành Kiêu Ấn và Thân (Kim) nên muốn phù hợp với thực tế xấu như vậy thì 2 hành này phải là kỵ thần (tức phải ngược với ví dụ 50).
Từ đây ta kết luân ví dụ 51 phải có Thân vượng.
Ví dụ số 4: Về Lão Bán Đậu Hủ
“những câu chuyện đoán mệnh thần kỳ của manh sư Hạ Trọng Kỳ
Gửi bài bởi hoalando » 01:01, 22/08/19
Nguồn: Tubinhdieudung.net
Người dịch:Lesoi
(Hạ Trọng Kỳ là Hác Kim Dương tiên sinh)
01, Truyền kỳ về Lão đậu hủ:
Nhớ đó là năm 1986, tôi vừa biết Hạ lão sư không lâu, đang lúc ông ấy còn chưa chịu nhận tôi làm đồ đệ, tôi biết ông ấy toán rất giỏi, liền thừa dịp lúc còn rãnh rỗi, ngày hôm ấy liền tỏ bày tâm sự, muốn cùng ông ấy học tập. Trong nhà Hạ lão sư, người đến nối liền không ngớt, mỗi người đều vì mộ danh mà đến, mời lão sư toán mệnh. Khi đó ông ấy thu phí không cao. Có một quán đậu hủ, mỗi sáng sớm thường là chỉ có người lớn tuổi đến dùng; xa ở vùng ngoại thành, khi chúng tôi đến rao hàng ở chỗ này, ông ấy có âm thanh giọng rất to, ông ấy làm đậu hủ cũng không tệ, trắng mềm, khiến cho người thèm ăn mà chảy nước giải, cho nên vẫn còn rất nhiều người đến mua đậu hủ của ông, có lúc còn phải xếp hàng mà đợi.
Có một ngày, tôi đến nhà Hạ lão sư đi từ sáng sớm, lão sư vừa mới rời khỏi giường, còn chưa ăn sáng, vừa đúng nghe phía bên ngoài lão đậu hủ thét to, liền nói với tôi:
"Gọi hắn đến, mua chút đậu hủ."
Vì thế tôi đi ra cửa vẫy tay: "Mua đậu hủ, bạn qua đây." Lão Đậu hủ lập tức liền cười híp mắt quảy gánh đậu lắc lư đi qua, khi đó hắn mới khoảng 30 tuổi, đội mũ rách, trên người lại vừa bẩn thỉu, trên trán còn nhỏ giọt mồ hôi.
Tôi hỏi hắn nói: "Bạn mua bao nhiêu tiền đậu hủ?".
"Bạn có phải mua cho Hạ lão sư không?" "Dạ đúng." Lão Đậu hủ hiển nhiên biết Hạ lão sư.
"Tôi không lấy tiền bạn."
Vì thế tôi vội vả xua tay nói: "Không, không, cái này không được, ông bán đậu hủ là không dễ, đậu hủ không thể mời trắng được."
"Tôi nghe nói Hạ lão sư toán mệnh rất lợi hại, tôi muốn toán một quẻ, như vậy được không?"
Thường nói, mua bán không làm lỗ vốn, xem ra ông ấy thật sự là một người làm ăn. Bởi vì Hạ lão sư khi đó thu phí không cao, tôi tính toán tiền đoán một quẻ cùng một cân đậu hủ không sai biệt nhiều, vì vậy liền dẫn hắn đến nhà sư phụ của tôi.
Hạ lão sư hỏi giờ sinh của ông ấy, ông ấy nói là sinh ngày 24 tháng 2 năm 1955, thời gian ước chừng là sinh vào giờ ăn xong cơm tối. Hạ lão sư sắp xếp bát tự rồi nói: " Mệnh của bạn là: năm Ất Mùi, tháng Kỷ Mão, ngày Đinh Sửu, giờ Canh Tuất. Theo giờ Tuất mà suy, bạn có một anh trai, một em gái." Lão Đậu hủ gật đầu nói phải. Gặp phải tình huống giờ sinh ra không chuẩn xác, Hạ lão sư thông thường trước là thông qua suy đoán số anh em chị em bao nhiêu người để chỉnh lý, ở đây nói đúng, xem ra giờ là không có vấn đề.
Hạ lão sư nói tiếp theo: "Anh bạn tuổi so với bạn lớn hơn nhiều." "Đúng, đúng, số tuổi của chúng tôi chênh lệch 12 tuổi, đều là tuổi con Dê." Gương mặt lão Đậu hủ tin phục.
Lão sư lại nói: "Bạn lúc nhỏ, chưa từng đi học."
"Đúng, tôi lớn như vậy, chỉ có biết viết tên của mình, lớn chừng này không biết viết cái sọt giỏ." Nghe lời nói thành thực của lão đậu hủ, tôi cũng không nhịn được cười thành tiếng, cảm thấy hắn rất thẳng thắn, tính cách cũng rất hiền hòa.
Lão Đậu hủ thành khẩn hỏi: "Bán đậu hủ, cũng kiếm không được nhiều tiền lắm, tôi muốn năm tới mở phân xưởng làm đậu hủ, ông xem tôi có làm được hay không?" Nói xong, ông ấy với ánh mắt cầu xin nhìn vào lão sư, đợi lão sư nói ra với hi vọng là kết quả sẽ không làm cho hắn thất vọng.
Không ngờ Hạ lão sư cười ha hả rồi nói: "Bạn à, tương lai sẽ trở thành ức vạn phú ông!" Lời này vừa nói ra, lão đậu hủ cùng tôi đều cực kỳ kinh hãi, chẳng lẽ lão sư lại nói đùa? Lão sư an ủi hắn rồi nói: "Yên tâm đi, bạn mở xưởng làm đậu hủ, nhất định được!"
"Tôi có thể kiếm được nhiều tiền như vậy sao?" Lão sư nói cũng chưa đủ để hắn hưng phấn, gương mặt lão đậu hủ ngớ ngẫn, không tự tin, đầu rũ xuống, nhẹ giọng nói: "Tôi, tôi lại không có văn hoá và thể lực!"
Đúng vậy, tôi cũng có cảm giác là không có khả năng lớn, lúc đó vừa mở cửa cải cách, một người làm công ăn lương cũng chỉ có trăm đồng nguyên, còn hắn mua bán đậu hủ một năm cũng chỉ có tích góp khoảng 1 nghìn đồng tiền, muốn kiếm được bạc triệu, thì phải mua bán mấy đời đậu hủ nhé. Lại nói, toàn Trung Quốc cũng không có một người phú ông bạc triệu trở lên, làm sao hắn có thể chứ? Nhưng tôi rất hiểu lão sư của tôi, hắn sẽ không vì kiếm được nhiều tiền của người khác, mà nói những lời êm tai này, hiện tại hắn lại không biết là một chút đậu hủ này, mà đi nịnh hót bán hết chỗ đậu hủ này. Tôi đang miên mang suy nghĩ, chĩ nghe thấy sư phụ lại nói:
"Bạn nè, vận khí tốt, vượt qua thời đại tốt. Tương lai bạn chọn; lại sử dụng mua bán đậu hủ, có thể làm nên sự nghiệp lớn, sau cùng bạn muốn làm nhà, tửu điếm, thành ức vạn cự phú. Chàng trai, hãy làm cho thật tốt nhé, bạn từ năm 1991 sẽ bắt đầu phát tài, một năm dốc sức sẽ có tiền."
Hạ lão sư nói, khiến cho khuôn mặt lão đậu hủ nở ra như một đóa hoa, anh ta cầm thật chặt bàn tay lão sư, rất cảm động mà nói: "Lão sư, nếu như tôi đúng trở thành ức vạn phú ông, đến lúc đó nhất định sẽ không quên ông! Tôi sẽ báo đáp ông thật tốt!" .
Hạ lão sư thản nhiên nói: " Chẳng cần, bạn phải đúng là ức vạn phú ông, đó là do mệnh của bạn, cũng chẳng cần cảm tạ tôi, chỉ cần nói với ta một tiếng, làm cho tôi biết bản thân là toán chuẩn thì được rồi."
Lão Đậu hủ ngày đó lúc gần đi, quả thực là cho lão sư một cân đậu hủ.
Anh ta sai khi đi xong, tôi nói cùng lão sư: "Anh ta thật có thể trở thành ức vạn phú ông sao, làm sao thầy biết như vậy? Khiến cho hắn phát căn rễ, thì thầy cũng không dụng mỗi ngày gian khổ kiếm vài đồng tiền."
Lão sư cười nhạt nói: "Nhỏ Hình, người không hiểu, mỗi người đều có nhân mệnh, ai được ánh sáng của người nào, ai với ai có duyên đều là đã định trong mệnh, ta xem hắn phát đạt cũng sẽ không tìm lại chúng ta, không tin người chờ xem."
Trải qua không bao lâu, mỗi sáng sớm ở trước cửa nhà lão sư im bặt tiếng rao hàng mua bán đậu hủ. Có lẽ, là hắn đã khai trương xưởng làm đậu hủ rồi!
Sau này nghe hắn nhận thầu vườn hoa viên, còn mở ra công ty. Lại sau này, nghe nói đi Bắc Kinh phát triển, vài chục năm không thấy có tin tức của hắn, mãi đến năm vừa rồi tôi mới thấy xuất hiện trên truyền hình.
