Giới thiệu về tiếng phạn (Sanskrit)
Đã gửi: 22:20, 06/12/11
Giới thiệu sơ lược về tiếng Phạn
TT Thích Nguyên Giác
Tiếng Phạn là ngôn ngữ cổ nhất trong họ ngôn ngữ của người Aryan Ấn Độ, một
chi nhánh của họ ngôn ngữ Indo-Iranian thuộc ngữ hệ Ấn Âu. Nó phát triển về hướng
Đông và đã hình thành một nền văn học lớn có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều dân tộc
trên thế giới, đặc biệt là các dân tộc thuộc miền Đông Nam châu Á như Tích Lan, Thái
Lan, Miến Điện, Campuchia, Nam Dương, Phù Nam, Chiêm Thành v.v... Bằng tiếng
Phạn, ta có những tác phẩm văn học lớn như RigVeda, Skauntalà của Kàlidasa, các bộ
sử thi như Mahàbhàrata, Ràmayàna, những tác phẩm triết học như Brhadupanisad,
Samkhyakàrikà, Vaisesikakàrikà, các tác phẩm ngữ học của Pànini và Patanjali v.v...
và đặc biệt những kinh điển Phật giáo nổi tiếng đã được nhiều dân tộc trên thế giới
học tập và truyền dịch. Cho nên, nói đến tiếng Phạn là nói đến văn học, triết học, khoa
học kỹ thuật của Ấn Độ cổ đại và trung đại.
Theo hiểu biết hiện nay, những từ tiếng Phạn đầu tiên xuất hiện trong một văn
bản tiếng Hit-ti dạy về thuật cưỡi ngựa cách đây 3.500 năm, được tìm thấy ở vùng
Anatolia của Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Từ vùng đất Tây Á này, những người nói tiếng
Phạn tiến về bình nguyên sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Ganges), họ mang theo các
bài thơ tế thần của tổ tiên đồng thời sáng tác thêm những bài mới phục vụ cho nhu
cầu tín ngưỡng. Những bài thơ này tập thành các bộ Vệ Đà nguyên thủy dưới dạng
tiếng Phạn cổ. Bộ xưa nhất của nó là Rigveda được hình thành vào khoảng giữa thiên
niên kỷ thứ hai trước Tây lịch. Bài thơ tế thần sớm nhất được biết đến hiện nay chậm
lắm là vào khoảng năm 1000 trước TL. Tại những bình nguyên ấy, họ hình thành
những nước cộng hòa khác nhau, cho đến giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước Tây lịch,
thời Đức Phật (563-483 trước TL), vẫn còn 16 nước cộng hòa nổi tiếng với nền văn học
Bramana và Upanisad, bộ luật Manu và các tác phẩm ngữ học như Astàdhyàyi. Sự ra
đời của những công trình văn học này trước hết xuất phát từ quá trình ảnh hưởng qua
lại giữa tiếng Phạn và các thổ ngữ của cư dân bản địa trong điều kiện chưa có chữ viết
và việc truyền thừa chỉ dựa vào phương tiện truyền khẩu duy nhất. Điều này khiến
các bộ Vệ Đà bị thay đổi ít nhiều, và dần dần trở nên khó hiểu, dẫn đến nhu cầu phải
có những giải thích về âm học, ngữ nghĩa cùng các quy định về cú pháp. Sự ra đời của
tác phẩm Astàdhyàyi của Pànini đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử tiếng Phạn,
giai đoạn hình thành tiếng Phạn tiêu chuẩn mà người phương Tây thường gọi là tiếng
Phạn cổ điển (Classical Sanskrit) để phân biệt với tiếng Phạn thời Vệ Đà (Vedic
Sanskrit).
Đến khi Asoka (268-233 trước TL) thống nhất toàn bộ Ấn Độ, ông đã sử dụng mẫu
tự Bràhmi và Kharosthi để khắc lên bia đá những sắc lệnh của mình. Thế là tiếng Phạn
lần đầu tiên được ghi nhận xuất hiện tại Ấn Độ bằng văn bản và chữ viết. Nhưng phải
đến thời vua Rudradamàn (thế kỷ thứ II sau TL) của vương triều Saka, một văn bản
hoàn chỉnh bằng tiếng Phạn mới xuất hiện và ngày nay đã tìm thấy.
