Trình Hạo và học thuật
Minh Đạo học rất rộng, không có một loại sách nào là không nghiên cứu, nhưng rốt cuộc lại hội được lý thú trong Kinh, Truyện của đạo Nho.Tư tưởng của Minh Đạo tán kiến trong các bài văn nghị luận như Thức nhân thiên, Định tính thư, Trần pháp thập sự… Tuy dựa theo Kinh, Truyện mà lập luận, song Minh Đạo cũng có nhiều tư tưởng khác với tiên nho, đã biệt lập riêng một phái.
Minh Đạo thường nói rằng: “Cái học của ta tuy có chỗ trao nhận, nhưng hai chữ “thiên lý” chỉ tự mìhh thể thiếp được thôi”.
Vũ trụ luận của Minh Đạo cũng mượn Dịch làm gốc: Minh Đạo lấy cái khí kiền nguyên làm căn bản của vũ trụ, nên thường gọi cái “chất” cấu tạo ra trời đất và vạn vật là “nguyên”. Bởi vậy, Minh Đạo tinh sự sinh hóa của vạn vật chỉ thuộc về lẽ tự nhiên, chẳng phải do cuộc an bài của một đấng chủ tể: “Cái lý của trời đất và vạn vật, nếu không đứng một mình, thì phải có lẽ tương đối, đều là tự nhiên như thế, chứ không phải có sự an bài”.
“Vô độc hữu đối” chính là Vũ trụ chân tướng quan của Minh Đạo. Theo sự nhận xét của Minh Đạo, trừ cái khí kiền nguyên ra, bất luậ vật gì cũng có một thể tương đối với nó: “Một âm, một dương; một thiện, một ác. Dương trưởng thì âm tiêu, thiện tăng thì ác giảm”. Lại nói: “Có “chất” thì phải có “văn”, cái “lý tự nhiên” ắt có đối đãi: ấy là gốc của sự vật hóa sinh. Có trên ắt có dưới, có cái này hẳn phải có cái kia; có chất thì phải có văn, vì một không độc lập, hai ắt làm văn. Trừ kẻ hiểu đạo, ai biết được lẽ trời ấy? Thiên văn, là lý của trời; nhân văn, là lý của người”.
TRÌNH HẠO
(1032 – 1085)
I. TIỂU SỬ:
Tiên sinh tự Bá Thuần; tổ tiên mấy đời ở đất Trung Sơn [1], sau dời đến ở Hà Nam, nên tiên sinh cũng sinh trưởng ở đó.
Năm ngoài hai mươi tuổi, tiên sinh đỗ tiến sĩ, được bổ chức chủ bộ ở Hổ huyện [2], rồi trải qua những chức Thượng nguyên huyện [3] chủ bộ và Tấn Thành [4] lệnh. Ra làm quan, tiên sinh thương dân như con: dân có việc gì đến huyện đường, liền đem những điều hay, lẽ phải ra dạy dỗ; xét hương thôn xa gần rồi lập nên bảo ngũ, khiến dân phải đỡ đàn nhau trong những khi lao dịch, cứu giúp nhau trong những cơn hoạn nạn; những kẻ cô quỳnh, tàn phế đều được chăm npm; những người hành lữ đi ngang qua địa hạt của tiên sinh cai trị, nếu gặp phải tật bệnh, cũng được nuôi dưỡng. Tiên sinh ở huyện ấy ba năm, trong huyện không có một ai còn phạm tội trộm cắp.
Niên hiệu Hy Ninh, do Lữ Công Trứ tiến cử, tiên sinh được cải chức Thái tử trung doãn, làm giám sát ngự sử thành [5]. Thần Tông đã từng nghe danh tiên sinh, nên thường triệu vào cung đàm luận đạo lý và hỏi han về phương pháp trị dân. Có hôm, tiên sinh cùng nhà vua trò chuyện rất lâu, đến khi nhất quan báo ngọ chính, mới thoái. Vụ lấy lòng chân thành để làm cho cảm động nhân chỉ, tiên sinh thường khuyên Thần Tông nên phòng điều dục vọng khi chưa nảy mầm. Cùng Thần Tông nghị luận rất nhiều bận, nhưng tiên sinh chưa bao giờ nói đến sự công lợi, thường chỉ trần những điều tế thế an dân.
Sau vì chống với Vương An Thạch [1], tiên sinh xin ra làm chức phán quan ở Trấn Ninh quân [2], rồi thiên Phù Câu [3] tri huyện. Khi đến nhậm chức ở một địa hạt nào, tiên sinh cũng làm được nhiều việc lợi ích cho dân, lại còn có công di phong dịch tục nữa.
Triều đình định cho tiên sinh phán Vũ Học [4], nhưng Lý Định hặc tiên sinh là người đầu tiên dịch luận về tân pháp, nên phải giữ chức cũ.
Triết Tông lên ngôi, triệu tiên sinh về làm chức tông chính thừa [5], nhưng tiên sinh mất trước khi thụ chức (ngày rằm tháng sáu năm Nguyên Phong thứ tám).
Tiên sinh tư chất hơn người, lại sung dưỡng đạo đức, khí hòa túy thường phát hiện ra ở dung mạo. Môn nhân, bằng hữu thường theo tiên sinh có hàng chục năm, nhưng chưa từng thấy tiên sinh phẫn lệ bao giờ. Năm mười lăm, mười sáu tuổi, cùng em là Trình Di đến thụ giáo Chu Đôn Di, tiên sinh bắt đầu chán lối học khỏa cử và có chí cầu đạo. Sau khi đã phiếm lạm chư gia, ra vào cửa Thích, Lão trên mươi năm, tiên sinh mới trở lại tìm trong Lục Kinh mà được điều sở đắc.
Văn Ngạn Bác, theo lời công luận, để ở mộ tiên sinh bốn chữ “Minh đạo tiên sinh”.
Văn chương của tiên sinh còn để lại là: Định tính thư, thúc nhân thiên, trần trị pháp thập sự, ngữ lục….
Niên hiệu Gia Định năm thứ mười ba, tiên sinh được tứ thụy Thuần công; niên hiệu Thuần Hựu năm đầu, được truy phong Hà Nam Bá và được tùng tự Khổng Tử miếu đình. Đến niên hiệu Gia Tĩnh đời Minh, tiên sinh được xưng là “Tiên nho Trình tử”.
II. HỌC THUẬT:
Minh Đạo học rất rộng, không có một loại sách nào là không nghiên cứu, nhưng rốt cuộc lại hội được lý thú trong Kinh, Truyện của đạo Nho.
Tư tưởng của Minh Đạo tán kiến trong các bài văn nghị luận như Thức nhân thiên, Định tính thư, Trần pháp thập sự… Tuy dựa theo Kinh, Truyện mà lập luận, song Minh Đạo cũng có nhiều tư tưởng khác với tiên nho, đã biệt lập riêng một phái.
Minh Đạo thường nói rằng: “Cái học của ta tuy có chỗ trao nhận, nhưng hai chữ “thiên lý” chỉ tự mìhh thể thiếp được thôi”.
Vũ trụ luận của Minh Đạo cũng mượn Dịch làm gốc: Minh Đạo lấy cái khí kiền nguyên làm căn bản của vũ trụ, nên thường gọi cái “chất” cấu tạo ra trời đất và vạn vật là “nguyên”. Bởi vậy, Minh Đạo tinh sự sinh hóa của vạn vật chỉ thuộc về lẽ tự nhiên, chẳng phải do cuộc an bài của một đấng chủ tể: “Cái lý của trời đất và vạn vật, nếu không đứng một mình, thì phải có lẽ tương đối, đều là tự nhiên như thế, chứ không phải có sự an bài”.
“Vô độc hữu đối” chính là Vũ trụ chân tướng quan của Minh Đạo. Theo sự nhận xét của Minh Đạo, trừ cái khí kiền nguyên ra, bất luậ vật gì cũng có một thể tương đối với nó: “Một âm, một dương; một thiện, một ác. Dương trưởng thì âm tiêu, thiện tăng thì ác giảm”. Lại nói: “Có “chất” thì phải có “văn”, cái “lý tự nhiên” ắt có đối đãi: ấy là gốc của sự vật hóa sinh. Có trên ắt có dưới, có cái này hẳn phải có cái kia; có chất thì phải có văn, vì một không độc lập, hai ắt làm văn. Trừ kẻ hiểu đạo, ai biết được lẽ trời ấy? Thiên văn, là lý của trời; nhân văn, là lý của người”.
Ra chữ “lý tự nhiên” Minh Đạo dùng ở trên cũng đồng nghĩa với hai chữ “thiên lý” Minh Đạo nói ở trước.