Nếu như trong một nhân mệnh phú quý, cho dù là xuất thân bần hàn, cũng có thể một ngày nào đó, biến thành nhân sĩ thành công được mọi người tôn kính. Mà chỗ gọi là tri thức và năng lực chỉ là một vật sau vận mệnh. Do đó, lúc một người chưa biết vận mệnh của bản thân, nghìn vạn lần không thể đánh mất ý chí chiến đấu, nói không chừng không ra mấy năm, bạn cũng có thể trở thành một ức vạn phú ông chứ!
Càn tạo:
Ất Mùi - Kỷ Mão - Đinh Sửu - Canh Tuất
Các đại vận và thời gian của chúng:
Mậu Dần/ Đinh Sửu/ Bính Tý/ Ất Hợi/ Giáp Tuất/ Quý Dậu/ Nhâm Thân
…...4………... 14……......24……...34………..44………...54………....64
…1959……....69………...79………89………..99………...09………....19
Họ Hình (tức Hình Tú Phân) giải thích: Ấn tinh thái trọng, Đinh hỏa không hóa, cho nên không có học lực. Tài Quan lâm khố hỉ hình xung thì phát, cho nên người này phát tài mà không có văn hóa.
Họ Đoàn (tức Đoàn Kiến Nghiệp) chú giải: Thư viết: "Tài Quan lâm khố, không xung không phát", vật trong mộ khố không gặp hình xung là không có cách nào sử dụng. Cho nên tạo này quý ở Sửu Tài khố được hình xung“.
Ta thấy qua tiểu sử của Lão bán Đậu Hủ thì các vận Đinh Sửu và Bính Tý (từ 14 đến 34 tuổi) có can là Tỷ Kiếp (Hỏa) nếu so thu nhập (kiếm tiền) với các quan chức của CộngSản thời bao cấp đó thì tên bán Đậu Hủ này có thể được gọi là Tiểu Phú. Vậy thì Tỷ Kiếp mang hành Hỏa phải là hỷ hay dụng thần của Tứ Trụ này.
Các vận tiếp theo là Ất Hợi và Giáp Tuất (từ năm 1989 đến 2009), hắn ta bắt đầu phát tài to từ năm 1991 sau trở thành “ức vạn cự phú“, tức thành Triệu Phú đô la. Mà 2 vận này là Kiêu Ấn (Mộc). Vậy thì rõ ràng Mộc phải là dụng thần của Tứ Trụ này (tức vận Dụng Thần lên ngôi là vận huy hoàng nhất của cuộc đời).
Từ đây ta kết luận Tứ Trụ này phải có Thân nhược.
Bất kỳ phương pháp xác định Thân vượng hay nhược nào mà kiểm tra với ít nhất 4 ví dụ mẫu này mà đúng cả 4 thì phương pháp đó mới có thể đáng tin cậy.
TL: Binh Pháp Tử Bình về Luận Hành Vận và dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược của VULONG
Bởi vì 4 ví dụ mẫu trên khi ứng dụng lý thuyết về luận hành vận của VULONG (hay của đại sư Lưu Bá Ôn) lấy can Đại vận làm trọng đã phù hợp với thực tế của các đương số đó. Điều này hiển nhiên khẳng định lý thuyết về lấy Can đại vận làm trọng là đúng 100% không thể chối cãi.
Bây giờ tôi lấy 4 ví dụ mẫu trên để kiểm tra phương pháp dùng Toán Học của VULONG xác định Thân vượng hay nhược xem tỷ lệ đúng là bao nhiêu % (bất kỳ phương pháp nào khác muốn biết đúng sai như thế nào cứ kiểm tra vào 4 ví dụ mẫu này sẽ cho kết quả đúng sai chính xác 100%).
Ví dụ số 1 trong cuốn Trích Thiên Tủy: Vua Càn Long
Sơ đồ dùng toán học của VULONG để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần như sau:
Qua sơ đồ tính toán trên ta thấy Thân là Kim có tới 12,52đv lớn hơn Thủy, Mộc và Hỏa mỗi hành trên 1đv lên theo định nghĩa của VULONG thì Thân của Tứ Trụ này là vượng. Thân vượng mà Kiêu Ấn ít và Thực Thương không nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát/ Đinh ở trụ tháng.
Điểm vượng của các trạng thái trong bảng “Sinh Vượng Tử Tuyệt“ được VULONG xác định chính xác tới 1% đv (đã được ghi trong bảng “Sinh Vượng Tử Tuyệt“ ở trong cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“, muốn tìm hãy gõ lên Google chủ đề “Vulong: Tứ Trụ cho tất cả mọi người“ là có ngay, hiện giờ có sửa lại chút ít).
Giả dụ như Tân trụ tháng Lâm Quan ở lệnh tháng Dậu có 9đv, Bính trụ giờ ở trạng thái Tử có 2,95đv, Mão trụ năm ở trạng thái Tuyệt có 3,2đv…
Cách tính toán được tóm tắt đơn giản như sau:
1 – Quy ước: Tứ Trụ được mô tả bằng hình chữ nhật như sơ đồ trên cùng can chi của 4 trụ, lần lượt trụ đầu tiên là trụ năm Tân Mão tới trụ tháng rồi trụ ngày và cuối cùng là trụ giờ Bính Tý.
Vùng tâm là vùng mặt phẳng được giới hạn bởi hình chữ V có can trụ ngày ở phía trong, có thể coi can ngày là tâm điểm của vùng tâm. Ý nghĩa của vùng tâm là vùng không còn phải lo lắng (Nước xa không cứu nổi Lửa gần) nữa, tức là với điểm vượng của các can chi trong vùng tâm thì biết ngay chúng tác động tới Thân (can ngày) là như nhau không còn sợ chúng ở xa hay gần Can ngày nữa).
2 - Những can bị khắc gần (tức can của trụ ở ngay bên cạnh) như Tân trụ năm và Canh trụ ngày bị khắc gần bởi Đinh trụ tháng nên 2 can này phải khoanh tròn để biết chúng không sinh hay khác được với các can chi khác.
Ngọ trụ ngày bị khắc gần bởi Tý trụ giờ, Bính trụ giờ bị khắc trực tiếp bởi Tý cùng trụ nên Ngọ và Bính cũng phải khoanh tròn lại.
Mão trụ năm không bị Dậu hay Tân và Canh khắc, còn Dậu chỉ bị Đinh khắc trực tiếp cùng trụ mà thôi.
3 – Can Chi bị khắc cùng trụ giảm 1/2đv của nó, khắc gần giảm 1/3đv, tức giảm 4/12 (với khác dấu tức âm dương khắc nhau, còn cùng dấu - âm khắc âm hay dương khắc dương - giảm 5/12) của nó, khắc cách 1 ngôi giảm 1/5 (với khác dấu còn cùng dấu giảm 1/4), khắc cách 2 ngôi giảm 1/10 (với khác dấu còn cùng dấu giảm 1/9), khắc cách 3 ngôi giảm 1/20 (với khác dấu còn cùng dấu giảm 1/19).
4 – Điểm vượng của can ở trụ năm, chi trụ tháng và chi trụ giờ vào vùng tâm giảm thêm 2/5đv của chúng còn chi trụ năm vào vùng tâm giảm thêm 1/2đv của nó.
Bây giờ ta áp dụng lý thuyết này để tính cụ thể từng can chi khi vào vùng tâm còn lại bao nhiêu:
1 – Can trụ năm là Tân ở trạng thái Lâm quan ở lệnh tháng Dậu có 9đv bị Đinh trụ tháng khắc gần cùng dấu giảm 5/12 còn 9.7/12đv, khi vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 9.7/12.3/5đv = 3,15đv.
2 – Đinh trụ tháng ở trạng thái Trường sinh ở lệnh tháng Dậu có 6đv bị Tý trụ giờ khắc khác dấu cách 2 ngôi giảm 1/10 còn 6.9/10đv = 5,4đv (Dậu ở trong vùng tâm).
3 – Canh trụ ngày đế vượng ở tháng Dậu có 10đv bị Đinh khắc gần khác dấu giảm 4/12 còn 10.8/12đv = 6,67đv.
4 - Bính trụ giờ ở trạng thái Tử có 2,95đv bị Tý cùng trụ khắc trực tiếp giảm ½ còn 2,95.1/2đv = 1,48đv.
5 - Tý trụ giờ ở trạng thái Mộc dục có 7đv không bị can chi nào khắc cả nên vào vùng tâm giảm 2/5 còn 5.3/5đv = 4,2đv.
6 - Ngọ trụ ngày Tử ở tháng Dậu có 2,95đv bị Tý khắc gần cùng dấu giảm 5/12 còn 2,9.7/12đv = 1,72đv.
7 – Dậu trụ tháng ở trạng thái Lâm quan có 9đv bị Dậu khắc trực tiếp cùng trụ giảm 1/2 còn 9.1/2đv, vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 9.1/2.3/5đv = 2,7đv.
8 – Mão trụ năm Tuyệt ở tháng Dậu có 3,2đv vào vùng tâm giảm 1/2 còn 3,2.1/2đv = 1,6đv.
Bây giờ ta chỉ cần cộng tất cả các điểm vượng của từng hành trong vùng tâm là xong.