Nhờ sự đỡ đầu chính trị từ những người cầm quyền có gốc nước ngoài ở phía Tây
Ấn Độ từ những thời xa xưa, sau đó lại được vương triều Guptas và giai cấp mới
ksatriya dùng làm ngôn ngữ chính thức, tiếng Phạn dần dần trở thành ngôn ngữ thống
trị trong các lãnh vực bi ký, thi ca, tiểu thuyết, triết học, hành chánh, y học, toán học,
kỹ thuật v.v... trong suốt thiên niên kỷ thứ nhất sau Tây lịch, để hình thành nên một
nền văn học lớn của Ấn Độ.
Tuy nhiên, tiếng Phạn tiêu chuẩn tuân thủ theo những quy tắc ngữ pháp do Pànini
trình bày thường chỉ dành riêng cho học thuật, hành chánh, còn trong quần chúng lại
thông dụng một dạng tiếng Phạn địa phương có những khác biệt so với các quy tắc do
Pànini trình bày ở các mức độ khác nhau. Loại Phạn ngữ này thường được gọi là Phạn
ngữ anh hùng ca, Phạn ngữ hỗn chủng Phật giáo, Phạn ngữ địa phương v.v... được tìm
thấy trong hai bản anh hùng ca Mahàbhàratà và Ràmayàna, cũng như trong các kinh
điển của Phật giáo, Kỳ Na giáo, và một số bia ký.
Tryền thống của người Ấn Độ coi tiếng Phạn là do Phạm Thiên tạo ra, như Đại Bát
Niết Bàn kinh 8 và 26, Đại Đường Tây Vức ký 2 v.v... chép lại. Khi mới truyền vào
Trung Quốc, tiếng Phạn bị coi là tiếng của người rợ Hồ (Hồ ngữ). Mãi đến thời Ngạn
Tôn (557-610), một tác gia lớn của Phật giáo Trung Quốc, tiếng Phạn mới được chính
thức gọi là Phạn ngữ. Vì là tiếng do Phạm Thiên tạo ra, nên chữ viết được gọi là
Devanàgarì, có nghĩa là chữ viết của thành phố thiên thần, gọi tắt là mẫu tự Thiên thị.
Người Việt chúng ta là một trong những dân tộc tiếp xúc tiếng Phạn khá sớm, đặc
biệt là vùng phía Nam tổ quốc nơi mà vào thời Hùng Vương đã hình thành một nhà
nước Chiêm Thành. Vương quốc này không những đã dùng tiếng Phạn làm chuyển
ngữ để viết các bia ký của dân tộc họ, mà còn dùmg làm mẫu tự để ghi lại tiếng nói
của họ. Theo các sử liệu được biết đến hiện nay, vào khoảng thế kỷ thứ II hoặc III
trước Tây lịch, Chử Đồng Tử đã đến học đạo với một nhà sư người Ấn Độ tên là Phật
Quang tại núi Quỳnh Viên ở Cửa Sót (Hà Tĩnh). Đến cuối thế kỷ thứ II sau TL, Khâu Đà
La người Tây Vức cũng đã đến Giao Châu dạy đạo cho Tu Định và Man Nương, lập nên
hệ thống Tứ pháp nổi tiếng ở Bắc Ninh. Rồi đến giữa thế kỷ thứ III có Khương Tăng
Hội và Đạo Thanh. Khương Tăng Hội chú giải An ban thủ ý kinh do An Thế Cao dịch thì
hẳn phải biết tiếng Phạn. Còn Đạo Thanh đệ tử của Khâu Đà La nổi tiếng giỏi tiếng
Phạn và là người đã bút thọ kinh Pháp Hoa tam muội do Chi Cương Lương Tiếp dịch.
Những thế kỷ kế tiếp đều có các nhà sư ở Tây Vức đến như Ma Ha Kỳ Vực, Ma Ha Đề
Bà, Tỳ Ni Đa Lưu Chi v.v... Chính Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã dịch kinh Tổng trì tại Giao Châu
và lập nên dòng thiền Pháp Vân tại ngôi chùa cùng tên. Vào thế kỷ thứ VII, nhiều nhà
sư Việt Nam đã qua Ấn Độ chiêm bái và học tập, trong đó nổi bật nhất là Đại Thừa
Đăng, người về sau đã cộng tác với Huyền Trang trong việc dịch kinh tại dịch trường
chùa Từ Ân ở Trường An. Ông để lại một số tác phẩm như Câu xá luận ký, Đại thừa
bách pháp minh môn luận chú v.v...
