Nho Giáo

Trao đổi kiến thức về bộ môn tử vi
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục trao đổi kiến thức về tử vi dành cho thành viên chính thức. Các bài viết trao đổi cần có nội dung kiến thức hoặc cung cấp thông tin nghiệm lý. Muốn nhờ xem, luận giải lá số vui lòng đăng tại mục Xem tử vi.
Không được đính kèm lá số của trang web khác. Các bài viết và thành viên vi phạm sẽ bị xử lý.
Hình đại diện của thành viên
tigerstock68
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2135
Tham gia: 14:12, 29/03/11

Nho Giáo

Gửi bài gửi bởi tigerstock68 »

Trình Hạo và học thuật

[highlight=#f3f3f3][blockquote][blockquote]Hình ảnhTrình Hạo
[/blockquote][/blockquote][/highlight]
Minh Đạo học rất rộng, không có một loại sách nào là không nghiên cứu, nhưng rốt cuộc lại hội được lý thú trong Kinh, Truyện của đạo Nho.
Tư tưởng của Minh Đạo tán kiến trong các bài văn nghị luận như Thức nhân thiên, Định tính thư, Trần pháp thập sự… Tuy dựa theo Kinh, Truyện mà lập luận, song Minh Đạo cũng có nhiều tư tưởng khác với tiên nho, đã biệt lập riêng một phái.
Minh Đạo thường nói rằng: “Cái học của ta tuy có chỗ trao nhận, nhưng hai chữ “thiên lý” chỉ tự mìhh thể thiếp được thôi”.
Vũ trụ luận của Minh Đạo cũng mượn Dịch làm gốc: Minh Đạo lấy cái khí kiền nguyên làm căn bản của vũ trụ, nên thường gọi cái “chất” cấu tạo ra trời đất và vạn vật là “nguyên”. Bởi vậy, Minh Đạo tinh sự sinh hóa của vạn vật chỉ thuộc về lẽ tự nhiên, chẳng phải do cuộc an bài của một đấng chủ tể: “Cái lý của trời đất và vạn vật, nếu không đứng một mình, thì phải có lẽ tương đối, đều là tự nhiên như thế, chứ không phải có sự an bài”.
“Vô độc hữu đối” chính là Vũ trụ chân tướng quan của Minh Đạo. Theo sự nhận xét của Minh Đạo, trừ cái khí kiền nguyên ra, bất luậ vật gì cũng có một thể tương đối với nó: “Một âm, một dương; một thiện, một ác. Dương trưởng thì âm tiêu, thiện tăng thì ác giảm”. Lại nói: “Có “chất” thì phải có “văn”, cái “lý tự nhiên” ắt có đối đãi: ấy là gốc của sự vật hóa sinh. Có trên ắt có dưới, có cái này hẳn phải có cái kia; có chất thì phải có văn, vì một không độc lập, hai ắt làm văn. Trừ kẻ hiểu đạo, ai biết được lẽ trời ấy? Thiên văn, là lý của trời; nhân văn, là lý của người”.


TRÌNH HẠO

(1032 – 1085)
I. TIỂU SỬ:
Tiên sinh tự Bá Thuần; tổ tiên mấy đời ở đất Trung Sơn [1], sau dời đến ở Hà Nam, nên tiên sinh cũng sinh trưởng ở đó.
Năm ngoài hai mươi tuổi, tiên sinh đỗ tiến sĩ, được bổ chức chủ bộ ở Hổ huyện [2], rồi trải qua những chức Thượng nguyên huyện [3] chủ bộ và Tấn Thành [4] lệnh. Ra làm quan, tiên sinh thương dân như con: dân có việc gì đến huyện đường, liền đem những điều hay, lẽ phải ra dạy dỗ; xét hương thôn xa gần rồi lập nên bảo ngũ, khiến dân phải đỡ đàn nhau trong những khi lao dịch, cứu giúp nhau trong những cơn hoạn nạn; những kẻ cô quỳnh, tàn phế đều được chăm npm; những người hành lữ đi ngang qua địa hạt của tiên sinh cai trị, nếu gặp phải tật bệnh, cũng được nuôi dưỡng. Tiên sinh ở huyện ấy ba năm, trong huyện không có một ai còn phạm tội trộm cắp.
Niên hiệu Hy Ninh, do Lữ Công Trứ tiến cử, tiên sinh được cải chức Thái tử trung doãn, làm giám sát ngự sử thành [5]. Thần Tông đã từng nghe danh tiên sinh, nên thường triệu vào cung đàm luận đạo lý và hỏi han về phương pháp trị dân. Có hôm, tiên sinh cùng nhà vua trò chuyện rất lâu, đến khi nhất quan báo ngọ chính, mới thoái. Vụ lấy lòng chân thành để làm cho cảm động nhân chỉ, tiên sinh thường khuyên Thần Tông nên phòng điều dục vọng khi chưa nảy mầm. Cùng Thần Tông nghị luận rất nhiều bận, nhưng tiên sinh chưa bao giờ nói đến sự công lợi, thường chỉ trần những điều tế thế an dân.
Sau vì chống với Vương An Thạch [1], tiên sinh xin ra làm chức phán quan ở Trấn Ninh quân [2], rồi thiên Phù Câu [3] tri huyện. Khi đến nhậm chức ở một địa hạt nào, tiên sinh cũng làm được nhiều việc lợi ích cho dân, lại còn có công di phong dịch tục nữa.
Triều đình định cho tiên sinh phán Vũ Học [4], nhưng Lý Định hặc tiên sinh là người đầu tiên dịch luận về tân pháp, nên phải giữ chức cũ.
Triết Tông lên ngôi, triệu tiên sinh về làm chức tông chính thừa [5], nhưng tiên sinh mất trước khi thụ chức (ngày rằm tháng sáu năm Nguyên Phong thứ tám).
Tiên sinh tư chất hơn người, lại sung dưỡng đạo đức, khí hòa túy thường phát hiện ra ở dung mạo. Môn nhân, bằng hữu thường theo tiên sinh có hàng chục năm, nhưng chưa từng thấy tiên sinh phẫn lệ bao giờ. Năm mười lăm, mười sáu tuổi, cùng em là Trình Di đến thụ giáo Chu Đôn Di, tiên sinh bắt đầu chán lối học khỏa cử và có chí cầu đạo. Sau khi đã phiếm lạm chư gia, ra vào cửa Thích, Lão trên mươi năm, tiên sinh mới trở lại tìm trong Lục Kinh mà được điều sở đắc.
Văn Ngạn Bác, theo lời công luận, để ở mộ tiên sinh bốn chữ “Minh đạo tiên sinh”.
Văn chương của tiên sinh còn để lại là: Định tính thư, thúc nhân thiên, trần trị pháp thập sự, ngữ lục….
Niên hiệu Gia Định năm thứ mười ba, tiên sinh được tứ thụy Thuần công; niên hiệu Thuần Hựu năm đầu, được truy phong Hà Nam Bá và được tùng tự Khổng Tử miếu đình. Đến niên hiệu Gia Tĩnh đời Minh, tiên sinh được xưng là “Tiên nho Trình tử”.
II. HỌC THUẬT:
Minh Đạo học rất rộng, không có một loại sách nào là không nghiên cứu, nhưng rốt cuộc lại hội được lý thú trong Kinh, Truyện của đạo Nho.
Tư tưởng của Minh Đạo tán kiến trong các bài văn nghị luận như Thức nhân thiên, Định tính thư, Trần pháp thập sự… Tuy dựa theo Kinh, Truyện mà lập luận, song Minh Đạo cũng có nhiều tư tưởng khác với tiên nho, đã biệt lập riêng một phái.
Minh Đạo thường nói rằng: “Cái học của ta tuy có chỗ trao nhận, nhưng hai chữ “thiên lý” chỉ tự mìhh thể thiếp được thôi”.
Vũ trụ luận của Minh Đạo cũng mượn Dịch làm gốc: Minh Đạo lấy cái khí kiền nguyên làm căn bản của vũ trụ, nên thường gọi cái “chất” cấu tạo ra trời đất và vạn vật là “nguyên”. Bởi vậy, Minh Đạo tinh sự sinh hóa của vạn vật chỉ thuộc về lẽ tự nhiên, chẳng phải do cuộc an bài của một đấng chủ tể: “Cái lý của trời đất và vạn vật, nếu không đứng một mình, thì phải có lẽ tương đối, đều là tự nhiên như thế, chứ không phải có sự an bài”.
“Vô độc hữu đối” chính là Vũ trụ chân tướng quan của Minh Đạo. Theo sự nhận xét của Minh Đạo, trừ cái khí kiền nguyên ra, bất luậ vật gì cũng có một thể tương đối với nó: “Một âm, một dương; một thiện, một ác. Dương trưởng thì âm tiêu, thiện tăng thì ác giảm”. Lại nói: “Có “chất” thì phải có “văn”, cái “lý tự nhiên” ắt có đối đãi: ấy là gốc của sự vật hóa sinh. Có trên ắt có dưới, có cái này hẳn phải có cái kia; có chất thì phải có văn, vì một không độc lập, hai ắt làm văn. Trừ kẻ hiểu đạo, ai biết được lẽ trời ấy? Thiên văn, là lý của trời; nhân văn, là lý của người”.
Ra chữ “lý tự nhiên” Minh Đạo dùng ở trên cũng đồng nghĩa với hai chữ “thiên lý” Minh Đạo nói ở trước.
Minh Đạo lại từ vũ trụ suy luận đến tâm thể. Cũng theo hai thuyết “vô độc hữu đối”, Minh Đạo bàn về hai mối tương đối, thiện và ác, trong tính người: Sinh gọi là tính. Tính tức là khí, khí tức là tính.[1] Người ta sinh ra bẩm khí, lý có thiện ác, nhưng không phải ở trong tính [2] người có vốn hai vật ấy, mà vì lẽ tương đối nên sinh ra. Có người từ bé đã lành, có người từ bé đã dữ, ấy là khí bẩm tự nhiên. Đành rằng thiện là tính, song ác cũng không thể chẳng bảo là tính… Tính ví như nước, chảy xuống miền thấp, đâu cũng là nước. Nhưng, có dòng chảy thẳng ra bể mà không bị vẩn đục, như thế thì cần gì nhân lực làm cho nó trong; có dòng chảy chưa xa đã cẩn đục; có dòng chảy rất xa, rồi mới bị vẫn đục. Có chổ đục nhiều, có chổ đục ít. Trong, đục tuy không giống nhau, nhưng không thể bảo dòng nước đục là chẳng phải nước. Như thế nên người ta không thể không gia công trừng trị. Bởi vậy, dùng lực mẫn dùng thì mau trong, dùng lực hoãn đãi thì chậm trong,. Sự trong ấy là cái bản tính của nước… Nước trong, tức là tính thiện đó. Cho nên, hai mối “thiện” và “ác” không phải vốn có ở trong tính người, song vì lẽ tương đối, nó tự xuất hiện ra sau”.
Minh Đạo tin rằng: tính bản nhiên của người ta vốn không có sẵn hai mối thiện và ác, vì lúc tính còn thuần nhất, chỉ có thiên lý tồn tại mà thôi. Nhưng, đến khi tính đã có thiện hẳn phải có ác.
Cũng như khí đã có dương hẳn phải có âm: đó là lý tương đối tự nhiên vậy. Nếu lấy tính ví với nước, thì có tính rồi mới có thiện ác, cũng như có nước rồi mới có trong đục. Nước sở dĩ đục, là do vật khác làm bẩn đến nó; tính sở dĩ ác, là vì chịu ảnh hưởng của bên ngoài. Người ta muốn cho tính trở lại tốt đẹp như xưa phải gắng sức tu vi, cũng như muốn cho nước khỏi vẩn đục thì phải ra công lọc lõi.
Đoạn văn luận về tính của Minh Đạo, dẫn ra ở trên, học giả còn nghi chưa được đầy đủ, cho rằng đến Y Xuyên mới thuyết minh được cái tính bản nhiên của người.
Tuy Minh Đạo luận về tính bản nhiên và tính khí chất của người ta chưa được đầy đủ, song những lời bàn về hai chữ “định tính”, trong Định tính thư, cũng có nhiều đặc sắc: “Điều gọi là định, động cũng định, tĩnh cũng định, không đưa đón, không trong ngoài. Nếu lấy ngoại vật làm ngoài, dắt dẫn mình theo vật, ấy là phân cái tính [1] của mình có trong và ngoài vậy. Lấy cái tính của mình theo vật ở ngoài, thì dương khi tính thì tại bên ngoài, hỏi cái gì ở tại bên trong? Thế là muốn dứt tuyệt sự ngoại dụ, nhưng không biết rằng tính chẳng có trong có ngoài. Đã lấy tính có trong và ngoài làm hai gốc, sao lại có thể nói đến sự “định tính” thay” Đạo thường của trời đất là lấy tâm phổ biến muôn vật mà vô tâm; đạo thường của thánh nhân là lấy tình thuận ứng muôn vật mà vô tính [2]. Cho nên cái học của người quân tử chẳng gì hơn rẩ rộng rãi và thực công bình, vật đến thì thuận ứng… Cho ngoài là trái, trong là phải, chẳng bằng quên hẳn cả ngoài và trong. Quên cả ngoài lẫn trong, tâm sẽ trừng nhiên vô sự: vô sự ắt định, định ắt sáng suốt, sáng suốt thì có thể nào bị vật làm lụy đến mình? Sự mừng của thánh nhân, bởi vật đáng mừng; sự giận của thánh nhân, bởi vật đáng giận. Thế là sự mừng giận của thánh nhân, không hệ ở tâm, mà hệ ở vật. Như vậy, thánh nhân há không ứng ở vật thay? Sao được lấy sự theo bên ngoài là trái, trở lại tìm ở bên trong là phải… Cái tình của người, duy có sự nóng giận là dễ phát ra và khó tiết chế hơn hết. Trong khi nóng giận, nếu người ta biết quên ngay sự nóng giận để xét cái lý thị phi, cũng có thể thấy được sự cám dỗ bên ngoài không đủ ghét, mà về đường đạo đức cũng đã nghĩ đến quá phần nửa rồi”
Người ta có thể chia Định tính thư của Minh Đạo ra làm bốn đoạn: Đoạn thứ nhất, nói về cái đạo thường của trời đất, lấy tâm phổ biến vạn vật mà vô tâm: ấy là sự định của trời đất. Đoạn thứ hai, nói về đạo thường của thánh nhân, lấy tình thuận theo vạn vật mà vô tình: ấy là sự định của thánh nhân. Đoạn thứ ba, nói về cái học của người quân tử nên khoách nhiên địa công, vật lại thuận ứng: ấy là sự định của người quân tử. Đoạn thứ tư, nói về người thường trong cơn nóng giận, nhưng biết quên ngay nóng giận để xét lẽ phải trái: ấy là sự định của người thường. Người thường mong cho đến được địa vị của bậc thánh nhân, đấng thánh nhân lại mong cho được hợp lý với tự nhiên của trời đất.
Bàn về ý nghĩa của chữ “nhân”, trong Thức nhân thiên, Minh Đạo nói rằng: “Người học đạo nên biết điều “nhân” trước nhất. Điều “nhaann”, hồn nhiên cùng vạn vật đồng thể; nghĩa, lễ, trí, tín không ra khỏi điều “nhân”. Biết được lý ấy, rồi lấy sự thành kính giữ lấy nó mà thôi”.
Ở một chỗ khác, Minh Đạo cũng nói về chữ “nhân” rằng: “Bậc chí nhân lấy trời đất là một thân và lấy phẩm vật vạn hình, ở giữa khoảng trời đất, làm tứ chi bách thể. Há có người nhìn tứ chi bách thể mà không thương thay? Thánh nhân, là bậc chí nhân, chỉ một mình thể được cái tâm ấy, há thường chia lìa nhiều mối để tìm nó bên ngoài?”.
Theo Minh Đạo, cái đạo của trời đất có đủ ở trong điều “nhân”, điều “nhân” có thể bao quát cả nghĩa, lễ, trí, tín. Học giả muốn tìm đạo lý, trước hết phải hiểu ý nghĩa của điều “nhân”, rồi dùng sự “thành kính” mà giữ lấy nó là đủ, không cần phải phòng kiểm hoặc cùng sách. Minh Đạo cho rằng:Thể được mọi vật không dư sót chỉ có sự thành kính mà thôi. Lại nói: “Sự thành kính có thể thắng được trăm điều tà”.
Xem thế, lối học đạo của Minh Đạo không ngoài sự thành kính và hàm dưỡng. Có ý tưởng như vậy, nên Minh Đạo thường nói: “Tính cùng đạo trời, nêu không tự đắc, thì không biết được”. Với những câu: “Giác ngộ tứ là tín và “Tồn dưỡng lâu ngày trí tuệ sáng suốt”…. đều nói về sự tự giác và cách hàm dưỡng của người học đạo. Minh Đạo cũng đã từng khuyên môn nhân mặc tọa để tìm đạo lý ở trong sự thanh tĩnh vô vi. Phương pháp tu vi của Minh Đạo dùng đến trực giác rất nhiều vậy.
Còn những ý kiến đối với chính trị, xã hội và kinh tế của Minh Đạo đã phát hiện ra ở bài Trần trị pháp thập sự. Trong bài ấy cũng có nhiều đoạn ca tụng chế độ của Nhị Đế, Tam Vương, song Minh Đạo muốn châm chước phép cũ của tiên vương cho được thích hợp với đời nay, chứ không phải như bọn hủ nho chỉ biết khư khư lệ cổ. Mười điều trong Trần trị pháp thập sự của Minh Đạo tuy chưa đủ để cho bậc quân chủ lấy làm khuôn vàng thước ngọc mà noi theo, nhưng cũng có điều hữu lý như mấy điều này:
“Ngày xưa, từ nhiên tử cho đến thứ dân, chưa ai không cần thầy bạn mà có thể lập đức được. Bởi vây, Tuấn, Vũ, Văn, Võ [1] sở dĩ trở nên bậc thánh, cũng đều có chổ theo học. Ngày nay, cái chức của sư phó không tu chỉnh, cái nghĩa của hữu thần không trứ minh, nên thói tôn đức lạc thiện chưa thành”.
“Bậc vương giả phụng mệnh Trời [2] đặt nên quan. Bởi thế, cái chức vụ của trời đất và bốn mùa, Nhị Đế, Tam Vương chưa từng biến cải, sở dĩ tu chỉnh bách độ và điều lý vạn hóa vây. Nhà Đường còn giữ phần đại lược nên kỷ cương tạm chính. Nay quan trật hào loạn, chức nghiệp phế bỏ, thành thử cuộc thái bình thịnh trị bế uất chưa hưng”.
“Sự dạy dỗ ở nhà Tường [1], nhà Tự [2], nhà Học, nhà Hiệu [3], là tiên vương sở dĩ làm cho sáng tỏ nền nhân luân để hóa hành thiên hạ. Ngày nay, sự học phế bỏ nên đạo đức không thuần nhất, hương xạ không còn nên lễ nghĩa không chấn hưng, công cử không do ở hương lý nên hạnh thực không trau giồi, tú sĩ không được nuôi dưỡng ở học hiêu nên nhân tài phần nhiều bị phế bỏ”.
“Ngày xưa, tứ dần đều có thường chức, mà kẻ làm ruộng chiếm hết tám chín phần mười, cho nên ăn mặc dễ đủ và lòng dân không đến nỗi khốn khổ. Nay, ở kinh sư dân không nghề nghiệp số quá trăm vạn; vì cùng quẩn, tân khổ, cô bần, bệnh tật, họ phải biến trá xảo ngụy để tìm sự sống, nhưng thường không đủ để sống… Nên chước cổ biến kim, quân bình kẻ nhiều, chẩn tuất người ít, dần dần lập nên nghề nghiệp cho họ để cứu giúp dân trong cơn hoạn nạn”.
Cái đạo của bậc thánh nhân phụng mệnh Trời để trị lý muôn vật tại lơi “lục phủ” [4]; cái nhậm vụ về “lục phủ” giao cho “ngũ quan” [5]. Sơn ngu [3], trạch hoành [3] thường có sự cấm chế: như thế để cho vạn vật được phụ phong mà tài dụng không thiếu. Nay, ngũ quan, lục phủ không tu trị, người ta lấy vật liệu không tiết chế, dùng tài dụng không phải thời, cây rừng bị thiêu đốt chặt phá, ở sông đầm kẻ đánh cá và đi săn càng ngày càng nhiều, bạo tàn hao kiệt, nhưng không ai ngă cấm. Nên đặc lại chức ngu, hoành ngày trước, khiến giữ gìn những sản vật ấy để được trở nên một mối lợi lâu dài”.
Người ta có thể phân tích cái học của Minh Đạo để hiểu rằng:
Đối với lẽ chuyển biến của vũ trụ, Minh Đạo chỉ dựa theo những tư tưởng của người xưa, không phát minh được điều gì đặc sắc. Nhưng, về luân lý thuyết, Minh Đạo đã nói được nhiều lời chí lý trong Thức nhân thiệnĐịnh tính thư. Hai thiên ấy chính là tinh túy trong học thuyết Minh Đạo cần đến trực giác và công phu hàm dưỡng hơn là đọc sách tìm nghĩa, nên Minh Đạo thường khuyên người học đạo phải biết cách tồn dưỡng để tự lĩnh hội lấy đạo thể, cho thư tịch chỉ là những vật để cho học giả vun bón thêm cái gốc đạo đức đã sẵn có của mình. Những ý kiến về chính trị, xã hội và kinh tế của Minh Đạo tỏ ra có vẻ hiếu cổ, song cũng biết cách châm chước những phép cũ cho thích hợp với nời thau, chứ chẳng phải như kẻ lậu nho toàn toàn nệ cổ.
Tóm lại, cái học của Minh Đạo rất rộng nhưng chưa được nhuần, vì ngoài đạo Nho ra, Minh Đạo còn chịu ảnh hưởng của Phật, Lão rất nhiều [1]. Tuy nhiên, đối với học thuật đời Tống, Minh Đạo có cái công ích rất to: chẳng những đã gắng gỏi về việc xiển phát thánh ngôn và ra công dìu dắt bọn hậu tiến vào cõi đạo đức mà thôi, Minh Đạo lại còn quan tâm đến những phương pháp doanh vi để cho thiên hạ được hưởng cuộc thái bình thịnh trị nữa.



[/color][/font]
Đầu trang

thangmyden
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1587
Tham gia: 15:52, 05/04/11

TL: Nho Giáo

Gửi bài gửi bởi thangmyden »

post nhầm khu vực rồi, đây là khu vực luận giải tử vi mà
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Lạm phát
Đang bị cấm
Đang bị cấm
Bài viết: 367
Tham gia: 09:29, 05/03/11

TL: Nho Giáo

Gửi bài gửi bởi Lạm phát »

Hãy để Chúa phán xét về những điều đó bác Tiger à! Thời buổi giờ đêm ba cái đạo lý nầy ra vẽ cho chúng sinh như đờn khải tai trâu thôi, tốn calo, hao nước bọt lắm :-bd
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
tigerstock68
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2135
Tham gia: 14:12, 29/03/11

TL: Nho Giáo

Gửi bài gửi bởi tigerstock68 »

những người như chú nên đọc vì rất nhiều bạn trẻ đang nhầm lẫn giữ đạo Phật với nho giáo
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Lạm phát
Đang bị cấm
Đang bị cấm
Bài viết: 367
Tham gia: 09:29, 05/03/11

TL: Nho Giáo

Gửi bài gửi bởi Lạm phát »

tigerstock68 đã viết:những người như chú nên đọc vì rất nhiều bạn trẻ đang nhầm lẫn giữ đạo Phật với nho giáo
haiz! Số Phát là số 1/2 đời, 1/2 đạo đấy thôi. Lúc Nhỏ đọc cũng nhiều những điều răn dạy thế kia, rồi đem ra áp dụng thấy quanh quẩn mình toàn đám ruồi bu, đầu óc kém phát triển ... chẳng sao mà "triển khai" thêm được vì lý thuyết quá xa rời với thực tiễn, nên buồn chán đem đốt sạch chơn. Thề không theo chủ nghĩa thiện tâm nữa mà sẽ vào con đường "cuồng tính" để lấy "gậy ông đập lưng ông" cho chúng biết điều lành không phải ai cũng có thể mang ra mà giáo huấn cho mọi người một cách miễn phí mà còn bị vong ơn như vậy! ~X(
Đầu trang

PMK
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1039
Tham gia: 14:49, 25/11/10

TL: Nho Giáo

Gửi bài gửi bởi PMK »

Cá nhân PMK cho rằng miễn luôn hướng con người đến điều thiện thì đạo nào cũng tốt cả. Mỗi cá thể trong xã hội đều là đặc biệt, không ai giống ai, mỗi người sẽ có căn cơ riêng, tùy ý họ muốn lựa chọn đạo nào mà họ cảm thấy phù hợp với họ. Cũng giống như bên võ thuật vậy, có người phù hợp với nhu đạo, có người lại phù hợp với karate .v.v. Điều quan trọng nhất là phải phù hợp với mình. Một chiếc áo cô người mẫu mặc lên đẹp vô cùng nhưng không có nghĩa là chúng ta mặc lên cũng đẹp như vậy. Phải biết lựa chọn những gì phù hợp với bản thân.

PMK chỉ không thích những đạo quá khích cực đoan mà thôi. Mà cũng chưa chắc người sáng lập ra đạo ấy quá khích cực đoan như thế, cũng có thể là do hậu thế vì sân si của mình mà làm biến chuyển dần dần cái tốt của tiền nhân theo chiều hướng tiêu cực.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
tigerstock68
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2135
Tham gia: 14:12, 29/03/11

TL: Nho Giáo

Gửi bài gửi bởi tigerstock68 »

Cá nhân PMK cho rằng miễn luôn hướng con người đến điều thiện thì đạo nào cũng tốt cả. Mỗi cá thể trong xã hội đều là đặc biệt, không ai giống ai, mỗi người sẽ có căn cơ riêng, tùy ý họ muốn lựa chọn đạo nào mà họ cảm thấy phù hợp với họ.

rất nhiều bạn trẻ khi tranh luận hay bị lẫn lộn giữa đạo lão với đạo phật nên post lên cho các bạn tham khảo

Chu Đôn Di và học thuật






Chu Đôn Di


Liêm Khê ra đời sau khi Khổng Học thất truyền có trên nghìn năm, không được ai truyền thụ cho, thế mà tự lĩnh hội được đạo thể. Cũng như Thiệu Khang Tiết, rất tinh thông Dịch lý, học thuật tư tưởng của Liêm Khê đều phát hiện ra trong “Thái cực đồ thuyết” và “Thông thư”.

Trong “Thái cực đồ” có vẽ năm vòng tròn. Vòng thứ nhất vẽ trống, biểu tượng Thái cực. Vòng tròn thứ hai biểu tượng âm dương, mà dương động, âm tĩnh, nên một nửa vẽ trắng (dương), còn một nửa vẽ đen (âm); nhưng, theo lẽ tự nhiên của tạo vật, trong dương có âm, trong âm có dương, nên trong nét trắng có nét đen và trong nét đen có nét trắng [1]. Vòng thứ ba biểu tượng ngũ hành; ngũ hành cũng gốc ở âm dương giao lẫn nhau mà sinh ra, cho nên nét bên tả vòng sang bên hữu, nét bên hữu lại vòng sang bên tả. Vòng thứ tư biểu tượng kiền, khôn; kiền thành nam, khôn thành nữ. Vòng thứ năm lại vẽ trống, biểu tượng vạn vật hóa sinh.

Phí dưới, Liêm Khế cắt nghĩa năm vòng tròn ấy như thế này: “Vô cực mà Thái cực. Thái cực động mà sinh ra dương, song động cùng cực thì tĩnh; tĩnh thì sinh ra âm, nhưng tĩnh cùng cực lại động. Một động, một tĩnh làm nên gốc rễ lẫn nhau; phân âm, phân dương, hai nghi lập vậy. Dương biến, âm hợp mà sinh ra thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; năm khí ấy thuận bốn bốn mùa vận hành. Hợp ngũ hành lại, là lưỡng nghi; hợp âm dương lại, là Thái cực; Thái cực vốn vô cực. Ngũ hành sinh ra, mỗi khí có một tính riêng. Cái “không giả” của vô cực, phần “không tạp” của lưỡng nghi và ngũ hành diệu hợp mà ngưng tụ, kiền đạo thành trai, khôn đạo thành gái. Hai khí (âm dương) giao cảm, hóa sinh muôn vật; muôn vật sinh sinh, mà biến hóa vô cùng”.

CHU ĐÔN DI

(1017 – 1073)

I. TIỂU SỬ:

Tiên sinh tự Mậu Thúc, người ở đất Doanh Đạo [1]. Khi trước, tiên sinh vốn tên Đôn Thực, nhưng vì tránh cựu húy của Tống Anh Tông nên cải ra Đôn Di. Thuở nhỏ, tiên sinh mồ côi cha, phải đến ở nhờ nhà cậu là Long chương các đại học sĩ Trịnh Hướng.

Niên hiệu Cảnh Hựu [2] năm thứ ba, Trịnh Hướng tâu xin cho tiên sinh bổ chức chủ bộ ở huyện Phân Ninh [3]. Sau đó, tiên sinh trải qua những chức Nam An quân [4] tư lý tham quân, Quế Dương [5] và Nam Xương [6] tri huyện, Kiền Châu [7] và Vĩnh Châu [8] thông phán v.v…

Do Lữ Công Trứ tiến cử, tiên sinh được cải chức chuyện vận phó quan ở Quảng Đông, đề điểm hình ngục tại bản hạt. Tuy ở những nơi hoang nhai tuyệt đảo, dấu chân người ít khi đến, tiên sinh cũng mạo lam chướng tìm đến đó để rửa oan ức cho kẻ vô tội.

Lúc tiên sinh đã lớn tuổi, bèn cáo bệnh, xin tri Nam Khang quân [1], nhân dựng nhà ở Lư Sơn [2], kề Liên Hoa Phong [3]. Trước mặt nhà có một dòng khe hợp với nước sông Bồn [4]; tiên sinh đặt tên cho nó là Liêm Khê, trùng tên với dòng khe ở Doanh Đạo. Vì thế, tiên sinh mới có hiệu là “Liêm Khê”.

Tiên sinh là một người có cái phong độ thanh cao, hung hoài sái lạc như gió quang trăng tạnh, liêm về việc thủ danh nhưng hăng hái theo đường cầu trí, thường lại sẵn lòng dắt dìu kẻ khác đi đến chổ thiện đoan. Cho nên, học giả theo tiên sinh mỗi ngày một nhiều.

Niên hiệu Hy Ninh năm thứ sáu, tiên sinh mất. Mộ của tiên sinh tại xã Thanh Tuyền, huyện Đức Hóa [5], thuộc Giang Chây.

Tiên sinh có soạn những sách: Thái cực đồ thuyết và Thông thư.

Niên hiệu Gia Định [6] năm thứ mười ba, tiên sinh được tứ thụy Nguyên Công; năm Thuần Hựu [7] nguyên niên, được phong Nhữ nam bá )sau cải phong Đạo quốc công) và được tùng tự ở Khổng Tử miếu đình. Đến niên hiệu Gia Tĩnh đời Minh, tiên sinh được xưng là “Tiên nho Chu tử”.

II. HỌC THUẬT:

Liêm Khê ra đời sau khi Khổng Học thất truyền có trên nghìn năm, không được ai truyền thụ cho, thế mà tự lĩnh hội được đạo thể. Cũng như Thiệu Khang Tiết, rất tinh thông Dịch lý, học thuật tư tưởng của Liêm Khê đều phát hiện ra trong “Thái cực đồ thuyết” và “Thông thư”.

Trong “Thái cực đồ” có vẽ năm vòng tròn. Vòng thứ nhất vẽ trống, biểu tượng Thái cực. Vòng tròn thứ hai biểu tượng âm dương, mà dương động, âm tĩnh, nên một nửa vẽ trắng (dương), còn một nửa vẽ đen (âm); nhưng, theo lẽ tự nhiên của tạo vật, trong dương có âm, trong âm có dương, nên trong nét trắng có nét đen và trong nét đen có nét trắng [1]. Vòng thứ ba biểu tượng ngũ hành; ngũ hành cũng gốc ở âm dương giao lẫn nhau mà sinh ra, cho nên nét bên tả vòng sang bên hữu, nét bên hữu lại vòng sang bên tả. Vòng thứ tư biểu tượng kiền, khôn; kiền thành nam, khôn thành nữ. Vòng thứ năm lại vẽ trống, biểu tượng vạn vật hóa sinh.

Phí dưới, Liêm Khế cắt nghĩa năm vòng tròn ấy như thế này: “Vô cực mà Thái cực. Thái cực động mà sinh ra dương, song động cùng cực thì tĩnh; tĩnh thì sinh ra âm, nhưng tĩnh cùng cực lại động. Một động, một tĩnh làm nên gốc rễ lẫn nhau; phân âm, phân dương, hai nghi lập vậy. Dương biến, âm hợp mà sinh ra thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; năm khí ấy thuận bốn bốn mùa vận hành. Hợp ngũ hành lại, là lưỡng nghi; hợp âm dương lại, là Thái cực; Thái cực vốn vô cực. Ngũ hành sinh ra, mỗi khí có một tính riêng. Cái “không giả” của vô cực, phần “không tạp” của lưỡng nghi và ngũ hành diệu hợp mà ngưng tụ, kiền đạo thành trai, khôn đạo thành gái. Hai khí (âm dương) giao cảm, hóa sinh muôn vật; muôn vật sinh sinh, mà biến hóa vô cùng”. [1]

Cái quan niệm về vũ trụ của Liêm Khê xem ra có tính cách “thuần chính triết học”, nhưng Liêm Khê đã dựa vào đó để lập nền “thực tiễn triết học” say này. Bởi vậy, sau khi đã giải nghĩa năm vòng tròn trong “Thái cực đồ” rồi, Liêm Khê lại nói thêm: “Duy chỉ có người là bẩm thụ được khí tinh anh nên rất thiêng: hình khi đã sinh ra, thần phát nên có tri thức, năm tính cảm động mà thiện ác phân biệt, vạn sự xuất phát. Thánh nhân định nó bằng sự trung, chính, nhân, nghĩa, mà chủ tĩnh, lập nên “nhân cực”. Bởi thế, thánh nhân cùng trời đất hợp đức, cùng mặt trời và mặt trăng hợp sáng, cùng với bốn mùa hợp sự tuần tự, sau cùng với quỹ thần hợp điều cát hung. Người quân tử tu theo đạo ấy thì cát, kẻ tiểu nhân trái đạo ấy thì hung.”

Liêm Khê tin rằng: Trong vũ trụ có một “lý” rất huyền diệu, uyên thâm bất trắc, biến hóa vô phương, tuy vô hình, vô trạng, vô xú, vô thanh, nhưng chính đó là căn bản của vạn vật: ấy là Thái cực. Do đó sự tĩnh và độgn của Thái cực mà sinh ra hai khí tương đối là âm và dương. Âm dương sinh ra khí ngũ hành là thủy, hỏa, mộc, kim, thổ. Khí ngũ hành lại phối hợp với khí âm dương, rồi phần dương sinh ra giống đực, phần âm sinh ra giống cái. Khi mới bắt đầu có giống đực và giống cái là do khí hóa mà sinh ra, nhưng sau ấy hai giống đó giao hợp cùng nhau, làm cho vạn vật sinh hóa vô cùng, thì do hình thức hóa mà sinh vậy. Người ta và muôn vật đều do Thái cực, âm dương và ngũ hành mà có, song loài người bẩm thụ phần tinh anh của thái cực, lưỡng nghi và ngũ hành, cho nên trí thức sáng suốt hơn muôn vật. Tuy nhiên, cái khí tinh anh ất cũng có chỗ dày, mõng, nhiều, ít khác nhau, nên người ta có sự bất đồng về tính tình và hình thể. Chỉ có bậc thánh nhân là bẩm thụ được cái khí tinh anh hơn cả loài người, mới được tính tình thuần túy, trí lực thông minh, lại có đủ cả cái lý cân chính của trời đất.

Trong sách “Thông thư”, Liêm Khê cũng suy cái lý phân hợp của Thái cực, sự động tĩnh của âm dương và cuộc chuyển vận của ngũ hành để lập nền “thực tiễn triết học”. Bởi vậy, trong sách ấy, tác giả bàn rộng về những cách xử kỷ tiếp vật, kinh luân tế thế, cho đến đuển chương pháp độ, nhân nghĩa lễ nhạc của tiên vương.

Bàn vệ sự động tĩnh, Liêm Khê nói: “Động mà không tĩnh, tĩnh mà không động, ấy là “vật”; động mà không động, tĩnh mà không tĩnh, ấy là “thần”. Động mà không động, tĩnh mà không tĩnh, không phải là không động không tĩnh. “Vật” ắt bất thông, “thần” thì tinh diệu vạn vật.”

Vì lẽ động tĩnh vi diệu như thế, nên người quân tử phải luôn luôn thận trọng trong sự động tác: “Động àm chính đáng gọi là “đạo”, dụng mà trung hòa gọi là “đức”. Chẳng nhân, chẳng nghĩa, chẳng lễ, chẳng trí, chẳng tín, thì là tà. Tà động ắt nhục, thậm chí đến hại. Vậy nên người quân tử thận trong trong sự động tác.”

Nhưng muốn “thận trọng” thì phải giữ một lòng chân thành, vì lòng chân thành là gốc của ngũ thường, bách hạnh: “Lặng lẽ không động, ấy là “thành”. Cảm rồi mới thông, ấy là “thần”. Động mà chưa có trẫm triệu ở giữa khoảng hữu vô, ấy là “cơ”. “Thành” tin nên minh, “thần” ứng nên diệu, “cơ” vi nên u [1]. Thành, thần, cơ gọi là thánh nhân.”

Như vậy, sự chân thành là một điều không thê thiếu được ở lòng người. Người ta có “thành” rồi, nhiên hậu mới có “thần” và “cơ”. Khi người ta đã giữ được lòng chân thành, mới có thể đi theo con đường “trung chính nhân nghĩa”, vì theo con đường ấy tức là đạo của thánh nhân.

Liêm Khê lấy điều “nhân nghĩa trung chính” làm tiêu chuẩn cho mọi sự hành vi của người ta ở đời, vì cho rằng: “Trời lấy dương sinh vạn vật, lấy âm thành vạn vật. Sinh, tức là nhân; thành, tức là nghĩa. Cho nên, thánh nhân ở trên, lấy điều nhân mà dưỡng dục vạn vật, lấy điều nghĩa mà khuông chính vạn dân”.

Có tư tưởng ấy, nên bàn về sự trị dân, Liêm Khê cũng chỉ quả quyết rằng bậc quân chủ biết giữ cái tâm của mình cho thuần thì dân an quốc trị. Thế nào gọi là tâm thuần? Liêm Khê đã cắt nghĩa chữ “thuần” thế này: “Lúc động, lúc tĩnh, lời nói, dáng điệu, khi thấy, khi nghe không trái với bốn điều nhân, nghĩa, kễ, trí, gọi là thuần. Tâm thuần ắt hiền tài giúp mình; hiền tài giúp mình thì thiên hạ trị”.

Bàn về sự phú quí, Liêm Khê cho rằng: “Ở giữa trời đất chỉ có đạo là chí tôn và đức là chí quí mà thôi… Người quân tử lấy đạo đức sung thực làm của quí, lấy thân được an ổn làm giàu, còn xem hiên miễn là nhỏ nhen, xem kim ngọc là tro bụi.”

Luận về lễ nhạc, Liêm Khê cũng đã thốt ra nhiều lời hữu lý. Liêm Khê lấy lễ nhạc làm lợi khí cho sự trị dân, cho nên rất quan tâm đến lễ nhạc: “Lễ, tức là lý; nhạc, tức là hòa. Âm dương thuận lý rồi mới điều hòa. Vu phải phận vua, tôi phải phận ra tôi, cha phải phận cha, con phải phận con, anh phải phận anh, em phải phận em, chồng phải phận chồng, vợ phải phận vợ, vạn vật đều được cái lý của nó rồi sau mới hòa. Bởi vậy lễ trước mà nhạc sau”.

Và, đây là ý kiến của Liêm Khê đối với nhạc xưa và nhạc nay: “Ngày xưa, thánh vương đặt ra lễ pháp, tu chỉnh sự giáo hóa, tam cương chính, cửu trù định, trăm họ đại hòa, vạn vật đều thuận, bèn chế nhạc để tuyên sướng cái khí của tám gió [1], để bình cái tình của muôn vật. Bởi thế, tiếng nhạc đạm nhã mà không ưu thương điều hòa mà không dâm tứ; nó vào trong tai người, cả tấm lòng người, không ai là chẳng đạm và hòa… Đời sa lễ pháp không được tu trị, chính hình lại rối loạn phiền hà, người trên buông lung lòng dục vọng làm cho hư hỏng pháp độ, khiến kẻ hạ dân phải chịu nỗi lầm than! Rồi, cho nhạc xưa không hay, đổi ra tiếng mới, yêu dâm sầu oán, dắt díu người ta vào đường tham dục và làm tăng thêm sự bi ai ở lòng người, không thể nào tự cấm chỉ. Cho nên, mới có kẻ hại vua, bỏ cha, xem nhẹ sự sống, làm hủy bại luân thường, mà không ngăn cấm được. Than ôi! Ngày xưa dùng nhạc để bình tâm, nhưng ngày nay lấy nó để trợ dục; ngày xưa dùng nhạc để tuyên hóa, nhưng ngày nay lấy nó để làm tăng trưởng oán sầu. Không trở lại cổ lễ, không biến cải kim nhạc, mà muốn đến được thời thịnh trị, thực xa lắm thay!”.

Những lời của Liêm Khê trong “Thông thư” có cái ý vị sâu xa, lý luận chặt chẽ, thực là những lời tâm huyết của một con người có chí lớn, bình sinh chỉ muốn đem cái sở học cảu mình ra để khuông chính thiên hạ.

Trương Nam Hiên phê bình Liêm Khê như thế này: “Từ đời Tần, Hán trở về sau, kẻ nói về chính trị thì chìm đắm vào đường công lợi của Ngũ Bá, nói về đạo lý lại mắc vào thuyết không hư của bọn dị đoan. Thuật phát chính thi nhân cùng lời dạy bảo về nhân luân thiên lý của tiên vương, không ai biết suy tầm để giảng minh ra. Cho nên người nói về chính trị không tương quang gì đến đạo lý, người nói đến đạo lý cũng chẳng dính dáng gì đến chính trị… Duy chỉ có tiên sinh quật khởi lên ở sau nghìn năm, hiểu được vi chỉ trong sách xưa, suy nguyên cái lý của Thái cực cho đến sự lưu bố của âm duwong, ngũ hành và lẽ hóa sinh của vạn vật. Do thế mà biết rằng loài người là một giống rất linh, cái tính của người rất lành. Bởi vậy, muôn lý mới có chủ trương, muôn vật mới có khuôn phép… Cái ý của Khổng Mạnh do đấy mà lại tỏ ra”.

Hoàng Lội Sử cũng nói rằng: “Khổng Mạnh trở về sau, Hán nho chỉ có cái học truyền kinh mà thôi, còn những lời bàn luận về tâm tính và đạo đức đã dứt tuyệt từ lâu rồi. Nguyên Công nổi lên, hai Trình nối theo, lại có Hoành Cừ, hững nhà đại nho xuất hiện, mà nền Thánh học được xương thịnh. Hồ An Định và Tôn Thái Sơn [1] chỉ là những kẻ mở đường cho Tống học, còn như xiển phát cái nghĩa lý tinh vi của tâm tính ra, phải kể Nguyên Công là người đầu tiên”.

Xét cho kỹ, cái học của Liêm Khê trước hết là suy tầm nguyên lý của vũ trụ và vạn vật rồi sau kết thúc vào cái đạo lý của thánh hiền. