TỬ VI NGHIỆM LÝ TOÀN THƯ

Các bài học thuật về môn tướng pháp, danh tính, chữ viết
ngo_ngot
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 702
Tham gia: 14:21, 03/03/11

TL: TỬ VI NGHIỆM LÝ TOÀN THƯ

Gửi bài gửi bởi ngo_ngot »

CĂN CỨ VÀI YẾU ĐIỂM NÀO ĐỂ QUYẾT ĐỊNH GIỜ SINH
Bằng 4 yếu tố năm tháng ngày giờ lập nên lá số không đủ cặn kẽ cho một sự thể riêng biệt của cá nhân. Thấy số lượng quá ít chỉ trên nửa triệu lá số khác nhau nên sự trùng điệp thường đánh một dấu hỏi lớn cho người muốn biết lá số. Cứ trung bình trên khoảng đất ½ triệu cây số vuông, có 50 triệu dân tức là với 700 cây số bề dài thời tiết phong thổ không thể khác biệt nhau cho lắm có thể kết quả trung bình 100 người có lá số giống nhau, tối thiểu cũng phải từ 10 đến 20 số. Không lẽ một quốc gia như thế có đến 15 ông thủ tướng (vì số giống nhau) .
Cái kẽ hở đó là hành động riêng biệt của mỗi người khác nhau nên hoạ phước phải tăng giảm theo số lượng nhiều hay ít. Nhưng khi lên bổng đắc chí hay xuống thấp buồn thảm thời gian phải giống nhau vì cùng thời gian hưng bại (đại tiểu vận).
Số đã trùng điệp như thế, có e ngại 4 yếu tố năm tháng ngày giờ lại trật sai nữa thật rất khó cho người có số muốn hiểu biết cuộc đời. Năm tháng là 2 khoảng có thể chính xác. Riêng ngày chỉ sợ thời gian giữa Hợi và Tí vì Hợi thuộc ngày hôm trước, Tí là khởi điểm ngày hôm sau. Còn giờ là một đề tài phức tạp. Xưa kia tổ tiên ta trước vấn đề nan giải trong lúc các bà mẹ sinh con không phân biệt được giờ trên hay dưới. Các cụ thường bốc đũa lên đếm nếu số chẵn là âm, số lẻ là dương ( luật cơ ngẫu) để quyết định giờ nào vào lúc đó . Thật là nan giải.
Bây giờ có đồng hồ, người lấy số cứ mặc nhiên tính 2 tiếng đồng hồ là một giờ của số, cứ thế mà đi không chút ngập ngừng. Xin thưa không phải dễ dàng như thế. Giờ đồng hồ do một bộ máy cân đều nhau 24 giờ thời gian. Còn giờ của số là thời dạo theo thời tiết như Xuân và Thu thời gian ngày và đêm gần như bằng nhau, còn Hạ và Đông có lúc ngày dài hơn đêm, lại có khi đêm dài hơn ngày . Cái gì đêm phải trả về cho âm, cái gì ngày phải tính theo dương. Luật âm dương luôn luôn đặt trước mọi vấn đề nan giải của lý học, như mùa hạ từ giờ Dần đến giờ Mùi có thể dài đến hơn 13 giờ. Từ Thân đến Sửu chỉ còn trên 10 tiếng mà thôi. Trái lại mùa Đông khoảng thời gian về đêm từ Thân đến Sửu phải dài hơn thời gian của dương từ Dần đến Mùi,
tức là giờ phải theo 24 tiết khí xê dịch trong vòng 15 ngày, mà cũng không phải có ngày giờ nhất định theo tiết đó bắt đầu, còn theo khí trời thay đổi đột ngột sớm hay chậm một hai ngày. Vấn đề rắc rối như vậy phải làm sao giải quyết ? Cho nên giờ sinh là một điều kiện rất khó và cũng là phần quan trọng trong lá số. Số sai giờ là số của người đâu phải của mình mình cứ khư khư chấp nhận mà thấy đời sống không như số đã xắp xếp, chẳng thà không có số còn hơn, đỡ bận tâm vì số.
Vậy phải làm sao với đề tài lẫn lộn khó giải quyết giờ sinh như thế. Thưa rằng nếu có lầm lẫn chỉ có thể giờ trên với giờ dưới, không thể xa cách đến 3 -4 giờ vì thời tiết thay đổi chỉ trong một giờ sai biệt có nghĩa là chỉ giữa 2 giờ dính liền nhau như Dần với Mão hay Mão với Thìn, không thể lầm lẫn Mão với Ngọ hoặc Tí.
Đây là một nguyên lý có tính cách định luật chứng minh dựa vào sự việc: tính nết và liên hệ với đại gia đình ( cha mẹ anh em) và tiểu gia đình ( chồng vợ) (1). Điều kiện tiên quyết căn bản là Mệnh đặt ở cung dương hay âm, cung âm và dương có tính cách khác hẳn nhau, sao thêm vào chỉ là phụ thuộc trừ phần nào. Biết rằng những cung dương có tính cách được sinh nhập ( nhị hợp) thì người ngồi đó phải là người chặt chẽ cẩn thận, trái lại cung âm là người phóng khoáng rộng rãi ( sinh xuất ).
Hai điều sau chỉ là phụ khoản bổ túc cho điều một tỏ bầy tình trạng giữa người có số với gia đình. Theo luật âm dương thì giờ dương là trưởng, giờ âm là thứ. Nhưng còn nhiều chi tiết ngoắt nghéo như dương nam , dương nữ, âm nam âm nữ, cung dương cung âm và Không Kiếp chi phối nhưng vẫn vẽ lên hình bóng dầu không chính xác là tượng trưng, như người âm nam sanh giờ dương ở cung dương là trưởng nam chính xác, nhưng người âm nam sanh giờ dương ở cung âm là người thứ thay trưởng lo toan mọi việc gia đình cũng là trưởng hình thức. Vậy có thể tóm tắt sắp xếp các chi tiết như sau:
a/- Dương nam sanh giờ dương là con trưởng
b/- Âm nam sanh giờ dương là con trưởng hình thức ( cung dương)
c/- Âm nam sanh giờ dương ở cung âm + Không Kiếp ( con thứ thay trưởng lo toan mọi việc gia đình)
d/ - Âm nam sanh giờ âm ở cung dương + Không Kiếp ( trưởng bất lực nhờ con thứ thay chân lo liệu)
e/ - Âm nam sanh giờ âm ở cung âm ( thứ nam bao bọc cả gia đình)
g/ - Dương nữ sanh giờ dương là trưởng nữ trong một ngành
h/ - Âm nữ sanh giờ âm ở âm cung là trưởng nữ bao sân
i/ - Dương nữ sanh giờ âm ở cung âm là thứ nữ
Những trường hợp trên đây là điển hình , còn tuỳ theo thay đổi cung (âm dương) và bộ sao Không Kiếp ( thay đổi miễn cưỡng).
TRONG TỬ VI VÒNG TRÀNG SINH CÓ Ý NGHĨA GÌ
Ngôi nhà cổ Tử vi rất là huyền bí, có thể nói lâu nay đóng kín, những người ý muốn đột nhập vào để quan thưởng những gì hay đẹp, tất phải lần mò tìm những nút bấm như nhị tam hợp xung chiếu để hòng mở toang cửa nhìn thẳng vào. Xưa nay mới chỉ dòm qua những kẽ hở tạm thấy sau luồng cửa có 3 lần màn phong ngăn chặn ( 2 tấm dài một tấm ngắn).
Tấm ngắn treo sát xà nhà thòng xuống để dấu ánh sáng mặt trời trên cao rọi sáng ( thập niên can), một tấm dài từ mặt đắt đứng lên để che kẽ hở ở dưới đất ( thập nhị địa chi). Còn một tấm căng ở giữa nối liền 2 tấm treo và đứng giáp nhau có ý làm tấm màn kép cho cả 2 tấm kia . Xem ra thật kỹ càng chu đáo.
Ba bức màn này có nghĩa là 3 vòng Lộc tồn (theo Thiên can) Thái Tuế ( theo địa chi) và Tràng sinh ( theo nạp âm cung an mệnh) mà dịch thành cục diện của số.
Lộc tồn nghĩ lại khác gì hưu bổng hay quĩ tiếp kiệm của một cá nhân dành dụm qua từng kiếp người để cuộc sống hiện tại có vốn mà kinh doanh thụ hưởng cho 4 trường hợp đủ 12 tuổi : Giáp Dần Ngọ Tuất, Ất Hợi Mão Mùi, Canh Thân Tí Thìn, Tân Tỵ Dậu Sửu.
Thái Tuế ấn định đời sống tư cách hạnh kiểm tứng cá nhân, vị trí tam hợp Thái tuế là chỗ ngồi cao trọng trao cho ai nhận xét ra có thành tiếng tăm thiện ý lãnh trách nhiệm những công việc có tính cách lợi ích không vị kỷ để rồi thành công đồng hưởng.
Phân tách một tuổi theo Can và Chi như thế tưởng cũng đã là kỹ lưỡng, thêm vòng Tràng sinh để biết cục diện biến đổi thật quá hoàn hảo. Có đi vào đường huyền bí mới biết công cho ai mải miết khám phá. Sống đời nay nại ra kiếp trước chuyển vận, rồi từ nhập thế cuộc cho đến nhắm mắt tay xuôi, biết đâu bánh xe còn chuyển bao nhiêu vòng nữa.
Nhìn kỹ vòng Tràng sinh quả là một vòng xích nối liền không phân chỗ nào đầu nơi đâu cuối, lôi kéo vòng xe chạy. Phân tích thường tình một thế nhân ra đời phải bắt đầu bằng thai nghén trong bụng mẹ . Vòng Tràng Sinh lại do Tràng Sinh mà đi để rồi tới thuyết gắn nối thêm 2 giai đoạn Thai Dưỡng là 2 mắt xích dính Tuyệt với Sinh thành một vòng kín chuyển dịch đến không biết bao giờ hết. Cái hết này có lẽ là ngày tận thế tắt hết cả ngưng đọng trong hư vô.
Đoạn đời từ Sinh đến Dưỡng là con đường từ: trẻ thơ (Sinh) dậy thì (Dục) ganh đua (Đới) hãnh diện (Quan) oanh liệt (Vượng) tàn nhược (Suy), ốm đau (Bệnh) mãn kiếp (Tử) chôn lấp (Mộ) quên đứt (Tuyệt) tái sinh (Thai) nuôi đắp (Dưỡng), là biến diện tuần tự từng quãng đời nối đuôi ăn khớp với nhau thì hẳn không còn tam hợp cách?.
Thưa rằng tam hợp Tràng sinh là phần tinh thần như sau:
- Sinh Vượng Mộ: Đường hoàng mồ yên
- Dục Suy Tuyệt: Vội ham tàn tích
- Đới Bệnh Thai: Thịnh suy hoàng dương
- Quan Tủ Dưỡng : Giấy rách giữ lề
Bốn tam hợp này xưa nay chỉ nhìn Sinh Vượng Mộ là cách tốt đẹp nhất của người giữ gìn được nhân nghĩa, đến lúc qua đời vẫn được mồ yên mả đẹp mến trọng. Dục Suy Tuyệt là cách ăn xổi ở thì vội ham lục tuỵ, lúc tàn tạ không ai nhắc đến. Đới Mệnh Thai là giấc mộng vàng từ áo mão cân đai đến ốm đau bệnh hoạn chỉ là thịnh suy luân kiếp. Quan Tử Dưỡng là đời đã được hãnh diện dầu đến chết cũng phải tu duỡng tâm linh như tờ giấy trắng có rách nát cũng gấp giữ cho còn nếp.
Vòng Tràng sinh có tính cách là một vòng kín lớn nối liền chuyển biến từng giai đoạn rõ ràng, khi xếp thành tam hợp cũng vẫn giữ được ý nghĩa cả 12 đoạn khúc của vòng, thay đổi là tuỳ Mệnh Thân đóng ở vị trí nào vẫn cho đời là một bài học triết lý răn dạy để xử thế. Người có số đang diễn hành trong cảnh nào tự mà dấn thân tìm đường để sống. Đó là cái đặc điểm của số mới gọi là Vòng Tràng sinh từ thực tại nối tiền kiếp đến hậu thân mãi mãi.
Biết rằng tam hợp là căn bản chính của lý số học, thực chất là dương và âm. Thân Tí Thìn là thế chính của dương và Tỵ Dậu Sửu là căn bản của âm. Còn Dần Ngọ Tuất và Hợi Mão Mùi là 2 thế phụ tức là Thiếu dương và Thiếu âm. So với 2 thế chính luôn luôn ở thế bị khắc nhập.
Vậy Sinh Vượng Mộ và Dục Suy Tuyệt là 2 thế chính. Còn Đới Bệnh Thai, Quan Tử Dưỡng là 2 thế phụ, tức là Sinh Vượng Mộ Đới Bệnh Thai là cùng phái . Bên kia Dục Suy Tuyệt Quan Tử Dưỡng đứng chung.
Nhìn vào lá số thấy Mệnh và Thân đều cùng chung đặt nằm vào một phía như Mệnh ở dương cung thì Thân luôn luôn ở dương. Không bao giờ có thể đóng ở âm được mặc dầu Phúc hay Quan hay Di hay Tài hay Thê Phu. Vòng Tràng sinh cũng theo thế âm dương mà định nghĩa:
<!--[if !supportLists]-->1- <!--[endif]-->Đường hoàng cư xử được người mến quí, lẽ thịnh suy chỉ là luân chuyển ( Sinh Vượng Mộ Đới Bệnh Thai)
<!--[if !supportLists]-->2- <!--[endif]-->Ăn sổi ở thì không ai tưởng nhớ, giấy rách phải cố giữ lấy lề ( Dục Suy Tuyệt Quan Tử Dưỡng )
Thân cũng như Mệnh nếu an ở bên nào cũng chỉ ở trong chung hoàn cảnh đó không thể nhảy qua bên kia được. Mỗi chữ trong vòng Tràng Sinh là một đoạn đường đời, Mệnh ở Sinh hay Vượng đi đến Bệnh hay Tử đương số phải hiểu lẽ thịnh đã qua nay gắng chịu cảnh bĩ cực. Bản chất là đường hoàng thấu đáo mồ yên mả đẹp là quí, lý gì lợi gì cũng không tránh được thời tàn tạ.
Người tuổi Giáp Dần sanh tháng 3 giờ Dần, Mệnh an ở Dần, Thân cư Quan ở Ngọ (Tam hợp Thái Tuế) mệnh có Lộc Tồn ngay ở Dần ( Lộc Tồn tuổi Giáp chỉ để riêng cho hàng chi Dần Ngọ Tuất) với Bác sĩ ở Mệnh và Tướng Quân ở Thân ( Ngọ cung). Tuổi Giáp Mệnh an ở Dần là hoả cục, Tràng Sinh ngay ở Dần cho người dương nam và Đế vượng cho Thân ở Ngọ. Ba vòng Thái Tuế Lộc Tồn Tràng Sinh đã về hẳn minh bạch phẩm hạnh cá nhân cách là hạng nào, dầu cho Phá Quân thủ mạng ( tối hãm ) cũng không được giá trị của một Thái Tuế huống chi còn là Lộc Tồn Bác sỹ và Tràng sinh (nhân hậu). Tóm lại lá số này là của người xứng đáng danh hiệu làm người .
Sau đại vận 6 -15 ở Mệnh đến 16-25 ở Phụ Mẫu cung Mão gặp hạn Thiên Không do Đào Hoa chi phối thúc đẩy ( vòng Thái Tuế) Kình Lực (vòng Lộc Tồn) Mộc dục ( vòng Tràng Sinh) phụ giúp.
Hỏi rằng người này có nên tàn phá tuổi thiếu niên, vội tìm thụ hưởng và có thể nào tránh được hạn Thiên Không ( Thái Tuế) Kình Lực ( Lộc Tồn) Mộc Dục ( Tràng Sinh) ?
Hẳn là không vạn lần không, Không nên phá tuổi mới chớm nở và cũng không thể tránh nổi đại vận hắc ám Thiên Không này chỉ còn cách từ thiên mệnh mà đi (còn nhỏ dại chưa hiểu cuộc đời trách nhiệm phải là những bậc phụ huynh và ân sư giáo huấn) . Gác bỏ mọi phù vân lần bước theo tứ đức ( Thiên đức Nguyệt đức Phúc đức Long đức) vì Thiên Không bao giờ cũng đứng kèm tứ đức trong tam hợp và xung chiếu.
Do là giai đoạn Dục Suy Tuyệt của Tràng sinh người hiểu biết phải nối tiếp theo Quan Tử Dưỡng ( vội ham thì tàn tích giấy rách phải xếp có lề ) để chữa chạy cho con em trong vực thẳm.
Còn nhiều giai đoạn như 46-55 quá ư rực rỡ công nghiệp có thể nói là phi thường xuất chúng do Quan Phù ( Thái Tuế) Tướng Quân ( Lộc Tồn) vòng Đế vượng (Tràng Sinh) đồng tình tô điểm không bút nào tả hết bản hùng ca.
Người ở vị trí Thái Tuế dẫu có ở trong tam hợp Dục Suy Tuyệt ( vòng Tràng Sinh) không thể không tỉnh ngộ giấy rách phải giữ lấy lề, xử thế phóng tay để rồi không còn ai tưởng nhớ, có chăng chỉ là thân bại danh liệt.
Tóm lại căn bản ưu tiên của Tử Vi là vòng Thái Tuế. Còn vòng Tràng sinh là giáo lý nhắc nhở thế nhân chuỗi dài thời gian cuả một kiếp theo khuôn vuông tròn mà xử thế dầu ở hoàn cảnh nào thịnh hay suy.
Ba vòng của Tử vi có thể định nghĩa mỗi vòng như sau:
Thái tuế: hạnh kiểm tư cách
Lộc Tồn: Hoàng lương một kiếp
Tràng sinh: Đường dài xử thế
CHÍNH KHÔNG BẰNG CHIẾU CHIẾU KHÔNG BẰNG GIÁP
Lý số tử vi có 3 phương thức chính. Tam nhị hợp và xung chiếu. Tam hợp gồm có chính và chiếu như Mệnh an ở Ngọ thì Ngọ là chính Dần và Tuất là chiếu . Cái gì ở trong 3 cung Dần Ngọ Tuất là sử hữu do liên minh tam hợp gom góp. Giáp chỉ là xóm giềng cư xử tốt thì giúp đỡ nhau, bằng như mich lòng thì tự lực cánh sinh. Giáp mà có ảnh hưởng mạnh là khi Mệnh đứng được thuận lý.
Giáp là một bộ đôi sao đứng ở bên sát vách một cung nào. Như câu đã nói: chính không bằng chiếu, chiếu không bằng giáp, hẳn giáp đã có một ích lợi nên mới được để cao tột phẩm như thế. Vậy thử phân tích các trường hợp của Giáp để xem cái giá trị đến mức độ nào.
Trên hết là các bộ chính tinh. Tử vi Thiên Phủ là một bộ đôi đứng đầu 2 chòm sao âm dương. Cách giáp Tử Phủ hẳn là lý tưởng! Thật thế, chỉ là lý tưởng, và là lý tưởng của cuộc bất ổn tang thương. Không bao giờ có cách giáp Tử Phủ ở các cung khác ngoài 2 cung Dần Thân, mà Mệnh ở Dần hay Thân giáp Tử Phử thì luôn luôn Mệnh viên ở giữa hoặc là Cơ Âm hay vô chính diệu tưởng không tốt đẹp gì. Còn các chính tính khác đều đứng thành một bộ ở thế chân vạc tam hợp để củng cố uy thế của phe phái như Sát Phá Tham, Phủ Tướng. Riêng Cơ Nguyệt Đồng Lương cũng chỉ có một trường hợp Thất Sát ở Dần Thân giáp Đồng Lương ở Sửu Mão hoặc Mùi Dậu là tượng ảnh thế Xuân Thu êm đẹp ( Tử Phủ Vũ Tướng và Sát Phá Tham đề huề).
Phần đặc biệt lý lẽ chính không bằng chiếu, chiếu không bằng giáp, chỉ tính cách quang minh của bộ Nhật Nguyệt là cặp đèn rọi sáng suốt, là bộ óc tinh anh chính xác của dịch lý nói chung không riêng gì số học Tử vi.
Thái dương ở Ngọ là cảnh tượng tuyệt đich quan minh được Mệnh đóng ở đó phải nói là kiêu hùng. Một khi có Thái dương ở Ngọ Mệnh đóng ở Dần đương nhiên là vô chính diệu, hay Mệnh ở Tí phải là Thiên Lương. Bộ Nhật Nguyệt này ( Nhật ở Ngọ Nguyệt ở Thân) chiếu soi tỏ Mệnh vô chính diệu ở Dần hay Thiên Lương ở Tí một cách thấu đáo rõ ràng lòng minh bạch không bờ bến của vô chính diệu và tâm hồn nhân hậu thiên phú của dương nhân hành diện trong hoàn cảnh,
Phải chăng chính không bằng chiếu là ở đây.
Chiếu không bằng giáp cũng chỉ có 2 trường hợp là Thiên Phủ ở Mùi đắc Thái Dương ở Ngọ Thái âm ở Thân và Tham Vũ ở Sửu được Cự Nhật ở Dần, Đồng Âm ở Tí mau tỉnh ngộ không theo hùa Liêm Phá ở Dậu, làm điều bất chính, mới có câu: “ Tham vũ đồng hành Sửu cung vãn cảnh, biến di thần phục” được lòng người quí trọng do bộ Nhật Nguyệt giáp biên hiểu rõ đâu là đường quang lẽ phải mà đi.
Nói đến song giáp thường thường lưu ý đến các bộ trung dịch mà phải là những bộ trung tinh có tính cách quan trọng do năm tháng và giờ sinh quyết định, ý nghĩa gần như chính tinh được ngày sinh tạo thành. Ba bộ Long Phượng (năm) Tả Hữu (tháng) và Xương Khúc (giờ) có liên hệ mật thiết đến 4 mộ cung ( 2 dương xuất phát là Thìn Tuất, 2 âm tập trung là Sửu Mùi) bắt đầu đi từ Thìn Tuất để rồi gặp nhau ở Sửu Mùi, thì chỉ có Mệnh ở Sửu Mùi mới có giáp. Trường hợp ảnh hưởng là khi 2 sao đó cùng vừa tới sát nách Mệnh, còn như qua mặt Mệnh rồi mới đứng kể như là quá trớn bỏ qua Mệnh có ý nghĩa gần như không thực có. Nhưng dầu sao có vẫn hơn không.
Trong 3 cách giáp Long Phượng Tả Hữu Xương Khúc, duy cách giáp Long Phượng chỉ gỡ gạc phần nào cho Mệnh mà thôi vì Thái Tuế ( Mệnh ở Mùi ) là tam hợp Thiếu Dương, Mệnh ở Sửu là tam hợp Thiếu âm).
Bộ Khôi Việt có tính cách đàn anh lãnh đạo nhưng phần chánh nghiêng về Phước Thiện nên được danh hiệu là Thiên Ất quí nhân (đã có bài nói riêng) như bộ Thiên Quan Thiên Phúc đều do hàng Can quyết định ngôi vị để ban phước lành. Giáp Khôi Việt chỉ có ở 2 cung Thìn Tuất mà phải là tuổi Bính Đinh Nhâm Tí.
Khốc Hư tính theo năm xuất phát từ Ngọ cung kẻ đi xuôi (Hư) người đi ngược ( Khốc) được liệt danh là bại tinh nên thường ở đất nghịch. Khốc đắc ý ở các cung âm, còn Hư hoàn toàn thất ý trên cả vòng luân chuyển thường trực cặp kè Tuế Phá. Giáp Khốc Hư thì có 4 tuổi Sửu Mùi và Tỵ Hợi ở 2 cung Tí và Ngọ.
Thai Toạ và Quang Quí 2 bộ phụ tinh trong quĩ đạo Tả Hữu Xương Khúc chỉ đắc lực ở hoàn cảnh chính, chiếu đã thấy giảm thiểu thực dụng, giáp thiết tưởng không còn mấy đáng kể.
Giáp sát tinh có nhiều tính cách phức tạp, Không Kiếp Kình Đà Hoả Linh có khuôn mặt trình diễn mà vị trí đóng cũng không giống nhau. Không Kiếp chỉ có 2 cung Tỵ Hợ là có giáp. Hoả Linh là sao giảm thiểu sức khoẻ nhất là đối với người tuổi Kim Canh Tân Thân Dậu, dầu đắc địa cũng phải đề phòng tật ách bệnh phổi dễ bị hư hao. Giáp Kình Đà cần phải phân tích kỹ càng vì một khi giáp Kình Đà là Mệnh đã thọ hưởng Lộc tồn. Kình đắc địa ở 4 mộ cung Thìn Tuất Sửu Mùi, Đà miếu địa ở tứ sinh Dần Thân Tỵ Hợi. Điều cần nhỡ kỹ vị trí Lộc Tồn luôn luôn có tiền Kình hậu Đà, nghĩa là Kình Đà phải thay đổi vị trí tuỳ theo hướng của Lộc Tồn đi thuận hay đi nghịch, Kình dẫn đầu Đà hậu cứ. Mệnh có Lộc Tồn đi thuận hay nghịch. Kình Đà đắc địa thì hưởng Lộc Tồn phải coi chừng đến giáp, trái lại hãm địa là phải khó khăn chưa kể đến tuổi Mệnh có phải là tam hợp Lộc Tồn thuận lý âm dương.
Đối với lục sát tình giáp không những làm khó khăn tai hại cho bản thân, còn khuấy đảo cả phụ mẫu huynh đệ của đương số. Sát tinh cùng tính cách hung hãn nên tránh có mặt ở các cung liên hệ đến người thân của mệnh như phụ mẫu huynh đệ phu thê tử tức phải chịu ảnh hưởng như:
1/ Không Kiếp thì vất vả bất hoà
2/ Kình Đà thì hình thương xa cách
3/ Linh Hoả thì giảm thọ sức khỏe suy yếu
Cụ Sào Nam tuổi Đinh Mão sanh ngày 11 tháng 5 giờ Sửu thành danh một đại văn hào cách mạng nhờ bộ Riêu Xương Khúc ở Mệnh, nhất là Mã hợp cảnh bền gan cùng tuế nguyệt. Thân cụ đắc Thiên Lương Long Phượng giáp Thai Toạ Quang Quí trúng cách nên cụ ở hoàn cảnh nào cũng bình tĩnh uy nghiêm điềm đạm lo toan việc nghĩa. Tả Hữu của cụ ở truờng hợp lỡ bước (Tả ở Thân Hữu ở Ngọ ) nên cụ không mấy đa đạng tham bàn thêm mọi sự thế.
Điêu Thuyền xưa kia là 1 vũ nữ sống trong thời tam quốc tuổi Nhâm Tuất sanh ngày 23 tháng 8 giờ Dần . Mệnh ở Mùi Tả Hữu chiếu giáp Xương Khúc thuận lý thành một tài nữ có nghệ thuật đổ quãn xiêu thành đình nghiêng nước đổ, cứu được Hiến Đế khỏi bị truất ngôi, khiến nổi Lã Bố hạ Đổng Trác. Thân ở Hợi giáp Kình Đà đắc địa nên hưởng Lộc Tồn một cách dễ dàng, mặc dầu Lộc Tồn tuổi Nhâm không phải là vĩnh viễn, Lưu Hà khiến Kiếp Sát canh chừng được Hóa Khoa giải cứu. Nữ nhân đắc Khoa phải nhìn nhận là tối quý.
Riêng bộ Nhật Nguyệt thấy trúng cách chính không bằng chiếu, chiếu không bằng giáp
Đầu trang

ngo_ngot
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 702
Tham gia: 14:21, 03/03/11

TL: TỬ VI NGHIỆM LÝ TOÀN THƯ

Gửi bài gửi bởi ngo_ngot »

