Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục trao đổi kiến thức về tử vi dành cho thành viên chính thức. Các bài viết trao đổi cần có nội dung kiến thức hoặc cung cấp thông tin nghiệm lý. Muốn nhờ xem, luận giải lá số vui lòng đăng tại mục Xem tử vi.
Không được đính kèm lá số của trang web khác. Các bài viết và thành viên vi phạm sẽ bị xử lý.
- Vòng Tràng sinh an ngược cho Âm nam và Dương nữ có đúng không?
- Tranh luận đúng hay không đúng
- Những vị lão thành về Tử vi nên cho kinh nghiệm của mình về bài này
[/i]
(Cao Trung và Nhất Quán)
[/color][/font]
Tử vi là khoa học trừu tượng dựa trên Lý khí. Mà vòng Tràng sinh trên Lý khí thì bất di bất dịch với Tứ sinh, Tứ vượng và Tứ mộ. Trong khi đó phép an vòng Tràng sinh ở trường hợp Âm nam Dương nữ lại không phù hợp với Lý khí cổ truyền. Do đó vấn đề thảo luận nên nêu ra, và KHHB mong các cao nhân, lão thành cho biết ý kiến để rộng đường nghiên cứu. KHHB 1) Nhận xét các cung trong lá số Tử vi
Trong lá số tử vi có 12 cung chia ra: 4 cung Tứ sinh là Dần Thân Tỵ Hợi 4 cung Tứ vượng là Tý Ngọ Mão Dậu 4 cung Tứ mộ là Thìn Tuất Sửu Mùi 2) An xuôi vòng Tràng sinh
Khi ta an vòng Tràng sinh (an xuôi) thì a) Kim cục Tràng sinh tại Tỵ (đúng) Đế vượng tại Dậu (đúng) Mộ tại Sửu (đúng) b ) Mộc cục Tràng sinh tại Hợi (đúng) Để vượng tại Mão (đúng) Mộ tại Mùi (đúng) c ) Hỏa cục Tràng sinh tại Dần (đúng) Để vượng tại Ngọ (đúng) Mộ tại Tuất (đúng) b ) Thủy, Thổ cục Tràng sinh tại Thân (đúng) Để vượng tại Tý (đúng) Mộ tại Thìn (đúng) 3) Nhận xét phép an xuôi
Ta thấy là rất đúng bởi vì bao giờ: Tràng sinh cũng nằm vào 1 trong Tứ sinh Đế vượng cũng nằm vào 1 trong Tứ vượng Mộ cũng nằm vào 1 trong Tứ mộ 4) Nếu an ngược vòng Tràng sinh thì có sai
a) Kim cục: Tràng sinh tại Tỵ (đúng) Để vượng tại Sửu (sai, Mộ mới đúng) Mộ tại Dậu (sai, Vượng mới đúng). a) Mộc cục: Tràng sinh tại Hợi (đúng) Để vượng tại Mùi (sai, Mộ mới đúng) Mộ tại Mão (sai, Vượng mới đúng). a) Hỏa cục: Tràng sinh tại Dần (đúng) Để vượng tại Tuất (sai, Mộ mới đúng) Mộ tại Ngọ (sai, Vượng mới đúng). a) Thủy Thổ cục: Tràng sinh tại Thân (đúng) Để vượng tại Thìn (sai, Mộ mới đúng) Mộ tại Tý (sai, Vượng mới đúng). 5) Phân tích rõ về cái sai của sự an ngược Tràng sinh
a) Kim cục Sửu chính là Mộ của Kim lại đem an Vượng của Kim Dậu chính là Vượng của Kim lại đem an Mộ của Kim b ) Mộc cục Mùi chính là Mộ của Mộc lại đem an Vượng của Mộc Mão chính là Vượng của Mộc lại đem an Mộ của Mộc c) Hỏa cục Tuất chính là Mộ của Hỏa lại đem an Vượng của Hỏa Dậu chính là Vượng của Hỏa lại đem an Mộ của Hỏa d) Thủy Thổ cục Thìn chính là Mộ của Thủy Thổ lại đem an Vượng của Thủy Thổ Tý chính là Vượng của Thủy Thổ lại đem an Mộ của Thủy Thổ. TRANH LUẬN A- Người không chấp nhận nói: Ta thấy an ngược sai như nhau: Mộ sang Vượng và Vượng sang Mộ. Suy cho kỹ chúng ta không thể chấp thuận được cách an này vì theo pháp Lý khí cổ truyền: Mộ bao giờ cũng ở Thìn Tuất Sửu Mùi. Vượng bao giờ cũng ở Tý Ngọ Mão Dậu. Cũng như Sinh bao giờ cũng ở Dần Thân Tỵ Hợi. Lấy bói dịch mà chứng minh ta thấy bói dịch cũng dùng: Sinh bao giờ cũng ở Dần Thân Tỵ Hợi. Vượng bao giờ cũng ở Tý Ngọ Mão Dậu. Mộ bao giờ cũng ở Thìn Tuất Sửu Mùi.
