Giới thiệu về tiếng phạn (Sanskrit)

Trao đổi về y học, võ thuật, văn hóa, phong tục, tín ngưỡng
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Hình đại diện của thành viên
babygal
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1388
Tham gia: 22:23, 12/11/11

Giới thiệu về tiếng phạn (Sanskrit)

Gửi bài gửi bởi babygal »

Giới thiệu sơ lược về tiếng Phạn

TT Thích Nguyên Giác

Tiếng Phạn là ngôn ngữ cổ nhất trong họ ngôn ngữ của người Aryan Ấn Độ, một

chi nhánh của họ ngôn ngữ Indo-Iranian thuộc ngữ hệ Ấn Âu. Nó phát triển về hướng

Đông và đã hình thành một nền văn học lớn có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều dân tộc

trên thế giới, đặc biệt là các dân tộc thuộc miền Đông Nam châu Á như Tích Lan, Thái

Lan, Miến Điện, Campuchia, Nam Dương, Phù Nam, Chiêm Thành v.v... Bằng tiếng

Phạn, ta có những tác phẩm văn học lớn như RigVeda, Skauntalà của Kàlidasa, các bộ

sử thi như Mahàbhàrata, Ràmayàna, những tác phẩm triết học như Brhadupanisad,

Samkhyakàrikà, Vaisesikakàrikà, các tác phẩm ngữ học của Pànini và Patanjali v.v...

và đặc biệt những kinh điển Phật giáo nổi tiếng đã được nhiều dân tộc trên thế giới

học tập và truyền dịch. Cho nên, nói đến tiếng Phạn là nói đến văn học, triết học, khoa

học kỹ thuật của Ấn Độ cổ đại và trung đại.

Theo hiểu biết hiện nay, những từ tiếng Phạn đầu tiên xuất hiện trong một văn

bản tiếng Hit-ti dạy về thuật cưỡi ngựa cách đây 3.500 năm, được tìm thấy ở vùng

Anatolia của Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Từ vùng đất Tây Á này, những người nói tiếng

Phạn tiến về bình nguyên sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Ganges), họ mang theo các

bài thơ tế thần của tổ tiên đồng thời sáng tác thêm những bài mới phục vụ cho nhu

cầu tín ngưỡng. Những bài thơ này tập thành các bộ Vệ Đà nguyên thủy dưới dạng

tiếng Phạn cổ. Bộ xưa nhất của nó là Rigveda được hình thành vào khoảng giữa thiên

niên kỷ thứ hai trước Tây lịch. Bài thơ tế thần sớm nhất được biết đến hiện nay chậm

lắm là vào khoảng năm 1000 trước TL. Tại những bình nguyên ấy, họ hình thành

những nước cộng hòa khác nhau, cho đến giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước Tây lịch,

thời Đức Phật (563-483 trước TL), vẫn còn 16 nước cộng hòa nổi tiếng với nền văn học

Bramana và Upanisad, bộ luật Manu và các tác phẩm ngữ học như Astàdhyàyi. Sự ra

đời của những công trình văn học này trước hết xuất phát từ quá trình ảnh hưởng qua

lại giữa tiếng Phạn và các thổ ngữ của cư dân bản địa trong điều kiện chưa có chữ viết

và việc truyền thừa chỉ dựa vào phương tiện truyền khẩu duy nhất. Điều này khiến

các bộ Vệ Đà bị thay đổi ít nhiều, và dần dần trở nên khó hiểu, dẫn đến nhu cầu phải

có những giải thích về âm học, ngữ nghĩa cùng các quy định về cú pháp. Sự ra đời của

tác phẩm Astàdhyàyi của Pànini đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử tiếng Phạn,

giai đoạn hình thành tiếng Phạn tiêu chuẩn mà người phương Tây thường gọi là tiếng

Phạn cổ điển (Classical Sanskrit) để phân biệt với tiếng Phạn thời Vệ Đà (Vedic

Sanskrit).

Đến khi Asoka (268-233 trước TL) thống nhất toàn bộ Ấn Độ, ông đã sử dụng mẫu

tự Bràhmi và Kharosthi để khắc lên bia đá những sắc lệnh của mình. Thế là tiếng Phạn

lần đầu tiên được ghi nhận xuất hiện tại Ấn Độ bằng văn bản và chữ viết. Nhưng phải

đến thời vua Rudradamàn (thế kỷ thứ II sau TL) của vương triều Saka, một văn bản

hoàn chỉnh bằng tiếng Phạn mới xuất hiện và ngày nay đã tìm thấy.

Nhờ sự đỡ đầu chính trị từ những người cầm quyền có gốc nước ngoài ở phía Tây

Ấn Độ từ những thời xa xưa, sau đó lại được vương triều Guptas và giai cấp mới

ksatriya dùng làm ngôn ngữ chính thức, tiếng Phạn dần dần trở thành ngôn ngữ thống

trị trong các lãnh vực bi ký, thi ca, tiểu thuyết, triết học, hành chánh, y học, toán học,

kỹ thuật v.v... trong suốt thiên niên kỷ thứ nhất sau Tây lịch, để hình thành nên một

nền văn học lớn của Ấn Độ.

Tuy nhiên, tiếng Phạn tiêu chuẩn tuân thủ theo những quy tắc ngữ pháp do Pànini

trình bày thường chỉ dành riêng cho học thuật, hành chánh, còn trong quần chúng lại

thông dụng một dạng tiếng Phạn địa phương có những khác biệt so với các quy tắc do

Pànini trình bày ở các mức độ khác nhau. Loại Phạn ngữ này thường được gọi là Phạn

ngữ anh hùng ca, Phạn ngữ hỗn chủng Phật giáo, Phạn ngữ địa phương v.v... được tìm

thấy trong hai bản anh hùng ca Mahàbhàratà và Ràmayàna, cũng như trong các kinh

điển của Phật giáo, Kỳ Na giáo, và một số bia ký.

Tryền thống của người Ấn Độ coi tiếng Phạn là do Phạm Thiên tạo ra, như Đại Bát

Niết Bàn kinh 8 và 26, Đại Đường Tây Vức ký 2 v.v... chép lại. Khi mới truyền vào

Trung Quốc, tiếng Phạn bị coi là tiếng của người rợ Hồ (Hồ ngữ). Mãi đến thời Ngạn

Tôn (557-610), một tác gia lớn của Phật giáo Trung Quốc, tiếng Phạn mới được chính

thức gọi là Phạn ngữ. Vì là tiếng do Phạm Thiên tạo ra, nên chữ viết được gọi là

Devanàgarì, có nghĩa là chữ viết của thành phố thiên thần, gọi tắt là mẫu tự Thiên thị.

Người Việt chúng ta là một trong những dân tộc tiếp xúc tiếng Phạn khá sớm, đặc

biệt là vùng phía Nam tổ quốc nơi mà vào thời Hùng Vương đã hình thành một nhà

nước Chiêm Thành. Vương quốc này không những đã dùng tiếng Phạn làm chuyển

ngữ để viết các bia ký của dân tộc họ, mà còn dùmg làm mẫu tự để ghi lại tiếng nói

của họ. Theo các sử liệu được biết đến hiện nay, vào khoảng thế kỷ thứ II hoặc III

trước Tây lịch, Chử Đồng Tử đã đến học đạo với một nhà sư người Ấn Độ tên là Phật

Quang tại núi Quỳnh Viên ở Cửa Sót (Hà Tĩnh). Đến cuối thế kỷ thứ II sau TL, Khâu Đà

La người Tây Vức cũng đã đến Giao Châu dạy đạo cho Tu Định và Man Nương, lập nên

hệ thống Tứ pháp nổi tiếng ở Bắc Ninh. Rồi đến giữa thế kỷ thứ III có Khương Tăng

Hội và Đạo Thanh. Khương Tăng Hội chú giải An ban thủ ý kinh do An Thế Cao dịch thì

hẳn phải biết tiếng Phạn. Còn Đạo Thanh đệ tử của Khâu Đà La nổi tiếng giỏi tiếng

Phạn và là người đã bút thọ kinh Pháp Hoa tam muội do Chi Cương Lương Tiếp dịch.

Những thế kỷ kế tiếp đều có các nhà sư ở Tây Vức đến như Ma Ha Kỳ Vực, Ma Ha Đề

Bà, Tỳ Ni Đa Lưu Chi v.v... Chính Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã dịch kinh Tổng trì tại Giao Châu

và lập nên dòng thiền Pháp Vân tại ngôi chùa cùng tên. Vào thế kỷ thứ VII, nhiều nhà

sư Việt Nam đã qua Ấn Độ chiêm bái và học tập, trong đó nổi bật nhất là Đại Thừa

Đăng, người về sau đã cộng tác với Huyền Trang trong việc dịch kinh tại dịch trường

chùa Từ Ân ở Trường An. Ông để lại một số tác phẩm như Câu xá luận ký, Đại thừa

bách pháp minh môn luận chú v.v...

Đến kỷ thứ X, bài chú Phật đỉnh tôn thắng (Buddhosnisadhvaja) bằng tiếng Phạn

đã được Đinh Liễn và vua Lê Đại Hành cho khắc lên cột đá nhiều lần. Đây là bản kinh

khắc xưa nhất của dân tộc ta hiện nay tìm thấy được. Vào thời kỳ này, theo Thiền uyển

tập anh, còn có nhiều nhà sư rất thông thạo tiếng Phạn như Mahàmàya, Sùng Phạm

(1004-1087). Đến thế kỷ XIII, có Bồ Đề Thất Lỵ (Bodhisrì) đến nước ta và đã dịch các bài

chú kinh Lăng Nghiêm từ chữ Phạn ra chữ Hán theo yêu cầu của vua Trần Nhân Tông.

Hiện nay người ta đã tìm thấy được bản in ở thế kỷ XVIII của bản dịch này.

Trong những thế kỷ kế tiếp sau đó, có một số tác phẩm đề cập đến tiếng Phạn qua

âm Hán, như Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa của Pháp Tính (1470?-1550), một quyển từ

điển Hán Việt trong đó đã ghi chú một số từ chữ Phạn âm Hán như Đồ lê là Mặt bàn,

Duy na là thầy na; Kiến văn tiểu lục 9 của Lê Quý Đôn (thế kỷ XVIII) liệt kê các chữ

Phạn phiên âm chữ Hán và Đạo giáo nguyên lưu của An Thiền (thế kỷ XIX) với một số

trang dành riêng cho việc ghi lại những từ tiếng Phạn với nghĩa chữ Hán.

Hiện nay, việc mở rộng giao lưu với toàn thế giới phát sinh nhu cầu học tiếng

Phạn để tìm hiểu về lịch sử, tư tưởng, văn hóa của những dân tộc đã từng sử dụng

hoặc chịu ảnh hưởng thứ ngôn ngữ này, cũng như để tìm hiểu về lịch sử, văn hóa của

chính dân tộc ta. Vì vậy chúng tôi xin giới thiệu với độc giả nguyệt san Giác Ngộ giáo

tài hàm thụ tiếng Phạn sơ cấp, giúp các bạn có một số khái niệm cơ bản về ngữ pháp

của ngôn ngữ này.

----o0o----Nguồn: chuyenphapluan.com Trình bày: Nhị Tường Cập nhật: 1-11-2006
Được cảm ơn bởi: Mokysa_QN
Đầu trang

Trả lời bài viết