Mộc có 1,6đv.
Hỏa có (5,4 + 1,48 + 1,72)đv = 8,6đv.
Thổ có 0đv (không tính các can tàng là tạp khí).
Kim có (3,15 + 6,67 +2,7)đv = 12,52đv.
Thủy có 4,2đv.
Ta thấy số điểm vượng của từng hành trong vùng tâm đúng như kết quả đã ghi trên sơ đồ tính toán trên.
Từ đây ta thấy Thân (Kim) có 12,52đv lớn hơn Thủy có 4,2đv, Mộc có 1,6đv và Hỏa có 8,6đv mỗi hành trên 1đv nên ta kết luận Thân của Tứ Trụ này là vượng (theo định nghĩa về Thân vượng hay nhược của VULONG).
Nếu tự tính trên chục Tứ Trụ thì các bạn sẽ quen dần lên khi đó tính ví dụ này chắc các bạn chỉ mất 10 phút là cùng, khi đó các bạn có quyền tự hào đã thắng được cả tới cao thủ Nhâm Thiết Tiều là cái chắc, vì ông ta mất cả đời nghiên cứu Tử Bình mà xác định Tứ Trụ này vẫn sai là Thân nhược.
Bây giờ tôi lấy 4 ví dụ mẫu trên để kiểm tra phương pháp dùng Toán Học của VULONG xác định Thân vượng hay nhược xem tỷ lệ đúng là bao nhiêu % (bất kỳ phương pháp nào khác muốn biết đúng sai như thế nào cứ kiểm tra vào 4 ví dụ mẫu này sẽ cho kết quả đúng sai chính xác 100%).
Ví dụ số 1 trong cuốn Trích Thiên Tủy: Vua Càn Long
Sơ đồ dùng toán học của VULONG để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần như sau:
Qua sơ đồ tính toán trên ta thấy Thân là Kim có tới 12,52đv lớn hơn Thủy, Mộc và Hỏa mỗi hành trên 1đv lên theo định nghĩa của VULONG thì Thân của Tứ Trụ này là vượng. Thân vượng mà Kiêu Ấn ít và Thực Thương không nhiều nên dụng thần đầu tiên phải là Quan Sát/ Đinh ở trụ tháng.
Điểm vượng của các trạng thái trong bảng “Sinh Vượng Tử Tuyệt“ được VULONG xác định chính xác tới 1% đv (đã được ghi trong bảng “Sinh Vượng Tử Tuyệt“ ở trong cuốn “Giải Mã Tứ Trụ“, muốn tìm hãy gõ lên Google chủ đề “Vulong: Tứ Trụ cho tất cả mọi người“ là có ngay, hiện giờ có sửa lại chút ít).
Giả dụ như Tân trụ tháng Lâm Quan ở lệnh tháng Dậu có 9đv, Bính trụ giờ ở trạng thái Tử có 2,95đv, Mão trụ năm ở trạng thái Tuyệt có 3,2đv…
Cách tính toán được tóm tắt đơn giản như sau:
1 – Quy ước: Tứ Trụ được mô tả bằng hình chữ nhật như sơ đồ trên cùng can chi của 4 trụ, lần lượt trụ đầu tiên là trụ năm Tân Mão tới trụ tháng rồi trụ ngày và cuối cùng là trụ giờ Bính Tý.
Vùng tâm là vùng mặt phẳng được giới hạn bởi hình chữ V có can trụ ngày ở phía trong, có thể coi can ngày là tâm điểm của vùng tâm. Ý nghĩa của vùng tâm là vùng không còn phải lo lắng (Nước xa không cứu nổi Lửa gần) nữa, tức là với điểm vượng của các can chi trong vùng tâm thì biết ngay chúng tác động tới Thân (can ngày) là như nhau không còn sợ chúng ở xa hay gần Can ngày nữa).
2 - Những can bị khắc gần (tức can của trụ ở ngay bên cạnh) như Tân trụ năm và Canh trụ ngày bị khắc gần bởi Đinh trụ tháng nên 2 can này phải khoanh tròn để biết chúng không sinh hay khác được với các can chi khác.
Ngọ trụ ngày bị khắc gần bởi Tý trụ giờ, Bính trụ giờ bị khắc trực tiếp bởi Tý cùng trụ nên Ngọ và Bính cũng phải khoanh tròn lại.
Mão trụ năm không bị Dậu hay Tân và Canh khắc, còn Dậu chỉ bị Đinh khắc trực tiếp cùng trụ mà thôi.
3 – Can Chi bị khắc cùng trụ giảm 1/2đv của nó, khắc gần giảm 1/3đv, tức giảm 4/12 (với khác dấu tức âm dương khắc nhau, còn cùng dấu - âm khắc âm hay dương khắc dương - giảm 5/12) của nó, khắc cách 1 ngôi giảm 1/5 (với khác dấu còn cùng dấu giảm 1/4), khắc cách 2 ngôi giảm 1/10 (với khác dấu còn cùng dấu giảm 1/9), khắc cách 3 ngôi giảm 1/20 (với khác dấu còn cùng dấu giảm 1/19).
4 – Điểm vượng của can ở trụ năm, chi trụ tháng và chi trụ giờ vào vùng tâm giảm thêm 2/5đv của chúng còn chi trụ năm vào vùng tâm giảm thêm 1/2đv của nó.
Bây giờ ta áp dụng lý thuyết này để tính cụ thể từng can chi khi vào vùng tâm còn lại bao nhiêu:
1 – Can trụ năm là Tân ở trạng thái Lâm quan ở lệnh tháng Dậu có 9đv bị Đinh trụ tháng khắc gần cùng dấu giảm 5/12 còn 9.7/12đv, khi vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 9.7/12.3/5đv = 3,15đv.
2 – Đinh trụ tháng ở trạng thái Trường sinh ở lệnh tháng Dậu có 6đv bị Tý trụ giờ khắc khác dấu cách 2 ngôi giảm 1/10 còn 6.9/10đv = 5,4đv (Dậu ở trong vùng tâm).
3 – Canh trụ ngày đế vượng ở tháng Dậu có 10đv bị Đinh khắc gần khác dấu giảm 4/12 còn 10.8/12đv = 6,67đv.
4 - Bính trụ giờ ở trạng thái Tử có 2,95đv bị Tý cùng trụ khắc trực tiếp giảm ½ còn 2,95.1/2đv = 1,48đv.
5 - Tý trụ giờ ở trạng thái Mộc dục có 7đv không bị can chi nào khắc cả nên vào vùng tâm giảm 2/5 còn 5.3/5đv = 4,2đv.
6 - Ngọ trụ ngày Tử ở tháng Dậu có 2,95đv bị Tý khắc gần cùng dấu giảm 5/12 còn 2,9.7/12đv = 1,72đv.
7 – Dậu trụ tháng ở trạng thái Lâm quan có 9đv bị Dậu khắc trực tiếp cùng trụ giảm 1/2 còn 9.1/2đv, vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 9.1/2.3/5đv = 2,7đv.
8 – Mão trụ năm Tuyệt ở tháng Dậu có 3,2đv vào vùng tâm giảm 1/2 còn 3,2.1/2đv = 1,6đv.
Bây giờ ta chỉ cần cộng tất cả các điểm vượng của từng hành trong vùng tâm là xong.
Mộc có 1,6đv.
Hỏa có (5,4 + 1,48 + 1,72)đv = 8,6đv.
Thổ có 0đv (không tính các can tàng là tạp khí).
Kim có (3,15 + 6,67 +2,7)đv = 12,52đv.
Thủy có 4,2đv.
Ta thấy số điểm vượng của từng hành trong vùng tâm đúng như kết quả đã ghi trên sơ đồ tính toán trên.
Từ đây ta thấy Thân (Kim) có 12,52đv lớn hơn Thủy có 4,2đv, Mộc có 1,6đv và Hỏa có 8,6đv mỗi hành trên 1đv nên ta kết luận Thân của Tứ Trụ này là vượng (theo định nghĩa về Thân vượng hay nhược của VULONG).
Nếu tự tính trên chục Tứ Trụ thì các bạn sẽ quen dần lên khi đó tính ví dụ này chắc các bạn chỉ mất 10 phút là cùng, khi đó các bạn có quyền tự hào đã thắng được cả tới cao thủ Nhâm Thiết Tiều là cái chắc, vì ông ta mất cả đời nghiên cứu Tử Bình mà xác định Tứ Trụ này vẫn sai là Thân nhược.
TL: Binh Pháp Tử Bình về Luận Hành Vận và dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược của VULONG
Ví dụ số 50 trong cuốn Trích Thiên Tủy:
Sơ đồ dùng toán học của VULONG để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần như sau:
Ở sơ đồ này giống ví dụ trước là không có các tổ hợp.
Ta thấy Bính trụ tháng bị Nhâm trụ năm khắc gần cùng dấu (về ngũ hành), Thân trụ năm cũng bị khắc gần cùng dấu bởi Ngọ trụ tháng và Canh trụ giờ bị khắc trực tiếp bởi Ngọ cùng trụ nên ta phải khoanh tròn 3 can chi này (Bính, Thân và Canh).