ĐÂU LÀ MỘT CÁI SỐ ĐẸP
Một hồi thấy đua nhau nói đến lá số có 4 Tí hay 4 Sửu , 4 Dần , 4 Ngọ... như có ý cho là một lá số phi thường tốt đẹp.Thật ra chả hiểu cái tốt đẹp nó ở chỗ nào, thiển nghĩ có lẽ cho là một cây làm thành rừng , 4 cái hợp lại thành một đoàn như góp gió thành bão có một sức làm nên những việc đáng nể.
Theo lý học đông phương phải hợp căn bản là âm dương, ngũ hành . Nếu giảng như trên thật là không nguyên tắc. Thỉnh thoảng có một vài trường hợp may mà đẹp như 3 tuổi Thân Tí Thìn có 4 Thân, 4Tí, 4 Thìn thì Mệnh Thân được an vị tại tam hợp Thái Tuế:
Tuổi Tí là tháng 11 giờ Tí thì Mệnh lập ngay ở Tí (Thái Tuế)
Tuổi Thân tháng Thân là tháng 7 giờ Thân thì Mệnh ở Tí (Quan Phù)
Tuổi Thìn tháng Thìn là tháng 3 giờ Thìn thì Mệnh cũng ở Tí (Bạch hổ)
3 Tuổi Tỵ Dậu Sửu có 4 Tỵ, 4 Dậu, 4 Sửu thì luôn luôn có Mệnh ở thế thua thiệt bạc đãi (Trực phù, Thiếu âm và Long Đức)
3 tuổi Dần Ngọ Tuất có 4 Dần, 4 Ngọ, 4 Tuất thì Mệnh bị đặt ở thế bất mãn ( Tuế Phá, Tang Môn, Điếu Khách ).
3 tuổi Hợi Mão Mùi có 4 Hợi, 4 Mão , 4 Mùi thì Mệnh được đặt ở thế trội, khôn khéo xử thế đời chỉ là giấc mộng sắc sắc không không ( Thiếu Dương, Tử phủ, Phúc đức, Thiên Không).
Biết rằng người đời ở tam hợp Thái Tuế là ngôi vị đã dành sẵn có bộ Long Phượng Hổ Cái thì cái trách nhiệm của người đó phái thế nào cho xứng đáng. Những người ở trong vị trí Tuế Phá Tang Môn Điếu khách, số đặt cho một hy vọng là thường xuyên có Thiên Mã ( nghị lực ) và Thiên Mã này có giúp ích cho đương số được tới mức độ nào hay không lại là phần tuổi của mình đem so với hành nào nơi Thiên Mã đóng. Những người ở vị trí Thiếu Dương, Tử Phủ , Phúc Đức là ở chỗ ngã ba đường, biết đi thì gặp Tứ Đức, lầm lỗi thì thấy Thiên Không. Những người ở vị trí Thiếu âm , Long Đức, Trực phù tuy là bị đời bạc đãi, tỉnh ngộ ra vẫn thấy tươi thắm vì Hồng Loan tô điểm hay đền bù bằng Lộc tồn nhỏ giọt.
Về phương diện ngũ hành thì năm tháng ngày giờ mới chỉ là 4 còn thiếu một . Nếu muốn cho đủ cả 5 thì phải tính thêm một yếu tố hoặc bằng “ khắc sanh” hay tháng của mẹ thụ thai, nghĩa là người bắt đầu thành thai trong bụng mẹ theo giờ thời đạo mà tính theo khắc.
Thấy rất khó mà canh trúng nổi khắc, ngày giờ còn lấy sai bê bối, vậy chỉ còn cách cách lấy tháng thụ thai của bà mẹ chứ ngày cũng khó biết . Cứ trung bình tháng thụ thai là tháng trước 9 tháng ra đời với năm tháng ngày giờ đã sắp xếp theo định mệnh thêm vào cho đủ 5 yếu tố. Kinh nghiệm riêng đã thấy có phần trúng vì nó là đại lược của đời mình.
a/- Hành của tháng thụ thai sanh cho hành năm, hành năm sanh cho hành tháng, hành tháng sanh cho hành ngày, hành ngày sanh cho hành giờ, thí dụ:
Tháng thụ thai là tháng Kỷ Dậu = Thổ
Năm sanh là năm Canh Tuất = Kim
Tháng sanh là tháng Bình Ngọ = Thuỷ
Ngày sanh là ngày Tân Mão = Mộc
Giờ sanh là giờ Mậu Tí = Hoả
Thổ sanh Kim
Kim sanh Thuỷ
Thuỷ sanh Mộc
Mộc sanh Hoả
Tất cả theo hệ thống tương sinh từ trên xuống dưới là truờng hợp gặp nhiều may mắn xuôi chiều.
b/- Hành khắc từ trên xuống dưới như hành của tháng thụ thai khắc hành năm sanh, năm khắc tháng, tháng khắc ngày, ngày khắc giờ là trường hợp cuộc đời gặp nhiều gián đoạn.
c/ -Hành bị khắc người như tháng thụ thai bị năm khắc, năm bị tháng khắc , tháng bị ngày khắc, ngày bị giờ khắc, là cuộc đời gặp nhiều trái ý.
d/- Đủ ngũ hành nhưng không sanh hay khắc nối nhau theo một chiều hệ thống từ trên xuống dưới, chỗ thì sinh chỗ thì khắc như tháng thụ thai sanh cho năm, năm lại khắc tháng, tháng sinh cho ngày, ngày khắc giờ, cuộc đời thăng trầm đáng buồn phiền.
Bốn trường hợp nêu trên có đủ ngũ hành. Những cá nhân này không phải là hạng thiếu tư cách và đáng trọng dầu ở hoàn cảnh nào.
Còn những tình trạng thừa hành này thiếu hành kia như 3 Kim 2 Thuỷ hay 2 Mộc Hoả 1 Thổ hay 4 Thổ 1 Kim thì nhận xét theo tánh nghĩa ngũ thường như:
Mộc = Thiện tâm ( nhân)
Thổ = Thành thực (tín)
Kim = Minh bạch ( nghĩa)
Thuỷ = nghiêm chỉnh ( trí)
<!--[if !supportLists]-->1- <!--[endif]-->Người 3 Kim 2 Thuỷ là người thừa minh bạch và nghiêm chỉnh ( nghĩa và trí)
<!--[if !supportLists]-->2- <!--[endif]-->Người 2 Mộc, 2 Hoả, 1 Thổ là người dư thiện tâm và tỏ tường ( nhân lễ )
<!--[if !supportLists]-->3- <!--[endif]-->Người 4 Thổ 1 Kim là người quá ử thành thực ( tín)
Phần sao hẳn ai cũng công nhận Tử Vi là đáng quí tượng trưng cho ngôi vị thụ hưởng xứng đáng với nhũng tính cách nhân hậu phúc đức như 12 ngôi vị nhận thấy:
Tử vi ở Ngọ = Đế ngự ngai vàng thịnh trị có Liêm Phủ ở Tuất và Vũ Tướng ở Dần là văn võ tríêu khánh hội ( có tánh cách điều hoà vì Ngọ bị Tí khắc nhập)
Tử vi ở Tỵ = Đế Tuần du có Thất Sát hộ giá phải dùng Liêm Phá ở Dậu càn quét và Tham Vũ ở Sửu kiến thiết.
Tử vi ở Thìn = Đế xuất chinh có Thiên Tướng phò chiến đắc Liêm Trinh ở Thân và Vũ Phủ ở Tí quản trị đất nước hữu hiệu.
Tử vi ở Mão = Đế yếm thế vì Tham Lang uy hiếp ( tất cả bộ Sát Phá Tham ) hãm phản vật.
Tử vi ở Dần = Đế được Thừa tướng bình thư (Thiên Phủ) được Liêm Tướng ở Ngọ và Vũ Khúc ở Tuất điều khiển việc nước hùng mạnh.
Tử vi ở Sửu = Đế bị vây hãm ( Phá Quân phản) tất cả bộ Sát Phá Tham hãm trấn giữ.
Tử vi ở Tí = Bá ngự đại triều, rất hùng mạnh nhờ Liêm Phủ ở Thìn Tuất và Vũ Tướng ở Thân, uy hiếp mọi đối phương ( Thân Tí Thìn khắc xuất Dần Ngọ Tuất).
Tử vi ở Hợi = Bá xuất chinh phải khó khăn vì Liêm Phá ở Mão không mấy mạnh.
Tử vi ở Tuất = Bá chiến đấu nhờ Liêm Trinh ở Dần và Vũ Phủ ở Ngọ xuất sắc đất nước phồn thịnh
Tử vi ở Dậu = Bá yếu thế (Tham Lang ở đây không đủ tư thế chuyên quyền) chỉ là dối trên gạt dưới.
Tử vi ở Mùi = Bá bị vây hãm bởi Phá Quân phản, chỉ trông cậy vào Thiên Tướng ở Sửu khắc phục
Tử vi ở Thân = Bá được quân sư trình thư, thế nước được sáng rạng nhờ Liêm Tướng ở Tí, Vũ khúc ở Thìn và Thái dương ở Tỵ sinh nhập.
Trong 12 vị trí điều làm cho ta thấy là tư cách của ThiênTướng rất cao đẹp, dầu ở tình thế nào cũng vẫn là người khẳng khái, bất chấp cả sát tinh thâm nhập, vì ở vào vị trí nào Thiên Tướng luôn luôn chống lại Phá Quân ( tư cách nghĩa hiệp). Còn Thất Sát thường xuyên dằn mặt Thiên Phủ ( cũng như Thiên Tướng xung chiếu Phá Quân) đòi hỏi, trái nghịch với Thiên phủ là người khoan thai, ôn hoà, xét hành động bằng mọi lý do rồi mới kết luận. Tuy vậy cũng có trường hợp Thất Sát phục tài Thiên Phủ là vị trí Thất Sát ngưỡng đẩu ( ý nghĩa mà thôi, vị trí vẫn xung chiếu).
Còn ngôi vị thứ 3 không giống Thiên Tướng thường xuyên xung chiếu Phá Quân hay Thất Sát luôn luôn nghịch chống Thiên Phủ ( bất kể ở đâu Thiên Tướng cũng xung Phá Quân và Thất Sát xung Thiên Phủ) có một tư cách sống bằng lý tưởng riêng biệt nhân nghĩa phúc hậu cũng không kém Tử vi. Nếu đắc chí làm thầy muôn thuở, bằng không cũng thành tao nhân mặc khách với non cao rừng rậm, biển cả sông dài. Phú với người này là cơm áo sao cho có miễn để sống. Quí là não óc cao cả bầu trời cùng Nhật Nguyệt soi tỏ ( tuỳ theo đắc địa hay hãm địa với cả bộ Nhật Nguyệt). Đó là sao Thiên Lương ở trong 12 chỗ đứng địa bàn, chỗ nào cũng có nhật hay nguyệt bồi đắp như:
a/- Khổng Khâu có Thiên Lương ở Tí, Thái Dương ở Ngọ bị Triệt ( tuổi Canh) Thái âm ở Thân ngộ Kỵ
b/- Khổng Minh đắc Thái Dương, Thiên Lương ở Mão
Một người vì ân tình luỵ của Lưu Bị mà buộc lòng làm quân sư, một nguời không đắc thời cũng thành vạn thế sư.
Có phải Thiên Lương là lương tâm của trời đất.
Cái đẹp dứt khoát của số vẫn là vị trí nào ở trong tam hợp Thái Tuế mà Mệnh Thân đã được an bài
BÀN THỂ THỰC CHẤT CỦA THÁI TUẾ
Trên 30 năm học hỏi với nhiều đợt từ biệt Tử vi, đến nay mỗi lần cầm trên tay một lá số, việc đầu tiên là tính coi xem Mệnh Thân ở trong một vị trí nào của Thái Tuế. Thành thực mà nói lòng riêng những kính mến nhưng ai đâu là người được đặt trong vị trí tam hợp tuổi.
Một Mệnh hay một Thân, chứ đứng nói cả Mệnh lẫn Thân hay Mệnh Thân đồng cung Thái Tuế, đó là chuyện quá sức mong chờ hãn hữu . Nhớ lại ngày mới học Tử vi, theo chỉ dẫn của vị ân sư tài tử thì sợ Thái Tuế hơn cọp dữ. Nào là tù tội, nào là miệng tiếng thị phi, tranh chấp tang thương. Nay thì cảm phục không chút trù trừ do dự và thật lòng tin tưởng những công cuộc của người Thái Tuế đã làm như theo có sứ mạng.
Hai mươi năm gần đây, lần chắp nối lại tơ duyên với Tử Vi lần cuối, tự đặt câu hỏi tại sao lại 3 vòng: Thái Tuế, LộcTồn, Tràng Sinh. Sao không 2 vòng, 4 hay 5 vòng. Rồi tìm ngay nguyên nhân nào sinh ra vòng Lộc Tồn, Thái Tuế, và Tràng sinh. Thấy ngay đáp ứng do Thiên can, Địa chi và Nạp âm của tuổi. Tưởng Thanh nhân phân tách đời thế nhân không phải là sơ sài, thật là đầy đủ.
Thái Tuế được đặt theo địa chi của tuổi của số, có nghĩa là người đó có được đặt ngay vào vị trí sở hữu chủ là chính mình hay không? Nếu mình nằm ngay Thái Tuế, tất nhiên mình có bổn phận có trách nhiệm nơi miếng đất mình sanh tồn. Mình dẫu có lòng dạ hững hờ như kiều dân đến ăn bám ở nhờ chỉ nghĩ đến tư lợi, hay thì ở dở thì bước. Nằm trong tam hợp Thái Tuế là ở trong thế liên minh hữu nghị thuộc địa quyền công dân không phải là mất, vẫn được đối đãi ngang hàng cùng người sinh quán, vẫn tự do làm bổn phận mỗi khi đất mẹ cần đến. Một là phải suy tính kỹ càng ( Quan Phù), hai là khi đã vén tay áo là hăm hở cho đến cùng ( Bạch hổ).
Người trong tam hợp Thái Tuế là người có miếng đất cắm dùi có bổn phận trách nhiệm cho miếng đất mình sinh sống, không lẽ mình phá hoại căn nhà mình đã được cha truyền con nối có dầy dẫy kỷ niệm hào hùng hay bi đát, tổ tiên đã gây dựng lên tốn hao biết bao mồ hôi cơm gạo, để mình thụ hưởng mà mình quên bổn phận bảo tồn và tô điểm thêm lên cho khởi sắc. Phải chăng Thái Tuế là chỗ ngồi tinh thần cao đẹp nhất của tuổi số
Người trong tam hợp Thái Tuế, tối thiểu là có tư cách, từ người làm mướn đến tột đỉnh cao sang tuỳ theo thứ lớp, địa vị người đó đứng trong xã hội. Ví dụ tam hợp Thái Tuế là khu đất chắc nịch, nhà nào được xây dựng lên được yên lòng, không sợ lún sâu như chỗ sình lầy đổ rác phủ qua một lớp đất mỏng, người xấu số không biết cứ lập lên 3, 4 tầng lầu. Rồi ngày qua tháng lại chỉ một cơn mưa dầm, nhà sẽ đổi ngay bộ mặt thành nứt nẻ nghiêng vẹo. Thử hỏi ai là người gan dạ tin ở sự vững chắc của căn nhà mà dám dọn đồ đến trú ngụ.
Người được một Mệnh hay Thân ở tam hợp Thái Tuế , kể như đã có một thành quả nào rồi, nhưng chưa hẳn mãn ý. Như Mệnh ở tam hợp Tuế Phá mà Thân ở tam hợp Thái Tuế là người tuy thiếu thời gặp bước lưu ly nhưng tấc dạ sắt son không thể ùa theo vô nghĩa. Tự mình vẫn vạch lấy con đường lý tưởng mình đi. Thương cho ai mệnh Thái Tuế mà Thân bị lọt vào tam hợp Tuế Phá, cuộc đời của mình không thiếu sót bổn phận. Vậy mà vãn niên thấy như bị ép buộc, không cho phép mình được thi thố theo sở ước, mà còn bị bạc đãi nữa là khác ( có 2 trường hợp : người dương nam mệnh ở Thái Tuế thì ngoài 50 tuổi hết hạn Thái Tuế, tiếp ngay đến hạn Thiên Không. Trái với người âm nam trên 30 tuổi phải gặp Thiên Không như người được huấn nhẫn trước rồi ngoài 40 mới được Thái Tuế bù lại .Tưởng đó là một cuộc thử thách cho người, có chi nhẫn nại và nghịch lý âm dương). Nào phải là người miệng nói đạo nghĩa là thực hiện lại theo ma giáo, vì định mệnh đã tạo cho người đó là Thái Tuế ( Mệnh) thì không thể có đầu óc làm quấy. Sở dĩ không đạt được trọn vẹn ý muốn vì một lẽ gì khiến mình buộc lòng phải theo, mình không thể thổ lộ, cam chịu sự bạc bẽo đành nhận lãnh không đổ trách nhiệm cho người khác ( Thân Tuế Phá) .
Từ 14 chính tinh đến trung tinh và sát tinh chỉ là đồ trang hoàng, bài trí làm cho căn nhà có vẻ phong phú đài các hay nghèo khó xác xơ, nói toạc ra là chỉ lớp áo phủ ngoài một pho tượng vàng hay đất làm cho người ngoài dễ lầm lạc ngộ nhận.
Như 2 sao Tử Phủ ở Dần Thân hay Phá Quân ở Thìn Tuất chẳng hạn. Người nào được khoác áo Tử Phủ hẳn cho là người đó ở hạng quân tử, đứng đắn, kẻ cả đàn anh, còn Phá Quân ở Thìn Tuất hẳn là quân bất nhân, lừa thầy phản bạn.
Thưa rằng nghĩa nó là thế không phải là không đúng. Nhưng nếu không xét từ cội rễ là một chuyện bé cái lầm. Nếu là Tử Phủ ở Dần với người tuổi Dần Ngọ Tuất, Mệnh ở ngay Dần Ngọ Tuất thì xin khoanh tay kính chào. Đó là người xứng đáng được trọng vọng dầu có bị Không Kiếp trà trộn, chỉ thêm lòng bác ái ngại cho ai không được đời biết đến hay bị đố kỵ mà yếm thế, hạng người này không phải ăn ở hai lòng, xin dâng danh hiệu là Nhạc Bất Quần, ngụy quân tử nếu được thêm 2 ông phụ tá Không Kiếp trợ lực, thật không biết kính dâng ông cái thẻ bài gì để ông đeo cho xứng đáng tư cách chúa trùm của ông.
Còn Phá Quân ở Tuất, nếu là người tuổi Dần Ngọ Tuất chỉ là người mang tiếng phản bội không trung thành, đáng được minh oan. Thật ra chỉ vì một cái thế kẹt gì đó mà oan tình, ngoài ra lòng thành thực chỉ có cao xanh hoạ chăng thấu rõ. Trái lại Phá Quân ở Tuất mà lại tuổi Thân Tí Thìn thì xin miễn nói vì tiếng đặt cho sao và vị trí đóng nó đã đầy ý nghĩa rõ ràng không cần bàn thêm.
Một người Tả Hữu Không Kiếp cũng vậy. Trường hợp ở vị trí tam hợp tuổi có Tả Hữu Không Kiếp là người đa tài mà không đắc dụng. Ngược lại người có Tả Hữu Không Kiếp ở vị trí tam hợp Tuế Phá là người không thể đặt niềm tin, một khi họ chủ trương một công việc gì có thể coi là công ích vị tha, luôn luôn người đó nghĩ đến bản thân trước có thừa thãi mới là lợi chung.
Vậy cung và sao là 2 bộ phận của Mệnh viên, cũng là hình thể chắc hay ốp, khoẻ mạnh hay ốm yếu. Sao là phấn son tô điểm, là quần áo sang trọng hay xềnh xoàng vá rách. Một thân hình khoẻ mạnh lồng trong bộ quần ào rách vá, vẫn thấy người đó đi đứng chững chạc của nội trạng lực sỹ hào hùng, khác xa hẳn mã người chệch choạng lẩy bẩy với bộ gấm vóc mà mặt mũi hốc hác, chân tay khẳng khiu.
Tìm tòi thực chất của Thái Tuế là vạch vòi, với mốc căn nguyên bảsố của người, như các cụ xưa kia, mỗi người khi dựng vợ gã chồng cho con cháu, là xem xét dòng giống của đầu rễ cội gốc nào, gia phong ra sao, nay thấy là chuyện không phải không có ý nghĩa sâu xa.
Vòng Thái Tuế có thể nói là phần căn bản của số chỉ 12 chỗ đứng mà thấu đáo hết cốt cách của người, thêm phần sao để biến dạng phần nào. Rồi cùng thời gian đưa dẫn thế nhân từ nơi sáng vào chỗ tối, hay từ chỗ tối dìu dẵt đến nơi sáng, tức là vận hành cũng không ngoài vòng Thái Tuế điều khiển.
Nhớ lại cũng một ngày đầu xuân năm ngoái, đựơc tiếp một cụ tuổi Giáp Dần ( 62 tuổi ). Cụ sợ mất thì giờ của tôi, cụ chỉ xin 15 phút để nói chuyện Tử vi.
Xin thưa ràng tôi có tật ít khi xem số của ai để số trước mặt, chỉ xin cho biết năm tháng ngày giờ sinh và vẽ ngay số bằng hình hỷ hà học theo tam hợp, để người có số dễ hiểu đời mình thế nào. Thấy Mệnh cụ đóng ở Tuất có Phá Quân . Tôi hỏi ngay có phải cụ chỉ thắc mắc ở chỗ Phá Quân Tuất này không? Hỏi rồi, tôi tự trả lời ngay: cụ chỉ bị đời hiểu lầm là Phá Quân, thật ra Cụ một lòng sắt son với bạn hữu. Cụ Tuổi Dần, Mệnh ở Tuất là trong tam hợp Thái Tuế. Người của tam hợp Thái Tuế không có tư cách của Phá Quân thường tình, dầu rằng tuổi Giáp Dần là Thuỷ Mệnh mà Phá Quân lại là thuỷ tinh.
Ông cụ đứng ngay lên, nắm tay tôi, xin phép một ngày trở lại coi. Cụ quá ư cảm động.
Viết lên bài này để kỷ niệm ngày tái tiếp cụ cũng ngày đầu Xuân năm nay ( Ất Mão) với đầy ý nghĩa. Cụ đã cho biết tất cả những gì đã đem đến cho cụ trên 30 năm nay vì Phá Quân ở Tuất cung của người tuổi Dần Ngọ Tuất.
SỰ NGANG NGỬA GIỮA BỐN TAM HỢP CỤC
Tam hợp cục là bề thế lực lượng của một khối 3 chi chung lưng góp sứcgồm lại bồi đắp cho nhau để sanh tồn. Với 12 chi thì có 4 tam hợp là Thuỷ nhị cục ( Thân Tí Thìn) Mộc tam cục ( Hợi Mão Mùi) Kim Tứ cục ( Tỵ Dậu Sửu) và Hoả lục cục ( Dần Ngọ Tuất ). Thấy trong mỗi cục đều có Thổ ( Thìn Tuất Sửu Mùi) nằm ở trong là nguồn tập hợp diễn chuyển của 4 thế chính là Tí ( Thuỷ) Ngọ ( Hoả) Mão ( Mộc ) Dậu ( Kim) với 4 nguồn sinh lực là Dần sinh Ngọ, Thân sinh Tí, Tỵ sinh Dậu, Hợi sinh Mão.
Đứng trong địa bàn 12 cung chia nhau theo phương hướng thành thế chân vạc rõ ràng chống nhau ( Dậu đối diện với Mão, Tí ngó thằng Ngọ). Theo sự khắc chế thì chỉ có Kim khắc Mộc và Thuỷ khắc Hoả là hai thế trên tay luôn luôn dễ dàng đàn áp đối phương. Nếu thế thì Dần Ngọ Tuất (Hoả) và Hợi Mão Mùi (Mộc) sinh ra để rồi lần hồi còi cọc tự tiêu diệt không còn nở mặt nở mày mà sinh sống ra sao?
Đây là cả một đề tài cần phân tách căn nguyên, 12 chi đã phân chia âm dương đều nhau với ngũ hành:
Tí (dương) Hợi ( âm ) = thuỷ
Dần Mão =mộc
Ngọ Tỵ =hoả
Thân Dậu =Kim
Thìn Tuất Sửu Mùi = thổ
4 chi Tí ( Thuỷ) Ngọ (Hoả) Mão ( Mộc) Dậu ( Kim) đứng theo phương hướng ngay chính Bắc Nam Đông Tây với đủ màu sắc riêng biệt xám đỏ xanh trắng biểu hiện cho 4 mùa thời tiết xuân (xanh) hạ (đỏ) thu ( trắng) đông ( xám) cho nên Tí Ngọ Mão Dậu được liệt danh là tứ chính. Dần Thân Tỵ Hợi mới là sơ khai của tứ chính nguồn sinh lực bắt đầu nầy nở nên khi gặp tứ chính thì tải bồi một cách đắc lực như Hợi gặp Mão, Dần gặp Ngọ, Tỵ ( Mậu Thổ ) gặp Dậu, Thân gặp Tí nên được coi là tứ sinh. Thìn Tuất Sửu Mùi là nơi xuất phát và cũng là nơi tập trung tức là sân khấu diễn biến của kim mộc thuỷ hoả là Mộ cung, có nghĩa là mọi vật đều do đất mà ra đến khi tàn tạ lại trở về với đất.
Một khi đã đứng thành cục, lẽ sanh tồn luôn luôn phải có sanh và khắc, như Kim Tỵ Dậu Sửu khắc Mộc Hợi Mão Mùi và Thuỷ Thân Tí Thìn khắc Hoả Dần Ngọ Tuất là hai thế đụng chạm dữ dội dứt khoát người thắng kẻ bại, trái với Hoả Dần Ngọ Tuất khắc Kim Tỵ Dậu Sửu thì Hoả sẽ vì Kim mà sa lầy ngấm tắt. Nếu Mộc gặp Kim, Kim gặp Hoả, Hoả gặp Thuỷ là những trường hợp phải cam chịu sự thua thiệt (khắc nhập). Còn Kim gặp Thuỷ hay Mộc gặp Hoả là cảnh sút kém ( sinh xuất) không như Mộc gặp Thuỷ , Hoả gặp Mộc là được thuận lợi ( sinh nhập).
Đứng trên địa bàn 12 cung 4 tam hợp chia nhau đứng xen kẽ thành thế ba chân vạc đối diện nhau, nếu là xung khắc như Thuỷ đối diện Hoả , Kim đối diện Mộc. Còn nối đuôi nhau là sinh hoá như Thuỷ đứng sau Kim, Kim sau Hoả ( trong Hoả có Kỷ Thổ) , Hoả sau Mộc, Mộc sau Thuỷ.
Tuy là đối chiếu vẫn là Kim khắc Mộc và Thuỷ khắc Hoả nhưng vị trí thuộc ảnh hưởng luật âm dương, thì Mộc và Hoả ở thế lợi điểm quang sinh của Thái Dương, không như Kim và Thuỷ chìm đắm ở cảnh mập mờ đen tối của Thái âm. Một đằng lấy uy lực để khống chế, một đằng nhờ cậy sáng tỏ làm lợi điểm cao danh.
Ngọ cung là ngôi vị tuyệt đích cao đẳng nhưng vẫn e dè Tí cung xung phá. Mão địa là cả một cảnh bình minh xuân sắc vẫn ngại ngùng trước tiết thu phân lấn át. Hai khối này trội hơn đối phương về thanh thế.
Tỵ Dậu Sửu đàn áp dễ dàng Hợi Mão Mùi vì sắc bén lại kém hẳn về nhất trí thường xuyên có mâu thuẫn ( Phá Toái) cho nên Phá Toái chỉ có ở 3 cung Tỵ Dậu Sửu làm ngòi chia rẽ phá hoại.
Kiểm điểm những sở trường, những yếu điểm của 4 tam hợp cho thấy Dần Ngọ Tuất chiếm vị trí đàn anh ưu thế hơn cả với nhiều thành tích ghi danh kim cổ. Chiếc chiếu khiêm nhượng cuối hàng là liên danh Hợi Mão Mùi với vẻ nho sinh trung hậu của mùa xuân êm dịu, tuyệt không thể khắc chế một ai, cam phận ôn hoà lương thiện. Giữa Tỵ Dậu Sửu và Thân Tí Thìn, Thân Tí Thìn được Tỵ Dậu Sửu bồi đắp mới ngang nhiên dằn mặt Dần Ngọ Tuất chiếm bảng á nguyên ngay sau Dần Ngọ Tuất.
Tính cách Phá Toái ( đập nát) như trong 4 số sau đây không thể không quan tâm lưu ý:
1- Tuổi Canh Tuất sanh ngày 29-3 giờ Mão
2- Tuổi Kỷ Mùi sanh ngày 4-1 giờ Sửu
3- Tuổi Kỷ Mùi sanh ngày 8-4 giờ Thìn
4- Tuổi Quí Hợi sanh ngày 24-11 giờ Mão
a/ Tuổi Canh Tuất mệnh nằm phải ở Sửu thấy ngay Phá Toái ngang dọc nội tâm. Tiếc thay Tham Vũ, ngôi nhà xây cất đúng phẩm lượng cốt sắt ( Kim mệnh có Vũ Khúc làm nòng cốt). Tam hóa liên châu giáp nhật nguyệt là cả một phẩm cách xuất chúng. Phá Toái tung hoành liên kết với vị trí Thiếu âm khiến đời cứ một lầm hai lỡ, thiệt hại đáng phàn nàn. Thân ở Mùi trong tam hợp Thiếu Dương thiên phú cho sự thông minh hơn người. Phải chăng áo nâu tràng hạt do Thiên Đức Nguyệt Đức, Phúc đức điểu khiển nên khuôn xử trùng với tam hóa liên châu về đêm tự mãn làm thầy tinh thần còn hơn lăn lộn trong thế cuộc không thành cơm cháo gì. Tuần Triệt nơi đây với Tam đức, ngay cả Thiên Quan Thiên Phúc là các đấng cao dầy đức độ cứu nhân độ thế là việc đáng trọng, kể như là không có,, nghĩa là Tuần Triệt không có sai phạm gì đến uy thế năng cản nổi Quan Phúc và Tứ Đức.
b/ Hai tuổi Kỷ Mùi Mệnh cùng ngồi ở Sửu. Biết rằng 4 tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi hễ Mệnh an ở Sửu thì thấy tức khắc Phá Toái đã ở trong gan ruột, mối bất ồn chờ cơ hội quấy phá. Với hai tuổi Mùi, Phá Toái thêm vây cánh Tuế Phá trợ lực, còn gì là Phủ Tướng, Tham Vũ Quyền Lộc. Một Tuần bằng kim cương đóng ngay ở Mệnh mài dũa Phá Toái thành chiếc trâm vàng tô điểm cho Tham Vũ, Thiên Phủ có giá trị ( một trường hợp hung tinh ngộ chế) biết tiết chế tham vọng ( ngụ cư trên đất người ). Người Tham Vũ được hưởng phần danh dự dư âm rất tương xứng không thể hơn ai vì Thân cũng vướng cảnh địa Tang Môn Liêm Phá. Nếu không có Triệt ở Thân Tuần ở Mệnh, màn cảnh Tham Vũ Liêm Phá Quyền Lộc đắc cách Thiên Mã ở Tỵ ( ngựa xích thố) cho người Hoả mệnh, làm gì không một cõi biên thuỳ ngang dọc tấm thân Từ Hải vẫy vùng. Người Thiên Phủ gỡ gạc được Thân ở vị trí Bạch Hổ ( tam hợp Thái Tuế) tình cảnh Tử Tham không hợp ( Tham Lang sinh nhập, Tử Vi sinh xuất) phải là Liêm Trinh nơi Mùi ở ngôi vị Thái Tuế ( tam hợp của Thân) đắc Quyền Lộc ở Mão Hợi. Bộ Sát Phá Tham này tuy ở trường hợp hãm, nhưng đắc hoá biến thể Tham Vũ, còn một Phá Quân cũng phần nào khó chịu với Đà La kỵ cho tuổi Kỷ. Mệnh Phủ Tướng gặp hạn Sát Phá Tham kể như đắc lực hanh thông: Đà la đã có Thất Sát quản trị, nhưng đây là Thiên di phải xa nơi sinh quán.
/ Tuổi Quí Hợi ngồi ở Dậu, Phá Toái nhập Mệnh, từ thuở ra đời với Tử Tham Hoá Kỵ giáp Khoa Quyền ( tam hoá hận đời) Tử Tham chỉ là phần hình thức, Vũ Phá ở Tỵ mới là tinh thần thoát xác. Hành động bản thân vẫn là thuận đường chính nghĩa biết bao nguy hiểm ( Kình Hình hãm) vẫn trơn tru lành mạnh ( Khôi Việt Thiên Ất quí nhân) . Số nầy có hình thức đặc biệt từ vị trí Mệnh với Thân đến tư cách sao hợp tuổi hành động cũng dứt khoát. Toái Quân lưỡng Phá người này quyết tâm dập nát tất cả những gì ngang trái. Thiên Tướng (tam hợp Thân) không giây phút nào xao nhãng thẳng tay ngăn chặn những gì không chính đáng.
Mệnh đứng trên địa bàn mở đường ngắm nhìn tam hợp cục thấy đâu là bản lãnh thân thế nhân sinh, rồi quyền lộc cùng thời gian khác gì thuỷ triều phù vân sáng tối
Đầu trang

ngo_ngot
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 702
Tham gia: 14:21, 03/03/11