Đến kỷ thứ X, bài chú Phật đỉnh tôn thắng (Buddhosnisadhvaja) bằng tiếng Phạn
đã được Đinh Liễn và vua Lê Đại Hành cho khắc lên cột đá nhiều lần. Đây là bản kinh
khắc xưa nhất của dân tộc ta hiện nay tìm thấy được. Vào thời kỳ này, theo Thiền uyển
tập anh, còn có nhiều nhà sư rất thông thạo tiếng Phạn như Mahàmàya, Sùng Phạm
(1004-1087). Đến thế kỷ XIII, có Bồ Đề Thất Lỵ (Bodhisrì) đến nước ta và đã dịch các bài
chú kinh Lăng Nghiêm từ chữ Phạn ra chữ Hán theo yêu cầu của vua Trần Nhân Tông.
Hiện nay người ta đã tìm thấy được bản in ở thế kỷ XVIII của bản dịch này.
Trong những thế kỷ kế tiếp sau đó, có một số tác phẩm đề cập đến tiếng Phạn qua
âm Hán, như Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa của Pháp Tính (1470?-1550), một quyển từ
điển Hán Việt trong đó đã ghi chú một số từ chữ Phạn âm Hán như Đồ lê là Mặt bàn,
Duy na là thầy na; Kiến văn tiểu lục 9 của Lê Quý Đôn (thế kỷ XVIII) liệt kê các chữ
Phạn phiên âm chữ Hán và Đạo giáo nguyên lưu của An Thiền (thế kỷ XIX) với một số
trang dành riêng cho việc ghi lại những từ tiếng Phạn với nghĩa chữ Hán.
Hiện nay, việc mở rộng giao lưu với toàn thế giới phát sinh nhu cầu học tiếng
Phạn để tìm hiểu về lịch sử, tư tưởng, văn hóa của những dân tộc đã từng sử dụng
hoặc chịu ảnh hưởng thứ ngôn ngữ này, cũng như để tìm hiểu về lịch sử, văn hóa của
chính dân tộc ta. Vì vậy chúng tôi xin giới thiệu với độc giả nguyệt san Giác Ngộ giáo
tài hàm thụ tiếng Phạn sơ cấp, giúp các bạn có một số khái niệm cơ bản về ngữ pháp
của ngôn ngữ này.
----o0o----Nguồn: chuyenphapluan.com Trình bày: Nhị Tường Cập nhật: 1-11-2006
TT Thích Nguyên Giác
Tiếng Phạn là ngôn ngữ cổ nhất trong họ ngôn ngữ của người Aryan Ấn Độ, một
chi nhánh của họ ngôn ngữ Indo-Iranian thuộc ngữ hệ Ấn Âu. Nó phát triển về hướng
Đông và đã hình thành một nền văn học lớn có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều dân tộc
trên thế giới, đặc biệt là các dân tộc thuộc miền Đông Nam châu Á như Tích Lan, Thái
Lan, Miến Điện, Campuchia, Nam Dương, Phù Nam, Chiêm Thành v.v... Bằng tiếng
Phạn, ta có những tác phẩm văn học lớn như RigVeda, Skauntalà của Kàlidasa, các bộ
sử thi như Mahàbhàrata, Ràmayàna, những tác phẩm triết học như Brhadupanisad,
Samkhyakàrikà, Vaisesikakàrikà, các tác phẩm ngữ học của Pànini và Patanjali v.v...
và đặc biệt những kinh điển Phật giáo nổi tiếng đã được nhiều dân tộc trên thế giới
học tập và truyền dịch. Cho nên, nói đến tiếng Phạn là nói đến văn học, triết học, khoa
học kỹ thuật của Ấn Độ cổ đại và trung đại.
Theo hiểu biết hiện nay, những từ tiếng Phạn đầu tiên xuất hiện trong một văn
bản tiếng Hit-ti dạy về thuật cưỡi ngựa cách đây 3.500 năm, được tìm thấy ở vùng
Anatolia của Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Từ vùng đất Tây Á này, những người nói tiếng
Phạn tiến về bình nguyên sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Ganges), họ mang theo các
bài thơ tế thần của tổ tiên đồng thời sáng tác thêm những bài mới phục vụ cho nhu
cầu tín ngưỡng. Những bài thơ này tập thành các bộ Vệ Đà nguyên thủy dưới dạng
tiếng Phạn cổ. Bộ xưa nhất của nó là Rigveda được hình thành vào khoảng giữa thiên
niên kỷ thứ hai trước Tây lịch. Bài thơ tế thần sớm nhất được biết đến hiện nay chậm
lắm là vào khoảng năm 1000 trước TL. Tại những bình nguyên ấy, họ hình thành
những nước cộng hòa khác nhau, cho đến giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước Tây lịch,
thời Đức Phật (563-483 trước TL), vẫn còn 16 nước cộng hòa nổi tiếng với nền văn học
Bramana và Upanisad, bộ luật Manu và các tác phẩm ngữ học như Astàdhyàyi. Sự ra
đời của những công trình văn học này trước hết xuất phát từ quá trình ảnh hưởng qua
lại giữa tiếng Phạn và các thổ ngữ của cư dân bản địa trong điều kiện chưa có chữ viết
và việc truyền thừa chỉ dựa vào phương tiện truyền khẩu duy nhất. Điều này khiến
các bộ Vệ Đà bị thay đổi ít nhiều, và dần dần trở nên khó hiểu, dẫn đến nhu cầu phải
có những giải thích về âm học, ngữ nghĩa cùng các quy định về cú pháp. Sự ra đời của
tác phẩm Astàdhyàyi của Pànini đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử tiếng Phạn,
giai đoạn hình thành tiếng Phạn tiêu chuẩn mà người phương Tây thường gọi là tiếng
Phạn cổ điển (Classical Sanskrit) để phân biệt với tiếng Phạn thời Vệ Đà (Vedic
Sanskrit).
Đến khi Asoka (268-233 trước TL) thống nhất toàn bộ Ấn Độ, ông đã sử dụng mẫu
tự Bràhmi và Kharosthi để khắc lên bia đá những sắc lệnh của mình. Thế là tiếng Phạn
lần đầu tiên được ghi nhận xuất hiện tại Ấn Độ bằng văn bản và chữ viết. Nhưng phải
đến thời vua Rudradamàn (thế kỷ thứ II sau TL) của vương triều Saka, một văn bản
hoàn chỉnh bằng tiếng Phạn mới xuất hiện và ngày nay đã tìm thấy.
Nhờ sự đỡ đầu chính trị từ những người cầm quyền có gốc nước ngoài ở phía Tây
Ấn Độ từ những thời xa xưa, sau đó lại được vương triều Guptas và giai cấp mới
ksatriya dùng làm ngôn ngữ chính thức, tiếng Phạn dần dần trở thành ngôn ngữ thống
trị trong các lãnh vực bi ký, thi ca, tiểu thuyết, triết học, hành chánh, y học, toán học,
kỹ thuật v.v... trong suốt thiên niên kỷ thứ nhất sau Tây lịch, để hình thành nên một
nền văn học lớn của Ấn Độ.
Tuy nhiên, tiếng Phạn tiêu chuẩn tuân thủ theo những quy tắc ngữ pháp do Pànini
trình bày thường chỉ dành riêng cho học thuật, hành chánh, còn trong quần chúng lại
thông dụng một dạng tiếng Phạn địa phương có những khác biệt so với các quy tắc do
Pànini trình bày ở các mức độ khác nhau. Loại Phạn ngữ này thường được gọi là Phạn
ngữ anh hùng ca, Phạn ngữ hỗn chủng Phật giáo, Phạn ngữ địa phương v.v... được tìm
thấy trong hai bản anh hùng ca Mahàbhàratà và Ràmayàna, cũng như trong các kinh
điển của Phật giáo, Kỳ Na giáo, và một số bia ký.
Tryền thống của người Ấn Độ coi tiếng Phạn là do Phạm Thiên tạo ra, như Đại Bát
Niết Bàn kinh 8 và 26, Đại Đường Tây Vức ký 2 v.v... chép lại. Khi mới truyền vào
Trung Quốc, tiếng Phạn bị coi là tiếng của người rợ Hồ (Hồ ngữ). Mãi đến thời Ngạn
Tôn (557-610), một tác gia lớn của Phật giáo Trung Quốc, tiếng Phạn mới được chính
thức gọi là Phạn ngữ. Vì là tiếng do Phạm Thiên tạo ra, nên chữ viết được gọi là
Devanàgarì, có nghĩa là chữ viết của thành phố thiên thần, gọi tắt là mẫu tự Thiên thị.
Người Việt chúng ta là một trong những dân tộc tiếp xúc tiếng Phạn khá sớm, đặc
biệt là vùng phía Nam tổ quốc nơi mà vào thời Hùng Vương đã hình thành một nhà
nước Chiêm Thành. Vương quốc này không những đã dùng tiếng Phạn làm chuyển
ngữ để viết các bia ký của dân tộc họ, mà còn dùmg làm mẫu tự để ghi lại tiếng nói
của họ. Theo các sử liệu được biết đến hiện nay, vào khoảng thế kỷ thứ II hoặc III
trước Tây lịch, Chử Đồng Tử đã đến học đạo với một nhà sư người Ấn Độ tên là Phật
Quang tại núi Quỳnh Viên ở Cửa Sót (Hà Tĩnh). Đến cuối thế kỷ thứ II sau TL, Khâu Đà
La người Tây Vức cũng đã đến Giao Châu dạy đạo cho Tu Định và Man Nương, lập nên
hệ thống Tứ pháp nổi tiếng ở Bắc Ninh. Rồi đến giữa thế kỷ thứ III có Khương Tăng
Hội và Đạo Thanh. Khương Tăng Hội chú giải An ban thủ ý kinh do An Thế Cao dịch thì
hẳn phải biết tiếng Phạn. Còn Đạo Thanh đệ tử của Khâu Đà La nổi tiếng giỏi tiếng
Phạn và là người đã bút thọ kinh Pháp Hoa tam muội do Chi Cương Lương Tiếp dịch.
Những thế kỷ kế tiếp đều có các nhà sư ở Tây Vức đến như Ma Ha Kỳ Vực, Ma Ha Đề
Bà, Tỳ Ni Đa Lưu Chi v.v... Chính Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã dịch kinh Tổng trì tại Giao Châu
và lập nên dòng thiền Pháp Vân tại ngôi chùa cùng tên. Vào thế kỷ thứ VII, nhiều nhà
sư Việt Nam đã qua Ấn Độ chiêm bái và học tập, trong đó nổi bật nhất là Đại Thừa
Đăng, người về sau đã cộng tác với Huyền Trang trong việc dịch kinh tại dịch trường
chùa Từ Ân ở Trường An. Ông để lại một số tác phẩm như Câu xá luận ký, Đại thừa
bách pháp minh môn luận chú v.v...
Đến kỷ thứ X, bài chú Phật đỉnh tôn thắng (Buddhosnisadhvaja) bằng tiếng Phạn
đã được Đinh Liễn và vua Lê Đại Hành cho khắc lên cột đá nhiều lần. Đây là bản kinh
khắc xưa nhất của dân tộc ta hiện nay tìm thấy được. Vào thời kỳ này, theo Thiền uyển
tập anh, còn có nhiều nhà sư rất thông thạo tiếng Phạn như Mahàmàya, Sùng Phạm
(1004-1087). Đến thế kỷ XIII, có Bồ Đề Thất Lỵ (Bodhisrì) đến nước ta và đã dịch các bài
chú kinh Lăng Nghiêm từ chữ Phạn ra chữ Hán theo yêu cầu của vua Trần Nhân Tông.
Hiện nay người ta đã tìm thấy được bản in ở thế kỷ XVIII của bản dịch này.
Trong những thế kỷ kế tiếp sau đó, có một số tác phẩm đề cập đến tiếng Phạn qua
âm Hán, như Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa của Pháp Tính (1470?-1550), một quyển từ
điển Hán Việt trong đó đã ghi chú một số từ chữ Phạn âm Hán như Đồ lê là Mặt bàn,
Duy na là thầy na; Kiến văn tiểu lục 9 của Lê Quý Đôn (thế kỷ XVIII) liệt kê các chữ
Phạn phiên âm chữ Hán và Đạo giáo nguyên lưu của An Thiền (thế kỷ XIX) với một số
trang dành riêng cho việc ghi lại những từ tiếng Phạn với nghĩa chữ Hán.
Hiện nay, việc mở rộng giao lưu với toàn thế giới phát sinh nhu cầu học tiếng
Phạn để tìm hiểu về lịch sử, tư tưởng, văn hóa của những dân tộc đã từng sử dụng
hoặc chịu ảnh hưởng thứ ngôn ngữ này, cũng như để tìm hiểu về lịch sử, văn hóa của
chính dân tộc ta. Vì vậy chúng tôi xin giới thiệu với độc giả nguyệt san Giác Ngộ giáo
tài hàm thụ tiếng Phạn sơ cấp, giúp các bạn có một số khái niệm cơ bản về ngữ pháp
của ngôn ngữ này.
----o0o----Nguồn: chuyenphapluan.com Trình bày: Nhị Tường Cập nhật: 1-11-2006