Ở sơ đồ này có thêm 2 quy tắc mới là:
1 - Có 3 chi liền nhau là Ngọ ở trụ tháng, trụ ngày và Thìn ở trụ giờ đều không bị khắc gần hay trực tiếp hặc bị hợp mà Ngọ trụ tháng cùng hành với Ngọ trụ ngày nên Ngọ trụ ngày có thể sinh được 1/12đv của nó cho Thìn (nếu Ngọ trụ tháng mang hành sinh cho Ngọ trụ ngày thì Ngọ trụ ngày có thể sinh được 1/6,5đv của nó cho Thìn), vì Ngọ mang hành Hỏa có thể sinh cho Thìn mang hành Thổ.
2 - Thìn trụ giờ có Ngọ gần bên cạch là trụ ngày mang hành sinh cho nó nên Thìn trụ giờ có thể sinh được 50%đv của nó cho Canh cùng trụ (còn nếu Thìn có chi gần bên cạnh cùng hành với nó thì nó chỉ có thể sinh được 1/3đv của nó cho can cùng trụ).
Bây giờ ta tính toán xem điểm vượng của từng can chi vào vùng tâm có bao nhiêu:
1 – Nhâm trụ năm ở trạng thái Thai của lệnh tháng Ngọ có 4,1đv bị Thìn trụ giờ khắc cùng hành cách 3 ngôi giảm 1/19 òn 4,1.18/19đv và vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 4,1.18/1.3/5đv = 2,33đv.
2 – Bính trụ tháng ở trạng thái Đế vượng có 10đv bị Nhâm trụ năm khắc gần cùng dấu giảm 5/12 còn 10.7/12đv = 5,83đv.
3 – Canh trụ giờ ở trạng thái Mộc dục có 7đv bị Ngọ trụ ngày khắc trực tiếp giảm 1/2 còn 7.1/2đv và bị Ngọ trụ tháng khắc cùng dấu cách 1 ngôi giảm thêm 1/4 còn 7.1/2.3/4đv = 2,63đv.
4 – Ngọ trụ ngày ở trạng thái Đế vượng có 10đv bị Nhâm trụ năm khắc cùng dấu cách 2 ngôi giảm 1/9 còn 10.8/9đv = 8,89đv.
Như trên cho biết thì Ngọ trụ ngày có thể sinh được 1/12đv của nó cho Thìn trụ giờ là 8,89.1/12đv = 0,74đv.
5 – Thìn trụ giờ ở trạng thái Đế vượng có 10đv và nhận thêm 0,74đv của Ngọ gần bên cạnh sinh cho (như tính toán ở trên) thành 10 + 0,74đv = 10,74đv, vào vùng tâm giảm 2/5 còn 10,74.3/5đv = 6,44đv.
Thìn trụ giờ có 10,74đv có Ngọ gần bên cạnh mang hành sinh cho nên Thìn có thể sinh được 1/2đv của nó cho Canh cùng trụ (vì Thìn là Thổ có thể sinh cho Canh là Kim cùng trụ) là 10,74.1/2đv = 5,37đv.
6 – Canh trụ giờ ở trạng thái Mộc dục có 7đv được nhận thêm 5,37đv của Thìn cùng trụ sinh cho thành 7đv + 5,37đv = 12,37đv nhưng bị Ngọ trụ ngày khắc cùng dấu cách 1 ngôi giảm 1/4 và Ngọ trụ tháng cũng khắc cùng dấu cách 2 ngôi giảm 1/9 còn 12,37.3/4.8/9đv = 8,25đv.
7 – Ngọ trụ tháng ở trạng thái Đế vượng có 10đv bị Nhâm trụ năm khắc cùng dấu cách 1 ngôi giảm 1/4 còn 10.3/4đv và vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 10.3/4.3/5đv = 4,5đv.
8 – Thân trụ năm ở trạng thái Mộc dục có 7đv và có thêm 4,05đv đắc địa Lộc của can ngày Canh tại Thân thành 7đv + 4,05đv = 11,05đv bị Ngọ trụ tháng khắc gần cùng dấu giảm 5/12 và Ngọ trụ ngày khắc cách 1 ngôi cùng dấu giảm 1/4, vào vùng tâm giảm thêm 1/2 còn 11,05.7/12.1/4.1/2đv = 2,42đv.
Khi cộng tất cả điểm vượng cùng hành trong vùng tâm ta có kết quả như trong sơ đồ trên.
Ta thấy Thân (Kim) có 13,3đv không lớn hơn Hỏa 1đv (vì Hỏa có tới 19,22đv) nên Thân của Tứ Trụ này là nhược nhưng trong trường hợp này Thân có thể nhận được 50%đv của Kiêu Ấn sinh cho (theo quy tắc thứ nhất) thành 13,3đv + 6,44.1/2đv = 16,52đv.
Với số điểm 16,52đv này Thân vẫn không thể lớn hơn Hỏa 1đv nên Thân vẫn là nhược.
Lý thuyết khi Thân nhược có thể nhận được 50% điểm vượng của Kiêu Ấn sinh cho là:
Điều kiện Cần:
1 - Kiêu Ấn (ý nói điểm vượng trong vùng tâm của Kiêu Ấn) lớn hơn Thực Thương và Tài tinh, thêm Nhật can phải được lệnh.
2 - Kiêu Ấn lớn hơn Thực Thương và Tài tinh, thêm Thân phải lớn hơn Tài tinh và Quan Sát.
3 –…
Xem trong sách.
Điều kiện đủ (chưa có trong sách):
1 – Thân phải có Tỷ Kiếp (tức ngoài Nhật can ra - tức can của trụ ngày - phải có thêm 1 can hay 1 chi Tỷ Kiếp, không tính các can tàng là tạp khí).
2 - …
Sẽ công bố sau.
Với ví dụ thứ 2 này phương pháp xác định Thân vượng hay nhược của VULONG đã đúng.
Sơ đồ dùng toán học của VULONG để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần như sau:
Ở sơ đồ này giống ví dụ trước là không có các tổ hợp.
Ta thấy Bính trụ tháng bị Nhâm trụ năm khắc gần cùng dấu (về ngũ hành), Thân trụ năm cũng bị khắc gần cùng dấu bởi Ngọ trụ tháng và Canh trụ giờ bị khắc trực tiếp bởi Ngọ cùng trụ nên ta phải khoanh tròn 3 can chi này (Bính, Thân và Canh).
Ở sơ đồ này có thêm 2 quy tắc mới là:
1 - Có 3 chi liền nhau là Ngọ ở trụ tháng, trụ ngày và Thìn ở trụ giờ đều không bị khắc gần hay trực tiếp hặc bị hợp mà Ngọ trụ tháng cùng hành với Ngọ trụ ngày nên Ngọ trụ ngày có thể sinh được 1/12đv của nó cho Thìn (nếu Ngọ trụ tháng mang hành sinh cho Ngọ trụ ngày thì Ngọ trụ ngày có thể sinh được 1/6,5đv của nó cho Thìn), vì Ngọ mang hành Hỏa có thể sinh cho Thìn mang hành Thổ.
2 - Thìn trụ giờ có Ngọ gần bên cạch là trụ ngày mang hành sinh cho nó nên Thìn trụ giờ có thể sinh được 50%đv của nó cho Canh cùng trụ (còn nếu Thìn có chi gần bên cạnh cùng hành với nó thì nó chỉ có thể sinh được 1/3đv của nó cho can cùng trụ).
Bây giờ ta tính toán xem điểm vượng của từng can chi vào vùng tâm có bao nhiêu:
1 – Nhâm trụ năm ở trạng thái Thai của lệnh tháng Ngọ có 4,1đv bị Thìn trụ giờ khắc cùng hành cách 3 ngôi giảm 1/19 òn 4,1.18/19đv và vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 4,1.18/1.3/5đv = 2,33đv.
2 – Bính trụ tháng ở trạng thái Đế vượng có 10đv bị Nhâm trụ năm khắc gần cùng dấu giảm 5/12 còn 10.7/12đv = 5,83đv.
3 – Canh trụ giờ ở trạng thái Mộc dục có 7đv bị Ngọ trụ ngày khắc trực tiếp giảm 1/2 còn 7.1/2đv và bị Ngọ trụ tháng khắc cùng dấu cách 1 ngôi giảm thêm 1/4 còn 7.1/2.3/4đv = 2,63đv.
4 – Ngọ trụ ngày ở trạng thái Đế vượng có 10đv bị Nhâm trụ năm khắc cùng dấu cách 2 ngôi giảm 1/9 còn 10.8/9đv = 8,89đv.
Như trên cho biết thì Ngọ trụ ngày có thể sinh được 1/12đv của nó cho Thìn trụ giờ là 8,89.1/12đv = 0,74đv.
5 – Thìn trụ giờ ở trạng thái Đế vượng có 10đv và nhận thêm 0,74đv của Ngọ gần bên cạnh sinh cho (như tính toán ở trên) thành 10 + 0,74đv = 10,74đv, vào vùng tâm giảm 2/5 còn 10,74.3/5đv = 6,44đv.
Thìn trụ giờ có 10,74đv có Ngọ gần bên cạnh mang hành sinh cho nên Thìn có thể sinh được 1/2đv của nó cho Canh cùng trụ (vì Thìn là Thổ có thể sinh cho Canh là Kim cùng trụ) là 10,74.1/2đv = 5,37đv.