TL: TỬ VI NGHIỆM LÝ TOÀN THƯ

Gửi bài gửi bởi ngo_ngot »

GIÂY LIÊN LẠC BÀO VỚI NÔ
Thánh nhân đặt Mệnh và Thân nằm theo năm tháng ngày giờ sanh tính cặn kẻ từ liên hệ trong gia đình cho đến tình nghĩa đối đáp bên ngoài với xã hội. Người học số lại thường phân chia lấy cung này quan hệ cho là cung cường, cung kia không cần thiết gì cho lắm cho là nhược, nghĩa là không gây ảnh hưởng mạnh cho đời sống của người có số.
Vậy đâu là cường và đâu là nhược? Có người đã khẳn định ngoài Mệnh ra chỉ có Phúc, Quan, Tài là cường, còn lại là nhược hết. Thiết tưởng cường nhược gì, nếu được một cung nào đẹp, người có số hẳn cũng thấy hạnh phúc về phương diện đó, như cung Tật Ách tốt, hẳn người đó được một đời sống đầy đủ sức khỏe, ít ốm đau, tai nạn để tránh, tưởng cũng là rất quí.
Đứng cao trên hết là Phúc Đức, không hình bóng dáng, chỉ huy thêm bớt tất cả liên lạc dự thảo các cung còn lại khiến mỗi người có 1 cuộc sống khác nhau, mặt dầu số giống nhau như in, từ hoàn cảnh gia đình có cha mẹ, vợ con, sản nghiệp nhưng về phương diện xã hội hẳn là người cùng mình ganh đua (Di) và bạn hữu (Nô).
Đời sống mỗi cá nhân có con đường liên lạc tiếp xúc với thế giới bên ngoài thì vấn đề anh em đứng đòn cân với bạn hữu là thế rất hay và thiết yếu. Vậy Bào Nô không thể coi thường nhất là trên trường chính trị, người tin cậy không ai khác là anh em và bạn hữu trung tín mới mong đắc lực. Phải chăng vì thế Bào và Nô mới đứng song hàng để kiềm giữ liên lạc với nhau.
Biết rằng đã đứng riêng một đòn cân thì hẳn là cùng chung một phái trong thế lưỡng nghi. Như Mệnh có Cơ Nguyệt Đồng Lương thì Phụ, Bào và Nô đều là Tử Phủ, Sát Phá Tham. Bào và Nô vốn là vấn đề nhân sự khác hẳn Tử và Điền, Phụ và Ách, rất tế nhị giữa người với người, dễ có những sự biến đổi sớm đầu tối đánh vui cười đó mà thâm tâm lại khác, nếu sự đối sử không khéo léo cũng như không trúng lúc thì sự phân tách cũng không thể sơ sài và cần cân nhắc mọi khía cạnh như số đã sắp xếp. Bào đứng sát sau lưng Mệnh để liên lạc ganh đua với Nô, cũng như Phụ đứng sát trên Mệnh, để đối phó với Ách.
Tử và Điền chỉ cần cân nhắc bên nào nặng nhẹ, cung nào khắc cung nào, và bộ sao nào đắc cách cho phía nào.
Phụ và Ách là vấn đề phiền phức dễ gây ra do bộ Sát Phá Tham và Cự Môn, Vũ Khúc, người hiếu tử không thể không ái náy, chính mình phải hy sinh thay cho cha mẹ hơn là thấy cảnh gay cấn bất an của bậc đã cho ta đời sống.
Còn Bào và Nô là cả một sự khó khăn, con đường giao tế tiếp xúc từ gia đình đến xã hội cũng như Mệnh phải đối phó với Di. Biết rằng Mệnh và Di là cả một cuộc vật lộn tranh đấu, người có số phải chính mình thu tập đủ các điều kiện để thắng đối phương. Điều kiện tiên quyết là mình phải tạo giành cho được chính nghĩa (vị trí tam hợp Thái Tuế) rồi mới tính đến sao là những yếu tố hậu thuẫn (âm dương, ngũ hành, vượng hay hãm địa) có khác gì một vị Thái Tổ dựng nên nghiệp vương cho một thế hệ. Từ lúc xuất thân ra khỏi lều cỏ đến lúc bước chân hảnh diện vào điện Thái Hòa phải đủ bao nhiêu điều kiện khó khăn.
Vậy Bào và Nô tuy là đứng sau Mệnh và Di, nhưng không thể không có điều kiện thiết yếu hơn là các đòn cân khác, có chăng chỉ là thứ yếu, dưới Mệnh. Đã nói là vấn đề nhân sự, không thể khi thường, phải tự xét mình và biết người. Ở đây Mệnh phải hoàn toàn là cột trụ để điều khiển cả Bào lẫn Nô như :
<!--[if !supportLists]-->1- <!--[endif]-->Mệnh ở Ngọ có Tử Vi, Bào ở Tỵ có Thiên Cơ (đắc địa) sinh nhập cho Phúc. Nô ở Hợi có Thái Âm (đắc địa) sinh xuất cho Tài, có nghĩa là Nô trung thành đắc lực hơn Bào mà vẫn bị Bào lấn át.
<!--[if !supportLists]-->2- <!--[endif]-->Mệnh ở Tỵ có Tử Sát, Bào ở Thìn có Cơ Lương, được Quan sinh nhập. Nô ở Tuất vô chính diệu đắc Cự Nhật ở Dần (tam hợp), được thế sinh xuất, tức là Bào và Nô đều đắc lực. Nô vẩn bị kém thế hơn, được nội tướng đối xử ngầm phủ dụ an ủi.
<!--[if !supportLists]-->3- <!--[endif]-->Mệnh ở Thìn có Tử Tướng, Bào ở Mão có Cự Cơ, sinh xuất cho Di, dễ bất bình với Mệnh đi lầm đường lạc lối. Nô ở Dậu vô chính diệu được Nhật Nguyệt ở Sửu (tam hợp) và Cự Cơ ở Bào (xung chiếu), sinh nhập cho Mệnh, lấn Bào, triệt để trung thành với Mệnh.
<!--[if !supportLists]-->4- <!--[endif]-->Mệnh ở Mão có Tử Tham, Bào ở Dần có Cơ Âm (hãm) được cung Tài sinh nhập (một gánh nặng cho Mệnh). Nô ở Thân vô chính diệu có Cự Nhật hãm (tam hợp), Cơ Âm ở Dần xung không ích gì hơn Bào.
<!--[if !supportLists]-->5- <!--[endif]-->Mệnh ở Dần có Tử Phủ, Bào ở Sửu có Thiên Cơ, sinh xuất cho Thê. Nô ở Mùi có Thiên Lương sinh xuất cho Quan. Bào và Nô đều thành thực giúp ích cho Mệnh, nhưng Bào điều khiển Nô.
<!--[if !supportLists]-->6- <!--[endif]--> Mệnh ở Sửu có Tử Phá, Bào có Thiên Cơ ở Tí (bình) được Mệnh sinh xuất. Nô ở Ngọ có Cự Môn được Di sinh xuất, bị Bào khắc chế, coi chừng Nô này dám làm nội tướng cho kẻ địch.
<!--[if !supportLists]-->7- <!--[endif]-->Mệnh ở Tí có Tử Vi. Bào ở Hợi có Thiên Cơ (hãm) sinh xuất cho Phúc Đức. Nô ở Tỵ có Thái Âm (hãm) sinh nhập cho Tài. Cả Bào và Nô đều là kẻ vô tài, hay nản lòng trách móc và ly tán.
<!--[if !supportLists]-->8- <!--[endif]-->Mệnh ở Hợi có Tử Sát. Bào ở Tuất có Cơ Lương được Quan sinh nhập. Nô ở Thìn vô chính diệu có Cự Nhật ở Thân hãm (tam hợp) khắc xuất Bào ở Tuất, lại được Thê ở Dậu sinh nhập, tức là Nô vô tài, dối trên lừa dưới.]<!--[if !supportLists]-->9- <!--[endif]-->Mệnh ở Tuất có Tử Tướng. Bào ở Dậu có Cự Cơ sinh xuất cho Di, ôm hận ngấm ngầm để phản bội. Nô ở Mão được Nhật Nguyệt ở Mùi chiếu (tam hợp) bị Bào khống chế để triệt để trung thành với Mệnh.
<!--[if !supportLists]-->10- <!--[endif]-->Mệnh ở Dậu có Tử Tham. Bào và Nô đều là chân tay đắc dụng.
<!--[if !supportLists]-->11- <!--[endif]-->Mệnh ở Thân có Tử Phủ. Bào ở Mùi Thiên Cơ (đắc địa) sinh xuất cho Thê. Nô có Thiên Lương ở Sửu sinh xuất cho Quan. Cả Bào và Nô đếu là tôi lương đống. Nhưng nô bất phục bào.
<!--[if !supportLists]-->12- <!--[endif]-->Mệnh ở Mùi có Tử Phá. Bào có Cơ ở Ngọ (bình) được Mệnh sinh xuất.Nô ở Tí có Cự Môn (đắc địa) được Di sinh xuất coi thường Bào, mặc dầu được kẻ nghịch mua chuộc nhưng không thay lòng đổi dạ (được Thái Dương đắc địa ở Thìn chiếu).
Mười hai trường hợp ở trên không trường hợp nào giống trường hợp nào, mặc dầu bộ sao có giống nhau, nhưng vị trí khác (cung sinh khắc phải khác) ngôi vị đắc địa hay hãm địa cũng khác mà điều cần nhất là Mệnh luôn luôn làm chủ tình thế. Nếu sao thủ Mệnh đắc địa dễ điều khiển được Bào và Nô ví như một vị minh quân đức hạnh, trái lại hãm địa là người vô tài nhu nhược, chóng chày gì cũng có những biến chuyển đưa đến bất lợi.
Tóm lại có thể đặt một ít chi tiết mong rằng được coi như nguyên tắc cần thiết để nhận định:
<!--[if !supportLists]-->1. <!--[endif]-->Mệnh Cơ Nguyệt Đồng Lương Cự Nhật đắc địa dể điều khiển được Bào và Nô (dĩ nhiên là Tử Phủ hay Sát Phá Tham) cũng đắc địa, mọi sự thành công nhưng hay bất hòa với Bào, còn Nô trung thành.
<!--[if !supportLists]-->2. <!--[endif]-->Mệnh Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật đắc địa mà Bào và Nô hãm địa, đám quân thần kể như xác xơ lại hay oán trách.
<!--[if !supportLists]-->3. <!--[endif]-->Mệnh Cơ Nguyệt Đồng Lưong, Cự Nhật hãm địa khó mà điều động được Bào và Nô ( Tử Phủ và Sát Phá Tham) đắc địa, dầu có được việc nhưng hay lấn quyền.
<!--[if !supportLists]-->4. <!--[endif]-->Mệnh Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật hãm.Bào và Nô (Tử Phủ, Sát Phá Tham) cũng hãm, việc thành công kể như vô vọng, người chân tay phân tán phản bội.
<!--[if !supportLists]-->5. <!--[endif]-->Mệnh Tử Phủ, Sát Phá Tham đắc địa được Bào và Nô (dĩ nhiên là Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật) đắc địa. Tôi trung thành vẫn có những thành quả chủ nhân không mấy hài lòng, vì Cơ Nguyệt Đồng Lương không mấy khi đắc lực bằng Sát Phá Tham.
<!--[if !supportLists]-->6. <!--[endif]-->Mệnh Tử Phủ, Sát Phá Tham đắc địa gặp Bào và Nô hãm, tức là bầy tôi bất lực ăn bám.
<!--[if !supportLists]-->7. <!--[endif]-->Mệnh Tử Phủ, Sát Phá Tham hãm được Bào và Nô đắc địa, công việc tiến hành vẫn được việc.
<!--[if !supportLists]-->8. <!--[endif]-->Mệnh Tử Phủ, Sát Phá Tham hãm gặp Bào và Nô cũng hãm, ôi thôi bạn bè phần đông vô tài và phân tán.
PHỤ MẨU LIÊN QUAN GÌ TỚI TẬT ÁCH
Các đấng tiên hiền xưa đã có câu :” cha mẹ hiền lành để phúc cho con và cha ăn mặn thì con khát nước”. Thiết tưởng đó là luật nhân quả sâu xa của một truyền thống riêng cho từng gia đình, có lẻ vì thế cung Phụ Mẫu trong Tử Vi mới đứng cân phân với Tật Ách của lá số.
Biết rằng luật âm dương mật thiết cho Tử Vi như hình với bóng và vì có lý âm dương mới cho phép ta phân biệt và tìm phăng ra đầu mối nhợ mọi sự thiết yếu của số, thì mọi lý lẽ của mỗi cung số đều nên nhận xét là ở một thế tứ tượng trong lưỡng nghi nào.
Mười hai cung trong lá số dĩ nhiên căn bản là Mệnh. Cái sườn nhà có vững chắc thì nhà mới đở rung rinh lúc gặp mưa dông bão táp. Cái nhà có đứng vững ở không gian là do tay thợ lành nghề biết kiến tạo, nhưng một phần quan trọng cũng phải do nơi vị trí căn nhà đó dựng lên trước kia là gì? Đầm ao sinh lầy hay là đất thịt cứng chắc tức là cha mẹ sinh dưỡng truyền thống cho bản mệnh luôn luôn kình chống tật ách.
Như Mệnh Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật thì Phụ Mẫu phải là Sát Phá Tham, Tử Phủ Vũ Tướng, cung Tật Ách đương nhiên là đồng phái với Phụ Mẫu là Sát Phá Liêm Tham hay Tử Phủ Vũ Tướng, một thế đứng của tứ tượng.
<!--[if !supportLists]-->1. <!--[endif]-->Mệnh ở Ngọ, Phụ Mẫu ở Mùi có Tử Phá, Tật Ách là Thiên Tướng (Sửu) sinh xuất cho Di để uy hiếp Mệnh.
<!--[if !supportLists]-->2. <!--[endif]-->Mệnh ở Tỵ, Phụ Mẫu ở Ngọ có Tử Vi, Tật Ách là Tham Lang (Tí) được cung Tài sinh nhập tức là Mệnh Phải tốn hao tiền tài.
<!--[if !supportLists]-->3. <!--[endif]-->Mệnh ở Thìn, Phụ Mẫu ở Tỵ có Tử Sát, Tật Ách là Thiên Phủ (Hợi) sinh xuất cho Thê ở Dần phải hứng chịu nhiều rắc rối.
<!--[if !supportLists]-->4. <!--[endif]-->Mệnh ở Mão, Phụ Mẫu ở Thìn có Tử Tướng, Tật Ách là Phá Quân (Tuất), được Mệnh sinh xuất là chính mình trồng cấy hậu quả.
<!--[if !supportLists]-->5. <!--[endif]-->Mệnh ở Dần, Phụ Mẫu ở Mão có Tử Tham, Tật Ách vô chính diệu (Dậu) phúc đức lãnh nhân quả của tiền nhân.
<!--[if !supportLists]-->6. <!--[endif]-->Mệnh ở Sửu, Phụ Mẩu ở Dần có Tử Phủ, Tật Ách là Thất Sát (Thân), Quan Lộc (công việc) tạo lấy nhân quả.
<!--[if !supportLists]-->7. <!--[endif]-->Mệnh ở Tí, Phụ Mẫu ở Sửu có Tử Phá, Tật Ách là Thiên Tướng (Mùi), sinh xuất cho Di để chống lại Mệnh.
<!--[if !supportLists]-->8. <!--[endif]-->Mệnh ở Hợi, Phụ Mẫu ở Tí có Tử Vi, Tật Ách là Tham Lang (Ngọ) gây hao tài cho Mệnh.
<!--[if !supportLists]-->9. <!--[endif]-->Mệnh ở Tuất, Phụ Mẫu ở Hợi có Tử Sát, Tật Ách là Thiên Phủ (Tỵ) đem phiền phức cho Thê.
<!--[if !supportLists]-->10. <!--[endif]-->Mệnh ở Dậu, Phụ Mẫu ở Tuất có Tử Tướng, Tật Ách là Phá Quân (Thìn), là Mệnh chịu lấy kết quả đã làm.
<!--[if !supportLists]-->11. <!--[endif]-->Mệnh ở Thân, Phụ Mẫu ở Dậu có Tử Tham, Tật Ách vô chính diệu (Mão) phúc đức lãnh hậu quả của tiền nhân
<!--[if !supportLists]-->12. <!--[endif]-->Mệnh ở Mùi, Phụ Mẫu ở Thân có Tử Phủ, Tật Ách có Thất Sát (Dần) công việc hành động tạo lấy nhân quả.
Mười hai trường hợp trên, lấy Tử Vi đặt vào cung Phụ Mẫu có ý muốn chứng tỏ vị chúa tinh tuy được gọi là vị tối cao phúc hậu, nhưng hễ đã dính đứng chung với bộ Sát Phá Tham thì cũng không chứng nọ tật kia, như Tử Sát là có sự bất hòa giữa cha mẹ. Tử Phá có sự lìa khắc. Tử Tham phải phân ly thì cung Tật Ách tất được Phủ, Tướng, mọi sự nhẹ nhàn cho đương số có bịnh tật chỉ là nội thương và dễ gặp thầy thuốc. Trái lại Phụ mẫu là Phủ Tướng, con phải hứng chịu mọi tai ách hay bạo bịnh, tùy trường hợp nào trong 12 cách ở trên để biết nhân quả. Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật cũng vậy. Hễ cung Phụ Mẫu đã liên hệ ít nhiều đến Cự Môn (chính cung hay tam hợp) cũng lắm chuyện chẳng lành không kém Sát Phá Tham là bao. Còn như được Đồng Lương (Âm tinh và Diệu tinh) là 2 vị Phúc tinh thủ đắc cho Phụ Mẩu thì Tật Ách chạy không khỏi Cự Môn sinh nhiều điều phải đề phòng bất trắc.
Tại sao những đấng Phụ Mẫu được coi là có bộ mặt phúc hậu nhất như Tử Vi độc thủ, Tử Tướng, Tử phủ, Đồng Lương lại gây ra những hậu quả không tốt đẹp cho con cái, tức là cung Tật Ách phải chịu Sát Phá Tham, Cự Nhật hành hạ ?
Thưa rằng : Tử Phủ Vũ Tướng và Cơ Nguyệt Đồng Lương là 2 bộ hiền lành đâu có lực lượng chống lại Sát Phá Tham và Cự Nhật, là 2 sức mạnh có uy vũ sắc bén, sát khí hung cường, chỉ còn con đường phước thiện, cố làm điều lành để mua chuộc cho con cháu tránh nẻo chông gai tùy theo mức độ đã tạo nổi.
Việc này không phải là không có ý nghĩa như Mệnh đóng ở Tuế Phá, Tang Môn, Điếu Khách là người thường xuyên không được hài lòng với công việc mình làm mà vẫn thi gan cùng tuế nguyệt bằng nghị lực Thiên Mã (trong Tử Vi chỉ có 3 hạng người này mới có Thiên Mã). Phần số của họ là coi những tai ương tật ách như cơm bữa, không có gì phải lo ngại, vì Ách cung không bao giờ vắng bóng Thiên Không (chính cung hay tam hợp). Còn những trường hợp Ách có Tuần hay Triệt hay vô chính diệu hoặc cung Phụ Mẫu khắc xuất Tật Ách đều có ý nghĩa Tử Phủ, Đồng Lương lấy đức chinh phục tai ách để giảm bớt cường độ của tật ách 5 trường hợp ở trên, người có số nếu được những vị phúc tinh như Thiên Quan, Thiên Phúc, Ân Quang, Thiên Quý phò trợ, không phải tình cờ may mà gặp, mọi sự như đã an bài. Còn ngoài ra những vị Phụ Mẫu quá hiền hậu như trên (Tử Phủ Đồng Lương) phải coi như bậc hiền nhân đã ý thức được điều phải làm mà chưa đủ âm đức cản trở được nghiệp nhân quả phải bù trừ.
Còn Phụ Mẫu phải lãnh vai trò Sát Phá Tham hay Cự Nhật, người làm con luôn luôn ở trong tình trạng đau lòng vì cảnh mất bình thường như vất vả, chia ly hay náo loạn của đấng sinh thành để cố tạo cung Tật Ách cho mình ít khi gặp bạo bịnh hay tai nạn nguy hiểm. Ở đây ta phải nhìn nhận là một đường lối hy sinh của cha mẹ cam chịu cảnh bất an để cho con đỡ gặp bước đường đời dày vò phần xác thịt mà người đã nâng niu nuôi nấng yêu dấu cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay.
GIÀU NHỜ BẠN, SANG VÌ VỢ
Đời người từ lúc biết ăn nói đi đứng là đã có bạn. Có bạn ăn chung miếng bánh, có kẻ chụp giựt đồ chơi để chơi một mình, có bạn thấy mình sức yếu không làm lại ai thì thương hại dìu dắt đi kiếm tìm lối chơi khác. Rồi khi khôn lớn lên, biết bao đường vẽ tình thế đối đáp với xã hội bên ngoài gia đình, lớn nhỏ ai cũng không khác lúc thiếu nhi, việc gì cũng do bạn, vì bạn và có bạn hết thảy.
Vậy bạn không phải là vấn đề giản dị, nó phức tạp, không phải chỉ những ai ngang hàng với mình, thường ngày cặp kè đụng chạm với mới là bạn. Còn nhiều hạng người như nâng đỡ mình trong sự nghiệp kinh doanh, có người chịu để cho mình điều khiển, cũng có người chỉ chờ cơ hội chèn ép mình để đưa thân thế lên bổng. Nói chung đều là bạn cả, tức là Quan Nô Di trong số.
Quan Nô Di đều là ngoại nhân mỗi người có một tư thế riêng đối với Mệnh viên.
Với Nô có nhiều chi tiết tế nhị, không thể đối đãi là kiếp hạng lệ thuộc xấu xa như thường nói : Nô bộc.
Cam phận vì một lẽ gì, sinh kế hay kém tài, đành đem thân cho người sai khiến. Ngoài ra có thể là người chịu sự điều khiển của mình như cấp bậc điều hành phải tuân theo quyết định cấp bậc chỉ huy, có khi là đồng hàng chỉ kém thâm niên hành sự. Có khi là người có tài chỉ vì mạt vận, bó thân khuất phục trong một giai đoạn dung thân, rồi ra gặp hội rồng mây rồi ra cũng tung hoành như ai trong nghiệp Đế, Bá không phải tầm thường mà bị đối xử không xứng đáng như một người vô tài kém đức dưới con mắt để người thường nói, vậy nô cũng là bạn, có biết bao chủ nhân ông lập nên nghiệp lớn, nhờ ở Nô có hạng.
Di là thế xung khắc. Cuộc đời không có Di thì tẻ lạnh, không có gì khích lệ, lòng hăn hái sẽ lần lần hạ thấp và chí phấn đấu sẽ chẳng còn. Di là bạn nghịch đem lại quả cảm cho Mệnh quyết tâm tranh giành lấy chánh nghĩa, nếu có thể được thì sự nghiệp mới mong thành công và bền vững. Di là thế ngang hàng đĩnh đạc đối diện với Mệnh.
Còn Quan là bạn sống còn mật thiết với Mệnh (tam hợp) hay nhờ dở chịu. Người bạn này là quân sư của Mệnh, luôn luôn đồng lao cộng tác, lúc nào cũng muốn đem kết quả tốt cho Mệnh, bênh vực chỉ huy Mệnh như hình với bóng. Nếu chẳng may yếu kém Mệnh phải chịu mọi sự thua thiệt.
Trong 3 thứ bạn này, Bạn Quan đã thành tục ngữ “ Giàu nhờ bạn, sang vì vợ”. Có lẽ vì thế Quan và Thê cùng một đòn cân thẳng tấp, cùng đứng trong một thế lưỡng nghi của chính tinh.
Năm cung Mệnh, Thê, Quan, Di và Nô chỉ có Nô là thế mặc cảm bị coi như tự ti ghẻ lạnh nên không cùng trong bè phái tức là ở thế khác như :
Mệnh ở Thân cung có Tử Phủ, Quan phải là Liêm Tướng ở Tí, Di có Thất Sát ở Dần, Thê có Phá Quân ở Ngọ nghĩa là cùng trong thế Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Liêm Tham. Còn Nô có Thiên Lương ở trong Sửu tức là lạc lõng ở phía Cơ Nguyệt Đồng Lương Cự Nhật.
Như đã biết bộ Sát Phá Tham và Cự Môn là bộ rất khó có cảm tình và hung hãn, không bao giờ nên ở trong 3 cung Phụ, Bào và Thê là 3 cung có người thân của Mệnh, không chứng nọ cũng tật kia, đem lại những việc chẳng lành, dầu đắc địa hay hãm địa cũng vậy. Trái lại Nô cung lại cần có Sát Phá Tham đắc địa mới được việc, miễn là Mệnh được bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương, nhất là Cự Nhật đắc địa hướng dẫn mới cầm đầu nổi Nô không làm xằng phản bội. Bộ Sát Phá Tham có mặc cảm ở Nô khinh thế ngạo vật, thà làm tôi thần cho bậc minh quân, còn chúa hèn yếu thì không chịu khuất phục.
Người bạn Di của Mệnh thường xuyên trong cảnh tay mặt tay trái kiếm cách lấn (xung khắc, cả cung và sao). Chừng nào lấn không nổi mới đành chịu. Nếu họ giành được địa thế chánh nghĩa (Thái Tuế) Mệnh cầm chắc lâu mau thua thiệt, không vật chất cũng tinh thần tai tiếng ngàn năm hổ danh thẹn phận.
Còn Thê muốn được chung lưng một dạ đến khi bạc đầu nếu là bên dương của lưỡng nghi thì phải là Tử Vi Tí Ngọ, Thiên Phủ Tỵ Hợi hay Tử Phủ đồng cung. Bên phía âm thì phải là Thiên lương ở Ngọ, Thiên Đồng ở Mão hay Đồng Lương. Thiên Cơ ở Tỵ hay Cơ Lương đồng cung, Thái Âm đắc địa hay Đồng Âm ở Tí, Cơ Âm ở Thân là tất cả vị trí ngôi vị của người vợ hiền hậu. Nếu dính đến một sao của Sát Phá Tham và Cự Môn là có chuyện chẳng lành, nhẹ cũng giây tơ hồng phải nhuộm bùn (Hồng Loan + Hóa Kỵ) trước khi bước lên xe hoa để trở thành dâu thảo vợ hiền.
Dưới đây là 2 lá số cùng tuổi Canh Tuất:
<!--[if !supportLists]-->1. <!--[endif]-->Sanh ngày 18 tháng 3 giờ Tí
<!--[if !supportLists]-->2. <!--[endif]-->Sanh ngày 5 tháng 9 giờ Thìn
Phân tách 3 cung Quan Nô Di và Mệnh với Phối
Người trên Kim Mệnh được Vũ Khúc, Kim tinh đắc địa đơn thủ ở Thìn, vị trí của người thường xuyên căm hờn vì một duyên cớ bên ngoài coi như đắc ý với tam hóa liên châu ở Mệnh, bản giấy ban khen đặc hạng thưởng công cho người trung thành đắc lực đối với chủ. Cung Quan có Tử Phủ, Hữu Bật, Lộc Mã Khốc Khách được quan thầy hết lòng nâng đỡ, cả một dàn cảnh hùng vĩ huy hoàng. Xuống đến Nô cung tuy là Thái Âm đắc cách, nhưng Hóa Kỵ, Kình Dương có phải là một lũ có mắt như mù quáng, trung thành tuyệt đối với Mệnh (sinh xuất cho Mệnh). Ngó đến Di, lòng người không thể không thấy đâu là chính nghĩa (Thái Tuế) mà phải nghiêng mình trước những ai vô danh tận tụyvì nghĩa vụ, tuy việc không thành mà danh lưu muôn thuở.
Số này có đủ cả 2 sức mạnh : Vũ Khúc (Kim) khắc Tham Lang (Mộc), đối diện và vị trí Thân Tí Thìn (Thủy) khắc Dần Ngọ Tuất (Hỏa). Tham Lang được chính nghĩa (Thái Tuế) nhưng ở thế yếu vừa bị khắc cả cung (Tuất) vừa phải đối phó với kẻ nghịch trên tay mình. Trái lại Vũ Khúc vừa được cung Thổ phò Kim lại được ở thế mạnh Vũ Khúc (Kim) khắc Tham Lang (Mộc) làm gì mà không thành công. Nhưng Thê có Thất Sát chạy không khỏi sức mẻ (Tuần Ngày nay dư âm Thái Tuế càng dội ngược, hẳn người Tuế Phá lòng càng bất an trong giấc cô miên.
<!--[if !supportLists]-->2. <!--[endif]-->Người dưới đứng trên thế chánh nghĩa rành rành của ngôi vị (Quan có Thái Tuế, Vũ Khúc). Tam hóa liên châu ở đây khác hẳn tam hóa của trường hợp trên (một đàng ở Thìn là ngày, một đàng ở Tuất là đêm) chỉ là hư vị với tất cả quyền hành (Khoa Quyền Lộc) làm việc trong bóng tối. Ấy thế mà bị Thê cung đè nén (Thân Tí Thìn khắc Dần Ngọ Tuất) bằng Tướng Ấn nắm chặt ở tay cũng là hư mà không thật (Tuế Phá Thiên Hư). Tham Lang cư Thê ở Thìn không thể không có chuyện ngang trái. Đây là mầm rối loạn của gia đình, chờ đến lúc vận bỉ Thiên Không ở Hợi là đổ vỡ. Di có Phá Quân Tướng Ấn Tả Phù Lộc Mã làm gì không lợi dụng cái đà dậu đổ bìm leo quật luôn Mệnh dễ dàng như trở bàn tay (Tí khắc Ngọ). Nô tuy tuyệt đối trung thành với Thân nhưng không đủ tư cách (Thái Dương ở Hợi) chỉ là những phụ tá về kinh tài cho Thân ở Tài (Nô có Hóa Lộc) sinh xuất cho Tài ở Dần) mà thôi.
Hai bản số trên đều nhờ người bạn Quan làm nên sự nghiệp và cùng bị khốn đốn vì bạn trăm năm. Vậy đâu là sang vì vợ ?
Xin thưa chỉ có trường hợp Thê được những sao Tử Phủ, Đồng Lương, nhất là Quan cung không bị Thê cung khắc chế. Như vậy mới được giàu nhờ bạn sang vì vợ Tài Thọ đều cùng nằm ở đó).
Đầu trang

ngo_ngot
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 702
Tham gia: 14:21, 03/03/11