Minh Đạo lại từ vũ trụ suy luận đến tâm thể. Cũng theo hai thuyết “vô độc hữu đối”, Minh Đạo bàn về hai mối tương đối, thiện và ác, trong tính người: Sinh gọi là tính. Tính tức là khí, khí tức là tính.[1] Người ta sinh ra bẩm khí, lý có thiện ác, nhưng không phải ở trong tính [2] người có vốn hai vật ấy, mà vì lẽ tương đối nên sinh ra. Có người từ bé đã lành, có người từ bé đã dữ, ấy là khí bẩm tự nhiên. Đành rằng thiện là tính, song ác cũng không thể chẳng bảo là tính… Tính ví như nước, chảy xuống miền thấp, đâu cũng là nước. Nhưng, có dòng chảy thẳng ra bể mà không bị vẩn đục, như thế thì cần gì nhân lực làm cho nó trong; có dòng chảy chưa xa đã cẩn đục; có dòng chảy rất xa, rồi mới bị vẫn đục. Có chổ đục nhiều, có chổ đục ít. Trong, đục tuy không giống nhau, nhưng không thể bảo dòng nước đục là chẳng phải nước. Như thế nên người ta không thể không gia công trừng trị. Bởi vậy, dùng lực mẫn dùng thì mau trong, dùng lực hoãn đãi thì chậm trong,. Sự trong ấy là cái bản tính của nước… Nước trong, tức là tính thiện đó. Cho nên, hai mối “thiện” và “ác” không phải vốn có ở trong tính người, song vì lẽ tương đối, nó tự xuất hiện ra sau”.
Minh Đạo tin rằng: tính bản nhiên của người ta vốn không có sẵn hai mối thiện và ác, vì lúc tính còn thuần nhất, chỉ có thiên lý tồn tại mà thôi. Nhưng, đến khi tính đã có thiện hẳn phải có ác.
Cũng như khí đã có dương hẳn phải có âm: đó là lý tương đối tự nhiên vậy. Nếu lấy tính ví với nước, thì có tính rồi mới có thiện ác, cũng như có nước rồi mới có trong đục. Nước sở dĩ đục, là do vật khác làm bẩn đến nó; tính sở dĩ ác, là vì chịu ảnh hưởng của bên ngoài. Người ta muốn cho tính trở lại tốt đẹp như xưa phải gắng sức tu vi, cũng như muốn cho nước khỏi vẩn đục thì phải ra công lọc lõi.
Đoạn văn luận về tính của Minh Đạo, dẫn ra ở trên, học giả còn nghi chưa được đầy đủ, cho rằng đến Y Xuyên mới thuyết minh được cái tính bản nhiên của người.
Tuy Minh Đạo luận về tính bản nhiên và tính khí chất của người ta chưa được đầy đủ, song những lời bàn về hai chữ “định tính”, trong Định tính thư, cũng có nhiều đặc sắc: “Điều gọi là định, động cũng định, tĩnh cũng định, không đưa đón, không trong ngoài. Nếu lấy ngoại vật làm ngoài, dắt dẫn mình theo vật, ấy là phân cái tính [1] của mình có trong và ngoài vậy. Lấy cái tính của mình theo vật ở ngoài, thì dương khi tính thì tại bên ngoài, hỏi cái gì ở tại bên trong? Thế là muốn dứt tuyệt sự ngoại dụ, nhưng không biết rằng tính chẳng có trong có ngoài. Đã lấy tính có trong và ngoài làm hai gốc, sao lại có thể nói đến sự “định tính” thay” Đạo thường của trời đất là lấy tâm phổ biến muôn vật mà vô tâm; đạo thường của thánh nhân là lấy tình thuận ứng muôn vật mà vô tính [2]. Cho nên cái học của người quân tử chẳng gì hơn rẩ rộng rãi và thực công bình, vật đến thì thuận ứng… Cho ngoài là trái, trong là phải, chẳng bằng quên hẳn cả ngoài và trong. Quên cả ngoài lẫn trong, tâm sẽ trừng nhiên vô sự: vô sự ắt định, định ắt sáng suốt, sáng suốt thì có thể nào bị vật làm lụy đến mình? Sự mừng của thánh nhân, bởi vật đáng mừng; sự giận của thánh nhân, bởi vật đáng giận. Thế là sự mừng giận của thánh nhân, không hệ ở tâm, mà hệ ở vật. Như vậy, thánh nhân há không ứng ở vật thay? Sao được lấy sự theo bên ngoài là trái, trở lại tìm ở bên trong là phải… Cái tình của người, duy có sự nóng giận là dễ phát ra và khó tiết chế hơn hết. Trong khi nóng giận, nếu người ta biết quên ngay sự nóng giận để xét cái lý thị phi, cũng có thể thấy được sự cám dỗ bên ngoài không đủ ghét, mà về đường đạo đức cũng đã nghĩ đến quá phần nửa rồi”
Người ta có thể chia Định tính thư của Minh Đạo ra làm bốn đoạn: Đoạn thứ nhất, nói về cái đạo thường của trời đất, lấy tâm phổ biến vạn vật mà vô tâm: ấy là sự định của trời đất. Đoạn thứ hai, nói về đạo thường của thánh nhân, lấy tình thuận theo vạn vật mà vô tình: ấy là sự định của thánh nhân. Đoạn thứ ba, nói về cái học của người quân tử nên khoách nhiên địa công, vật lại thuận ứng: ấy là sự định của người quân tử. Đoạn thứ tư, nói về người thường trong cơn nóng giận, nhưng biết quên ngay nóng giận để xét lẽ phải trái: ấy là sự định của người thường. Người thường mong cho đến được địa vị của bậc thánh nhân, đấng thánh nhân lại mong cho được hợp lý với tự nhiên của trời đất.