6 – Canh trụ giờ ở trạng thái Mộc dục có 7đv được nhận thêm 5,37đv của Thìn cùng trụ sinh cho thành 7đv + 5,37đv = 12,37đv nhưng bị Ngọ trụ ngày khắc cùng dấu cách 1 ngôi giảm 1/4 và Ngọ trụ tháng cũng khắc cùng dấu cách 2 ngôi giảm 1/9 còn 12,37.3/4.8/9đv = 8,25đv.
7 – Ngọ trụ tháng ở trạng thái Đế vượng có 10đv bị Nhâm trụ năm khắc cùng dấu cách 1 ngôi giảm 1/4 còn 10.3/4đv và vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 10.3/4.3/5đv = 4,5đv.
8 – Thân trụ năm ở trạng thái Mộc dục có 7đv và có thêm 4,05đv đắc địa Lộc của can ngày Canh tại Thân thành 7đv + 4,05đv = 11,05đv bị Ngọ trụ tháng khắc gần cùng dấu giảm 5/12 và Ngọ trụ ngày khắc cách 1 ngôi cùng dấu giảm 1/4, vào vùng tâm giảm thêm 1/2 còn 11,05.7/12.1/4.1/2đv = 2,42đv.
Khi cộng tất cả điểm vượng cùng hành trong vùng tâm ta có kết quả như trong sơ đồ trên.
Ta thấy Thân (Kim) có 13,3đv không lớn hơn Hỏa 1đv (vì Hỏa có tới 19,22đv) nên Thân của Tứ Trụ này là nhược nhưng trong trường hợp này Thân có thể nhận được 50%đv của Kiêu Ấn sinh cho (theo quy tắc thứ nhất) thành 13,3đv + 6,44.1/2đv = 16,52đv.
Với số điểm 16,52đv này Thân vẫn không thể lớn hơn Hỏa 1đv nên Thân vẫn là nhược.
Lý thuyết khi Thân nhược có thể nhận được 50% điểm vượng của Kiêu Ấn sinh cho là:
Điều kiện Cần:
1 - Kiêu Ấn (ý nói điểm vượng trong vùng tâm của Kiêu Ấn) lớn hơn Thực Thương và Tài tinh, thêm Nhật can phải được lệnh.
2 - Kiêu Ấn lớn hơn Thực Thương và Tài tinh, thêm Thân phải lớn hơn Tài tinh và Quan Sát.
3 –…
Xem trong sách.
Điều kiện đủ (chưa có trong sách):
1 – Thân phải có Tỷ Kiếp (tức ngoài Nhật can ra - tức can của trụ ngày - phải có thêm 1 can hay 1 chi Tỷ Kiếp, không tính các can tàng là tạp khí).
2 - …
Sẽ công bố sau.
Với ví dụ thứ 2 này phương pháp xác định Thân vượng hay nhược của VULONG đã đúng.
TL: Binh Pháp Tử Bình về Luận Hành Vận và dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược của VULONG
Ví dụ số 51 trong cuốn Trích Thiên Tủy:
Sơ đồ dùng toán học của VULONG để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần như sau:
Tứ trụ này đơn giản giống ví dụ số 1, vì không có tổ hợp lẫn chuyện can sinh cho can hay can chi cùng trụ sinh cho nhau.
Cho nên tôi không lặp lại những điều đã nói trước mà chỉ nói tóm tắt các phần chính thôi.
Bính trụ tháng và Ngọ trụ năm bị Nhâm trụ năm khắc gần và trực tiếp, Thân trụ ngày bị khắc gần bởi Ngọ trụ tháng, Mậu trụ giờ bị khắc trực tiếp bởi Dần cùng trụ. Do vậy ta phải khoanh tròn 4 can chi này để biết chúng không sinh, khắc hay nhận được sự sinh từ các can chi khác.
Điểm vượng trong vùng tâm của các can chi trong Tứ Trụ đã được tính ra trong sơ đồ trên.
Qua sơ đồ trên ta thấy Thân mang hành Kim trong vùng tâm có 13,38đv không lớn hơn Hỏa 1đv (tức 13,38 – 12,83 = 0,55) nên Tứ Trụ này có Thân nhược. Nhưng Thân có thể nhận được 50%đv của Kiêu Ấn sinh cho (giống ví dụ 50 ở trên theo quy tắc 1) thành (13,38 + 5/1/2)đv = 15,88đv.
Ta thấy Thân lúc này có 15,88đv là lớn hơn Hỏa 1đv (vì Hỏa chỉ có 12,83đv). Cho nên ta kết luận Tứ Trụ này có Thân vượng.
Đây là ví dụ thứ 3 dùng phương pháp Toán Học của VULONG để xác định Thân vượng hay nhược đã đúng.
Vậy thì thử hỏi tại sao ví dụ này Thân (Kim) chỉ có 2 can chi Kim là Canh trụ ngày và Thân trụ ngày mà Thân (Kim) lại vượng còn ví dụ 50 Thân (Kim) có tới 3 can chi là Canh trụ ngày, Canh trụ giờ còn thêm Thân trụ năm mà Thân (Kim) vẫn nhược?
Mọi người thử giải thích xem vì sao lại có chuyện hình như vô lý đến như vậy?
Đây chính là sự ưu việt chỉ có ở phương pháp dùng Toán Học của VULONG mới có thể xác định được (nếu nhiều người cần tôi sẽ giải thích sau).
Sơ đồ dùng toán học của VULONG để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần như sau:
Tứ trụ này đơn giản giống ví dụ số 1, vì không có tổ hợp lẫn chuyện can sinh cho can hay can chi cùng trụ sinh cho nhau.
Cho nên tôi không lặp lại những điều đã nói trước mà chỉ nói tóm tắt các phần chính thôi.
Bính trụ tháng và Ngọ trụ năm bị Nhâm trụ năm khắc gần và trực tiếp, Thân trụ ngày bị khắc gần bởi Ngọ trụ tháng, Mậu trụ giờ bị khắc trực tiếp bởi Dần cùng trụ. Do vậy ta phải khoanh tròn 4 can chi này để biết chúng không sinh, khắc hay nhận được sự sinh từ các can chi khác.
Điểm vượng trong vùng tâm của các can chi trong Tứ Trụ đã được tính ra trong sơ đồ trên.
Qua sơ đồ trên ta thấy Thân mang hành Kim trong vùng tâm có 13,38đv không lớn hơn Hỏa 1đv (tức 13,38 – 12,83 = 0,55) nên Tứ Trụ này có Thân nhược. Nhưng Thân có thể nhận được 50%đv của Kiêu Ấn sinh cho (giống ví dụ 50 ở trên theo quy tắc 1) thành (13,38 + 5/1/2)đv = 15,88đv.
Ta thấy Thân lúc này có 15,88đv là lớn hơn Hỏa 1đv (vì Hỏa chỉ có 12,83đv). Cho nên ta kết luận Tứ Trụ này có Thân vượng.
Đây là ví dụ thứ 3 dùng phương pháp Toán Học của VULONG để xác định Thân vượng hay nhược đã đúng.
Vậy thì thử hỏi tại sao ví dụ này Thân (Kim) chỉ có 2 can chi Kim là Canh trụ ngày và Thân trụ ngày mà Thân (Kim) lại vượng còn ví dụ 50 Thân (Kim) có tới 3 can chi là Canh trụ ngày, Canh trụ giờ còn thêm Thân trụ năm mà Thân (Kim) vẫn nhược?
Mọi người thử giải thích xem vì sao lại có chuyện hình như vô lý đến như vậy?
Đây chính là sự ưu việt chỉ có ở phương pháp dùng Toán Học của VULONG mới có thể xác định được (nếu nhiều người cần tôi sẽ giải thích sau).
TL: Binh Pháp Tử Bình về Luận Hành Vận và dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược của VULONG
Ví dụ 4: Lão bán Đậu Hủ
Sơ đồ dùng toán học của VULONG để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần như sau:
Trên sơ đồ ta thấy Mùi trụ năm hợp với Mão trụ tháng hóa Mộc thành công (vì có Ất trụ năm dẫn hóa). Ở đây dễ dàng thấy lực xung của Sửu với Mùi chỉ có 4,8đv (vì Sửu ở trạng thái Bệnh của lệnh tháng Mão có 4,8đv, ở đây chưa tính tới chuyện xung cách 1 ngôi) nhỏ hơn lực hợp của Mão với Mùi có 9đv (vì Mão ở trạng thái Lâm quan có 9đv) nên lực xung này không thể phá được lực hợp. Ta phải khoanh tròn Mão và Mùi và nối chúng với nhau bằng 3 đoạn gẫy khúc như trên sơ đồ.
Kỷ trụ tháng bị khắc gần bởi Ất trụ năm, Canh trụ giờ bị khắc gần bởi Đinh trụ ngày nên ta phải khoanh tròn Kỷ và Canh để biết chúng không còn khả năng sinh hay khắc các can chi khác.
Bây giờ ta tính lần lượt độ vượng của các can chi vào vùng tâm còn bao nhiêu:
1 - Ất trụ năm ở trạng thái Lâm quan của lệnh tháng có 9đv, vào vùng tâm giảm 2/5 còn 9.3/5đv = 5,4đv.
2 – Kỷ trụ tháng ở trạng thái Bệnh có 4,8đv bị Ất trụ năm khắc gần cùng dấu giảm 5/12 còn 4,8.7/12đv, giảm thêm 1/2 vì bị Mão cùng trụ khắc trực tiếp còn 4,8.7/12.1/2đv = 1,4đv.
3 – Đinh trụ ngày trong vùng tâm ở trạng thái Bệnh có 4,8đv không bị can chi nào khắc cả.
4 – Canh trụ giờ ở trạng thái Thai có 4,1đv bị khắc trái dấu gần bởi Đinh trụ ngày giảm 1/3 còn 4,1.2/3đv = 2,73đv.
5 – Tuất trụ năm ở trạng thái Mộc dục có 7đv bị Ất trụ năm khắc khác dấu cách 3 ngôi giảm 1/20 còn 7.19/20đv, vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 7.19/20.3/5đv = 3,99đv.
6 – Sửu trụ ngày ở trạng thái Bệnh có 4,8đv, bị Ất trụ năm khắc cùng dấu cách 2 ngôi giảm 1/9 còn 4,8.8/9đv = 4,27đv.
7 – Mão trụ tháng ở trạng thái Lâm quan có 9đv, vào vùng tâm giảm 2/5 còn 9.3/5đv = 5,4đv.
8 – Mùi trụ năm ở trạng thái Bệnh có 4,8đv đã hóa Mộc vào vùng tâm giảm ½ còn 4,8.1/2đv = 2,4đv.
Khi cộng tất cả các điểm vượng của từng hành trong vùng tâm ta có kết quả như trên sơ đồ.
Ta thấy Thân có 4,8đv nhỏ hơn Thổ có 9,66đv nên Thân là nhược. Thân nhược nhưng Kiêu Ấn có thể sinh được 50%đv của nó cho Thân theo trường hợp 2 (Kiêu Ấn lớn hợn Thực Thương và Tài tinh thêm Thân lớn hơn Tài, Quan Sát) nhưng đáng tiếc Thân không có khả năng nhận được 50%đv của Kiêu Ấn sinh cho vì Thân không có can chi Tỷ Kiếp (không tính can tàng là tạp khí).
Do vậy ta kết luận Thân của Tứ Trụ này là nhược.
Kiểm tra qua 4 ví dụ trên ta thấy phương pháp dùng Toán Học của VULONG đã xác định đúng cả 4 ví dụ theo cách luận hành vận của đại sư Lưu Bá Ôn (tức cũng là phương pháp Luận hành vận của VULONG).
Vậy thì từ giờ chúng ta yên tâm không còn sợ gì khi phải xác định Thân vượng hay nhược của bất cứ Tứ Trụ nào cả (trừ Ngoại cách – tôi sẽ công bố sau).
Khi đã xác định được Thân vượng hay nhược thì chúng ta đã biết hỷ dụng thần và kỵ thần của Tứ Trụ đó rồi, khi đó áp dụng phương pháp Luận hành vận của VULONG (cũng là của đại sư Lưu Bá Ôn) chúng ta sẽ dự đoán đúng phần căn bản, tổng quát của đương số. Còn muốn chính xác hơn là dự đoán phát Tài Quan to hay nhỏ tới cỡ nào thì tùy vào năng khiếu và sự nghiên cứu của từng người.
Khi đã biết và tin tưởng vào 2 phương pháp này thì chúng ta có thể kiểm tra bất cứ bài luận nào xem chúng đúng sai nhiều ít ra sao.
Khi dùng phần mềm lập trình cho phương pháp xác định Thân vượng hay nhược theo đơn vị Độ của ông Thiệu Vĩ Hoa (tôi kết luận như vậy) mà Pxtho1612 đã giới thiệu thì phương pháp của ông Thiệu đúng với ví dụ số 1 và 2 còn sai ví dụ 3 và 4.
3 ví dụ đầu do Pxtho1612 dùng phần mềm ra kết quả đúng ở ví dụ 1 và 2, sai ở ví dụ 3, còn ví dụ 4 tôi dùng phần mềm này kiểm tra ra kết quả Thân vượng là sai, nếu tính thêm ví dụ của Khoai.To thì phần mềm ra kết quả sai là Thân nhược.
Mới dùng 5 ví dụ mà phương pháp của ông Thiệu sai 3 chỉ đúng 2 còn của VULONG thì đúng cả 5. Điều này chứng tỏ phương pháp của VULONG cao hơn hẳn phương pháp của ông Thiệu nhiều bậc.
Lại một lần nữa VULONG đã “Đứng trên vai người Khổng lồ“.
Điều này giống như câu mà cựu Bộ Trưởng bộ Đại Học và Trung Học chuyên nghiệp là Tạ Quang Bửu đã nói với một sinh viên của ông ta trước mặt mọi người (trong phòng thí nghiệm) là “Thầy nhận em làm Thầy một chữ“. Sau này trước khi đi xa cựu bộ trưởng này đã nhắc tới 10 sinh viên ưu tú được chính tay ông đào tạo ra là…, trong đó tên vị sinh viên này đứng thứ 10 (muốn biết hãy gõ lên Google chủ đề “Thằng Bờm hay Thánh Nhân (phần 1 và 2)“ sẽ có ngay – đây là hồi ký của vị sinh viên này).
Sơ đồ dùng toán học của VULONG để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần như sau:
Trên sơ đồ ta thấy Mùi trụ năm hợp với Mão trụ tháng hóa Mộc thành công (vì có Ất trụ năm dẫn hóa). Ở đây dễ dàng thấy lực xung của Sửu với Mùi chỉ có 4,8đv (vì Sửu ở trạng thái Bệnh của lệnh tháng Mão có 4,8đv, ở đây chưa tính tới chuyện xung cách 1 ngôi) nhỏ hơn lực hợp của Mão với Mùi có 9đv (vì Mão ở trạng thái Lâm quan có 9đv) nên lực xung này không thể phá được lực hợp. Ta phải khoanh tròn Mão và Mùi và nối chúng với nhau bằng 3 đoạn gẫy khúc như trên sơ đồ.
Kỷ trụ tháng bị khắc gần bởi Ất trụ năm, Canh trụ giờ bị khắc gần bởi Đinh trụ ngày nên ta phải khoanh tròn Kỷ và Canh để biết chúng không còn khả năng sinh hay khắc các can chi khác.
Bây giờ ta tính lần lượt độ vượng của các can chi vào vùng tâm còn bao nhiêu:
1 - Ất trụ năm ở trạng thái Lâm quan của lệnh tháng có 9đv, vào vùng tâm giảm 2/5 còn 9.3/5đv = 5,4đv.
2 – Kỷ trụ tháng ở trạng thái Bệnh có 4,8đv bị Ất trụ năm khắc gần cùng dấu giảm 5/12 còn 4,8.7/12đv, giảm thêm 1/2 vì bị Mão cùng trụ khắc trực tiếp còn 4,8.7/12.1/2đv = 1,4đv.
3 – Đinh trụ ngày trong vùng tâm ở trạng thái Bệnh có 4,8đv không bị can chi nào khắc cả.
4 – Canh trụ giờ ở trạng thái Thai có 4,1đv bị khắc trái dấu gần bởi Đinh trụ ngày giảm 1/3 còn 4,1.2/3đv = 2,73đv.
5 – Tuất trụ năm ở trạng thái Mộc dục có 7đv bị Ất trụ năm khắc khác dấu cách 3 ngôi giảm 1/20 còn 7.19/20đv, vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 7.19/20.3/5đv = 3,99đv.
6 – Sửu trụ ngày ở trạng thái Bệnh có 4,8đv, bị Ất trụ năm khắc cùng dấu cách 2 ngôi giảm 1/9 còn 4,8.8/9đv = 4,27đv.
7 – Mão trụ tháng ở trạng thái Lâm quan có 9đv, vào vùng tâm giảm 2/5 còn 9.3/5đv = 5,4đv.
8 – Mùi trụ năm ở trạng thái Bệnh có 4,8đv đã hóa Mộc vào vùng tâm giảm ½ còn 4,8.1/2đv = 2,4đv.
Khi cộng tất cả các điểm vượng của từng hành trong vùng tâm ta có kết quả như trên sơ đồ.
Ta thấy Thân có 4,8đv nhỏ hơn Thổ có 9,66đv nên Thân là nhược. Thân nhược nhưng Kiêu Ấn có thể sinh được 50%đv của nó cho Thân theo trường hợp 2 (Kiêu Ấn lớn hợn Thực Thương và Tài tinh thêm Thân lớn hơn Tài, Quan Sát) nhưng đáng tiếc Thân không có khả năng nhận được 50%đv của Kiêu Ấn sinh cho vì Thân không có can chi Tỷ Kiếp (không tính can tàng là tạp khí).
Do vậy ta kết luận Thân của Tứ Trụ này là nhược.
Kiểm tra qua 4 ví dụ trên ta thấy phương pháp dùng Toán Học của VULONG đã xác định đúng cả 4 ví dụ theo cách luận hành vận của đại sư Lưu Bá Ôn (tức cũng là phương pháp Luận hành vận của VULONG).
Vậy thì từ giờ chúng ta yên tâm không còn sợ gì khi phải xác định Thân vượng hay nhược của bất cứ Tứ Trụ nào cả (trừ Ngoại cách – tôi sẽ công bố sau).
Khi đã xác định được Thân vượng hay nhược thì chúng ta đã biết hỷ dụng thần và kỵ thần của Tứ Trụ đó rồi, khi đó áp dụng phương pháp Luận hành vận của VULONG (cũng là của đại sư Lưu Bá Ôn) chúng ta sẽ dự đoán đúng phần căn bản, tổng quát của đương số. Còn muốn chính xác hơn là dự đoán phát Tài Quan to hay nhỏ tới cỡ nào thì tùy vào năng khiếu và sự nghiên cứu của từng người.
Khi đã biết và tin tưởng vào 2 phương pháp này thì chúng ta có thể kiểm tra bất cứ bài luận nào xem chúng đúng sai nhiều ít ra sao.
Khi dùng phần mềm lập trình cho phương pháp xác định Thân vượng hay nhược theo đơn vị Độ của ông Thiệu Vĩ Hoa (tôi kết luận như vậy) mà Pxtho1612 đã giới thiệu thì phương pháp của ông Thiệu đúng với ví dụ số 1 và 2 còn sai ví dụ 3 và 4.
3 ví dụ đầu do Pxtho1612 dùng phần mềm ra kết quả đúng ở ví dụ 1 và 2, sai ở ví dụ 3, còn ví dụ 4 tôi dùng phần mềm này kiểm tra ra kết quả Thân vượng là sai, nếu tính thêm ví dụ của Khoai.To thì phần mềm ra kết quả sai là Thân nhược.
Mới dùng 5 ví dụ mà phương pháp của ông Thiệu sai 3 chỉ đúng 2 còn của VULONG thì đúng cả 5. Điều này chứng tỏ phương pháp của VULONG cao hơn hẳn phương pháp của ông Thiệu nhiều bậc.
Lại một lần nữa VULONG đã “Đứng trên vai người Khổng lồ“.
Điều này giống như câu mà cựu Bộ Trưởng bộ Đại Học và Trung Học chuyên nghiệp là Tạ Quang Bửu đã nói với một sinh viên của ông ta trước mặt mọi người (trong phòng thí nghiệm) là “Thầy nhận em làm Thầy một chữ“. Sau này trước khi đi xa cựu bộ trưởng này đã nhắc tới 10 sinh viên ưu tú được chính tay ông đào tạo ra là…, trong đó tên vị sinh viên này đứng thứ 10 (muốn biết hãy gõ lên Google chủ đề “Thằng Bờm hay Thánh Nhân (phần 1 và 2)“ sẽ có ngay – đây là hồi ký của vị sinh viên này).
TL: Binh Pháp Tử Bình về Luận Hành Vận và dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược của VULONG
Ví dụ số 5: Của Khoai.To:
Sơ đồ dùng toán học của VULONG để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần như sau:
Ta thấy ví dụ này cũng rất đơn giản nhưng vì có Tổ hợp hóa cục nên tôi vẫn giải chi tiết.
Mậu trụ tháng bị Giáp trụ năm khắc gần nên phải khoanh tròn Mậu lại.
Trong Tứ Trụ này ta thấy có tam hợp là Thân trụ ngày, Tý trụ năm và Thìn trụ tháng hợp với nhau hóa Thủy thành công (vì có Nhâm trụ ngày là thần dẫn), do vậy ta phải khoanh tròn 3 chi này và nối chúng với nhau bằng các đoạn khấp khúc như trong sơ đồ trên đã miêu tả.
Tý trụ năm có Thìn gần bên cạnh đã hóa Thủy có hành cùng với nó nên nó sinh được 1/3đv của nó cho Giáp cùng trụ.
Lý thuyết về các tổ hợp là:
Nếu tổ hợp không hóa thì các can chi trong tổ hợp đó vẫn sinh khắc (ngũ hành) với nhau như bình thường.
Nếu tổ hợp không hóa cục hay đã hóa cục (nếu đã hóa cục thì hành của các can chi trong hóa cục đó chính là hành của hóa cục đó) thì các can chi trong tổ hợp hay hóa cục đó có thể sinh hay khắc hoặc nhận được sự sinh từ các can chi cùng trụ. Với các can chi tự do (không ở trong hợp) khi bị khắc trực tiếp bởi các can chi cùng trụ ở trong hợp (đã hóa hay không hóa cục) vẫn có khả năng sinh hay khắc với các can chi tự do khác như bình thường.
Bây giờ ta tính toán xem điểm vượng của từng can chi vào vùng tâm có bao nhiêu:
1 - Mậu trụ tháng ở trạng thái Quan đới của lệnh tháng Thìn có 8đv bị Giáp trụ năm khắc gần cùng dấu giảm 5/12 còn 8.7/12đv = 4,67đv.
2 – Nhâm trụ ngày ở trạng thái Mộ có 2,95đv bị Tuất trụ giờ khắc cùng dấu cách 1 ngôi giảm 1/4 còn 2,95.3/4đv = 2,21đv.
3 – Canh trụ giờ ở trạng thái Dưỡng có 4,3đv không bị can chi nào khắc cả.
4 – Tuất trụ giờ ở trạng thái Quan đới có 8đv bị Giáp trụ năm khắc cùng dấu cách 3 ngôi giảm 1/19 còn 8.18/19đv, vào vùng tâm giảm thên 2/5 còn 8.18/19.3/5đv = 4,55đv.
5 – Thân trụ ngày ở trạng thái Dưỡng có 4,3đv đã hóa Thủy không bị can chi nào khắc cả.
6 – Thìn trụ tháng ở trạng thái Quan đới tại lệnh tháng Thìn có 8đv đã hóa Thủy và không bị can cgi nào khắc vào vùng tâm giảm 2/5 còn 8.3/5đv = 4,8đv.
7 – Tý trụ năm ở trạng thái Mộ có 2,95đv và 4,3đv Kình dưoqng của Nhật can Nhâm có 2,95đv + 4,3đv = 7,25đv vào vùng tâm giảm 1/2 còn 7,25.1/2đv = 3,63đv.
Tý trụ năm có 7,25đv có Thìn là cho gần nó đã hóa Thủy cùng hành với nó nên nó có thể sinh được 1/3đv của nó cho Giáp cùng trụ là 7,25.1/3đv = 2,42đv.
8 – Giáp trụ năm ở trạng thái Suy có 5đv được nhận thêm 2,42đv của Tý cùng trụ sinh cho thành 7,42đv, bị Canh trụ giờ khắc cùng dấu cách 2 ngôi giảm 1/9 còn 7,42.8/9đv và vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 7,42.8/9.3/5đv = 3,96đv.
Khi cộng tất cả điểm vượng cùng hành trong vùng tâm ta có kết quả như trong sơ đồ trên.
Ta thấy Thân (Thủy) có 14,94đv lớn hơn Mộc, Hỏa và Thổ mỗi hành trên 1đv nên Tứ Trụ này có Thân vượng.
Như vậy ta đã sử dụng phương pháp dùng Toán Học của VULONG để kiểm tra 4 ví dụ trên xem Thân vượng hay nhược thì đã đúng 100%.
Các bạn cứ lấy chính 4 ví dụ này mà thực tập để tính đi tính lại nhiều lần theo phương pháp dùng Toán học để xác định Thân vượng hay nhược của VULONG đến khi không còn sai sót nào nữa là đạt yêu cầu. Khi đó kết hợp với phương pháp Luận Hành Vận của VULONG bạn có thể tự hào tham gia tranh luận cùng với bất kỳ cao thủ Tử Bình nào cũng được.
......................................................................................
Tôi xin dừng ở đây vì thấy thế là đủ rồi nếu ai muốn đọc sang đó đọc tiếp
Sơ đồ dùng toán học của VULONG để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần như sau:
Ta thấy ví dụ này cũng rất đơn giản nhưng vì có Tổ hợp hóa cục nên tôi vẫn giải chi tiết.
Mậu trụ tháng bị Giáp trụ năm khắc gần nên phải khoanh tròn Mậu lại.
Trong Tứ Trụ này ta thấy có tam hợp là Thân trụ ngày, Tý trụ năm và Thìn trụ tháng hợp với nhau hóa Thủy thành công (vì có Nhâm trụ ngày là thần dẫn), do vậy ta phải khoanh tròn 3 chi này và nối chúng với nhau bằng các đoạn khấp khúc như trong sơ đồ trên đã miêu tả.
Tý trụ năm có Thìn gần bên cạnh đã hóa Thủy có hành cùng với nó nên nó sinh được 1/3đv của nó cho Giáp cùng trụ.
Lý thuyết về các tổ hợp là:
Nếu tổ hợp không hóa thì các can chi trong tổ hợp đó vẫn sinh khắc (ngũ hành) với nhau như bình thường.
Nếu tổ hợp không hóa cục hay đã hóa cục (nếu đã hóa cục thì hành của các can chi trong hóa cục đó chính là hành của hóa cục đó) thì các can chi trong tổ hợp hay hóa cục đó có thể sinh hay khắc hoặc nhận được sự sinh từ các can chi cùng trụ. Với các can chi tự do (không ở trong hợp) khi bị khắc trực tiếp bởi các can chi cùng trụ ở trong hợp (đã hóa hay không hóa cục) vẫn có khả năng sinh hay khắc với các can chi tự do khác như bình thường.
Bây giờ ta tính toán xem điểm vượng của từng can chi vào vùng tâm có bao nhiêu:
1 - Mậu trụ tháng ở trạng thái Quan đới của lệnh tháng Thìn có 8đv bị Giáp trụ năm khắc gần cùng dấu giảm 5/12 còn 8.7/12đv = 4,67đv.
2 – Nhâm trụ ngày ở trạng thái Mộ có 2,95đv bị Tuất trụ giờ khắc cùng dấu cách 1 ngôi giảm 1/4 còn 2,95.3/4đv = 2,21đv.
3 – Canh trụ giờ ở trạng thái Dưỡng có 4,3đv không bị can chi nào khắc cả.
4 – Tuất trụ giờ ở trạng thái Quan đới có 8đv bị Giáp trụ năm khắc cùng dấu cách 3 ngôi giảm 1/19 còn 8.18/19đv, vào vùng tâm giảm thên 2/5 còn 8.18/19.3/5đv = 4,55đv.
5 – Thân trụ ngày ở trạng thái Dưỡng có 4,3đv đã hóa Thủy không bị can chi nào khắc cả.
6 – Thìn trụ tháng ở trạng thái Quan đới tại lệnh tháng Thìn có 8đv đã hóa Thủy và không bị can cgi nào khắc vào vùng tâm giảm 2/5 còn 8.3/5đv = 4,8đv.
7 – Tý trụ năm ở trạng thái Mộ có 2,95đv và 4,3đv Kình dưoqng của Nhật can Nhâm có 2,95đv + 4,3đv = 7,25đv vào vùng tâm giảm 1/2 còn 7,25.1/2đv = 3,63đv.
Tý trụ năm có 7,25đv có Thìn là cho gần nó đã hóa Thủy cùng hành với nó nên nó có thể sinh được 1/3đv của nó cho Giáp cùng trụ là 7,25.1/3đv = 2,42đv.
8 – Giáp trụ năm ở trạng thái Suy có 5đv được nhận thêm 2,42đv của Tý cùng trụ sinh cho thành 7,42đv, bị Canh trụ giờ khắc cùng dấu cách 2 ngôi giảm 1/9 còn 7,42.8/9đv và vào vùng tâm giảm thêm 2/5 còn 7,42.8/9.3/5đv = 3,96đv.
Khi cộng tất cả điểm vượng cùng hành trong vùng tâm ta có kết quả như trong sơ đồ trên.
Ta thấy Thân (Thủy) có 14,94đv lớn hơn Mộc, Hỏa và Thổ mỗi hành trên 1đv nên Tứ Trụ này có Thân vượng.
Như vậy ta đã sử dụng phương pháp dùng Toán Học của VULONG để kiểm tra 4 ví dụ trên xem Thân vượng hay nhược thì đã đúng 100%.
Các bạn cứ lấy chính 4 ví dụ này mà thực tập để tính đi tính lại nhiều lần theo phương pháp dùng Toán học để xác định Thân vượng hay nhược của VULONG đến khi không còn sai sót nào nữa là đạt yêu cầu. Khi đó kết hợp với phương pháp Luận Hành Vận của VULONG bạn có thể tự hào tham gia tranh luận cùng với bất kỳ cao thủ Tử Bình nào cũng được.
......................................................................................
Tôi xin dừng ở đây vì thấy thế là đủ rồi nếu ai muốn đọc sang đó đọc tiếp
TL: Binh Pháp Tử Bình về Luận Hành Vận và dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược của VULONG
Vì chủ đề "Nạp âm Lửa dưới núi là Lửa của cháy rừng" ở phần "Coi Tử Bình" bị xóa nên tôi đăng lại ở đây mới đúng về mục "Trao đổi học thuật"
Tôi đã tìm được nạp âm "Lửa dưới núi" chính là lửa cháy rừng phía dưới của ngọn núi đó, vì phần dưới của ngọn núi cây cối chỉ có thể mọc dưới độ cao khoảng 2,5 km so với mặt biển. Bằng chứng là khi áp dụng vào các ví dụ thực tế thấy đúng.
Tôi đã tìm được nạp âm "Lửa dưới núi" chính là lửa cháy rừng phía dưới của ngọn núi đó, vì phần dưới của ngọn núi cây cối chỉ có thể mọc dưới độ cao khoảng 2,5 km so với mặt biển. Bằng chứng là khi áp dụng vào các ví dụ thực tế thấy đúng.
TL: Binh Pháp Tử Bình về Luận Hành Vận và dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược của VULONG
Tôi đã tìm ra bài viết của HOA CÁI đã tiết lộ bí mật động trời về ông Đinh Văn Tân chủ nhiệm trang web Tử Vi Lý Số.org từ năm thành lập 2002:
Hoa Cái
Hội Viên
•
• Hội Viên TVLS
•
• 5381 Bài viết:
• 18625 thanks
Credits: 1000000
• @Mention
Gửi vào 21/03/2021 - 21:18
Vài lời
TVLS đi vào mạt vận nên có hiện tượng đội trên đạp dưới . Tôi vẫn biết VuLong là người như thế nào, chỉ cần tone down và lên võ đài chứng minh công phu để rèn luyện võ công là đủ chứng minh .
Tại đây ai ra sao tôi đều biết hết . Tôi tán thưởng ý chí của VuLong mong anh nhẹ nhàng 1 chút là thành công .
Tôi mà viết thẳng mắng mấy thằng hè nịnh bợ VIP rồi quay sang chê bai tiền bối thì bài tôi đã bị xóa .
Người có thực lực không cong lưng ca tụng sư phụ rồi thẳng chân đạp người khác (cấp tiền bối).
Học bao nhiêu lâu nay, bôn tẩu giang hồ chỉ như vầy sao ?
Công lực của bác Tân về TB chỉ là sơ cơ (beginner).
HC
………………………………………………….
Thảo nào căm thù VULONG đến như vậy.
VULONG đã phải thay hàng chục nick là như vậy, trong khi các trang Web khác không hề thay đổi.
Ông Đinh Văn Tân là chủ nhiệm trang Web Tử Vi Lý Số.org (lúc đầu là Tử Vi Lý Số.com) thành lập năm 2002. Vậy mà đến nay ông ta vẫn chỉ ở mức "sơ cơ", (beginner) , nghĩa là ông ta vẫn chưa qua phần Nhập Môn của môn Tử Bình. Hơn nữa ông ta tới nay trên 90 tuổi thì rõ ràng ông ta đã nghiên cứu Mệnh Học Đông Phương ít nhất 70 đến 80 nam rồi chứ ít gì. Theo tôi ông ta nên được ghi vào danh sách Kỷ Lục Guinness mới xứng đáng chứ?
Nếu Tử Bình như vậy thì làm sao ông ta qua được phần Nhập Môn của môn Tử Vi?
Mọi người có thấy kỳ lạ không?
Dĩ nhiên Hoa Cái bị khóa nick ngay sau đó
Hoa Cái
Hội Viên
•
• Hội Viên TVLS
•
• 5381 Bài viết:
• 18625 thanks
Credits: 1000000
• @Mention
Gửi vào 21/03/2021 - 21:18
Vài lời
TVLS đi vào mạt vận nên có hiện tượng đội trên đạp dưới . Tôi vẫn biết VuLong là người như thế nào, chỉ cần tone down và lên võ đài chứng minh công phu để rèn luyện võ công là đủ chứng minh .
Tại đây ai ra sao tôi đều biết hết . Tôi tán thưởng ý chí của VuLong mong anh nhẹ nhàng 1 chút là thành công .
Tôi mà viết thẳng mắng mấy thằng hè nịnh bợ VIP rồi quay sang chê bai tiền bối thì bài tôi đã bị xóa .
Người có thực lực không cong lưng ca tụng sư phụ rồi thẳng chân đạp người khác (cấp tiền bối).
Học bao nhiêu lâu nay, bôn tẩu giang hồ chỉ như vầy sao ?
Công lực của bác Tân về TB chỉ là sơ cơ (beginner).
HC
………………………………………………….
Thảo nào căm thù VULONG đến như vậy.
VULONG đã phải thay hàng chục nick là như vậy, trong khi các trang Web khác không hề thay đổi.
Ông Đinh Văn Tân là chủ nhiệm trang Web Tử Vi Lý Số.org (lúc đầu là Tử Vi Lý Số.com) thành lập năm 2002. Vậy mà đến nay ông ta vẫn chỉ ở mức "sơ cơ", (beginner) , nghĩa là ông ta vẫn chưa qua phần Nhập Môn của môn Tử Bình. Hơn nữa ông ta tới nay trên 90 tuổi thì rõ ràng ông ta đã nghiên cứu Mệnh Học Đông Phương ít nhất 70 đến 80 nam rồi chứ ít gì. Theo tôi ông ta nên được ghi vào danh sách Kỷ Lục Guinness mới xứng đáng chứ?
Nếu Tử Bình như vậy thì làm sao ông ta qua được phần Nhập Môn của môn Tử Vi?
Mọi người có thấy kỳ lạ không?
Dĩ nhiên Hoa Cái bị khóa nick ngay sau đó