TL: TỬ VI NGHIỆM LÝ TOÀN THƯ

Gửi bài gửi bởi ngo_ngot »

VẬN HẠN NÊN TÍNH THẾ NÀO?
Trông vào bản lập thành của lá số, thấy cung thiên bàn rộng rãi ghi năm tháng ngày giờ, mệnh, cục của nó. Ngoài giáp biên 12 cung địa bàn một vòng địa chi viết mỗi cung một chữ theo đường lối nam thuận nữ nghịch đủ một vòng. Đó là tên năm tiểu hạn. Mỗi khi xem hạn của năm nào thì lấy cung có ghi tên chữ đó làm đích, như người tuổi Bính Thân gặp năm Tỵ, thì lấy chữ Tỵ nằm sát cạnh cung Mùi. Cung Mùi đó là tiểu hạn năm Tỵ của tuổi Bính Thân.
Quyết định được một Đại Vận 10 năm tốt xấu là một việc rất khó, mà xuống đến tiểu hạn 1 năm tưởng sự lầm lẫn còn gấp bội. Một chữ Tỵ thì 12 năm lại bắt vòng tới, thành ra trong đời người cứ kể là 60 năm, có 5 năm Tỵ. Có lý nào Tỵ nào cũng giống nhau sao! Đành rằng 5 năm Tỵ đó còn tùy thuộc ở 5 Đại Vận tốt xấu mà thay đổi thêm bởi sự hên xui. Như trên đã nói, nhận xét được một Đại Vận tốt không phải là dễ, thì cái lầm lẩn này đưa vào tạm đem ra phân tách để tìm ra chân lý.
Mười hai cung trong lá số, mỗi cung mang một tên rành rẽ, có 1 giây liên hệ cho cung mệnh. Khi nhìn vào số thấy ngay cái quan trọng khắng khít giữa Mệnh, Quan và Tài, thường thường thấy vẽ hình tam giác bắt liên lạc với nhau, trong sách số kêu là “tam hợp”, có nghĩa là Mệnh Quan Tài tuy 3 là 1. Tam hợp là thế đứng chân vạc của Mệnh, tốt hay xấu, thắng hay bại, một khi tranh đua với đời.
Thế tam hợp Thái Tuế Quan Phù Bạch Hổ, là thế chánh của tuổi, và người tuổi gì Thái Tuế ngồi ngay ở cung mang tên đó, mặc dầu Mệnh bị lạc ở cung khác. Một khi cơ hội vận chuyển đến Thái Tuế Quan Phù Bạch Hổ kể như đất sống của mình, quê quán điền sản của một bộ quý tinh chủ về may mắn hưng vượng và quyền uy. Hành của tam hợp tuổi là hành chính xác căn bản tranh đấu của Mệnh. Người tuổi Bính Thân thì tam hợp Tí Thìn là thủy hành. Mỗi thời gian đại vận chuyển đến cung nào thì lấy hành của tam hợp cung đó khắc chế với hành của tam hợp tuổi. Nếu đồng hành với mình là tốt nhất (ở trong đó có Long, Phượng, Hổ, Cái). Nếu sinh nhập là tai hại (có Thiên Không ), vì lẽ Thái Tuế là quá tốt, không thể có gì vượt qua Thái Tuế nên phải gắn ngay Thiên Không để ngăn chận
Thế tam hợp thứ nhì là hành của tam hợp tuổi bị sinh xuất như Thân Tí Thìn đi gặp Hợi Mão Mùi, là Thủy sinh Mộc. Sự nghiệp của đương số chỉ là bữa ăn thịnh soạn mời khách đến hưởng. Khắc xuất là trường hợp Thân Tí Thìn ( Thủy) gặp Dần Ngọ Tuất (Hỏa), mình phải gắng công tranh đấu, nếu Mã ở đó thuận lợi, sẽ được hài lòng. Bị khắc nhập là vận mạng tàn tạ khó ganh đua
Mỗi đại vận là một Thiên Thời. Đắc thiên thời thì đời lên hương. Mất thiên thời thì đời sẽ thấy khó khăn để rồi xuống dốc.
Còn 2 yếu tố phụ là Nhân Hòa và Địa Lợi. Nhân Hòa là tinh đẩu của hạn, có cùng trong hệ phái của Mệnh là cùng 1 bộ trong thế lưỡng nghi chính tinh, và hết sức loại tránh lục sát tinh, nhất là Không, Kiếp. Địa Lợi là hành của cung và hành của Mệnh có tương đắc hay không ?
Được cả 3 điều kiện là quá tốt. Thường thường chỉ cần được 1 Thiên Thời cũng mãn nguyện.
Tiểu hạn là hạn hành một năm. Một chữ hàng Chi không đủ. Như tuổi Bính Thân. Bính thuộc hàng Can hành Hỏa là gốc. Thân thuộc hàng Chi hành Kim là ngọn. Đi đến năm Tỵ, phải biết rõ Can của Tỵ, như Ất Tỵ hay Đinh Tỵ, Tân Tỵ hay Quí Tỵ, thì mới căn cứ được rành rẽ. Một chữ Tỵ là bỏ gốc chỉ xét có ngọn làm sao thấu đáo ?
Trước khi tính đến sao nằm ở cung tiểu hạn. Việc chính yếu là phải so sánh hàng Can của Mệnh với Can của năm hạn. Được sinh nhập là tốt nhất, thứ đến là khắc xuất, trái lại bị sinh xuất ôi thôi cảnh suy bại không chứng nọ cũng tật kia, như tiền nhân đã nói : “hữu phước tán tài, vô phước tán mạng”. Hàng Can bị sinh xuất hay khắc nhập mà cung tiểu hạn có Quyền Lộc cũng không đáng mừng, có khi là nguyên cớ để gây suy sụp. Trường hợp hàng Can giống nhau, như hàng Giáp gặp Giáp, Ất; Đinh gặp Bính Đinh, tức là thế bình thì dễ xui hơn là hên, phần sao sẽ làm lệch đòn cân thăng bằng. Nhưng còn phải để ý đến những năm xung, năm tuổi, năm phá, năm hạn, nghe một cái tên cũng biết là ngang trái cho đời sống.
Năm tuổi là năm vận hành luôn luôn đứng ở vị trí Phá Hư ở địa bàn, tức là bất mãn. Năm xung là năm đối kháng. Năm phá là năm đồng loại tiêu hao nhau (tứ sinh 2 cặp, tứ chính 2 cặp, tứ mộ 2 cặp: Tí Dậu phá nhau, Sửu Thìn phá nhau, Dần Hợi phá nhau, Mão Ngọ phá nhau, Tỵ Thân phá nhau, Mùi Tuất phá nhau). Năm hạn là năm kỵ.
Điều cốt yếu phải để ý là đại vận là phần chính, bao trùm cả tiểu hạn. Dầu tiểu hạn tốt xấu chỉ phụ giúp hay giảm bớt 10% sự việc may rủi đại vận chủ trương quyết định.
Xuống đến nguyệt hạn, thấy nhiều lối tính làm ra vẻ mỗi năm đều khác, như tiểu hạn ở năm Mùi thì lấy ngay cung Mùi làm tháng giêng, hoặc lấy cung Mùi làm đích tính nguyệt nghịch thời thuận đến cung nào lấy cung đó làm tháng giêng.
Xem ra chỉ là một lối làm theo ý riêng của từng người. Tháng Giêng đã gọi là tháng Dần, không thể để Mùi hay Tỵ, Tuất gì được. Ngay khi bắt đầu lập thành số cũng phải lấy cung Dần, đến đi là Dần. Nói trùng ảnh hưởng của sao thì hàng Can mỗi tháng giêng mỗi năm mỗi khác nhau đủ sự chế hóa phải thay đổi luôn luôn như: năm Đinh Tỵ tháng giêng là Nhâm Dần; năm sau Mậu Ngọ tháng giêng lại là Giáp Dần, năm sau nửa Kỷ Mùi tháng giêng biến là Bính Dần, ảnh hưởng đương nhiên là biến dịch.
Sau 10 tuổi đời nào những ai có đến 2 vận Thái Tuế.
Càn Khôn nhất hí trường
Thân sinh thị bi kịch.
Đã biết sự khắc chế ở hàng Can là gốc hên xui, nhưng tới mức độ nào, phải so sánh nạp âm của tuổi và nạp âm của thời hạn như: tuổi Nhâm Tí gặp năm hạn Mậu Ngọ thì thấy: Can Mậu khắc Can Nhâm, 2 chi Tí và Ngọ xung (Thiên khắc Địa xung). Nạp âm Nhâm Tí (mộc), sinh xuất cho nạp âm Mậu Ngọ (Hỏa), cho kết quả thấy 95% nguy hại. Nếu người tuổi Nhâm Ngọ thì Can cũng bị khắc, Chi bình hòa, chỉ là tuổi nạp âm vẫn Mộc sinh Hỏa, nhưng còn bị bồi thêm hạn gặp Cô Quả (Thổ) kể như 2 lần khắc Can, tất nhiên kết quả phải là tỷ lệ 90% khốc liệt
THẾ NÀO LÀ VẬN HỘI TỐT
Nhận định được một lá số cho tốt đẹp là cả một công trình nghiên cứu không phải là dễ. Như trước chỉ nghiêng hẳn về tinh đẩu từ bộ chính tinh đến trung tinh thấy nhiều bộ đôi như Khôi Việt, Hồng Đào, Tả Hữu… nhất là bộ tam Hóa Khoa Quyển Lộc là cho đắc cách . Nghĩ thật là một cái lầm quá lớn.
Nhớ lại một lá số xưa kia biết bao lời phê khen tụng cho là đẹp với tuổi Canh Tuất Mệnh Thân đồng cung ở Thìn có Vũ Khúc chủ tinh. Tuổi Canh được Vũ Khúc thủ Mạng ở Thìn là một điều hy hữu ( có nghĩa là được Tam Hóa liên châu ngay ở Mệnh Thìn cung là trúng cách đẹp nhất, áo gấm mặc ban ngày). Vũ Khúc là Kim làm nòng cốt cho người tuổi Kim, bồi đắp thêm cung Quan có Tử Phủ, Hữu bật, Lộc Mã Khốc Khách Đẩu quân. Thiết tưởng cái đẹp đến thế là cực điểm, Về phương diện tinh đẩu phải công nhận là đẹp, cái đẹp chắc nịch gồm cả quý lẫn phú.
Thật tình mà nói chỉ có vị trí đóng Mệnh đánh ngã cái tốt đẹp này. Đó là vị trí Tuế Phá, chứng minh lá số phá cách, là cá nhân hậm hực bất mãn không thể hồi tâm được vì Mệnh Thân đồng cung sa ngã về mồi phú quý ( Lộc Tồn dành cho tuổi Canh là Thân Tí Thìn mới chánh đáng). Người này cố tâm tranh mồi, có thể làm điều phi nghĩa nếu làm được. Hỡi ơi, cái đẹp này nó đẹp ở chỗ nào? Vậy những cái đẹp của tinh đẩu có khác gì cái áo đẹp có thể thằng ăn mày mặc vào làm người ta hiểu lầm là thiện nhân cần cù làm nên giàu có.Chiếc cẩm bào lộng lẫy của bậc minh quân bị phường nghịch tặc khoát lấy bằng đường lối phản động cầu vinh.
Bằng như tuổi Thân Tí Thìn mới đẹp nhất là Canh Thìn mới xứng đáng với Tam Hóa liên châu cùng cung Quan Tử Phủ, Hữu bật, Lộc Tồn ( không cần Mã và tuổi Thân Tí Thìn Mã ở Dần không ở Thân). Khác nhau chỉ bằng vị trí Mệnh ở tam hợp nào trong vòng Thái Tuế để phân biệt đâu là phường múa rối, đâu là chính nhân quân tử, đâu là anh hùng cái thế đâu là kẻ gian manh.
Cái đẹp của Mệnh đã khó phân biệt như thế, cái đẹp của vận hội lại cáng rắc rối khó hơn. Phải cân nhắc trên 3 phương diện Thiên thời, Nhân hòa, địa lợi. Người chính nhân nghĩa hiệp không phài sinh ra nhập thế cuộc là trở thành anh hùng ngay, phải trải qua những giai đoạn bần hàn hay trân chuyên lao khổ tức là được định mệnh tôi luyện nên thành vĩ nhân. Vậy cái vận hội đẹp của từng cá nhân không ngoài thế thiên thời. Người không thời há dễ làm nên việc. Thiên thời là thế tam hợp Thái Tuế. Thái Tuế là ngôi vị của những người thắng cuộc, thì khi vận chuyển đến tam hợp Thái Tuế tức là được Thiên thời là thế cờ may nhất. Nếu thiên thời không có phải nhờ đến thế nhân hoà là lòng người. Lòng người thuận hay nghịch là tính theo tinh đẩu.
Mệnh ở thế Tử Phủ Sát Phá Tham hay Cơ Lương Cự Nhật, nếu gặp đồng bộ nghĩa là cùng phe phái thì hoà thuận, bằng như đụng độ khác giới hẳn là có sự khó khăn, gia thêm lục sát tinh người có số càng thêm chuyện vất vả là may.
Hồi đầu học số trong 10 người có thể nói chắc cả 10 người theo tinh đẩu đắc địa được trung tinh phò tá thì cho là vận hội rồng mây. Nhiều người cả tin cứ tiếp tục khuếch trương sự nghiệp, mất cả nhà cửa tài sản, biết đâu là hạn khắc nhập, cũng có vài người may mà trúng như gặp được thiên thời mà không biết, hay nhân hoà là bộ sao cùng phe phái với tinh đẩu thủ mạng được trung tinh đắc lực ăn nên làm ra, không hiểu đó là nhờ nhân hoà là thứ cách. Địa lợi là hành của Mệnh vận chuyển đến cung được hành của thổ cung là cái thế sở đắc thứ 3 cho tính mạng được phần nào vững chắc yên lành. Cung không đủ sức mạnh lôi kéo phần thắng lợi cho số, như một nhà doanh thương dầu chiếm được một địa điểm ngay góc đường thuận tiện cho mình khai trương, nhưng cứ gặp cảnh mưa rơi tầm tã lụi lội ngăn trở, người mua bán không ưa mình, hỏi làm sao sự nghiệp thịnh phát.
Vậy điều kiện ưu tiên là phải có thiên thời, rồi đến nhân hoà, còn địa lợi là yếu tố chỉ cần an thân.
Nếu thế người đời xét ra chỉ được hưởng 10 năm nào đó, còn lại suốt đời khổ hay sao?
Xin thưa, cũng có người được gặp 2 đại vận Thái Tuế, Quan Phù hay Bạch Hổ, nghĩa là ngoài 20 một vận và ngoài 60 tuổi một lần nữa, tức là người này Mệnh không ở tam hợp Thái Tuế, thắng lợi chỉ là một giai đạon rồi sụp đổ hoặc bị thị phi điểm phá để ô danh sự nghiệp.
Cũng có người được 2, 3 đại vận liên tiếp, nhưng phải là người âm nam dương nữ muốn danh công thành danh toại phải gặp Thiên Không trước cho nếm mùi cay chua mặn chát cuộc thế, hiểu cái thất bại đem đến thành công. Hạng này không giống người dương nam âm nữ qua đại vận Thái Tuế rồi gặp Thiên Không. Người âm nam dương nữ phải qua Thiên Không mới đến Thái Tuế, kế đó may được gặp nhân hoà, biết ra phải hy sinh một chút thì đắc sách là vì hạn sinh xuất gỡ gạch bằng nhân hoà, rồi tiếp đến đại vận khắc xuất được trung tinh phò tá, nếu tam hoá liên châu càng tốt. Trái với khắc nhập gặp trung tinh đắc cách là một điều nguy khốn khó cứu.
Lá số điển hình của một thế nhân sống ù lì để mà hưởng thụ 3 đại vận liên tiếp, tuổi Ất Sửu ngày 30 tháng 10 giờ Mão. Người Tỵ Dậu Sửu mà Mệnh đóng ở Thân Tí Thìn là thế thua thiệt. Ngồi vào chỗ Long Đức phải đóng vai trò thầy tu trọng đạo đức để tự an ủi thân thế. Nhưng Thân lại ở Dần Ngọ Tuất là thế sáng nước khôn hơn ai, biết có ganh mạnh cũng không hơn ai (Hồng Loan, Thiên Không, Cô Thần) tốt hơn mũ ni che tai, để cuộc đời đưa đẩy, gió chiều nào che chiều ấy. Bắt đầu 22 tuổi gặp hạn Thiên Không, nhờ có Thân đóng ở thế sắc sắc không không sớm tỉnh ngộ tuy bị nhồi lên ngộp xuống cố chịu đựng đến đại vận 32 gặp tam hợp Thái Tuế một nhảy thành công. Kế đến 42 tuổi gặp nhân hoà, mặc dầu ở thế sinh xuất đắc
tam hoá liên châu ở Thìn là cả một sự may ít thấy, ù lì mà sống giả khôn giả dại mặc miệng tiếng khen không hợm, chê không buồn. Tuy ở tình thế sinh xuất của Thiên thời vẫn được sinh nhập của nhị hợp bù đắp cách Tử Tướng Phi Hổ thang mây rộng mở tiến bước rong ruổi. Bề ngoài được tiếng rộng rãi hào hiệp với mọi người thực tế bên trong vẫn thụ hưởng hơn ai (hưởng Thân ở vị trí sinh nhập). Rồi 52 tuổi Cự Cơ ở Mão có Lộc Tồn, Hoá Lộc ở thế khắc xuất của thiên thời. Nhân hoà với Cự Cơ song lộc không phải là không đắc cách (Tử Phủ Vũ Tướng với Cự Nhật không cách nhau biệt bao xa) so với bản mệnh Liêm Trinh, nhưng Tử Phủ Vũ Tướng tam hợp hẳn là cuộc sống tuy có kém sút vẫn được đầy đủ. Ở đây đương số phải sống theo hai điều kiện là đối phương uy hiếp (Dậu khắc Mão ở thế xung) giao tế khôn khéo tạo thêm phúc đức (Mão nhị hợp sinh xuất cho phúc cung) cuộc đời hẳn được mãn ý thong dung.
Người này không phải là người vụng tính, còn sớm tỉnh ngộ hơn ai là Thân Dần tuy Tham Lang ở đó có lòng ham muốn như ai, nhưng Thiếu Dương, Hồng Loan, Thiên Không, Cô Thân như có linh giác bén nhậy để tránh những gì bản thân ôm ấp tham vọng. Ta phải phục cái thân quý giá này là chính cái bản ngã của người bằng xương bằng thịt như ta, biết dẫn dắt cuộc đời đi trong đường lối định mệnh vạch ra trải 3 đại vận tốt đẹp, biết xử thế khôn khéo dầu bao thế cuộc xoay vần thay đổi.
Còn một trường hợp đại vận phấn khởi là Mệnh hay Thân bị một Tuần hay Triệt án ngữ làm cho đời như bộ máy khô dầu mỡ, mỗi lần mở máy phải 5 lần bảy lượt ra sức quay mới nổ làm cho người khó nhọc, thân mệt nhoài. Khi đại vận chuyển đến Tuần hay Triệt lại còn nghĩa là nếu Mệnh hay Thân bị Tuần thì khi gặp Triệt tháo gỡ, hay Mệnh, Thân bị Triệt gặp Tuần mới cởi mở, thì đại vận đó coi như con đường xưa kia đào kín nay đã thu dọn hết chướng ngại vật ngăn cản xe cứ việc xả hết tốc lực bon bon chạy.
Luật Tuần Triệt còn nhiều chi tiết, đây chỉ là một nguyên tắc chung nói về vận hội đẹp.
TRIẾT LÝ CHÍNH DANH TRONG TỬ VI
Tử Vi không phải là một khoa toán tìm hiểu số mạng một cá nhân, mà còn tiềm tàng trong phần triết học một đạo lý nhân sinh cư xử tinh tế trung thực. Đó là 2 phần nói là riêng biệt, định mệnh đã sắp đặt và hành động bản thân vẫn có liên quan mật thiết đi đôi với nhau. Định mệnh do Thiên Can (vòng Lộc Tồn) và Địa Chi (vòng Thái tuế) phối hợp quyết định hành động hàng ngày do Thân có vòng Tràng Sinh khuyên nhủ (Thiên Địa Nhân).
Cái gì thuộc sở hữu của ta, ta mới mạnh bạo coi như có quyền định đoạt. Cái gì của người định mệnh đã quy định ta phải cư xử sao cho minh bạch thì mới mong khỏi lầm lỡ ân hận về sau.
Thế nhân sanh trưởng trên cõi đất luôn luôn có người thân (tam hợp) kẻ nghịch (xung chiếu). Sống trong tam hợp ta có bổn phận bồi đắp và hãnh diện hưởng thụ những gì là quyền lợi do công lao đào tạo. Sống trên đất người ta chỉ là kiều dân cư lợi phẩm phải là hạn chế sao cho phù hợp cảnh của người ăn nhờ ở. Vòng Thái Tuế cho biết đâu là chánh danh đâu là dân kiều ngụ. Tam hoá Khoa Quyền Lộc là tài nguyên, người sống trong hoàn cảnh phải tự hiểu để hành động theo lẽ phải thì muôn sự đều suôi chiều êm đẹp. Tam hoá do hàng Can ấn định ban cho từng bộ sao, không như Long Phượng, Tả Hữu, Xương Khúc do năm tháng giờ có nơi xuất phát nhất định theo đường hướng thuận nghịch mà đi, nên tam hoá liên châu ở Mệnh, dầu trường hợp nào cũng ảnh hưởng mạnh tuỳ theo tư cách ý nghĩa của Khoa Quyền hay Lộc.
Tuổi Hợi mà được ngồi ở Tỵ đắc tam hoá liên châu Quyền ở Mệnh, Khoa Lộc giáp hai bên là Thìn và Ngọ. Trông vào thấy cả một bức ảnh tô màu tươi đẹp. Sự thật cái đẹp này chỉ là cái đẹp của kẻ mượn áo đẹp khoác vào mồi câu thơm ngon như cá nuốt mồi, nếu hợp lẽ phải là tuổi Tỵ Dậu Sử mới đáng giá 100% với tư cách công dân chính cống Long Phượng in rõ ràng trên thẻ căn cước. Thái Tuế Tam hoá liên châu này với tuổi Hợi, nếu khôn ngoan nên đó chỉ là phẩm hàm chiếc văn bằng khen cho kiều dân đã làm được việc gì gọi là giúp ích mà mình đã có cơ hội gặp thời may làm được không nên tự kiêu hành động quá trớn để rồi ăn năn muôn thuở.
Tỵ Dậu Sửu và Hợi Mão Mùi là hai thế xung khắc thường đem đến những tính cách quyết liệt khó dung hoà vì cùng một thế âm dương, còn hai thế Thân Tí Thìn và Dần Ngọ Tuất đối với Tỵ Dậu Sửu thì sao?
Thưa rằng Dần Ngọ Tuất đối với Tỵ Dậu Sửu là thế tay trên (khắc xuất mà bị sa lầy) mọi sự đều thua thiệt. Còn Thân Tí Thìn so với Tỵ Dậu Sửu được lợi điểm sinh nhập, nhưng luật thừa trừ vẫn không qua nổi nên thường xuyên bị Thiên Không ngăn chặn mọi hành vi lạm dụng.
Tam hoá liên châu nhập Mệnh nghĩa là một hoá ở Mệnh, 2 hoá giáp hai bên, đắc cách nhất là Quyền ở Mệnh mà cũng chỉ có một tuổi Canh mới có.
Nói đến tam hoá liên châu phải để ý đến luật âm dương rất nhiều và thận trọng. Âm Dương không những ở cung mà còn đòi hỏi đâu là ảnh hưởng dương đâu là ảnh hưởng âm. Từ Dần đến Mùi thuộc Dương, từ Thân đến Sửu thuộc âm. Tam hoá liên châu là áo gấm có gắn huy chương danh dự làm đẹp cho dương nhân ở chỗ thanh thiên bạch nhật. Người khoác áo vào buổi hoàng hôn cho đến tờ mờ sáng, tưởng chỉ nên tự mãn trong lòng mà thôi với công việc mình trong bóng tối.
Vậy từ Dần đến Mùi xét ra chỉ cung Thìn là đắc cách nhất. Cung Ngọ vấp phải Triệt vì chỉ có tuổi Canh mới có tam hoá liên châu oai hùng, mà tuổi Canh có Triệt quá nặng ở ngay cạnh Ngọ. Có hai tuổi Canh là đại diện cho 6 tuổi dương Canh: Canh Thìn đại diện cho Thân Tí Thìn, Canh Tuất thay mặt cho Dần Ngọ Tuất. Ngôi vị Thìn luôn đàn áp Tuất. Người Canh Tuất ở Thìn là Tuế Phá, người Canh Thìn là Thái Tuế, thấy ngay đâu là chánh nghĩa và thắng cuộc.
Muốn có Quyền nhập Mệnh, người tuổi Canh chạy không khỏi Vũ Khúc Phá Quân ngộ Triệt đương nhiên Phúc Đức, nặng nhẹ tuỳ theo Thái Tuế, Tuế Phá khi đắc thời. Tật ách ở Hợi có Cự Môn là sao ngôn luận đắc địa, một đằng gặp Hồng Loan, một đằng gặp Thiên Không đường ai nấy đi. Hai vị trí Thái Tuế và Tuế Phá có tính cách tuyệt đối khác nhau. Còn lại Thiếu Dương và Thiếu Âm có thể nói là cùng hoàn cảnh thua thiệt. Người được định mệnh đặc phú cho thông minh hơn đời mà cứ thấy cuộc sống dường như bị kẹt cứng (Tử Phủ) dễ sinh ra mưu thần chước quỷ nên số phải vạch thêm ngõ rẽ tam đức (Thiên Đức Nguyệt Đức và Phúc Đức) vẫn ở trong thế tam tài Thiên Địa Nhân nương thân. Còn người ta ra công cố sức làm cho lắm vẫn thấy một lầm hai lỡ trở thành khờ dại nên an ủi mà sống coi công lao của mình với thế cuộc sánh bằng đức cao dày của bậc nguyên quân (Long Đức)
Biết rằng chỉ một tuổi Canh có tam hoá liên châu đắc Quyền đứng giữa mà là tuổi dương phải đóng cung dương. Còn tuổi âm cũng chỉ có một trường hợp có 3 hoá liền nhau là tuổi Quý được liệt danh là tam hoá hận đời: Hoá Kỵ ở giữa Khoa Quyền giáp 2 bên (xin lập số tuổi Quý Hợi sanh ngày 24 tháng 11 giờ Mão). Thêm một trường hợp nghịch địa âm dương là tuổi Ất (âm) mệnh phải đóng ở cung Thìn (dương) có Tử Tướng, được Khoa đứng giữa giáp Quyền Lộc, nghịch cảnh âm dương là phải thiếu yếu tố hoàn mỹ nên khiến Quyền ra bên. Nơi đây Khoa đứng giữa lại là điều may được việc. Ất là âm đối với âm Nam nên cung Thìn có Đà La giăng lưới nghĩa là Mệnh nằm ở Thiên La. Nếu không có Khoa làm sao Tử Tướng làm được việc. Nhưng đương số nên luôn luôn đề phòng luật bù trừ mà nhớ rằng điều may chỉ có giới hạn. Tuổi Ất mệnh ở Thìn, Phúc Đức ở Ngọ phải là Thất Sát ngưỡng đầu ngộ Triệt được phần nào giảm thiểu chỉ còn 30% mà thôi mới có hy vọng đề phòng. Phúc Đức Thất Sát ở Ngọ hay Triệt đứng trong tam hợp với Thê Tham Lang ở Dần. Bộ Sát Phá Tham dầu hãm hay đắc địa không nên có trong các cung thuộc người thân của Mệnh như Phụ Mẫu, Thê Thiếp…thường đem mối ưu tư làm tê tái lòng người có số.
Tại sao tam hoá liên châu quý hơn tam hoá nhập tam hợp. Tam hoá liên châu nhập Mệnh có ảnh hưởng rộng rãi liên quan tới cả một dòng giống, nghĩa là cha mẹ anh em đều thọ hưởng. Mệnh là một nét gạch nối liền cả 3 cung. Tam hoá nhập tam hợp thì chỉ một mình xuất sắc nổi bật trong gia đình. Muốn đi đến lẽ chánh danh Mệnh phải có Khoa Quan Lộc có Quyền và Lộc ở Tài mới xứng danh người có đức nhân học rộng đáng lãnh quyền cao hưởng lộc hậu. thiết tưởng khó có được một lá số hợp cách.
Triết lý Tử Vi cao rộng như âm dương trong vũ trụ, đây mới chỉ thấy một phần nhỏ li ti mà thôi
Được cảm ơn bởi: perry
Đầu trang

ngo_ngot
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 702
Tham gia: 14:21, 03/03/11

TL: TỬ VI NGHIỆM LÝ TOÀN THƯ

Gửi bài gửi bởi ngo_ngot »