[/size] B- Người chấp nhận nói: Tử vi khác, Bói dịch khác. Tử vi có cách an xuôi và an ngược. Còn Bói dịch không bao giờ có an ngược mà chỉ toàn an xuôi thôi. Hơn nữa, người xưa đặt ra hẳn đã có lý của họ. Chẳng thế đã mấy ngàn năm nay không có ai nêu ra sửa đổi. Nếu có sửa đổi được thì người ta đã sửa đổi rồi. Hơn nữa ở Địa lý cũng có cách an ngược nếu Thủy an xuôi thì Long an ngược và Long an xuôi thì Thủy an ngược như sau: Lưu ý: 1. Vòng trong cùng là vòng Địa chi 2. Vòng giữa là vòng Tràng sinh an xuôi 3. Vòng ngoài là vòng Tràng sinh an ngược của Địa lý và Tử vi. Nhìn hai hình trên ta thấy 3 điểm quan trọng là Sinh Vượng Mộ thì: - Ở địa lý có hai sai một đúng. Hai sai: hai Sinh và Vượng khác chỗ. Một đúng: Mộ bao giờ cũng gặp nhau. - Còn ở Tử vi cũng có hai sai một đúng. Hai sai: Mộ và Đế vượng khác chỗ Một đúng: Tràng sinh bao giờ cũng gặp nhau.[/font] A- Người không chấp nhận nói: Từ Sinh đến Vượng là tốt có nghĩa là tốt lên và tốt xuống. Từ Vượng đến Mộ hay từ Sinh đến Mộ có nghĩa là từ tốt (nhiều hoặc ít) đến xấu. Như vậy có thể thay đổi Sinh và Vượng cho nhau như ở Địa lý được, còn Mộ không thể thay cho Vượng và Vượng không thể thay cho Mộ được vì nó trái ngược lẫn nhau. Hơn nữa ở Tử vi khi ta an vòng Tràng sinh ngược là vì ở trường hợp này ta có Dương Nữ và Âm nam. Mà với trường hợp này thì đại hạn đã đi ngược rồi. Việc gì ta phải an vòng Tràng sinh ngược nữa, tôi nghĩ rằng: - Cứ để vòng Tràng sinh an xuôi như Dương nam và Âm nữ. Khi Dương Nam Âm Nữ đại hạn đi ngược là đủ ta không cần phải an ngược vòng Tràng sinh nữa. B- Người chấp nhận nói: Lập luận như trên cũng gần có lý nhưng phép Tử vi theo cung đóng Mệnh để tìm cuộc (cục). thế cuộc này không dùng để an vòng Tràng sinh thì dùng làm gì. A- Người không chấp nhận nói: Theo tôi nghĩ về tìm xem cuộc trong Tử vi chỉ có ý xem lá số đó thuộc vào cuộc nào để có dữ liệu tìm sao Tử vi mà thôi. Nếu có hơn nữa là tìm xem cung quan trọng của lá số đó nằm ở cung nào. Ví dụ người Kim cuộc thì cung quan trọng là Tỵ Dậu Sửu. Người Mộc cuộc thì cung quan trọng là Hợi Mão Mùi. Người Thủy Thổ cuộc thì cung quan trọng là Thân Tý Thìn Người Hỏa cuộc thì cung quan trọng là Dần Ngọ Tuất B- Người chấp nhận nói: Theo như ông không chấp nhận việc an vòng Tràng sinh ngược thì tuy có lý hơn nhưng có thể có những lý do nào nữa, mà chúng ta chưa biết đến. Vậy xin ngừng tại đây và đưa cuộc tranh luận này lên KHHB để xin ý kiến các vị lão thành về Tử vi cho rộng đường suy xét.
Những cách chính để có thể biết trước những việc xảy ra trong cuộc đời
(Anh Việt)
Trong khoa đoán số Tử vi, việc đoán hạn tốt xấu (từng 10 năm và từng năm) là phần hấp dẫn nhất, nhưng cũng là phần khó. Đoán cho 12 cung, có thể dừng lại ở những điểm đại cương. Còn đoán về tiểu hạn (hay tiểu vận), tức là những việc xảy ra trong năm (và trong tháng) thì không thể làm đại cương được, gặp may hay gặp rủi, phát tài hay tán tài, có tang có ốm đau hay không, thi đậu hay trượt vỏ chuối, phải nói ra cho rõ, và sự kiểm nhận lại có ngay trong tháng trong năm, người đoán lòi ngay ra sự đoán đúng hay sai. Mặt khác, con người lại thích được đoán về những việc sắp xảy ra trong cấp thời, hơn là những việc xa lắc.
Những nguyên tắc để đoán vận hạn
1. Phải xác định rõ vận mệnh, tài bạch, phúc đức, quan lộc… Vận hạn xảy ra ở mức độ nào, còn tùy theo những điểm căn bản. Như đến hạn phát tài lớn, nhưng ở người Mệnh thấp, Tài bạch nghèo thì sự phát tài lớn chỉ có nghĩa dăm bảy ngàn; còn ở người Mệnh cao, Tài bạch xúc tích, thì phát tài có nghĩa là hàng triệu bạc. Gặp hạn xấu, có thể chết được, nhưng phải xem Mệnh và Phúc đức người đó thế nào. Nếu Phúc tốt, Mạng sống lâu, chưa thể đoán là hạn nặng đến chết. 2. Phải xác định gốc đại hạn 10 năm. Trên lá số tùy theo Âm dương Nam nữ và tùy theo Thủy nhị cục, Mộc tam cục, có ghi những số: 2,12,22,32… hay 3,13,23,33…Mỗi con số đó là số tuổi bắt đầu của đại vận 10 năm. Vậy con số 32 là chỉ về đại vận từ 32 đến 41 tuổi. Phải xem gốc đại hạn chủ về cái gì, rồi tiểu hạn (1 năm) mới ăn từ gốc đó mà ra. Thí dụ: đại hạn phát tài, thì các tiểu hạn hướng về phát tài, đại hạn chủ về công danh, thì các tiểu hạn chủ về công danh. Xem gốc đại hạn phải cộng cung chính và 3 xung chiếu. Cứ xem như các tiểu vận trên 12 cung là thấy các tiểu hạn cứ diễn đi diễn lại hoài hoài, không lẽ vận số cứ từng chu kỳ 12 năm lại diễn ra đúng như trước. Vậy vận số 1 năm như thế nào là do cung của tiểu hạn cho biết, nhưng phải tùy theo Mệnh và Phúc đức cùng những cung chính và cũng tùy theo đại hạn. Một trong những cách giải đoán vận hạn 1 năm là nhập các sao của tiểu hạn và đại hạn lại mà đoán. 3. Phải xem lưu đại hạn Lưu đại hạn là một cung cho biết cái hướng của vận hạn trong năm đó, và tính từ gốc đại hạn. Một nhà Tử vi đã bảo rằng đại hạn giống như cỗ xe, và lưu đại hạn giống như người tài xế. Cỗ xe tốt, thì đi tốt, những cũng còn tùy theo người tài xế hay dở thế nào. Vậy phải nhập cả cung lưu đại hạn lại mà đoán. Xem lưu đại hạn, phải đủ cung chính và 3 xung chiếu. Cách tính cung lưu đại hạn như sau: Người Dương Nam, Âm Nữ, chiều chính là chiều thuận. Bắt đầu cung đại hạn, là năm đầu của đại hạn, sang cung chính chiếu là năm kế, lùi một cung theo chiều nghịch là năm kế nữa, rồi trở lại chiều thuận, chứ mỗi cung tính 1 năm, các cung và năm kế tiếp nhau cho đến lúc hết năm của đại hạn. Thí dụ: Người Dương nam, Thủy nhị cục, đại hạn 22 tại Ngọ, thì lưu đại hạn 22 tuổi ở Ngọ, 23 ở Tý, 24 ở Hợi….31 ở Ngọ.