Bàn về ý nghĩa của chữ “nhân”, trong Thức nhân thiên, Minh Đạo nói rằng: “Người học đạo nên biết điều “nhân” trước nhất. Điều “nhaann”, hồn nhiên cùng vạn vật đồng thể; nghĩa, lễ, trí, tín không ra khỏi điều “nhân”. Biết được lý ấy, rồi lấy sự thành kính giữ lấy nó mà thôi”.
Ở một chỗ khác, Minh Đạo cũng nói về chữ “nhân” rằng: “Bậc chí nhân lấy trời đất là một thân và lấy phẩm vật vạn hình, ở giữa khoảng trời đất, làm tứ chi bách thể. Há có người nhìn tứ chi bách thể mà không thương thay? Thánh nhân, là bậc chí nhân, chỉ một mình thể được cái tâm ấy, há thường chia lìa nhiều mối để tìm nó bên ngoài?”.
Theo Minh Đạo, cái đạo của trời đất có đủ ở trong điều “nhân”, điều “nhân” có thể bao quát cả nghĩa, lễ, trí, tín. Học giả muốn tìm đạo lý, trước hết phải hiểu ý nghĩa của điều “nhân”, rồi dùng sự “thành kính” mà giữ lấy nó là đủ, không cần phải phòng kiểm hoặc cùng sách. Minh Đạo cho rằng:Thể được mọi vật không dư sót chỉ có sự thành kính mà thôi. Lại nói: “Sự thành kính có thể thắng được trăm điều tà”.
Xem thế, lối học đạo của Minh Đạo không ngoài sự thành kính và hàm dưỡng. Có ý tưởng như vậy, nên Minh Đạo thường nói: “Tính cùng đạo trời, nêu không tự đắc, thì không biết được”. Với những câu: “Giác ngộ tứ là tín và “Tồn dưỡng lâu ngày trí tuệ sáng suốt”…. đều nói về sự tự giác và cách hàm dưỡng của người học đạo. Minh Đạo cũng đã từng khuyên môn nhân mặc tọa để tìm đạo lý ở trong sự thanh tĩnh vô vi. Phương pháp tu vi của Minh Đạo dùng đến trực giác rất nhiều vậy.
Còn những ý kiến đối với chính trị, xã hội và kinh tế của Minh Đạo đã phát hiện ra ở bài Trần trị pháp thập sự. Trong bài ấy cũng có nhiều đoạn ca tụng chế độ của Nhị Đế, Tam Vương, song Minh Đạo muốn châm chước phép cũ của tiên vương cho được thích hợp với đời nay, chứ không phải như bọn hủ nho chỉ biết khư khư lệ cổ. Mười điều trong Trần trị pháp thập sự của Minh Đạo tuy chưa đủ để cho bậc quân chủ lấy làm khuôn vàng thước ngọc mà noi theo, nhưng cũng có điều hữu lý như mấy điều này:
“Ngày xưa, từ nhiên tử cho đến thứ dân, chưa ai không cần thầy bạn mà có thể lập đức được. Bởi vây, Tuấn, Vũ, Văn, Võ [1] sở dĩ trở nên bậc thánh, cũng đều có chổ theo học. Ngày nay, cái chức của sư phó không tu chỉnh, cái nghĩa của hữu thần không trứ minh, nên thói tôn đức lạc thiện chưa thành”.
“Bậc vương giả phụng mệnh Trời [2] đặt nên quan. Bởi thế, cái chức vụ của trời đất và bốn mùa, Nhị Đế, Tam Vương chưa từng biến cải, sở dĩ tu chỉnh bách độ và điều lý vạn hóa vây. Nhà Đường còn giữ phần đại lược nên kỷ cương tạm chính. Nay quan trật hào loạn, chức nghiệp phế bỏ, thành thử cuộc thái bình thịnh trị bế uất chưa hưng”.
“Sự dạy dỗ ở nhà Tường [1], nhà Tự [2], nhà Học, nhà Hiệu [3], là tiên vương sở dĩ làm cho sáng tỏ nền nhân luân để hóa hành thiên hạ. Ngày nay, sự học phế bỏ nên đạo đức không thuần nhất, hương xạ không còn nên lễ nghĩa không chấn hưng, công cử không do ở hương lý nên hạnh thực không trau giồi, tú sĩ không được nuôi dưỡng ở học hiêu nên nhân tài phần nhiều bị phế bỏ”.
“Ngày xưa, tứ dần đều có thường chức, mà kẻ làm ruộng chiếm hết tám chín phần mười, cho nên ăn mặc dễ đủ và lòng dân không đến nỗi khốn khổ. Nay, ở kinh sư dân không nghề nghiệp số quá trăm vạn; vì cùng quẩn, tân khổ, cô bần, bệnh tật, họ phải biến trá xảo ngụy để tìm sự sống, nhưng thường không đủ để sống… Nên chước cổ biến kim, quân bình kẻ nhiều, chẩn tuất người ít, dần dần lập nên nghề nghiệp cho họ để cứu giúp dân trong cơn hoạn nạn”.
“Cái đạo của bậc thánh nhân phụng mệnh Trời để trị lý muôn vật tại lơi “lục phủ” [4]; cái nhậm vụ về “lục phủ” giao cho “ngũ quan” [5]. Sơn ngu [3], trạch hoành [3] thường có sự cấm chế: như thế để cho vạn vật được phụ phong mà tài dụng không thiếu. Nay, ngũ quan, lục phủ không tu trị, người ta lấy vật liệu không tiết chế, dùng tài dụng không phải thời, cây rừng bị thiêu đốt chặt phá, ở sông đầm kẻ đánh cá và đi săn càng ngày càng nhiều, bạo tàn hao kiệt, nhưng không ai ngă cấm. Nên đặc lại chức ngu, hoành ngày trước, khiến giữ gìn những sản vật ấy để được trở nên một mối lợi lâu dài”.
Người ta có thể phân tích cái học của Minh Đạo để hiểu rằng:
Đối với lẽ chuyển biến của vũ trụ, Minh Đạo chỉ dựa theo những tư tưởng của người xưa, không phát minh được điều gì đặc sắc. Nhưng, về luân lý thuyết, Minh Đạo đã nói được nhiều lời chí lý trong Thức nhân thiện và Định tính thư. Hai thiên ấy chính là tinh túy trong học thuyết Minh Đạo cần đến trực giác và công phu hàm dưỡng hơn là đọc sách tìm nghĩa, nên Minh Đạo thường khuyên người học đạo phải biết cách tồn dưỡng để tự lĩnh hội lấy đạo thể, cho thư tịch chỉ là những vật để cho học giả vun bón thêm cái gốc đạo đức đã sẵn có của mình. Những ý kiến về chính trị, xã hội và kinh tế của Minh Đạo tỏ ra có vẻ hiếu cổ, song cũng biết cách châm chước những phép cũ cho thích hợp với nời thau, chứ chẳng phải như kẻ lậu nho toàn toàn nệ cổ.
Tóm lại, cái học của Minh Đạo rất rộng nhưng chưa được nhuần, vì ngoài đạo Nho ra, Minh Đạo còn chịu ảnh hưởng của Phật, Lão rất nhiều [1]. Tuy nhiên, đối với học thuật đời Tống, Minh Đạo có cái công ích rất to: chẳng những đã gắng gỏi về việc xiển phát thánh ngôn và ra công dìu dắt bọn hậu tiến vào cõi đạo đức mà thôi, Minh Đạo lại còn quan tâm đến những phương pháp doanh vi để cho thiên hạ được hưởng cuộc thái bình thịnh trị nữa.
[/color][/font]