MỘT NGÔI: TRỜI ĐẤT NGƯỜI
Vũ trụ là thái cực. Thiên địa là lưỡng nghi, là âm dương của dịch lý điều khiển vạn vật từ cái hữu hình đến vô hình. Thánh Phục Hy lập thành bát quái làm đồ biểu cho vũ trụ vẽ bằng 2 đường kẻ ngang (vạch dài là dương vạch ngắn là âm). Một điều khiến người học dịch phải tự hỏi mỗi quẻ trong bát quái không phải là vạch lại là:
Càn Khảm Cấn Chấn Tốn Ly Khôn Đoài
Thiên Địa Nhân
Có lẽ nào lại thừa
Thưa rằng nét đó làm vinh dự cho loài người. Vạch trên là Thiên vạch, vạch dưới là Địa, vạch giữa là Nhân tức là con người. Đầu đội Trời, chân đạp Đất: đứng đầu vạn vật đem khối óc tinh vi của mình như thể chống chọi lại với cả thiên địa danh lấy sự sống còn.
Thảo mộc cũng là một sinh vật sinh lão bệnh tử nhưng không có óc. Súc vật có óc nhưng óc chỉ để báo hiệu cho con vật biết những gì là thói quen như đói ăn, khát thì uống, thấy đồng loại khác giống thì thèm sinh lý, đẻ con sơ sinh thì chăn dắt thế thôi.
Vậy Nhân phải là đề tài khá quan trọng của dịch lý nói chung, lý số nói riêng. Thánh nhân lập ra số đã dành ra một phần rất thiết yếu để cho người đời tự suy nghĩ.
Trong lá số ta thấy 2 chữ Mệnh Thân là cả một vẫn đề khiến ta phải hiều ý nghĩa.
Mệnh là sinh mạng của cá nhân do Thiên Địa hoá sinh thành kiếp người trong một khuôn khổ nào, tức là định mệnh của một kiếp nhân sinh, ví như tuổi Giáp Thìn thấy ngay Thiên Can Giáp (Mộc) khắc địa chi Thìn (Thổ). Ta có thể biết tạm thời vận mạng Giáp Thìn đời sống thường chật vật vì Can khắc Chi, thêm Giáp Thìn không phải là tam hợp của Lộc Tồn, và vị trí Lộc Tồn của Giáp Thìn lại còn bị Tuần thủ tiêu mất. Kể như là Thiên Can không đem lại hạnh phúc gì cả.
Còn địa chi Thìn thì phải tuỳ theo Mệnh đặt nằm ở vị trí nào của địa bàn trong vòng Thái Tuế. Nếu được trúng tam hợp Thân Tí Thìn biết ngay người này được tạo hoá nhồi nắn có tư cách, nhưng khiếm khuyết về hạnh phúc tiền tài.
Thân và thân thế hành động của dương nhân có chấp nhận định mệnh hay không. Biết rằng Mệnh và Thân luôn luôn ở cùng trong một thế lưỡng nghi, ở dương cung thì cùng dương hoặc âm cung thì cùng âm tuy 6 vị trí có khác: Mệnh Thân đồng, cung Thân ở Quan, thân ở Tài, ở Di, Phúc và Phối.
Nhận thấy ngoài Mệnh Thân đồng, ở cung Quan hay Tài, Thân như hoàn toàn chấp nhận định mệnh. Còn ở Di Phúc và Phối cho thấy thân như không chấp nhận định mệnh vì khác tam hợp của Mệnh. Trườn hợp này sẽ thấy muôn hình vạn trạng khác nhau tuỳ theo 12 vị trí Thái Tuế. Phải chăng thấy cảnh thảm kịch của Thế nhân, vị Thánh làm ra lý số phải thêm 1 vòng Tràng Sinh để cùng với vòng Lộc Tồn (Thiên) Thái Tuế (Địa) nêu lên triết lý xử thế nhắn nhủ người đời lẽ thiệt hơn và hướng dẫn cuộc sống.
Tràng Sinh là bước đường dài từ lúc thụ thai trong bụng mẹ cho đến ngày thành nấm mồ trong mộ địa tuyệt tích, lấy trung bình là 60 năm hoa giáp, dầu làm vương tướng gì cũng gặp cảnh thịnh suy luôn phiên diễn bày.
Tràng Sinh chia ra 2 lẽ sống mà cùng ý nghĩ:
a- Sinh Vượng Mộ Đới Bệnh Thai = Đường hoàng cư xử được người quý mến lẽ thịnh suy chỉ là luân chuyển.
b- Dục, Suy Tuyệt Quan Tử Dưỡng = Ăn xổi ở thời không ai tưởng nhớ giấy rách phải cố xếp lấy lề.
Chia xuống thành tứ tượng tức là 4 tam hợp:
1- Sinh Vượng Mô = đường hoàng mồ yên
2- Dục Suy Tuyệt = vội ham tàn tích
3- Đới Bệnh Thai = thịnh suy hoàn lương
4- Quan Tử Dưỡng = Giấy rách giữ lấy lề
Toàn thể cả vòng là một triết lý khuyên đời xử thế: Đường hoàng cư xử được người quý mến lẽ thịnh suy chỉ là luân chuyển, ăn xổi ở thì không ai tưởng nhớ, giấy rách phải cố xếp giữ lấy lề.
Khối óc suy tư của đệ tam tài (nhân) thật đáng sợ. Từ một thân mình trần đầy xác thịt, ra đời lăn lộn lang thang kiếm ăn cùng các sinh vật khác, nay nghiễm nhiên vượt khí quyển trái đất du lịch một hành tinh khác. Rồi đây không biết còn làm được bao nhiêu việc khiến cho Thiên Địa phải nể mặt. Ta lại càng phải sợ cái đầu óc hàng muôn vạn năm xưa đã vẽ ra dịch lý âm dương áp dụng hàng triệu năm nay vẫn không sai lệch ra ngoài lập luận
Sau đây xin trình một lá số gọi là giá trị đệ tam tài “Nhân” giám kình chống lại cái mà liệt danh bất khả xâm phạm: Thiên Địa
Tuổi Tân Dậu ngày 10 tháng 4 giờ Tuất (Khổng Minh)
Mệnh và Thân đều bị xếp vào tam hợp Tuế Phá Tang Môn Điếu Khách tức là Thân cũng phải chịu luỵ với Mệnh ở hoàn cảnh trái ý muốn. Mệnh thấy cả một ông trời nhỏ đủ cả ba hột ngọc quý giá nhất của Tử Vi: Nhật Nguyệt, Tả Hữu, Thiên Mã.
Biết rằng Mộc Mệnh mà vô chính diệu thì không thể có một sát tinh nào hành Mộc để làm nòng cốt cho cứng rắn được, chỉ còn thế hư không được Nhật Nguyệt tam hợp chiếu lên là sáng giá bộ Tả Hữu, phụ thêm Thiên Mã ở Hợi vô cùng giá trị cho người mạng Mộc. Đây là một kiếp lai sinh kỳ nhân quái kiệt (Thai, Thanh Long) âm Nam được Thái âm ở Hợi là một cách phù hợp đáng quý. Thiên Mã càng đẹp với tuổi Tân Dậu bao nhiêu lại càng thấy rõ tư cách phò suy chứ không phò thịnh của Mã (vị trí Tuế Tang Điếu) đứng với Tả Hữu càng nổi bật (nghị lực vạn năng).
Thân mới quan trọng, Thái Dương Thiếu Dương Quyền Phá Hư một văn nhân quyết đem trí óc cải số trơi, kình chống hẳn với Cao xanh là Thái Tuế, nhưng lại không được vì vị trí Mão vẫn bị Dậu khắc chế mặc dầu Thái Tuế vị vướng Địa Kiếp (thâm tâm ông hẳn nghĩ Trời đương bị rối bời, biết đâu là ông khiêu khích).
Với tất cả Mệnh Thân này của người Điếu Khách (quyết tâm quyết phục) Phá Hư (quật ngược) dầu khả năng như trên chỉ kém Thượng đế có chiếc ngai vàng, cũng không sao hài lòng đắc ý.
Ngẫm hay muôn sự tại Trời
Trời kia đã bắt làm người có Thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ Tài (Vòng Tràng Sinh)
Xin bái phục Nguyễn Du hẳn đã nhiều phen cay cú với lý học định mệnh. Tiên Điền tiên sinh khéo nhắc nhở người đời cái thế sơ khai của “Mộc là lòng nhân, là chữ Tâm có giá trị bằng 3 chữ Tài.
MỖI ĐỜI NGƯỜI MỖI NHÂN QUẢ
Vòng Tràng Sinh đã kín đáo giảng giải đời người không phải là một đường thẳng đi từ sinh đến tuyệt là hết. Còn hai giai đoạn Thai và Dưỡng nối liền Tuyệt với Sinh thành một vòng kín quay vòng luân lưu vô hạn. Thời gian biến dịch hết thịnh phải suy, suy tàn lại kéo màn hưng thịnh. Kiếp nhân sinh do 2 vòng Thiên Can (Lộc Tồn) và Địa Chi (Thái Tuế) đúc nắn nhưng không thể không có bản ngã là mình gây nghiệp quả. Một chén cơm ngon không thể không có công bằng người nấu chín. Người vô học không thể cứ ngồi chơi rồi đương nhiên thành Bác Học.
Vòng Tràng Sinh do cục diện đời đương số phát xuất, từ kẻ thất phu đến bậc tuyệt luân cùng chung hưởng sự khác biệt tuỳ theo hành động của cá nhân.
Hai chữ Tài Thọ do Mệnh và Thân điều động là tất cả sự hoán cải bù trừ nhân quả. Lý đương nhiên Thân có làm ra Thọ (nhân hậu) thì định mệnh mới có đủ khả năng quyền biến (Thiên tài có nghĩa là năng lực tuyệt vời) tạo những gì tốt đẹp đền đáp. Đó là trường hợp Thái Tuế. Trái lại khi Không Kiếp hãm địa xuất phát chữ Thọ thì Tài kia cũng sẵn sàng đem lại kết quả hình thức tranh vẽ mà thôi, tuỳ theo cá tính thành tâm tín thực hay thủ đoạn gian manh.
Thế cuộc luân lưu bằng 12 địa chi từ Tí đến Hợi, người đời nhập thể ở khoảng thời gian nào thì thấy cái căn bản của mình phải mang nặng ngay ở phần việc nào như:
1- Sinh năm Tí thì chính bản thân mình là điều can hệ nhất (Tài ở Mệnh)
2- Sinh năm Sửu thì phải làm sao với đấng sinh thành (Tài ở Phụ)
3- Sinh năm Dần thì căn quả chịu ảnh hưởng nơi dòng họ (Tài ở Phúc)
4- Sinh năm Mão thì căn quả chịu ảnh hưởng nơi sự nghiệp (tài ở Điền)
5- Sinh năm Thìn thì căn quả chịu ảnh hưởng với công việc làm (Tài ở Quan)
6- Sinh năm Tỵ thì căn quả chịu ảnh hưởng với người lui tới cửa sau (Tài ở Nô)
7- Sinh năm Ngọ thì căn quả chịu ảnh hưởng ngoại nhân (Tài ở Di)
8- Sinh năm Mùi thì căn quả chịu ảnh hưởng những hoạn nạn (Tài ở Ách)
9- Sinh năm Thân thì căn quả chịu ảnh hưởng tiền của thâu hoạch (Tài ở Tài)
10- Sinh năm Dậu thì căn quả chịu ảnh hưởng con cháu (Tài ở Tử)
11- Sinh năm Tuất thì căn quả chịu ảnh hưởng vợ chồng (Tài ở Phối)
12- Sinh năm Hợi thì căn quả chịu ảnh hưởng anh em (Tài ở Bào)
Chữ Thọ tuỳ theo Thân sống ở 6 nơi: Mệnh, Phúc, Quan, Di, Tài và Phối hướng mà đi. Người nào tuổi dương thì luôn luôn Thọ phải ở những cung được coi là cương cung, vì cùng thế dương hay âm với cung Mệnh, tức là 6 cung Mệnh, Phúc, Quan, Di Tài và Phối. Còn người âm Thọ thường xuyên ở cung nhược (1) cung tức là cung khác biệt âm dương với cung mệnh, nghĩa là 6 cung: Phụ, Điền, Nô, Ách, Tử, Bào. Tất cả trên đây cho thấy luật âm dương rất thận trọng rành mạch phân minh.
Hai người cùng tuổi Mão:
a- Ất Mão sanh ngày 23 tháng 10 giờ Thân
b- Tân Mão sanh ngày 14 tháng 10 giờ Hợi
Biết rằng cả hai người đều nặng căn quả ở cung Điền (sự nghiệp gồm vật chất và tinh thần). Hai người cùng bị Không Kiếp nhập Mệnh và Thân. Sự khác biệt nhau là một người Mệnh Thân Thái Tuế, người kia Mệnh Thiếu Dương, Thân Thiếu Âm. Sự khác biệt này cho biết đâu là thành thực tín nghĩa của Thái Tuế. Không Kiếp chỉ hành hạ người không được đắc ý mà thôi. Còn người Thiếu Dương Không Kiếp được bồi đắp thêm tả Hữu ở Phụ Mẫu nhị hợp dồn sang, diễn tả một kiếp nhân sinh sáng láng hơn người mà thủ đoạn cũng không chịu nhường ai cả (Tả Hữu Không Kiếp).
Người Thái Tuế mang chữ Thọ từ Quan đến Ách, đương nhiên là Ách sẽ chẳng đến nỗi nào đáng ngại. Người Thiếu Dương mang chữ Thọ từ Phối đến Phụ. Hỏi rằng có thực bụng tâm thành hay không? Hay chỉ là một thủ đoạn trá hình. Tất nhiên cung Điền của hai người do chữ Tài hoán cải khác biệt muôn vạn dặm đường.
Bánh xe Tràng sinh xoay chuyển đồng nhịp điệu với Tài Thọ luân lưu làm cho lý số học ngoài cái ưu điểm sở trường là thấu rõ tư thế cá nhân trong xã hội, còn bao gồm một triết lý cao sâu cho hết thảy mọi người phân biệt được đâu là đường đi quang minh êm đẹp, đâu là bước ngõ tối chông gai, tự mình nên sáng suốt mà rong ruổi.
(1) 12 cung số không thể coi cung nào là cường hay nhược. Mỗi cung đều có những quan hệ thiết thực với Mệnh trên khía cạnh riêng biệt, như Phụ Tử Điền Ách đâu có thể coi nhẹ đồng cân. Từ lúc mới ra đời phải có cha, khi về già có con, sự nghiệp tài sản với tai nạn đâu có phải là vấn đề bỏ qua ít ảnh hưởng đến cuộc sống bản thân.
NHỮNG TRẠNG THÁI DIỄN BIẾN CỦA 6 CHỮ GIÁP
Khổng Phu Tử xưa kia đã nói: “Ngũ thập nhi chi tri thiên Mệnh”. Ý nghĩa là đến tuổi 50 mới rõ được chân lý của Trời. Với bộ óc sáng suốt của một vị Thánh có thể thừa thời gian để tìm biết. Còn người trần thế với cái thông minh bình thường, thiết tưởng phải đến tuổi tròm trèm 70 mới rõ được lẽ huyền diệu việc đời. Tiếc thay mấy ai đã sống đến thời gian đó (nhân sinh thất thập cổ lai hi).
Người ta nhập thế cuộc 10 năm đầu còn là tiểu nhi. Bắt đầu từ 11 đến 70 mới đủ 60 tuổi (10 năm chót bì qua 10 đầu, Can và Chi y hệt) ngắm lại đời người những đổi thay biến dịch dễ mấy ai có thể tự hào là tri thiên mệnh.
Chuỗi thời gian 60 năm cổ nhân đặt ra 2 bộ phận (10 thiên Can và 12 địa Chi) sắp xếp theo thứ lớp phân tách ra âm dương đầy đủ ý nghĩa và riêng biệt.
Âm dương là không gian, ngũ hành là thời gian. Từ cái bất dịch đến cái giao dịch thành biến dịch. Sinh khắc chế hoá là guồng máy tinh vi của lý học.
Thiên Can là gốc, Địa Chi là ngọn. Can là Phúc Đức, Chi là thân thế. Từ Giáp Tí đến Quý Hợp biết bao bình diện nhân sinh nối tiếp tuần tự lớp lang (xem bảng 70 năm tuổi thọ) khiến cuộc sống nhân thế khác gì thuỷ triều sáng tối.
Mười thiên can chia làm hai phái Âm Dương thành 5 cặp. Mỗi cặp có 1 thế chất riêng là ngũ hành:
Dương Âm Hành
Giáp Ất Mộc
Bính Đinh Hoả
Mậu Kỷ Thổ
Canh Tân Kim
Nhâm &n bsp; Quý Thuỷ
Mộc là sơ bản tính vốn thiện chủ nhân từ. Mộc sinh hoả là Nhân sẵn có thì dễ học để biết lễ (Hoả). Hoả sinh Thổ là Lễ đã biết thì Tín thực (Thổ) phát sinh. Thổ sinh Kim, Tín đã giữ được thì đương nhiên có nghĩa khí (Kim), hành động theo lẽ phải. Kim sinh Thuỷ là Trí suy nghĩ hiểu biết sự lý tức là trọn vẹn ngũ thường.
Từ Mộc (Giáp Ất) tuần tự xuống Hoả (Bính Đinh) Thổ (Mậu Kỷ) Kim (Canh Tân) Thuỷ (Nhâm Quý) là cả một hệ thống tương sinh, người trên chịu đựng hi sinh cho người dưới. Cuộc đời nếu biết kính người trên hy sinh cho mình và tự chịu đựng hy sinh cho người dưới, như Mộc được sinh nhập của Thuỷ và sinh xuất cho Hoả là cả một cuộc diện tương sinh thái bình Long Hoa. Nếu vội nhẩy cách bước muốn khắc phục người là khắc xuất (Mộc vượt qua Hoả khắc Thổ) bằng như quá trớn đuối sức thì đương nhiên bị khắc nhập, như Giáp Ất nhảy cách Bính Đinh uy hiếp Mậu Kỷ rồi qua Canh Tân bị khắc nhập lại. Phải chăng là thế chiến quốc, còn gì là hạnh phúc nhân sinh.
Những dương hành Giáp Bính Mậu Canh Nhâm đáo hạn gặp nhau sự sinh khắc phải là tuyệt đối, còn so với âm hành chỉ còn là tương đối. Những âm hành Ất Tân Kỷ Quý cũng vậy khi đụng chạm nhau sự khắc chế cũng mạnh mẽ hơn khi gặp dương hành:
Giáp hợp Kỷ
Ất hợp Canh
Bính hợp Tân
Đinh hợp Nhâm
Mậu hợp Quý
Trong địa bàn Tử Vi sự sắp xếp thấy tinh vi từng vị trí chính yếu. Từ Mão đến Thân thuộc về Dương, từ Dậu đến Dần là tư thế của âm. Tí Ngọ là 2 thế chính (lưỡng nghi) của Thái Dương và Thái Âm. Thêm Mão Dậu (tứ tượng) là Thiếu Âm và Thiếu Dương lập thành 2 thế khai sinh. Thìn Tuất là 2 thế nguồn chuyển biến.
Bánh xe 60 hoa giáp là một vòng kín gắn liền 6 con giáp Can Chi tuần tự phối hiệp âm dương riêng biệt ràng rẽ luân chuyển, khiến đời sống vạn vật phải chịu ảnh hưởng từ cái sáng đến cái tối, từ mối thịnh vượng đến lẽ suy vong.
Thường tình mà nói khi bắt đầu từ Tí phải tuần tự đến Dần, Thìn, Ngọ, Thân rồi đến Tuất. Nhưng khi tính ra thấy cái tinh hoa của 10 Can là tuyệt lý. Từ Giáp Tí đến Quý Dậu rồi nhảy qua Giáp Tuất chứ không thể là Quý Sửu nối Giáp Dần:
a- Giáp Tí 1 trong hai thế chính của lưỡng nghi là sơ khai trong cảnh tối âm u minh (Thái Âm). Chi sanh Can, gốc chưa bén rễ nhờ ngọn nuôi. Cuộc sống phải đơn sơ giản dị, gặp nhiều may do ngọn thu hút ở cõi hư vô đầy hơi nước (Tí Thuỷ). Đa số nằm trong thời gian này được Chi sanh Can.
b- Bước qua Giáp Tuất (Can khắc chi) 1 trong 2 thế nguồn gốc chuyến biến. Gốc dành lấy sống, ngọn phải héo tàn, thời gian tranh sống gò ép, nguồn gốc phát sinh ra Giáp Thân.
c- Giáp Thân (Chi khắc Can) là thời gian quật khởi nhờ ánh sáng Thái Dương, tuy là chiều tà (20 năm từ Giáp Tuất đến Quý Tỵ là một chuỗi Can Chi tương khắc, triền miên tang thương diễn chuyển)
d- Giáp Ngọ là thế chính của Thái Dương, gốc tự hiểu lẽ sống phải nuôi ngọn để trường tồn (đa số năm Can Chi tương hợp).
e- Nhảy đến Giáp Thìn (Can lại khắc Chi). Ở đây không giống như Giáp Tuất là vì thuộc phạm vi của Thái Dương (Giáp Tuất thuộc Thái Âm). Đa số năm Can Chi tương sinh nhưng có nhiều dồn ép (Can Giáp khắc chi Thìn). Đây chỉ là nguyên lý để chuyển dần đến Giáp Dần.
g- Can Chi đồng hành là biểu tượng của Giáp Dần, một cảnh bình đẳng bằng liên hiệp, một thế huy hoàng hạnh phúc.
Bánh xe luân lưu lại đến Giáp Tí, tuỳ hoàn cảnh, tuỳ thời gian, bình dị may mắn vẫn là biểu tượng của Giáp Tí, tuyệt không một khắc chế, rồi Giáp Thân, Giáp Ngọ, Giáp Thìn, Giáp Dần tuần tự nối nhau bất tuyệt.
Ngắm nhìn sự chuyển dịch giữa 6 con Giáp, nhjaan thấy có 2 đường lối riêng biệt:
1- Từ Giáp Tí bước qua Giáp Tuất, từ Giáp Tuất sang Giáp Thân, từ Giáp Ngọ nhảy tới Giáp Thìn, từ Giáp Thìn biến thành Giáp Dần tất cả là những khắc chế ghê gớm.
2- Còn từ Giáp Thân sang Giáp Ngọ, Giáp Dần sang Giáp Tí là tình tương sinh đằm thắm.
Nguyên tắc
Giáp Tuất (Hỏa) khắc Giáp Tí (Kim)
Giáp Thân (Thủy) khắc Giáp Tuất (Hỏa)
Giáp Ngọ (Kim) sinh Giáp Thân (Thủy)
Giáp Thìn (Hỏa) khắc Giáp Ngọ (Kim)
Giáp Dần (Thủy) khắc Giáp Thìn (Hỏa)
Giáp Tí (Kim) sinh Giáp Dần (Thủy)
Ngày nay đời sống vật chất nhờ được khoa học tiến bộ, tuy có bỏ cách xa ngàn xưa muôn vạn dặm, thiết tưởng phần tinh thần không thể không giống nhau ở mỗi hoàn cảnh phải ưu tư hay đắc ý.
(1) Trên địa bàn Tử Vi chia làm 12 cung âm dương xen kẽ nhau. Sáu cung dương là 6 chữ Giáp. Mỗi chữ Giáp là hiện tượng của mỗi thời đại. Giáp Tí là Thái Cổ. Giáp Tuất là thượng cổ. Hai thời đại này thuộc về ảnh hưởng của Thái Âm nên mọi sự đều ở trong vòng sơ khai bí hiểm. Phục Hy là vị Thánh thời Thái cổ phát minh ra dịch lý cũng phải chờ đến Khổng Tử ở thời Trung cổ mới san định được ra manh mối một phần lớn. Giáp Thân là Trung cổ, đây là thời gian đã thuộc Thái dương nên đã sản xuất là những Thích Ca, Khổng Tử ra đời trước 500 năm dương lịch. Giáp Ngọ là Cận Cổ là thời đại khoa học dồn dập phát minh (Chữ Giáp sinh chữ Ngọ). Giáp Thìn là hiện thế rồi đến Giáp Dần là Hậu thế.
Mỗi thời đại là 1080 năm tức là gồm 6 đại nguyên. Mỗi đại nguyên có 1080 năm chia làm thượng nguyên, trung nguyên và hạ nguyên (nghĩa là mỗi đại nguyên phải đi hết 1 vòng 6 Giáp mới là một thời đại)
Được cảm ơn bởi: perry
Đầu trang

ngo_ngot
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 702
Tham gia: 14:21, 03/03/11

TL: TỬ VI NGHIỆM LÝ TOÀN THƯ

Gửi bài gửi bởi ngo_ngot »

CÀN KHÔN NHẤT HÍ TRƯỜNG NHÂN SINH THỊ BI KỊCH
Trời đất bao la bị thu hẹp coi như một sản phẩm của diễn đài trò chơi hỉ nội ái ố. Kiếp nhân sinh hẳn là một bản tuồng vui ít buồn nhiều. Kịch sĩ, tùy theo nghệ thuật và vai trò thủ diễn chỉ còn hứng chịu tất cả những lời bình phẩm khen chê người đời yêu hay ghét. Mấy ai thấu đáo được tình hình tư cách diễn viên mà xét đến nghệ thuật phải đóng trò: trung, nịnh. Sự thật oan hay ưng, đáng hay không chính đáng, định mệnh đã dự thảo sắp xếp do quyết định của tay thầy tuồng đạo diễn: Tạo Hóa.
Biết bao nhân thế cổ kim, đã thấm thía tủi hờn, trước cảnh éo le cuộc sống, không phân trần minh chứng nổi sự việc. Thành tích khi đã bị hiểu lầm vì một uẩn khúc nào đó, một khi được trình bày chính xác, tất sẽ hài lòng. Lịch sử phải trung thực, ghi rõ trắng đen.
Công việc soi tỏ được nỗi niềm, phần lớn trông cậy vào những bậc có thực tài thấu hiểu lẽ huyền vi vũ trụ.
Những dị nhân như thế không phải là nhiều, dễ kiếm. Hàng trăm năm ngày tháng mới xuất hiện được một Gia Cát Lượng ở Hậu Hán Trung Hoa, một Nguyễn Bỉnh Khiêm của Hậu Lê Việt Nam chỉ đường ngay, vạch lối thẳng đường cho người, đồng thời và soi tỏ nối uất hận của những vai trò có liên hệ mật thiết đến cuộc sống chung.
Nhưng đã là người, sự khắt khe không chừa ai. Người trước cố sức mình quyết ý phá định mệnh mà rồi công 6 lần xuất phát Kỳ Sơn cũng chẳng nên cơm cháo gì. Hồn cũng đành lìa khỏi xác trên đàn phương tinh, không hy vọng cầu cho tuổi thọ thêm một giáp. Người sau chịu bó gối, tự biết đời sống đã lỗi thời, đành lang thang đây đó, tìm cái vui tai với tiếng chim hót ríu rít nơi cây cao bóng mát, hoặc mượn thú vui ngâm thơ bình phú làm khoái chí dưới mái Bạch Vân Am.
Sự thật những cao nhân siêu thặng đó đã giúp ích rất nhiều cho hậu lai biết đâu vàng thau, mắt cá hạt châu bằng những lời bóng bẩy sấm ký tiên liệu xa vời.
Tử vi từ ngàn xưa để lại, bị cỏ lau bao phủ mất vị trí, lại thêm cây dại mọc chia cành ngang làm mắc lối. Người học chỉ lượng quanh, ngại mất công một phần, không dám xông pha rừng rậm để kiếm đâu là kho tàng quý giá, phần bị mang man thư (không rõ) làm lạc hướng. Đã hoang mang trước tinh thần thực học, lại không thấy gì xác đáng bởi thêm dư luận chê bai, đành bỏ ngang quay bước. Tiến thoái lưỡng nan, không kết quả gì khả quan, dẫu mất nhiều ngày tháng rèn luyện chỉ được một vài kinh nghiệm chắp nối đơn sơ, phải chăng lữ khách ra khơi thiếu la bàn định hướng.
Tinh thần hiệp sĩ cửu lưu không thể lãng quên mà sa vào tục lụy.
Càn khôn nhất hí trường
Nhân sinh thị bi kịch
Trước tinh thần lý học cao siêu, dám mong những ai thử phân tích (mất chữ) đều chính xác vài bản toán dưới đây từ tư cách đến tình tiết cuộc sống mỗi nhân sinh:
a- Nhâm Dần 23 tháng 3 giờ Tý
b- Ất Mão 29 tháng 12 giờ Tý
c- Đinh Mùi 20 tháng mười giờ Mão
a- Tuổi Nhâm Dần, Mệnh Thân đồng cung tại Thìn cho thấy một thế nhân có căn bản mà lắm éo le; người nặng lo mà lo hoài cũng vẫn bất mãn, đi đôi với Tử Tướng Quyền ngộ Tuần (quyền rơm vạn đá). Người này đến lúc tay buông xuôi vẫn không đang nhắm mắt. Hai đại vận 26 – 35 và 66 – 75 ở Ngọ Tuất là hai đại vận đắc thiên thời, nhân hòa vẫn không cho phép người có số đắc ý, tuy là đời sống gặp bước cao sang phải chăng Tài Thọ không thi thố đúng mức vì người ở dương cung Tử Tướng ngộ Tuần quá khắt khe. Giai đoạn 66 – 75 ở Tuất tình trạng Phá Quân lại bị bao hãm trong cái lưới. Địa Võng (có Đà La), nếu được trách vụ giao phó thì cũng sôi hỏng bỏng không càng thêm gánh hận vào mình. Phải công nhận Tử Tướng dầu không trúng cách của Mệnh nhưng tư cách vẫn không hèn, bị bồi thêm Kình Lực không cho hãnh diện là may cũng như Lý Quảng không được phong Hầu.
b- Ất Mão được trúng cách Lộc Tồn, nhưng Mệnh Thân đồng cung ở Sửu không khác gì tuổi Nhâm Dần Mệnh Thân đồng cung ở Thìn mà còn kém cả căn bản (tam hợp Tuế Phá không cho phép đương số được hài lòng). Cái khác nhau là người nặng lo (Tang Môn) không nên cơm cháo gì, còn người Ất Mão này ở Điếu Khách ức lòng muốn phân trần mà không nổi. Tử Tướng bị Tuần là tư cách nhân hiệp bị ngăn trở. Tham Vũ bị Tuần là tham vọng thất bại gạt ngang. Cả hai đều Mệnh Thân đồng cung thì cả hai cuộc đời gặp thiên thời chỉ là vơi chút u sầu. Tham Vũ ngộ Tuần không chút hết nỗi lòng tham, trừ phi tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi đắc Phá Toái sẽ giảm Tham Vũ đến mức tối cao. Người có số tự tu (Không rõ) với Tài Thọ ở cung điền mà an phận không ham trèo cao, ngã đau, chờ đại vận 66 – 75 Mùi đắc Triệt tháo gỡ Tuần họa chăng thanh minh được lòng mình.
c- Một là số dễ làm người học lầm lạc cho là:
1. Vô chính diệu đắc tam không
2. Có tâm hồn từ bi bác ái
Mệnh ở cung Thân vô chính diệu có Thiên Không, Địa Không, Thiên Di ở Dần có cả Tuần và Triệt, Thiếu Dương, Hồng Loan, Cô Thần đều ở Mệnh. Sự thật Hồng Không vẫn là sắc sắc không không. Thiếu Dương, Thiên Không, Cô Thần là bác ái, nhưng đây còn ẩn nấp Lưu Hà, Kiếp Sát, nhất là Thủy Mệnh thì Lưu Hà là chủ nhân cùng với Kiếp Sát là một thứ gọng kìm quá bên phụ tá thêm Không Kiếp dầu đắc địa. Bản mệnh vốn ráo riết (dương cung) thêm cả một hàng sát tinh đâu có phải từ bi.
Đây là vô chính diệu kiến tam không, cuộc đời phú quý (có Khoa Quyền Lộc) như giấc mộng hoàng lương. Mệnh Thủy không bao giờ được vô chính diệu đắc nhất nhị tam không. Chỉ một tuổi Hỏa mà thôi.
Càn khôn nhất hí trường Nhân sinh thị bi kịch
TỬ VI CHÍNH THỊ ĐÍCH TÔN CỦA DỊCH LÝ
Dịch lý là môn triết học thâm căn của Á Đông quán triệt vũ trụ của hai thế cách tượng hình là thời gian, với cơ bản rất đơn giản và âm dương ngũ hành. Nhất là sau ngày hai nhà bác họcc Á Đông đem dịch lý âm dương bác công thức song hành điện lực nguyên tử được phần danh dự lãnh thưởng giải Nobel năm 1957, sau hai lần thí nghiệm quốc tế nguyên tử lực cuộc.
Âm dương trên bình diện văn từ coi như cân phân ngang bằng, nhưng thực trạng theo luật cơ (lẻ) ngẫu (chẵn) vẽ nên hình tượng thì dương bao giờ cũng lấn âm quá bán (3 đối 2) như tất cả mọi mặt chia loại âm dương trong dịch học:
<!--[if !vml]-->D =<!--[endif]--> ______________