Người Âm nam, Thủy nhị cục, đại hạn 42 ở Dậu, thì lưu đại hạn 42 ở Dậu, 43 ở Mão (cung chính chiếu), 44 ở Thìn, 45 ở Mão…51 ở Dậu.
Như vậy muốn đoán tiểu hạn, người vừa kể vào năm 44 tuổi, phải xem gốc đại hạn ở Dậu, lưu đại hạn 44 tuổi ở Thìn và cung của tiểu hạn, 3 yếu tố kết hợp với nhau mà đoán. 4. Phải xem cung tiểu hạn Cung tiểu hạn ghi những biến cố xảy ra trong năm, địa chi của năm có ghi ở mỗi cung (Tý, Sửu, Dần, Mão…) Đoán vận hạn trong năm, còn phải tùy theo các cung gốc: - Mệnh, Thân, Tài, Quan, Phúc đức. - Cung đại hạn - Cung lưu đại hạn Như tiểu hạn mà thật tốt về công danh, nhưng xem các cung Mệnh, Quan thấy không báo hiệu công danh tốt. Đại hạn không phải là đại hạn công danh, và lưu đại hạn không báo hiệu công danh, thì công danh trong năm tiểu hạn cũng khó mà có, hoặc chỉ có công danh nhỏ. Ngược lại, thấy tiểu hạn xấu, nhưng lại thấy đại hạn tốt đẹp, lưu đại hạn tốt đẹp, thì cũng không có gì đáng phải lo ngại, bởi vi đại hạn là nền gốc. Xem tiểu hạn, phải đủ cung chính và 3 cung chiếu. 5. Xem đến cung nguyệt hạn Xem các cung nguyệt hạn là để xem hạn cho từng tháng. Dĩ nhiên nguyệt hạn phải bắt nguồn từ tiểu hạn, tiểu hạn tốt thì nguyệt hạn có xấu cũng không đáng lo. Còn tiểu hạn mà xấu, thì gốc chính đã là xấu rồi, nguyệt hạn có đẹp cũng không có nghĩa là đẹp nhiều. Các cách tính cung Nguyệt hạn: Cách thứ nhất Khởi từ cung tiểu hạn kể là tháng giêng đếm theo chiều nghịch đến tháng sinh bắt đầu từ đó kể là giờ Tý theo chiều thuận đếm đến giờ sinh, lại bắt đầu từ đây kể là tháng giêng, cứ theo chiều thuận đếm từng cung là tháng giêng, tháng 2… Thí dụ: người tuổi Kỷ Mùi, sinh tháng Tư, giờ Thìn, tiểu hạn năm Sửu
Cách thứ 2 Khởi từ cung tiểu hạn, đếm theo chiều thuận từ tháng Giêng đến tháng sinh, rồi kể từ đó là giờ Tý vẫn đếm theo chiều thuận đến giờ sinh, rồi từ đây là tháng Giêng (cung Nguyệt hạn tháng Giêng), đếm tiếp là tháng 2,3… Thí dụ: vẫn người Kỷ Mùi, sinh tháng 4, giờ Thìn, tiểu hạn năm Sửu.
Cách thứ 3 Cung Tiểu hạn kể là tháng Giêng rồi cứ theo chiều thuận mà kể các cung sau là các tháng kế.
Xem Nguyệt hạn cũng xem cung chính và các cung chiếu. Tại sao có đến 3 cách ấn định cung Nguyệt hạn? Đó là do kinh nghiệm.[/font] 6. Xem đến cung Nhật hạn Xem đến tháng, có thể bấm thêm đến ngày (Nhật hạn) Như tháng này là tháng 5, năm Sửu thì theo cách tính thứ nhất, tính nguyệt hạn, tháng 5 ở cung Tý. Lấy cung Tý là ngày mùng 1, cứ thế theo chiều thuận mà tính đi, mỗi cung 1 ngày.
Xem cung Nhật hạn, cũng đủ cung chính và 3 cung xung chiếu.[/font] 7. Xem cung thời hạn (giờ) Còn có thể tinh đến giờ xảy ra biến cố. Đến ngày nào đó, gọi đấy là giờ Tý, rồi cứ tính theo chiều thuận mà tính mỗi cung là 1 giờ. Như ngày mùng 9 tháng 5 năm Sửu ở cung Thân, xem sang giờ, thì gọi cung đó là giờ Tý, rồi cứ thế tính tiếp theo chiều thuận.