A = _______ _______

D = Nam, cương, thiện, đại, chính, thực, quân tử, phú quý, mạnh
A = Nữ, ác, tiểu, tà, hư, tiểu nhân, bần tiện, yếu.
Giữa Thiên Can và Địa Chi cũng vậy. Can phải là gốc Chi chỉ là ngọn. Nguồn thực lực quan trọng vẫn là Can nên Can được đặt đứng trước Chi cho biết đâu là căn bản.
Mỗi khi nói đến Thiên (Trời) nhận ngay thuộc dương với hình tượng trong sáng, mà Địa (đất) phải u minh thuộc âm. Cũng như nghĩ đến Nam tướng thấy mày râu dũng mãnh (dương) còn nữ thì thanh mai uyển chuyển (âm).
Thời gian chữ dịch chia làm 3 giai đoạn:
1. Bất dịch = Mệnh lập
2. Giao dịch = Thân hành
3. Biến dịch = vận chuyển
Mỗi cá thể sinh vật được âm dương phối hiệp sanh ra chứa đựng ngũ hành đầy đủ hợp chất là bất dịch. Vì lẽ sống còn phải lần hồi tiếp xúc ngoại giới là giao dịch, tất nhiên đời sẽ biến dịch, tùy theo hoàn cảnh, người không hiểu tùy thời quyết định (ăn thuở, ở theo thời).
Phần chương lãnh dịch học phải biết chia loại về nghĩa âm dương.
Dương hào phải ở dương vị, âm hào nằm ở vị trí âm vị mới đắc cách, trái lại là bất chính thường đem lại khó khăn, kết quả không lành.
Mỗi quẻ dịch có 6 hào bắt đầu từ dưới chồng lên. Theo luật cơ ngẫu hào sơ hào tam, hào ngũ là hào dương vị. Hào nhị, hào tứ, hào thượng là hào âm vị. Vị trí của dương vị nên được dương hào chiếm đóng, âm vị phải để cho âm hào trú ngụ, mọi việc sẽ được hanh thông, trái lại tất sở cầu bị bế tắc.
Như hai quẻ:
a) Thủy Hỏa Kỷ Tế:
Cho thấy sơ hào ở dưới cùng hào 3, hào 5 đều một vạch là dương hào đắc dương vị. Hào 2, 4 và thượng (6) đều 2 vạch là trúng âm vị có âm hào. 3 nét ở trên là Khảm (thủy), 3 nét dưới là Ly (hỏa). Theo tượng quẻ Thủy ở trên, hỏa ở dưới có nghĩa là hỏa bốc lên, thủy thấm xuống, tức thủy hỏa tương giao để đem lại thành công hợp cách 6 hào âm ở âm vị, dương ở dương vị rất hoàn toàn đâu vào đó, ý nghĩa mọi sự đắc cách.
--------> <---------

A 6 (thượng) __ __ D 3 _____
D 5 (thủy) {_____ } Khảm A 2 {__ __ } Ly
A4 __ __ (Thủy) D (sơ hào) _____
b) Hỏa Thủy Bị Tế:
Cho thấy Ly (hỏa) trên, Khảm (thủy) dưới, các vị trí âm dương hào đều đứng nghịch vị, nghĩa là lửa không nấu được nước và nước thấm xuống không đi tới lửa, việc sở cầu như trống đánh xuôi, kèn thổi ngược hợp cách 6 hào âm dương không đắc vị.
_____ __ __
__ __} Ly {_____} Khảm
_____ ( Hỏa) __ __ ( Thủy)

Trong bản đồ Tử Vi thấy 12 cung âm dương xen kẽ không khác gì vị trí 6 hào quẻ dịch. Lý đương nhiên người dương Mệnh đóng ở dương cung, người Âm phải ngồi ở âm vị mới đắc cách, dẫu là tam hợp Tuế Phá vẫn có nghị lực (thiên mã) phụ giúp hùng khí như ai tam hợp Thái Tuế đành rằng kém phần chính nghĩa.
14 chính tính trên địa bàn, điển hình có bộ Nhật Nguyệt luôn luôn sao cho âm dương thuận vị.
Người âm đóng cung dương đã là nghịch vị, nếu lại Thái Dương thủ Mệnh, chưa vội nói đến hành Mệnh có hợp sao hay không, thấy ngay có phần kém sút (Thiếu Dương hay Thiếu Âm). Chẳng may cung đó lại là cung lạc hãm của Thái Dương, báo hiệu người đó bị lôi cuốn vào vòng đen tối ngay buổi ban sơ, nhưng rồi một ngày sẽ sáng tỏ với tư cách Nhật Cư dương vị. Trái lại vị trí đó lại tịnh minh cho Thái Dương sự sáng tỏ đó sẽ là dù che thân.
Người âm đóng cung âm, Mão hay Tỵ, Thái Dương đó chỉ nhất thời không chánh nghĩa.
TOÁN SỐ DỊCH HỌC MỘT PHƯƠNG TIỆN GIÁO HUẤN ĐẠO LÝ NHÂN SINH
Khoảng gần 3.000 năm trước dương lịch, một vị đại thánh đã biết ngưỡng, chiêm trời mà định thiên văn, cúi dòm đất để xét địa lý, nhìn thẳng không gian khảo sát vạn vật, nghĩ cách mở mang dân trí để diệt bớt dục vọng thế nhân, mới vạch ra tượng hình vũ trụ nên hình bát quái với những ý định kín đáo. Đó là Đại Thánh Phục Hy.
Phải chờ đến 3 vị thánh sau bay là Văn Vương, Chu Công và Khổng Khâu, nhất là Khổng Khâu e sợ người đời lầm đường lạc lối soạn thêm những lời giảng giải (soán từ).
Mỗi quẻ bát quái có 3 nét làm đại diện cho tam tài, (thiên nhân địa). Phải dùng đến hai quái chồng lên nhau mới thành quẻ, vì mỗi Tài phải có 2 hào thay mặt cho âm dương. Nếu chỉ một âm hay một dương không thể sinh thành biến hóa được.
Hạ quái được gọi là nội quái (D), thượng quái là ngoại quái (A). Mỗi quái có 3 hào: Hào sơ là dương vị, Hào nhị là âm vị, hào tam hào ngũ là dương vị, hào thượng (6) là âm vị. Giữa hai quái phải có tương ứng với nhau là hào nhị được gọi là hào lục nhị hay nhị sách (A) tương đắc với hào ngũ liệt danh là đơn hay cửu ngũ (D) là đắc trung đắc chính.
Ngoài những quy luật ấn định, những soán từ là những lời vàng tiếng ngọc để cho đời làm khuôn mẫu hành sự. Hai chữ chính trung sao cho hoàn hảo. Biết việc nên làm thì làm là chính. Chính sao cho trúng lúc không thái quá cũng không bất cập là đắc trung.
Hai quẻ Thủy Hỏa Kỷ Tế và Hỏa Thủy Vị Tế:
__ __ _____

Thủy { _____ } Khảm Ly{__ __ } Hỏa

__ __ _____

_____ __ __

Hỏa { __ __ } Ly Khảm { _____ } Thủy

_____ __ __



Nhận xét vị trí âm dương thuận lý và giao hợp tương ứng là đắc thành (Kỷ Tế) mà nghịch lý lại âm dương bất giao là dở dang (Vị Tế)



Đến như hai quẻ:



Địa Thiên Thái Thiên Địa Bỉ

__ __ _____

Khôn {__ __ } Ngoại quái Ngoại {_____ } Càn

__ __ _____

_____ __ __

Càn {_____ } Nội Quái Nội{ __ __ } Khôn

_____ __ __

Thấy rằng vị trí âm dương phần nhiều bị xáo trộn, lại soán từ thấy giáo huấn rất nhiều.
Địa Thiên Thái vị nội quái là cả một đoạn quân tử (càn) thiểu nhận (khôn) đứng ở ngoài (thượng quái). Hào nhị (âm vị) đáng lẽ phải là hào sách, đây lại là cửu nhị (D) ứng hợp với hào lục ngũ ở quái thượng. Sự cương (D) nghịch (A) phải tùy thời gian áp dụng sao cho chúng phải đắc thái.
Thiên Địa Bỉ thấy Nội quái là Khôn (A=tiểu nhân). Thượng quái là toàn dương (Càn). Khí âm thấm xuống, khí dương bốc lên không tương giao tất nhiên vạn vật khó sinh thành. Một đoàn tiểu và cửu ngũ vẫn là dương nên chữ Bỉ chỉ là thời gian.
Toán số Tử Vi cũng vậy, không cứ gì bộ tinh đẩu nào là làm được việc, còn phải tùy chữ thời cũng như bên dịch lý. Đắc vị là tư cánh, còn bản Thân đào tạo chữ Thọ đến mức độ nào khiến chữ Tài hoán cải đủ sức mạnh can thiệp Quan Phúc, Thiên Ất nhúng tay chặn bớt trở lực ngăn cản bước đường đưa đến chữ Thời.
Ngắm nhìn vào của ngũ của dịch lý không khác gì thời Thái Tuế của Tử Vi. Người Thái Tuế phải trải qua 4 vận đến vận thứ 5 mới đến thời. Hào cửu ngũ cũng là hào thứ năm nên mới có câu Đế Vương lên ngôi Cửu Ngũ.
Những soán từ của dịch lý thường nhắc nhở tư cách những bậc Thánh nhân cùng một nhịp điệu âm nhạc chữ Tài chữ Thọ của Thái Tuế.
Tiếc rằng lâu nay người đời vẫn nhìn khoa toán số dịch lý trong một thành kiến hạn hẹp. Thời buổi khoa học tin sao được sự ứng nghiệm, đòi hỏi phải có minh chứng cụ thể. Nhưng tại sao hiện nay có những người được mang danh bác học triết gia ở phương trời xa xăm lại ham mê tìm kiếm cố bới móc những cái gọi là của quý dịch lý Á Đông. Có phải là tùy cách thọ hưởng.
Mỗi lần đọc Chu dịch là một lần như được nghe Phục Hy, Khổng Khâu nêu cao danh nghĩa quân tử, chỉ đường đối xử tùy thời cương nhu, một thâm ý dùng toán số dịch học để giao huấn đạo lý đức hạnh nhân sinh.
Được cảm ơn bởi: perry
Đầu trang

ngo_ngot
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 702
Tham gia: 14:21, 03/03/11

TL: TỬ VI NGHIỆM LÝ TOÀN THƯ

Gửi bài gửi bởi ngo_ngot »

CÀN KHÔN MỘT KHỐI VĨ ĐẠI ĐỨC HẠNH
Vũ trụ là một khối thái cực bao gồm một cặp lưỡng nghi thiên địa được biểu tượng nên hai thế Càn (dương) và Khôn (âm) chứa chất biết bao khả năng trong đó có cương kiện và nhu thuần. Một đức tính người thường ghi dành riêng cho hạnh kiểm của những hiền nhân quân tử mới có.
Trời đất tất nhiên là sáng suốt có vạn năng hun đúc uốn nắn đến cái thứ ba là đệ tam tài (nhân) thừa hưởng và thi hành. Người đời được sinh ra vốn bản thiện, một điều tiên quyết mà mấy ai đã kiên trì vứng tay nắm chắc từ thửa sơ sinh cho đến lúc bạc đầu.
Hai quẻ Càn Khôn dịch lý chứng minh giảng giải cho thế nhân thấy tất cả những gì khả năng vô địch của lưỡng nghi trời đất.
Biết rằng mỗi quẻ dịch có hai quái: nội quái là dương và ngoại quái là âm. Mỗi quái có 3 hào nên mỗi quẻ có 6 hào vì lẽ tam tài (thiên nhân địa). Mỗi tài phải có một hào dương và một hào âm để biến nên vị trí chính phải như:
Thượng hay ngoại quái | _____D} Thiên
| __Â__

_____ D} Nhân

Hạ hay Nội quái | __Â__

| _____ D} Địa
Lấy hai hào chính giữa mỗi quẻ để giao hợp nhau nên gọi là trung. Nếu hào nhị âm và hào ngũ là dương là đắc chính.
Thấy hai quẻ Càn nêu là Bát Thuần Càn và Khôn ghi Bát Thuần Khôn tức là mỗi quẻ 6 hào đều đứng về một phía:

Càn Khôn
_____ __ __
_____ __ __
_____ __ __
_____ __ __
_____ __ __
_____ __ __
Theo luật âm dương thấy lệch hẳn một bên thì hẳn có sự mắc nghẽn không xuôi chiều, vì thế hai quẻ này soán từ giảng giải rất cao siêu để biện lý tất cả những gì là khả năng của Càn Khôn xây.
Sáu hào của Càn đều là dương thấy sự khó khăn ở ba hào nhị tứ và thượng đáng lẽ phải là âm mới đắc vị. Nhưng đã là Trời mà phải khoanh tay trước thế bí sao? Soán từ đề cao 4 chữ của Càn: Nguyên Hạnh Lợi Trinh
Nguyên = nguồn gốc đầy đủ
Hạnh = Thông thái thuận tiện
Lợi = Tiện ích thỏa mãn
Trinh = Chính đính bền chặt đến cùng
Chủ yếu gồm ý phơi bày vạn năng của Trời ngay từ gốc thiện căn, đủ sáng suốt hành động công ích thỏa mãn mọi trường hợp với ý chí bền chặt đến cùng. Mặc dầu có những trở ngại chỉ là giai đoạn (nhị, tứ). Cương kiện là bản chất của Càn, nên nhu phần nào cho trúng lúc (chữ Thời). Qua hào cửu ngũ đã thành công đến hào cửu thượng không nên quá cương, vì cùng tắc biến, đầy quá phải tràn, giữ khoan hồng nới tay để tránh vòng biến họa. Đây là chân bản sáng suốt của Thiên.
Quẻ Khôn cũng 6 hào toàn âm, thấy nghịch cảnh ngay ở hào sơ, tam và ngũ đáng lẽ phải dương hào nói đắc cách. Khôn cũng như Càn không lẽ không thể có chu đáo, Càn cương kiện bao nhiêu thì Khôn đương nhiên nhu thuận bấy nhiêu. Thông minh có thừa biết không được ban phát cương kiện như Càn, nên phân định đâu là thuận lợi thuận theo bước của Càn mà tiến bước. Soán từ đề ra 3 chữ: An, Trinh, Cát:
An = Yên bề thuận theo
Trinh = Chính dính bền chặt
Cát = Tốt đẹp hoàn hảo
Với đầy ý nghĩa răn khuyên giữ chữ Trinh đến cùng đến khi thấu đáo đâu là phải thì thuận theo phò trợ, cũng được tốt đẹp hoàn hảo như ai, vì với ba hào là sơ, tam và ngũ thận trọng trong việc nghĩ xét không quá vội vàng, tới lúc gặp được Càn nên thuận theo cương quyết gắng công.
Càn Khôn đã khuyên giải chữ Thời quan trọng. Cuộc nhân thế tùy theo cương kiện của Càn và nhu thuận của Khôn mà hành động tiến thoái. Trên địa bàn Tử Vi cũng chỉ là bức phóng ảnh bước đường Càn Khôn. Từ lúc mang tiếng chào ban đầu ra anh sáng cho đến ngày thất trận cổ lai hy cũng trải qua 6 giai đoạn: nào thời Thái Tuế, nào hạn Thiên Không, lúc vận sinh xuất, lúc hạn khắc nhập. Đương số dầu là Tử Phủ, Sát Phá Tham hay Đồng Lương, Cự Nhật phải tùy chữ Thời mà cương nhu. Đừng tưởng Quyền Lộc tô điểm mà múa tay nhảy với, sáng suốt nhận định tư thế của mình với cơ duyên đắc thất. Quyền Lộc kia chỉ là bậc thang thuận tiện cho cả hai chiều đi lên hay bước xuống cùng mau lâu như nhau. Sự khác biệt tùy theo thiện tâm dẫn dắt lẽ sống./
ĐỨC HẠNH CÀN KHÔN ĐI ĐẾN ĐỒNG NHÂN ĐẠI HỮU
Càn Khôn biểu tượng cho vạn năng nhất là đức hạnh cương nhu kiên thuận, lần xuống Tứ tượng có Khảm Lý:
Ly thiếu dương của Càn
Khảm thiếu âm của Khôn
Đạo Càn Khôn bao gồm ban phát ra 4 chữ Nguyên Hanh Lợi Trinh (Càn) và 3 chữ An Trình Cát (Khôn) cho đời được hưởng những gì là hoàn hảo tốt đẹp công bằng mọi người như nhau.
Với hai quẻ Thiên Hoả Đồng Nhân và Hỏa Thiên Đại Hữu thấm sâu lòng người, cho biết đâu đường lối mà thế nhân muốn thực thi tất cả tiến tu đến thánh đức, ngày ngày kiến tạo biểu hiện đức mình trong công việc.
a- Thiên Hỏa Đồng Nhân có nội quái Ly, ngoại quái Càn. Ly ở dưới Càn tượng là lửa bốc lên tới Trời chiếu sáng mọi nơi hết thảy sinh vật đều hưởng quang minh. Chữ “đồng” nơi đây có nghĩa tất cả mọi người không kể thân sơ gần xa quen lạ tức là đại đồng. Như thế mới đại đạo chí công. Thể theo quái Ly biểu hiệu đức tiến bộ. Càn có đức cương kiện. Hai hào nhị và ngũ có đức trung chính ứng hợp với nhau. Trong vốn sẵn sáng suốt, ngoài cương quyết thực thi. Tưởng đó phải chính đại quân tử mới chu đáo được, vì tâm tư người đời thiên trạng vạn thái rất khó bỏ sạch được tì tâm để làm sáng tỏ chí công vô tư. Với 6 hào chỉ có hai hào tứ và thượng là trở ngại vì quá cương kiện nên pha vào nhu thuận nguyện ý cầu mong biết hồi đầu nghĩ lại đã có gì bất trực hoặc vô tư. Biết điều lỗi rồi tự tu sửa, tưởng chẳng điều gì tốt hơn.
b- Hỏa thiên đại hữu trình bày Càn nội Ly ngoại có nghĩa là cộng đồng với người, tất thảy mọi người đều là bạn. Nhận xét 6 hào chỉ một hào sơ đắc vị, hào tam tuy là dương nhưng sợ quá kiện dương hóa kiêu vì 3 hào nội quái đều dương. Nhưng đã sanh ở dòng giống thiện đức (Càn) há không biết tùy thời ứng đối. Hạ Càn nguyên gốc quân tử thượng Ly đã thông sáng suốt giao hợp. Quan trọng ở hào ngũ là âm vạch lỗi cho người biết khi đã công thành danh toại nên khiêm nhượng để tránh hiềm khích, làm gì mà không thâu thái được lòng người trở nên đại hữu
c- Thủy Địa Tỷ thành lập do hai quái Khôn hạ, Khảm thượng tức là Thái âm và Thiếu âm chung hợp cũng như Hỏa Thiên Đại Hữu có Càn nội Ly ngoại (Thái dương, Thiếu dương cộng tác). Một bên, Trời được lửa cháy sáng quang minh. Một bên, đất được nước thấm nhập mềm dẻo.
Nguyên lý trong Càn Khôn không giống một loại vật nào sống cô lập mà thành công trường tồn mỹ mãn, luôn luôn có giao dịch phụ giúp lần nhau. Trông vào 6 hào thấy ngũ hào oai nghiêm dương cường hòa hợp với hào nhị ở hạ quái. Đây là hào độc nhất lãnh tụ có tất cả sáng suốt dìu dắt 5 âm hào quy tụ trên dưới. Tiếc rằng nội quái toàn hào âm, quan hệ ở sơ hào nơi nguồn gốc đều quá nhu giúp sức cho hào thượng cùng tính chất. Sự bền vững khó lâu dài. Vậy người kết bạn, tìm thầy nên thận trọng ngay từ lúc đầu mới mong tránh suy tàn.
Hình ảnh của Đồng Nhân Đại Hữu chiếu ánh sang Tử Vi màu sắc hai sao Tài Thọ nhập Mệnh Thân Tài Quan và Di đồng điệu. Số được Tài Thọ nhập Mệnh có khác gì người trước khi giao dịch với đời, nhất là công việc có lợi ích chung, trước hết phải chỉnh tu đức hạnh ngay bản thân. Trường hợp Tài Thọ nhập Quan, đương nhân phải chí công vô tư, hành vi cương nhu cho trúng lúc. Tài Thọ ở Di bó buộc vị tha ngay với cả đối phương không vì tỵ hiềm mà hành động trái chính tâm.
CHỮ THỜI VỚI LÝ ÂM DƯƠNG
Hình tượng bát quái cho thấy 8 lực lượng của vũ trụ (Càn=trời, Khôn=đất, Khảm=nước, Ly=lửa, Tốn=gió, chấn=sấm. Cấn=núi, Đoài=sông) do một chữ Càn ( <!--[if !vml]-->3 gạch ngang) biến dịch mà nên. Sở dĩ phải để 3 nét là do một quái là muốn chứng minh trong hư không có 3 khả năng chính là trời đất và người ngôi vị đại diện cho sinh vật.
Thời tiết thay đổi do Thiên khó có gì ngăn chặn. Những sự rung chuyển đất núi thành sông biển cũng không có gì kìm hãm nổi. Cái sức thứ 3 là nhân, cái thai sản hợp đúc do 2 thế âm dương thực hiện không phải là không đáng kể trải bao thời gian đã in lại bao dấu tích.
Thiên Địa Nhân chỉ là thế đứng bất dịch. Ngày tháng trôi qua phải có biến dịch tức là phải có âm dương canh cải. Vậy mỗi Tài tất có 2 thế (âm và dương) mà tài là 6 hào tức là 2 giáp hợp lại. Thiên 2 hào trên hết. Nhân 2 hào ở giữa. Địa 2 hào ở dưới cùng. Mỗi hào như trên định thực thi thế đứng âm hay dương
____ ____

Thượng quái  | _____} Thủy Thiên

| __ __

_____}

Hạ Quái D | __ __

| _____}


Quẻ Thủy Hỏa Ký Tế
Mỗi Quẻ dịch gồm hai quái mới đủ tư thế âm dương cho 3 thế Tài mà mỗi vị trí của mỗi quái nhất định: Hạ tức nội là dương, Thượng tức ngoại là âm. Sáu hào cũng có vị trí nhất định. Hào sơ là hào dương, hào nhị là âm. Thuộc tài của địa, hào tam (D) hào tứ (Â) thuộc tài nhân. Hào ngũ (D) hào thượng (Â) thuộc tài thiên. Mỗi quẻ ứng lên hào nào đóng trúng ngay vị trí của nó như sơ tam và ngũ là dương, nhị, tứ và thượng là âm như quẻ Thủy Hỏa Ký Tế có nghĩa là mọi sự được hanh thông. Nếu nghịch lý ở chỗ nào tức là có sự bế tắc nơi đó, sự việc chủ phải tùy cơ ứng biến.
Trên địa bàn Tử Vi cũng vậy. Dương Mệnh phải là dương cung, người âm nên ngồi ở âm cung mới đắc cách. Tốt đắc ý ở nơi tam hợp Thái Tuế, còn chẳng may bị đặt ở tam hợp Tuế Phá cũng vẫn có tư cách hơn ai với Thiên Mã ngầm giúp. Trái lại với người dương đóng ở cung âm hay người người âm đóng ở cung dương, tức nghịch lý âm dương phải khoác lấy thể bài khắc chữ “Thiếu” vào mệnh coi như bị thua thiệt (Thiếu dương hay Thiếu âm) nên chấp nhận ngay Thiên Không (Thiếu Dương) hay Trực Phù (Thiếu Âm) và nền tự hướng dần trên đường Tứ Đức.
Biết rằng dương thì tính tình cương kiện mà âm thì nhu nhược. Người đóng cung dương tất nhiên mọi việc đối với dương nhân hẳn là cẩn thận chu đáo kiên quyết. Trái lại đóng cung âm trộn pha thêm nhu nhược phần nào không thể cứng rắn như cung dương. Với người âm đóng cung âm tính tình dễ dàng miễn là việc chủ trương được hoàn thành là mãn ý không ngại sự lãng phí. Nếu ở cung dương sự rộng rãi phải phần nào nhường cho sự cẩu thả. Thêm vào bộ sao Tử Phủ Sát Phá Tham có tính cách thực hành thêm phần rộng rãi với bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương Cự Nhật luôn đề trên lý thuyết tính toán sao cho đúng mức, cũng là thế lưỡng nghi âm dương hướng dẫn.
Vận hạn xoay vần hết dương là đến âm, hết âm phải chuyển đến dương muốn thực thi chữ “thời” nên thận trọng nhận định đâu là hợp cương kiện, đâu là nhu thuận với bản chất cố hữu của Mệnh trên cung số. Quyền Lộc nghịch lý âm dương chỉ là phù vân, Mệnh nghĩa mà có mới là hoàn hảo, trường hợp Tuế Phá cũng là hư danh (Thiên Hư).
Sáu hào trong Quẻ dịch chia cho 2 quái. Nội quái là dương cí 2 hào dương sơ và tam. Ngoại quái là âm có 2 hào âm là tứ và thượng cho thấy rằng trong dương có âm và trong âm có dương, đó là gốc của biến dịch. Hào sơ vốn là dương đủ cách như khi bắt đầu chủ trương một công việc phải tính toán mọi chi tiết để tiếp giai đoạn 2 còn thừa trừ cắt xén, song giai đoạn 3 không thể nhu yếu để bị gò ép, đến giai đoạn 4 phải cởi mở phần nào để thuận bước qua giai đoạn 5 thành công phải được sự thỏa mãn rộng rãi là ý nghĩa của hào thượng thuộc âm nhu thuận.
Trường hợp thông thường Mệnh hay Thân bị Tuần hay Triệt chận đầu, chờ đến thời gian gặp Tuần hay Triệt còn lại cởi mở mới đắc ý. Nhưng nếu là người dương đóng cung âm hay người âm đóng cung dương khi gặp Tuần hay Triệt cởi mở phải tùy theo cung âm hay dương đắc cách với Mệnh dương hay âm diễn chuyển những may hay rủi, tức là người dương đáo dương cung là Thái Tuế, mà gặp âm cung là Thiên Không. Trái lại người âm gặp âm là Thái Tuế chuyển đễn dương cũnng là Thiên Không.
Mệnh hay Thân từ sơ sanh đã bị Tuần hay Triệt kìm hãm, nay gặp được giai đoạn tháo gỡ, dương gặp dương, âm gặp âm khác gì hạn Thái Tuế mở màn. Thiên Không cũng vậy, người bị Tuần Triệt đương đầu đã ghi nhận như là cái rủi nhưng không hẳn là không may. Trường hợp 3 phương xung sát có một Triệt ở Mệnh kể như có gì làm đảm bảo, cũng như 4 hướng phò trợ mà không đứng chặn ngay cửa ngỏ ví cũng như vô ích
Lý âm dương chi phối vận hành cũng như tính cách nhân sinh thành một căn bản nhất định. Người dương đáo hạn dương cung hay người âm gặp vận ở âm cung có 2 cách là Thái Tuế hay Tuế Phá. Thái Tuế là trung cách hưng thịnh. Còn Tuế Phá tuy có phần không mãn ý vì Phá Hư nhưng vẫn đưa dẫn dương nhân đến chỗ cao đẹp hơn là vị trí có chữ “Thiếu” (Âm hay Dương) tức là nghịch lý âm dương dầu đầy đủ Quyền Lộc. Người bộ hành trên đường thiên ký nên tùy nghi sáng suốt nhu thuận hay cương kiện dấn bước.
Điều đáng lưu ý mỗi cá nhân đến tuổi ngoài 40 bắt đầu lập sự nghiệp lớn là đắc vị âm dương. Thái Tuế thì lưu danh thơm muôn thuở. Còn Tuế Phá chỉ là hư nghiệp hậu thế mỉa mai. Người mệnh Thái Tuế và Thân Tuế Phá ở nghĩa người này vụng suy muốn 2 tay hứng gió mọi phía để cho thân được mát mẻ, rồi ra ăn năn đã muộn. Không như người mệnh Tuế Phá Thân Thái Tuế, chiếc thuyền nay xa khơi hứng chịu biết bao sóng gió nhồi lắc để rồi thỏa mãn cùng lòng dạ vững kiên đi đôi cùng tuổi thọ trên dưới cổ lai hi hữu.
Được cảm ơn bởi: perry
Đầu trang

ngo_ngot
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 702
Tham gia: 14:21, 03/03/11

TL: TỬ VI NGHIỆM LÝ TOÀN THƯ

Gửi bài gửi bởi ngo_ngot »

KHẢ NĂNG CỦA TAM TÀI HUN ĐÚC THẾ NHÂN
Vũ trụ là một khối Thái cực hoàn hảo hoàn thiện chứa đựng 2 thế lưỡng nghi cương kiện (dương) và nhu thuận (âm). Mỗi tình trạng phải do tam tài ấn định, tới mức độ nào đấy là phần tứ tượng trình bày. Ngũ hành sẽ chứng minh đâu là chính đáng hợp cách.
Địa bàn Tử vi với 12 cung là một thế Thái Cực vẹn toàn âm dương giới hạn: Từ Mão đến Thân thuộc Dương, từ Dậu đến Dần thuộc âm. Trong phần dương vẫn có cái âm xen kẽ, trái lại bên âm cũng vậy (Tý là dương, Sửu là âm…Tuất là dương, Hợi là âm).
Thế tam tài bao gồm 3 vòng: Lộc Tồn do Can ấn đinh (thiên), vòng Thái Tuế do chi ghi chú (địa) vòng Tràng Sinh do cục diện của Mệnh an vị (nhân). Bất cứ một mệnh viên nào dầu đứng ở cung nào cũng phải chịu ảnh hưởng của tam tài hoạch định, dầu rằng cuộc thế nhân sinh 1 phần quan trọng biến dịch bởi thiên thời, nhân hòa và địa lợi mang đến sự thay đổi. Nhưng tư thế của dương nhân vẫn bị tam tài chi phối phác họa dự thảo ghi chú là định mệnh.
Biết rằng khả năng của Lộc Tồn và Thái Tuế đều như 2 điều kiện tiên quyết hoạch định một khi soạn thảo hạnh phúc và tư cách cho dương nhân. Vòng Tràng Sinh dầu trong tam hợp nào, nới rộng ra trong thế lưỡng nghi hay toàn vẹ cả vòng lẫn bao hàm trong một thiên nhật tụng đạo lý xử thế vuông tròn.
Bốn tam hợp của Tràng Sinh xưa nay vẫn nhìn nhận vị trí có tư cách khả quan nhất là Sinh Vượng Mộ. Có phải vì thế trên địa bàn Tử Vi mới phân định ra 3 thế: tứ sinh, tứ chính và tứ mộ. Mỗi tam hợp có một cái chính bản ngã của mình là Kim (Dậu), mộc (Mão), thủy (Tý) và hỏa (Ngọ). Còn tứ mộ là nơi tập trung mỗi khi tàn lụi.
Công bồi đắp tứ sinh mà thành công đắc thế là ở tứ chính nên Đế Vượng đắc cách ở Tý Ngọ Mão Dậu. Đây là trường hợp thuận lý âm dương (dương nam và âm nữ theo chiều hướng thuận). Trái lại trường hợp nghịch lý âm dương đi theo chiều ngược thì Tràng Sinh ở tứ chính mà Đế Vượng thì ở tứ sinh, chứng minh đây là nghịch cảnh, tất nhiên mọi sự kiện phải thua kém những gì là thuận lý
Còn Mộ có hai bình diện. Khi đã về nơi tập trung của ngũ hành Mộ chỉ là nắm đất để đưa dẫn ngũ hành đâu về đó. Lúc đắc thời khi còn gởi thân trên trần thế. Hoa Cái là khuê bài danh dự cho người tứ mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi).
Bộ 3 này mỗi khi đắc cách người được hưởng Tràng Sinh phải là 4 tuổi Dần Thân Tỵ Hợi, sự nghiệp sẽ được lâu dài bên vững Đế Vượng chỉ phân phát cho 4 tuổi Tý Ngọ Mão Dậu bước thang mây sẽ nghênh ngang vượt chúng. Người Thìn Tuất Sửu Mùi được ghi danh vinh dự (Hoa Cái).
Tất cả 12 tuổi này phần cao đẹp tuyệt đối chỉ dành riêng cho những cá nhân thuộc Kim và Thủy Mệnh, còn các tuổi khác phải tùy sự sinh khắc mà thế bớt đi đối với phần việc của Tài Thọ bù trừ trọ vẹn.
Mệnh viên đứng trong 12 cung địa bàn, công việc của mỗi bài chỉ tô đắp trên một công việc theo khả năng của mình mà thôi. Nhưng một khi cả 3 gặp nhau trên một khía cạnh như đắc cách liên lạc với nhau. Tất nhiên trạng thái đó phải là vượt mức khác thường tốt đẹp hơn ai như hai tuổi dước đây:
1- Người dương nam Giáp Tý mệnh đóng ở Tý
2- Người âm nữ Tân Mão mệnh đóng ở Mão
Thấy cả hai người Mệnh cùng Thái tuế đắc Đế Vượng ở tứ chính (vòng Tràng Sinh) Thanh Long (vòng Lộc Tồn) ở Quan và Bạch Hổ (vòng Thái Tuế) ở Tài. Ngôi vị Đế Vượng phò tá, tưởng không còn gì vượt mức hơn nữa.
Hai tuổi Giáp Tý và Tân Mão cho thấy sự phấn đấu đưa được dương nhân đến địa vị Đế Vương trúng chỗ phải có nghị lực hơn người, nhất là người Tân Mão (Can khắc Chi). Còn người Giáp Tý còn phần nào nhờ sự may mắn (Chi sinh Can). Người Giáp Tý ở ngay Tý cung đắc Đế Vượng, sự nghiệp nắm chắc đến tuyệt đích trái lại người Tân Mão dầu ở Mão cung cũng là tứ chính, hiềm nỗi mộc mệnh, Đế Vượng kia không phải dễ dàng mà an vị.
Tam tài thủ diễn trong Tử Vi mỗi Tài một khía cạnh vòng Lộc Tồn do Thiên Can ấn định về phần hạnh phúc tiền tài đến mức độ nào đó cho từng cá nhân. Vòng Thái Tuế được địa chi xây dựng sắp xếp tư cách mỗi hạng người. Vòng Tràng Sinh được coi như phần chính yếu, việc xử thế của cá nhân ở hoàn cảnh nào hành động sao cho Thọ toàn vẹn (nhân hậu) thì vận mệnh mới có Tài (hoán cải) Quan Phúc Thương Sứ sẽ tùy nghi nhúng tay quyết định.
ĐÂY HẲN LÀ NGHIỆP BÁO
Tuổi mỗi nhân sinh là một thế tiểu thái cực do lưỡng nghi thiên can và địa chi phối hiệp đúc kết, được đề danh là nạp âm. Thiên can là phần quan trọng đứng trên như cây có gốc, địa chi chỉ là nhánh là phần phụ. Mọi sự việc diễn trải qua ngày tháng do Can ấn phác, Chi trình bày sự hợp xung cách đứng. Nạp âm phần chính xác của Mệnh phụ họa với Can quyết định mức độ màn cảnh như:
Tuổi Giáp Tý can Giáp (mộc), chi Tý (thủy) thành nạp âm Giáp Tý (kim) gặp năm Canh Ngọ phải phân tích Can Canh khắc Can Giáp chi Ngọ xung chi Tí ( Thủy) khắc Ngọ ( Hỏa) có ý nghĩa tu Thiên khắc Địa xung, nhưng xung khắc xuất kể là nhẹ. Thành phần thứ 3 nạp âm năm Canh Ngọ (thổ) sinh nhập cho tuổi Giáp Tý (kim) đem lại kết quả toàn bộ cho tuổi Giáp Tý gặp năm Canh Ngọ (thiên khắc địa xung báo hiệu thời gian nguy hiểm) chỉ gặp những sự thị phi đau bịnh qua loa mà thôi.
Biết rằng hàng Can là quan hệ, nhưng nghiệp báo của người đời phải để ý 5 cặp hàng Can (Giáp Ất, Bính Đinh Mậu Kỷ, Canh Tân Nhâm Quý) đứng cùng nạp âm của mệnh mà đồng hành như Canh Thìn, Tân Tỵ có Canh Tân đều là Can Kim mà nạp âm cũng là Kim, khi gặp một sát tinh đứng trúng cách sát là khắc toàn vẹn như Hỏa Linh. Dương nhân phải cẩn thận nếu ở Mệnh phải e ngại trọn đời, còn ở một vận hội nào phải thận trọng ảnh hưởng thời gian đó. Trường hợp thiên thời Thái Tuế, sự tốt đẹp cũng chỉ còn 50%. Nhưng mỗi khi gặp lúc khó khăn vẫn có cái may bất ngờ dẫn cứu. Vậy có thể trình bày sắp xếp:
a- Những tuổi Giáp Ất và mộc mạng phải đề phòng Thiên Hình (Kim).
b- Những tuổi Bính Đinh và hỏa mạng phải né tránh Hóa Kỵ (thủy)
c- Những tuổi Mậu Kỷ và Thổ mạng phải xa lãng Đường Phù (mộc).
d- Những tuổi Canh Tân và kim mạng phải lo ngại Hỏa Linh
e- Những tuổi Nhâm Quý và thủy mạng phải quan tâm đến Cô Quả (thổ)
Năm trường hợp thường đem đến.
1- Người Giáp Ất và mộc mạng dễ bị Thiên Hình mổ xẻ cắt thiến thành vết sẹo mang trong thân thể hay yếu gan.
- Người Bính Đinh hay Hỏa mạng nên đề phòng sông nước và bệnh tim thừa thiếu máu, thân danh hay bị kiềm chế.
3- Người Mậu Kỷ và Thổ mạng sự nghiệp trồi sụt bao tử khó tiêu hóa.
4- Người Canh Tân và Kim mạng đề phòng họa tai mặt nhất là bệnh phổi.
5- Người Nhâm Quý và Thủy mạng thừơng làm ơn nên oán, khó gây tình cảm, nội thương hay hành ở thận.
Để bảo thu bổn mạng, tránh phần nào sự khắc hãm mỗi hạng người nên dùng màu sắc như sau:
1- Mộc mạng nên thường dùng màu xanh lá cây (quần áo hay sơn nhà cửa)
2- Hỏa mạng thường hợp với màu đỏ.
3- Thổ mạng tương đắc với màu vàng lụa.
4- Màu trắng cho người Kim
5- Màu xám đen lợi cho người Thủy.
Trong 5 hành chỉ có 4 hành Bính Đinh Mậu Kỷ, Canh Tân Nhâm Quý là có hàng Can đồng hành với nạp âm. Còn Giáp Ất không bao giờ có một tuổi Giáp Ất nào là hành mộc Giáp Tý, Ngọ (Kim) Giáp Dần, Thân (Thủy) Giáp Thìn, Tuất (Hỏa) nên tuổi này phải lấy nạp âm của mình mà dùng màu sắc.
Những Thiên Hình, Hóa Kỵ, Hỏa Linh, Cô Quả Dương Phù thủ những vai trò đao phủ tác hại hơn Không Kiếp. Thấy người Thái Tuế bị Không Kiếp đứng kèm là một đời dầu ở trường hợp nào cũng là lữ hành trên sa mạc. Bộ 3 Trường Sinh, Đế Vượng, Hoa Cái đối với dương nhân nên hiểu nghĩa sân khấu trường đời, vai trò chính mình vẫn phải thủ diễn đúng mức, nhưng nơi hậu trường sự thù lao chỉ là đạm bạc.
Bằng lá số tuổi Canh Tý sanh ngày 16 tháng 11 giờ Tỵ mở đường cho khả năng của số Di đến tuyệt đối với hai chưa tài nhập Mệnh và Thọ nhập Thân, chứa đựng một bầy hung sát tinh đắc chế hóa khiến ít ai thấu đáo rõ tư cách đương nhân (Mệnh có Hình, Đà, Hỏa được Triệt, Vũ Phá Linh gặp Tuần ở Thân, cả bộ Không Kiếp giáp Thân đều được cả Tuần lẫn Triệt lột xác). Bộ tam hợp bắt đầu từ Vũ Phá (tham vọng quá bạo) đi đến Tử Tham (uy hiếp hiền nhân) kết quả dẫn đến Liêm Sát (lộ thượng mai nhi = chết đường) cần phân tích đâu là uy hiếp người đâu là người bị uy hiếp.
Tuổi Canh Tý thổ mạng chính là Tử Vi khắc chế được Tham Lang (Thủy) Tham Lang tuy là thủy là đời mộc đầy ý nghĩa có vay là phải trả.
Người Canh Tý này đắc Đế Vượng ở tứ chính trong tam hợp mệnh đương nhiên giai đoạn Thái Tuế 53 – 62 ở Tý phải được ưu đãi địa vị và Thọ hưởng Lộc Tồn tuổi Canh ở Thân (tam hợp).
Thời oanh liệt Tài và Thọ đã làm được gì để xứng đáng với Quan Phúc trực sẵn ở Ách có Thiên Sứ sẵn sàng chỉ huy Tang Mã. Biết rằng sau Thái Tuế tiếp đến Thiên Không ở Mộ Địa ngay cung Di có Dương Phù Kình Dương toa rập cùng Liêm Sát, mặc dầu 2 chữ Canh Tý có một căn vững chắc hơn người (Can Canh sinh cho Chi Tý).
Thật rõ ràng luật bù trừ của thiên nhiên không thể sai lệch đòn căn nhân quả nghiệp báo
THÁI ĐỘ CỦA XUNG PHẢI TÙY THEO KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN
Ý nghĩa của xung là đối diện để đụng chạm. Trong Tử Vi ngoài cái thế tam hợp cục diện liên minh trợ đỡ nhau để trường tồn, còn thế xung khắc, đối diện để ganh đua kìm hãm ngăn trở đối phương thi thố khả năng.
Với 12 cung thành 6 căn: Tý xung Ngọ, Sửu xung Mùi, Dần Mão xung Thân Dậu, Thìn Tỵ xung Tuất Hợi. Nhưng chỉ là có 4 tư thế khắc chế rõ ràng là Tý Hợi (thủy) xung hãm Ngọ Tỵ (hỏa) Thân Dậu (kim) đàn áp Dần Mão (mộc). Còn 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi đồng hành Thổ được coi như là xung không có gì, chỉ có hai thế âm dương đối diện nhau (từ Dần đến Thân thuộc Thái Dương, từ Thân đến Dần thuộc Thái Âm).
Biết rằng 12 cung đó có chia thành 3 thế đứng cũng là tư cách nòng cốt của mỗi vị trí: Dần Thân Tỵ Hợi, tứ sinh, phục vụ bồi đắp tiếp tế cho Tý Ngọ Mão Dậu tứ chính, để rồi một ngày nào đó sẽ tàn rụi nơi tứ mộ Thìn Tuất Sửu Mùi. Đây là phần thuộc về không gian.
Còn thời gian, kể từ Giáp Tý đến Quý Hợi, mỗi chữ hàng Chi đều có 5 lần như Tý có Giáp Tý, Bính Tý, Mậu Tý, Canh Tý và Nhâm Tý tức là cuộc đời người sống đến 60 tuổi phải có 5 lần thế xung.
Vậy có phải tuổi nào cũng thế, khi đến thời gian gặp xung cũng phải hứng chịu những sự sui như nhau không?
- Xin thưa, phải phân tích từng cội rễ mới thấy sự diễn biến dị biệt can hệ.
Tư cách của 4 tuổi tứ sinh Dần Thân Tỵ Hợi thực hiện trong tam hợp cục luôn luôn đóng vai hậu cần tiếp tế cho tứ chính Tý Ngọ Mão Dậu. Công lao bồi đắp không phải là nhỏ nên lòng tự hào nhiều ít tự cao, tính tình hay phô trương những gì mình đã đắc cách. Gặp xung thấy mọi sự bị phản bội tình dợt bạc nghĩa. Người chính đóng vai trò chính trong ngũ hành tính tình khẳng khái bất khuất, mọi sự việc tự vạch lấy hiên ngang thẳng tiến, gặp xung thấy luân phiên bị chống đối, ngăn chận bước đi phải mất công trình bày giàn xếp. Còn người tứ mộ ví như cảnh đời xế bóng về chiều sức khỏe có phần yếu kém, gặp xung phần cầm chắc nằm gường bệnh ốm đau
Ba thế đứng như thế trong 60 năm cuộc đời gặp 5 lần xung tất nhiên mức độ hung hãn có khi nhiều khi ít. Đó là phần thời gian giải quyết. Mỗi tuổi có Can và Chi phối hiệp. Xung do Chi làm việc. Còn can nguồn gốc chính rồi nạp âm phân tách thêm sẽ thấy mức độ nào của thế xung.
Can của tuổi và Can của xung đều y nhau tuổi Giáp Tý gặp xung Giáp Ngọ cho thấy Can và nạp âm của đôi bên đều y nhau. Nhưng chi Tý của tuổi khắc xuất chi Ngọ không đáng kể. Trái lại, nếu là tuổi Giáp Ngọ thì Chi Ngọ bị Tý xung khắc nhập phải có việc buồn phiền thua thiệt phần nào. Trường hợp Nhâm Tý gặp xung Mậu Ngọ. Trước hết thấy Mậu khắc Nhâm là quan hệ, dầu rằng chi Tý khắc chi Ngọ, bồi thêm Nhâm Tý là Mộc, Mậu Ngọ là Hỏa. Mộc sinh Hỏa phải coi là nặng. Đây là thiên khắc địa xung, trường hợp được coi là gần đất xa trời. Nếu xung là Bính Ngọ, tất cả 3 thế của xung đều kém cả:
a- Tý khắc Ngọ
b- Nhâm khắc Bính
c- Bính Ngọ (thủy) sinh Nhâm Tý (mộc) mộc.
Trường hợp xung này kể như không còn gì. Có chăng chỉ những việc gì xa xăm đưa lại không trở ngại đến bổn mạng.
Cuộc thể nhân sinh cứ 12 năm 1 năm xung, phải xét chi tiết Can và nạp âm cho kỹ rồi phối hiệp với đại vận trong 10 năm đang ở trong hoàn cảnh nào. Thái Tuế hay Thiên Không. Trong vận hành tam hợp Thái Tuế dầu gì đi nữa vẫn có đường may phò trợ. Vào hạn Thiên Không nên chấp nhận sự thua thiệt trước là hơn.
Tuy 5 lần xung nhưng chỉ có 2 lần xung phải thận trọng cho tất cả mọi tuổi là năm 43 – 67. Năm 43 bị hàng Can sinh xuất, 67 bị Can khắc nhập vừa là giai đoạn tiếp vận với Thiên Thương hay Thiên Sứ.
Mừng cho ai đang rong ruổi trên bước đường đại vận ở Di mà là Thái Tuế gặp xung Thiên khắc là xung nguy hiểm nhất của cuộc đời (67 tuổi). Người này dễ dàng như chỉ còn vài bước thành cổ lai hi. Hạn này Giáp Thương Sứ liên quan đến Tài Thọ từng bước, từng ngày. Kết cuộc cho thấy nhiều khi người lương thiện sao vội non bồng nước nhược. Có chăng là trúng lúc mà kẻ gian manh còn phải tiếp tục để lộ nguyên hình mới được nhập thổ.
(a) Trên địa bàn Tử Vi năm xung luôn đứng trong tam hợp Thái Tuế tức tay trên đóng vai trò tạo hóa gò ép số. Năm tuổi tức đương số thường xuyên đóng vị trí tam hợp Tuế Phá kém thế. Cả hai trường hợp xung và tuổi, nếu thành quả thấy bệnh hoạn ốm đau, đó là trường hợp giảm khinh cho biết Tài Thọ đã can thiệp quan trọng tránh cho dương nhân vấp những gì là bội nghĩa hay chống chọi, khiến cho cuộc sống bị khủng hoảng tinh thần phải băn khoăn lo nghĩ.
Được cảm ơn bởi: perry
Đầu trang

ngo_ngot
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 702
Tham gia: 14:21, 03/03/11

TL: TỬ VI NGHIỆM LÝ TOÀN THƯ

Gửi bài gửi bởi ngo_ngot »

SAO LẠI CHỈ SỬ DỤNG CÓ “KÊ MÃ CHƯ LONG NGƯU HỔ”
Sáu chữ Kê (Dậu) Mã (Ngọ) Chư (Hợi) Long (Thìn) Ngưu (Sửu) Hổ (Dần) là sáu cung trong địa bàn Tử Vi được dùng làm nơi xuất phát cho việc tính ra chính tinh nào thủ mạng của số. Trong địa bàn có những 12 cung, sao lại chỉ dùng có 6 cung như trên đã nói? Hẳn là phải có một nguyên cớ quan hệ nào trong căn bản của sự diễn biến toán số hợp pháp.
Theo phương vị Hà Đồ ấn dịch: Bắc (Thủy) Nam (hỏa) Đông (mộc) Tây (kim) và Trung (Thổ), với ý nghĩa trời đất sinh ra Thủy trước nhất rồi vì có nước nên bao nhiêu nhiệt chất (hỏa) chứa đựng trong đất mới phát sanh ra. Đã có Thủy Hỏa lần hồi Mộc mới phát sanh. Sau đó những chất chứa ngưng đọng cứng rắn dồn hút tụ hợp lại nảy nở nên đất (thổ) được nêu là nơi tập trung.
Lấy thứ tự Thủy đứng đầu (1) hỏa (2) mộc (3) kim (4) thổ (5).
Luật âm dương phân định: lẻ (cơ) là dương, chẵn (ngâu) là âm cho thấy Thủy Mộc và Thổ thuộc Dương, còn Hỏa và Kim thuộc âm rất trúng với 3 cục diện: mộc tam cục, kim tứ cục và thổ ngũ cục. Còn Thủy và Hỏa thấy thay đổi hẳn ngôi vị, nhất là thủy đáng lý phải là nhất cục thuộc dương lại biến thành thủy nhị cục thuộc âm. Còn hỏa chỉ thay đổi nhị ra lục vẫn trong âm phái.
Nhận thấy địa bàn Tử Vi với 12 cung âm dương xen kẽ không bao giờ có hai dương và hai âm sát vách nhau. Nhưng phân điểm âm dương cho thấy từ Dần đến Thân thuộc Thái Dương, từ Thân đến Dần thuộc Thái Âm, 2 địa điểm Dần và Thân là nơi phân định. Bên Dương chỉ còn Thìn và Ngọ, bên âm thấy trội hơn 1 gồm có Dậu, Hợi và Sửu.
Xuất phát mộc tam cục ở Thìn và Thổ cục ở Ngọ (dương) cho đến Kim tứ cục và hỏa lục cục (hỏa dầu là nhị hay lục cục cũng vậy vẫn ở bên âm) rất trúng luật âm dương cơ ngẫu (lẻ và chẵn). thủy đáng cảnh địa bàn Tử Vi (đứng đầu số) lại đổi thành âm (nhị cục) vì hoàn cảnh địa bàn vị trí. Thủy lột xác lôi kéo thêm Hỏa dương làm Trưởng nữ (số 2) hóa thành em út (số 6) mà vẫn phải giữ vị trí gánh vai trò trưởng bên âm phái.
Đã nói ngũ hành thì đương nhiên 1, 3, 5 thuộc dương còn 2, 4 là âm. Nhưng địa bàn phân định chỉ chia cho bên dương có 2 ngôi vị là Thìn và Ngọ, bên Âm những 3 là Dậu, Hợi và Sửu. Không thể nào bên Âm hay Thân bồi đắp cho Dương và cũng không thể bớt 1 cung nào bên Âm vì 3 cung đứng cân đối trúng mức. Vậy phải để thủy đứng trưởng trong ngũ hành đối thứ cục thuộc âm tức là không mất vai trò đoàn trưởng trong ngũ hành, đổi từ bậc Hỏa số 2 xuống thành số 6 vẫn thuộc âm. Theo ngũ hành phân tách số 6 có sự thành lập do 2 số là 1 và 5 với ý nghĩa 1 (số sinh) hợp với số 5 và số 6 (số thành) bày tỏ rõ tuy là út (lục cục) mà gánh vác thực tế địa vị sau thủy vẫn trên mộc và kim.
Nhìn vào bản đồ bát quái thấy hai quái: Khảm (thủy) và Ly (Hỏa) đầy ý nghĩa trong cái âm vẫn có dương (khảm) trong dương vẫn có âm (ly). Địa vị của Ly (âm) vẫn phải nhường cho Khảm (dương) như 6 cung: Dậu, Ngọ, Hợi, Thìn, Sửu, Dần cho thấy bên trong Dương Ngọ (hỏa) khắc Dậu (kim), bên âm Thìn (thổ) khắc Hợi (thủy), Dần (mộc) khắc Sửu (thổ).
Sự việc thủy phải đặt ở vị trí thủy nhị cục cũng vẫn dẫn đầu trong ngũ hành và hỏa đặt tụt xuống tư thế lục cục cũng không phải kém thế. Tóm lại chỉ có 2 là mộc tam cục và thổ ngũ cục, bên âm đa số hơn gồm thủy nhị cục, kim tứ cục và hỏa lục cục, nhưng bên dương sức phấn đấu vẫn lấn khắc chế bên âm để cho hai thế âm dương được cân phân trên hai hình thức đa số và năng lực.
Sự thật trên bình diện chung dương vẫn mạnh hơn âm với tỷ số 3 và số 2 như sau 2 lần đã thí nghiệm chính xác trên phương diện khoa học tối tân năm 1957 với phần thưởng Nobel ban phát xác nhận
NGƯỜI THUỘC THỔ NGŨ CỤC TRÀNG SINH XUẤT PHÁT TỪ VỊ TRÍ NÀO
Số Tử Vi của mỗi cá nhân có thể nói căn bản do chính 3 vòng Lộc Tồn Thái Tuế và Tràng Sinh phác họa được mệnh danh là tam tài hoạch định. Thiên Can ban phát Lộc Tồn, Địa chi nung đúc tự hiến (Không rõ) nạp âm vạch lối hành động.
Biết rằng vòng Tràng Sinh được ấn định vị trí xuất phát tùy cục diện của Mệnh như: Thủy nhị cục thì Trường Sinh bắt đầu hướng đi từ cung Thân, Mộc tam cục lấy cung Hợi, Kim tứ cục nhằm cung Tỵ, Hỏa lục cục chỉ cung Dần nghĩa là 4 hành chính, Kim Mộc Thủy Hỏa do 4 sinh xuất phát. Còn Thổ ngũ cục được cho đứng chung với Thủy mà Thổ cũng đứng đó thành ra dảo ngược Thổ phải sinh xuất cho Thân. Không còn ý nghĩa tam hợp cục sinh đóng vai hậu cần bồi đắp cho chính để đáu tranh trường tồn.
Vậy trường hợp thổ ngũ cục nên quyết định Tràng Sinh xuất phát ở vị trí nào?
Theo luật ngũ hành sinh khắc cho biết Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ. Vậy Hỏa cung phải là nơi điều động sinh cho Thổ cục. Hỏa có hai cung Ngọ và Tỵ. Tỵ đã đóng góp phần cho Kim tứ cục. Phải chăng chỉ còn 1 Ngọ. Với sinh lực dồi dào, ngôi vị cửu ngũ cao đẹp nhất trong địa bàn thuộc Thái Dương quang minh, hai chữ Ngọ môn lộng lẫy, chiếu tỏ chánh danh góp cả hai mặt âm dương thuận hay nghịch lý, vừa trúng tư cách của Thổ ở vị trí trung ương theo Hà Đồ.
Đối với 4 hành Kim Mộc Thủy Hỏa, Trường Sinh thuận lý (Dương nam, Âm nữ) đi xuôi, Trường Sinh ở Tứ sinh, Đế Vượng ở Tứ chính. Trái lại nghịch lý (âm Nam, dương Nữ) Trường Sinh đổi đến Tứ chính tức là mượn nhờ ý chính thì Sinh và Vượng không được hưởng đầy đủ đúng mức. Chỉ còn Mộ cung đầy đủ ý nghĩa chỉ khi nhắm mắt an nghỉ họa chăng được mãn nguyện nơi mộ địa.
Nói chung Thổ cục rất hợp lý cho người tứ mộ, ảnh hưởng nhiều hay ít tùy theo thuận hay nghịch lý.
Hán Cao Tổ Lưu Bang tuổi Giáp Ngọ sanh ngày 13 tháng 11 giờ Ngọ.
Hàn Tín tuổi Giáp Tuất sinh ngày 5 tháng 11 giờ Ngọ.
Hai người Mệnh Thân đều nằm ở Ngọ, cùng tuổi Giáp nên đồng Thổ ngũ cục. Người tuổi Ngọ tứ chính, đắc Thái Tuế nhập mệnh. Người tuổi Tuất tứ mộ, chỉ là vị trí Bạch Hổ, hơn kém thấy ngay ở điểm đó (vòng Thái Tuế). Cùng hưởng Lộc Tồn tuổi Giáp nhưng Giáp Ngọ Can sinh Chi, lấn hơn Giáp Tuất Can khắc Chi quá xa (vòng Lộc Tồn). Điểm thứ ba Trường Sinh, nếu ghi theo Thủy Nhị cục cũng như Thổ Ngũ cục đồng ở thân phải đi thì 2 người cùng Thai nhập Mệnh. Phúc Đức được Trường Sinh nhưng Triệt và Đế Vượng lọt xuống Di. Trái lại lấy Trường Sinh để ở Ngọ tức nhập Mệnh. Tràng Sinh này bồi đắp hai người khác nhau.
Với tuổi Ngọ tứ chính, Tràng Sinh tô điểm cho Đế Vượng ở cung Quan (Tuất) khác với tuổi Tuất tứ mộ, Tràng Sinh nhập với Hoa Cái cũng ở cung Quan (Tuất). Một đằng tuổi tứ chính Kim Mệnh đắc Đế Vượng, Tràng Sinh tạo ngôi vị quý báu lâu dài. Một đằng tuổi tứ mộ được Hoa Cái, Tràng Sinh chỉ tô điểm cho đương danh vang nức tiếng, nhưng vì Hỏa Mệnh khắc Hoa Cái nên không lâu dài.
Theo sự trình bày 2 lá số cho thấy cách điểm Tràng Sinh của Thổ cục mới vị trí ở cung Thân cùng với Thủy cục đem lại kết quả Thai nhập Mệnh cho 2 nguời không hợp lý trái nghịch hẳn bản thể cá nhân. Đem Thai giáp vào Tử vi cư Ngọ Thái Tuế khác gì đem mực đen bôi lem tờ giấy trắng, vẽ lên một hôn quan ngọa triều. Liêm Tướng vướng Thai còn gì tư cách ngôi vị nguyên nhung chinh đông dẹp bắc, kỷ luật nghiêm minh.
Vậy Tràng sinh của người Thổ cục nên an ở đâu cho trúng vị trí?
CỤC VÌ ĐÂU TRỞ THÀNH PHẦN QUAN TRỌNG CỦA SỐ
Ngoài công việc ấn định để hướng dẫn chính tinh cốt cách, cục là bộ diện dàn bày chương trình diễn biến toán số cho một mệnh viên đứng ở một vị trí nào trong địa bàn.
Thường thường cứ nghe nói cục và mệnh tương sinh là là tốt số không thấy minh chứng đâu là nguyên lý. Nói đến tương sinh phải phân tách rõ ràng hợp lẽ đâu là tốt và vì sao mà xấu. Đã có sinh đương nhiên phải có khắc theo luật âm dương lưỡng nghi. Trong cái sinh có hai đường lối, sinh nhập và sinh xuất, mà khắc cũng vậy có khắc nhập và khắc xuất như:
Người tuổi Giáp Tý, năm lên 3 tuổi là năm Bính Dần, đây là năm sinh xuất vì Giáp (mộc) sinh xuất cho Bính (hỏa) phải gọi là xấu vì năm Tật Ách. Năm lên 5 là Mậu Thìn được khắc xuất tương đối đẹp là năm Phúc Đức. Năm lên 7 Canh Ngọ gặp chữ Canh (kim) khắc nhập chữ Giáp (mộc) là năm Thiên Thương thường trực ở cung Nô Bộc. Năm lên 9 Nhâm Thân được Nhâm (thủy) sinh nhập cho Giáp (mộc) là năm Tử Tức nuôi hy vọng lâu dài, cứ thế diễn chuyển của 10 chữ Can báo hiệu với 4 chữ 3, 5, 7, 9 đâu là tốt xấu đến ngày cuối cùng tuổi thọ.
Vậy nói Mệnh và Cục tương sinh cho là tốt nhất mà không thấy giảng giải đâu là nguyên lý. Ví như tuổi Giáp Ngọ Kim Mệnh đóng ở Dần là Hỏa cục. Trường hợp này có xấu không ? (Hỏa cục khắc nhập Mệnh Kim). Thiết tưởng đây là cả một bài toán đáp số hoàn toàn sai trật. Tuổi Giáp Ngọ (Can sinh Chi) là một tuổi có một năng lực hơn người, đóng ở Dần được hưởng trọn vẹn Lộc Tồn tuổi Giáp. Vị trí Bạch Hổ (kim) trong tam hợp Thái Tuế khác gì ngôi nhà lầu đúc cốt sắt xi măng đúng mức. Hỏa Cục thì Sinh Vượng Mộ ở ngay tam hợp Dần Ngọ Tuất là Mệnh. Vậy xấu ở chỗ nào? Trái lại là một Mệnh viên trúng ngôi vị tuyệt đích. Biết rằng vòng Tràng Sinh tùy theo cục bộ ấn định thời gian thay đổi (thủy nhị cục, mộc tam cục kim tứ cục…) để cho thế nhân biết sự chuyển vận tốt sang xấu hay xấu chuyển đến tốt luân lưu để mà xử thế với một đạo lý sao cho xứng đáng danh hiệu “nhân” trong một tư thế tam tài.
Vòng Tràng Sinh có 2 mặt âm dương:
a- Sinh Vượng Mộ Đới Bệnh Thai (đường hoàng xử thế đáng quý lẽ thịnh suy chỉ là luân chuyển).
b- Dục Suy Tuyệt Quan Tử Dưỡng (ham mê rồi cũng không còn gì nên tu tâm dưỡng tánh).
Bên phía dương đại diện là Sinh Vượng Mộ treo cao vẻ đẹp phân phối tùy theo chia phần. Tam hợp này đem lại sự thịnh đạt không khác gì tam hợp Thái Tuế Quan Phù Bạch Hổ, tới mức độ nào còn tùy nhiều pháp qui hợp lệ.
Cũng như lộc Tồn, sự đẹp mỹ mãn của Sinh Vượng Mộ cũng chia đều cho từng tam hợp tuổi:
- Người Dương Nam tuổi Thân Tý Thìn được hưởng Sinh Vượng Mộ của Thủy Nhị Cục. Người dương Nam Dần Ngọ Tuất thì Hỏa và Thổ Cục.
- Người âm nữ tuổi Tỵ Dậu Sửu hưởng Kim Tứ Cục, người âm nữ Hợi Mão Mùi hưởng Mộc Tam Cục.
- Trái lại các hạng tuổi Âm Nam hay Dương Nữ chỉ hưởng có một Mộ đầy một ý nghĩa “không toại chí” cho đến ngày xuống mộ họa chăng an ủi*.
Mỗi khi đại vận ở trong có Sinh Vượng Mộ cuộc sống thường gặp thang mây thuận bước, nhưng một khi nghịch lý âm dương chỉ còn là phấn son tô điểm, trên thực tế không đáng kể.
Hai tuổi sau đây cho thấy đâu là nguyên lý pháp quy:
1- Giáp Tý 11 – 15 Tý
2- Canh Tuất 18 – 3 Tý
a- Tuổi Giáp Tý Kim Mệnh Thủy Cục, trường hợp Mệnh sinh xuất cho Cục mà cuộc đời lại vượt mức, vì Mệnh Thân đồng cung Thái Tuế phụ lực có Sinh Vượng Mộ hợp tác thành thực (vì cùng Kim) tăng cường.
b- Tuổi Canh Tuất Kim Mệnh cũng Thân Mệnh đồng cung, được tam hóa liên châu tô màu ở chỗ thanh thiên bạch nhật (cung thìn) đắc Vũ Khúc Thiên Mã cũng Kim, so với Mệnh Giáp Tý thì nặng cân hơn quá nhiều, lại được Kim Cục, ấy thế mà thua xa Giáp Tý đến muôn vạn dặm.
Mệnh tuy đẹp không được Sinh Vượng Mộ giúp đỡ vì Kim Cục chỉ dành cho người Âm nữ Tỵ Dậu Sửu. Tuy vậy đến đại vận gặp Sinh Vượng Mộ tuổi Canh Tuất cũng được tô son dồi phấn, nhưng thực chất chỉ là hư không chánh.
Còn một khía cạnh khác cũng thường lập ngôn khi toán số phải chia làm hai giai đoạn: từ lúc sơ sinh cho đến 13 tuổi không đáng kể, đã có bảng hạn đồng niên (1 Mệnh 2 Tài 3 Ách 4 Thê 5 Phúc 6 Quan 7 Nô 8 Di 9 Tử 10 Bào 11 Phụ 12 Điền). Từ tuổi Quan Đới (20) cho đến gần 40 lấy Mệnh làm đích. Từ 40 đến ngày về già lấy Cục mà nhận xét. Thiển nghĩ cũng không thấy gì làm chính xác với luận lý. Vậy tại sao vẫn lấy Mệnh bắt đầu mà đi về để điểm số cho đến ngày cùng.
Vòng Tràng Sinh đã có 2 mặt âm dương Sinh Vượng Mộ và Duc Suy Tuyệt còn tùy Mệnh có thuận âm dương, vòng Thái Tuế, vòng Lộc Tồn xếp đặt có ăn ý, hay phải bì trừ cho trúng mức độ chung toàn thể.
Được cảm ơn bởi: perry
Đầu trang

ngo_ngot
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 702
Tham gia: 14:21, 03/03/11

TL: TỬ VI NGHIỆM LÝ TOÀN THƯ

Gửi bài gửi bởi ngo_ngot »

DƯ ÂM BÌNH PHÊ TƯ THẾ NHÂN SINH ĐƯỢC TRIẾT LÝ MINH SÁT TRÊN ĐỊA BÁN TOÁN SỐ
Thế đứng chuyển dịch của 14 chính tinh cho thấy đủ mọi sắc thái cục diện nhân sinh. Căn bản chính ở hai thế âm dương từ hành tinh đến địa bàn trình diễn lớp lang thịnh bỉ. Cho biết 12 cung đủ mặt hành âm dương xen kẽ, còn xác định địa giới đâu là thuộc dương (từ Dần đến Thân) và đâu thuộc âm (từ Thân đến Dần); 14 chính tinh cũng vậy, bên dương có Tử Phủ Vũ Tướng và Phá Tham Liêm Sát, bên âm gồm Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật.
Tại sao 14 chính tinh lại chia cho bên dương những 8 mà bên âm chỉ có 6?
Trên hình thức lưỡng nghi âm dương hình tượng bằng nhau, nhưng thực lực bên dương luôn luôn mạnh hơn âm bằng tỷ số tương đối 3/2, bằng số 8 để chia cho 2 bộ Tử Phủ và Phá Tham có lực lượng bằng nhau.
Vậy tư thế của dương tinh và âm tinh hành động ra sao, và có sự liên hệ mật thiết gì với nhau?
Bộ Tử Phủ và Phá Tham là hai thế của Tứ Tượng thuộc dương, có tính cách linh động cương quyết, thường xuyên đấu tranh với nhau để thỏa mãn ý muốn, như khi hai trường hợp tự đặt tuyệt đích là Tử Vi xưng Đế ở Ngọ Môn hay Phá Quân lên ngôi bá chủ ở Bắc phương (Tí). Bên dương hiếu động bao nhiêu, nhìn cuộc diện mà phát huy triết lý bình nghị mưu cầu hạnh phúc chung. Với 6 hành tinh, cặp Thái Dương và Thái Âm là hai ngọn đuốc soi tỏ, đâu là trúng cách hợp tình thuận lý, đâu là sai lầm vị kỷ, dẫn đường cho Thiên lương nêu cao triết lý để Cự Môn lên tiếng phán quyết.
Thiên Lương và Cự Môn trường hợp nào cũng nắm chắc trong tay. Thiên cơ là tất cả những gì cấu tạo tổ chức quản lý hành động và Thiên Đồng là kế hoạch cải cách kiểu tạo. Tóm lại, nhờ hai ngọn đèn thần Thái Dương Thái Âm soi tỏ bước đường cho Thiên Lương và Cự Môn thấu đáo Thiên Đồng và Thiên Cơ, tuy theo cuộc xử thế (vòng tràng sinh) mà Tử Vi hay Phá Quân lãnh đạo đắc thái.
Bộ Tử Phủ cũng như Phá Tham không phải bên nào khẳng định vĩnh viễn quân tử, bên nào nhất quyết tiểu nhân, cũng gồm đủ quân thần lã sử người lương thiện trung thành, kẻ tham ô phản trắc làm cái mầm gây nên cuộc hưng vong. Nếu không có Thất Sát hướng dẫn Tử Vi làm sao mà có hồi trung hưng Tham Vũ. Cũng như không có Vũ Khúc ủng hộ Phá Quân, làm gì có cảnh Tham Tử đem lại thành quả Liêm Sát. Cũng vì Vũ Khúc cặp kè Thất Sát mới sanh biến phá Tử để rồi hướng dẫn Liêm Tham. Nói chung, tất cả các hành tinh từ chính đến trung, Phúc và Hưng đều sắp xếp tùy theo vòng tràng sinh là tư thế của đương nhân xử sự với cuộc diện như 4 trường hợp cùng tuổi Canh Tuất của Khổng Phu Tử, vị trí hành tinh đóng giống nhau cùng Tham Lang Tử Vi ở Dậu, chỉ khác chỗ đứng của mệnh tất nhiên sao thủ mạng phải khác diễn tả như sau:
<!--[if !supportLists]-->a) <!--[endif]-->Khổng Phu Tử tuổi Canh Tuất sanh ngày 1-11 giờ Tí, Mệnh Thân đồng thân ở Tí, Thiên Lương thủ cốt, một cây cổ thụ của triết học được Nhật ở Ngọ, Nguyệt ở Thân đồng chiếu. Vì Triệt và Hóa Kỵ làm che lấp lu mờ những lời đạo lý của ông lúc đầu chỉ đem lại kết quả vô vọng (mệnh ở vị trí Tang Môn). Sự thật Thiên Đồng tuy hãm được Khoa biến cải, mà Thiên Cơ cũng không phải là hãm địa, nên Cự Môn hãm địa ở Tuất với bằng chứng Thái Tuế hợp với Mộ Hoa Cái, đời ông chỉ được hài lòng với danh nghĩa Vạn Thế Sư bắt đầu từ vãn niên với dư âm sau khi nhắm mắt.
<!--[if !supportLists]-->b) <!--[endif]-->Trường hợp cùng tuổi Canh Tuất, hành tinh cũng cùng vị trí mà mệnh ở Tỵ có Vũ Phá. Đây là người Vũ Khúc vì Kim mệnh, bỏ hàng ngũ Tử Vi chạy theo ủng hộ Phá Quân (kim sinh thủy – Phá Quân) đẩy Tham Lang uy hiếp Tử Vi ở Dậu. Mệnh quá đẹp với tam hóa liên châu cùng tràng sinh thủ đắc. Sự thật người dương đóng âm cung vị trí Long Đức (Thiếu Âm) những gì tô điểm không thể được đầy đủ nên Khoa phải kém năng lực nên từ Đồng đến Cơ đều bị Hóa Kỵ bôi lem đi mất phần nào là vai trò của Vũ Khúc ở trường hợp này phải đóng trá hàng để Tử Vi có cơ hội thoát nạn (đời Lê Lai cứu Lê Lợi). Thiên Lương vẫn nêu cao triết lý cương quả cùng với Thái Dương ở Ngọ gặp Triệt cùng Cự Môn hãm ở Tuất, Thái Tuế gặp Suy (tràng sinh) làm gì không đề cao an ủi (Dục suy Tuyệt – sớm nở tối tàn)
<!--[if !supportLists]-->c) <!--[endif]-->Cùng tuổi Canh Tuất cùng vị trí sao Mệnh ở Mùi có Thiên Phủ. Gặp buổi suy loạn (Tham Lang Tử Vi ở Dậu) Thiên Phủ và Thiên Tướng đều là bầy tôi lương đống lại ở vị trí Thiên Không, Hồng loan đành khoanh tay ở vị trí nhu âm tạm thời hưởng mộ. Cự Môn ở ngôi Thái Tuế với Dưỡng của Mộc tam cục cũng nhắn nhủ ai đây giấy rách phải giữ lấy lề (Lâm Quan, Tử, Dưỡng)
<!--[if !supportLists]-->a) <!--[endif]-->Trường hợp mệnh lập tại Tuất có Cự Môn tức là Mệnh Thái Tuế Đế Vượng, một cây bình phê đặc hạng miệng xà (Cự Môn hãm) tâm phật (Thái Tuế Đế Vượng). Bởi vì ở thời rối bời (Tham Lang tử Vi ở Dậu) người dương đóng cung dương với Thái Tuế được Thái Dương đắc cách ở Ngọ, mặc dầu triệt chỉ là giai đoạn mà thôi, rồi cái danh nghĩa vẫn trường tồn mãi mãi, khác gì Khổng Phu Tử thiên Lương cư Tí.
<!--[if !supportLists]-->1. <!--[endif]-->Tử Vi đi từ Ngọ sang Tỵ lần lượt xuống đến Sửu là thất thế suy vong, bắt đầu từ Tí sang Hợi, lần hồi đến Ngọ vãn hồi hưng thịnh
<!--[if !supportLists]-->2. <!--[endif]-->Phá Quân đi từ Thân xuống Dậu đến Tí và Sửu là lần hồi xây dựng nghiệp bá, bắt đầu từ Dần lên đến Ngọ, Mùi là xuống dốc.
<!--[if !supportLists]-->3. <!--[endif]-->Bốn vị trí tứ sinh (Dần Thân Tỵ Hợi) là nơi đất quan trọng phát khởi mọi sự hưng phong của đế bá
Thân nơi khởi bước cho Phá Quân thành lập căn bản và cũng là nơi Tử Vi lấy lại uy thế
Dần nơi xuống bước của cả 2 Tử Vi và Phá Quân.
Tỵ nơi phát sanh nhiều mưu kế như Thất Sát trá hàng Tử Vi để Phá Quân khởi hấn (Liêm Phá ở Dậu). Vũ Khúc vờ phù Phá Quân để Tử Vi thoát vòng vây của Tham Lang ở Dậu.
Hợi nơi đất dữ diễn tả cảnh phản bội của Thất Sát dẫn đường Tử Vi tảo thanh Phá Quân và cũng là nơi Vũ Khúc đầu hành Phá Quân để Tham Lang uy hiếp Tử Vi ở Mão.
Trường hợp Liêm Tham ở Hợi là nơi hình ngục nan đào, còn Liêm Tham ở Tỵ chỉ là dư âm thanh trừng hay tạm thời cầm giữ.
PHẨM CÁCH GIỮA TỬ VI VÀ PHÁ QUÂN
Theo tên ghi đặt phụ thêm nếp sống thấy đề cao hẳn Tử Vi vào giai cấp cao đẳng của xã hội. Còn hai tiếng Phá Quânh như của miệng bình dân thường nói “quân phá hoại, hạng tàn nhẫn bất lương” đủ nghĩa phân biệt giữa giá trị tư cách hai cấp nhân sinh.
Có sự thực như thế không?
Ba chữ số tử vi chỉ là quen thói đề cao sao Tử Vi là phương pháp toán số mạng, một nhánh của dịch lý người khai sanh là Phục Hy. Với bộ óc thông minh tuyệt đỉnh ông sống thời Thái Cổ (khoảng 2850 trước dương lịch) sách vở chữ nghĩa chưa có sự sinh hoạt dễ dàng (đại cuộc Giáp Tí: Tí sinh Giáp) chỉ lấy khối óc suy tư theo dõi thời tiết vũ trụ mà phát huy ra lý âm dương nguồn gốc của ngũ hành cùng với thời gian dịch chuyển biến hóa cát hung. Ông biết tham vọng của người đời sẽ có ngày gây nên hỗn độn, mới nghĩ cách mở mang dân trí để tự kiềm chế lấy mình, hành động tùy thời gian cương nhu, kẻ vẽ ra bát quái bằng 3 nét tượng trưng cho tam tài, thiên địa nhân, ghép thành một quái tạo ra 64 quẻ truyền lại mà thôi.
Trải qua thượng cổ (đại cuộc Giáp Tuất: Giáp khắc Tuất) phong kiến độc tôn đế nghiệp, đến Trung cổ (đại cuộc Giáp Thân: Thân khắc Giáp) hết Xuân Thu đến Chiến quốc, những cuộc cách mạng nổi dậy liên hồi. Muốn nhắc nhở người đời nên cư xử với nhau bằng nhân nghĩa, xã hội nên sắp xếp trật tự thì người trên phải minh, người dưới phải thành, nếp sống tam cương (vua tôi, cha con, chồng vợ), ngũ thường (nhân nghĩa lễ trí tín) cho đúng mực. Văn Vương phụ thêm lời Soán, Chu Công làm hào từ. Khổng Tử đặt thập đức để cho 64 quẻ Phục Hy được bội phần sáng tỏa.
Toán số mạng (số tử vi) với trên 100 hành tinh phản ảnh cả một cục diện nhân sinh mà hai sao Tử Vi và Phá Quân là hai lãnh đối diện. Tử Vi là hình bóng của đức hạnh lập nghiệp đang lúc thịnh thời dưới ánh sáng thái dương sáng ngời nơi cửa ngọ môn ghi đế hiệu, còn Phá Quân trung chính thành thực mà định nghĩa có tính cách cương trực hành động phản kháng những gì bất công tức là hình tượng của cách mạng.
Toán số mạng trải qua mấy ngàn năm dưới phong cách độc tôn đế quyền, những gì chống đối lại là bất nhất lưu truyền theo đà đến tận nay. Một việc cuối đời Mạt Hán, sau khi chiếm lại ngai vàng vua Quang Võ hạ lệnh loại bỏ hết thảy mọi người có Phá Quân chủ mạng ra khỏi chính quyền, dầu là nội ngoại hoàng tộc. Ông cho công cuộc cách mạng của Vương Mãng trước đây chỉ là một hành động bất nhân cướp quyền của một Phá Quân thực chất (1).
Vị trí của Phá Quân đóng từ Thân đến Hợi là tất cả những gì tiến triển hợp nguyện vọng chung làm bậc thang đưa đến Tí, ngôi vị minh chủ được ánh sáng mát dịu của Thái Âm chiếu tỏ chỉ là ngôi vị bá chủ thuộc âm. Tóm tắt, Tử Vi là phe chánh quyền mà Phá Quân là phái đối lập. Tất nhiên trong cả hai phe phái đều có người thành thực đức hạnh, kẻ gian trá bất nhân, không thể cứ nhất quyết Phá Quân là tiểu nhân mà Tử Vi lúc nào cũng quân tử.
Vậy muốn biết chính xác phải căn cứ vào đâu?
Hành tinh chỉ là hình tượng phần can hệ ở ba vòng Lộc Tồn, Thái Tuế và Trường Sinh (Thiên Địa Nhân). Thiên Can ấn định phần thụ hưởng. Địa Chi phân định giới hạn tư cách, còn Tràng Sinh là cục bộ đường dài đương nhân tiến bước, xử thế ra sao như hai trường hợp sau đây cho thấy đâu là phẩm cách nhân sinh khá rõ ràng.
Hai người cùng tuổi Giáp Tý, một người Mệnh ở Ngọ cư Tử Vi, một người ở Tý có Phá Quân.
<!--[if !supportLists]-->a) <!--[endif]-->Tử Vi, Tràng Sinh, Lộc Tồn, Tuế Phá: đủ nghĩa một nhân sinh thấy Lộc trước tay chủ vì tự kỷ tức khí (Tuế Phá) trước đối phương về một lý do (Thái Tuế) mà hành động đưa thân thể lên đầu bất cứ phương tiện nào miễn được thỏa dục nhất thời.
<!--[if !supportLists]-->b) <!--[endif]-->Phá Quân, Đế Vượng, Hóa Quyền, Thái Tuế: một lãnh tụ hiên ngang được đưa lên ngôi vị minh chủ để lo công việc chính nghĩa.
Cả hai người đều Kim Mệnh có thể nói đều vô chính diệu, phải xét trong thế tam hợp có được gì phù trợ thì người có Vũ Khúc, người được Thất Sát.
<!--[if !supportLists]-->1. <!--[endif]-->Tử Vi, Vũ Khúc chung đúc ảnh hưởng: Tử Vi ủng hộ cho Vũ Khúc hành động (Thổ sinh Kim, đủ nghĩa của a ở trên).
<!--[if !supportLists]-->2. <!--[endif]-->Thất Sát, Phá Quân bao gồm chân tướng: Thất Sát thuận ý Phá Quân nhúng tay (Kim sinh Thủy, ý nghĩa của b)
Cả hai trường hợp trên cho thấy sự quan trọng lực năng tam tài nếu thêm hung sát tinh chỉ thêm chi tiết trên bước đường dài phải băng qua. Thực chất bản ngã định mệnh đã như gói ghém trong thế tam tài, hành tinh được coi là hình tượng tốt xấu lâu nay một phần do thói quen người đời lầm tưởng. Muốn tránh những gì ngộ nhận, những bậc được liệt là minh đạt kế tiếp nhau biên soạn lần hồi đoán số mạng, đã không quên nhắc nhở sơ sài nhân thế: thân mình có kiến tạo gì nên chữ Thọ thì định mệnh kia mới là dự thảo sẽ được chữ Tài cải cách theo luật bù trừ kết quả.
<!--[if !supportLists]-->(1) <!--[endif]-->Sau khi chiếm lại ngôi vị, việc làm trước nhất truyền lịnh cho thủ hạ lập thành một lá số có Mệnh Phá Quân Thìn Tuất để gắn tư cách bất nhân làm ô danh Vương Mẫn bằng tuổi Giáp Dần sanh ngày 27 tháng 1 giờ Tuất. Trường hợp Phá Quân ở Thìn Tuất dám thẳng thắn đối diện tư tưởng công khai nghênh địch không còn úp mở là trường hợp nguy hiểm cho đế quyền nên phải đặt ngay câu phú (Trai bất nhẫn Phá Quân Thìn Tuất) để lấp dư âm bình phê tủy theo cục diện cho những ai nhẹ dạ cứ tin theo không cần suy tính trúng trật.
THẤT SÁT NGƯỠNG VÀ TRIỂU ĐẨU(TỬ VI HAY PHÁ QUÂN)
Toán số học ra đời trải qua mấy ngàn năm dưới đế quyền độc tôn, mọi sự phát huy đều có ý dè dặt lửng lơ lầm tưởng như đề cao Tử Vi (hình bóng đế nghiệp). Sự thật phải ý thức vấn đề tìm hiểu đâu là nguyên lý công bằng.
Luật âm dương chia 14 chính tinh làm 2 phe. Bên âm 6 sao tượng trưng văn thái tìm kiếm căn quả ghi thành tích những gì bên dương hành động. Bên dương diễn tả những màn cảnh tranh đấu hưng vọng cuộc thế nhân sinh bằng hai phe Tử Phủ và Phá Tham sắp xếp ngụ ý trật tự trên dưới tùy theo địa vị:
<!--[if !supportLists]-->a) <!--[endif]-->Tử Vi, Thiên Phủ, Vũ Khúc, Thiên Tướng: Đế ở trên rồi đến quân sư, hàng dưới khanh tướng.
<!--[if !supportLists]-->b) <!--[endif]-->Thất Sát, Phá Quân, Liêm Trinh, Tham Lang: Sát đứng đầu ngầm ý nhưghi cong khi hộ giá Đế tuần du ở Tỵ Hợi. Phá Quân thứ nhì khẳng định không thể dìm sâu hơn nữa. Thứ ba Liêm Trinh có tính nhu thuận ít hợp ý đồng phe, khiến hiệu năng của Sát Phá Tham có nghĩa cương quyết mạnh bạo hơn là Sát Phá Liêm Tham. Tham Lang, người gây tai nạn hung hãn nhất cho Tử Vi đứng cuối bậc Thấy sự sắp xếp đặt bên Phá Tham Liêm Sát toàn lựa người hàng hai đứng trên kẻ chống đối.
Những hành tinh chuyển dịch trên các vị trí với hành vi bản lãnh không phải không ý nghĩa.
Tại sao Thiên Phủ trường hợp nào cũng không chịu đứng chung hàng với Thất Sát (Thiên Phủ đối xung Thất Sát), cũng như Thiên Tướng thường trực ngăn chặn Phá Quân? Thiên Phủ một hình tượng nhân sinh điềm tĩnh có đủ tư cách phò trợ minh quân an bang tế thế, thấy những gì không trung tín là không chấp nhận. Thất Sát vốn người nóng tính, vụng suy, lại đứng trong hàng ngũ đối lập, vì một lý do gì nhảy qua hàng ngũ đối phương dẫn đường Tử Vi tuần tiễu ở Tỵ Hợi, trong lúc Phá Quân bước đầu hoạt động (cùng trong tam hợp Tử Sát Liêm Phá Tham Vũ) khác gì Ngụy Diên ở hàng ngũ quân Tào nhảy sang đầu hàng quân sư Gia Cát Lượng.
Vốn đầy đủ thông minh nhận xét hạnh kiểm nhân sinh, Khổng Minh sai lôi ra hành quyết để răn trừng. Ông không chấp nhận những kẻ sớm đã tối đánh. Thiên Phủ chống Thất Sát là màn cảnh Khổng Minh không ưa Ngụy Diên ở cuối đời Tam Quốc, nên trường hợp nào cũng đứng đối xung, luôn luôn cùng Thiên Tướng sát cánh trong hàng ngũ (tam hợp) đồng tâm hiệp lực ngăn chống Phá Quân (Thiên Phủ sung Thất Sát, Thiên Tướng xung Phá Quân)
Thất Sát có hai vị trí đáng được đề cao nghiêm chỉnh là triều đẩu (Thất Sát Thần Dần) và ngưỡng đẩu (Thất Sát Tử Ngọ). Triều ý nghĩa mặt triều kiến, ngưỡng là ngẩng trông lên có vẻ tôn kính phục tùng. Còn Đẩu là hành tinh.
Quan sát trên địa bàn, một khi Thất Sát đứng ở Ngọ (Ngưỡng) thì Tử Tướng ở Thìn, Phá Quân ở Tuất, trường hợp 2 bên dàn bầy trận thế khuất phục nhau. Vậy Thất Sát ở Ngọ ngưỡng mộ ai? Tử Tướng hay Phá Quân? Chắc chắn Thất Sát không thể lùi lại ôm chân Tử Tướng ở Thìn mà cảm phục Phá Quân cùng đứng trong tam hợp với nhau. Vị trí triều ở Thân, lúc đó Phá Quân ở Tí hiên ngang một cõi sơn hà lên ngôi minh chủ Thất Sát ngẩng mặt triều kiến là trúng cách. Khi Thất Sát ở triều kiến Phá Quân ở Ngọ với tư cách một thủ lĩnh đơn thân độc mã dám hùng dũng đến thủ phủ của Tử Vi không phải là không xứng đáng. Nếu cho ngưỡng và triều Tử Vi tất phải danh chính ngôn thuận (ngưỡng triều Đế Vị), thấy không có mối liên hệ gì trong tam hợp (nội bộ) và vị trí Tử Vi cũng đứng không đẹp gì để hưởng ngưỡng triều.
Toán số mạng chỉ đề ra khép mở không nhất quyết minh định vì nhiều nỗi e dè không khỏi nhiều khi nhận lầm lạc hướng, ngày nay tưởng nên ý thức đâu là hợp lý để soi tỏ chính tâm của tác giả xa xưa không thể nói ra vì nhiều uẩn khúc.
Được cảm ơn bởi: perry
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Kiến thức tướng pháp”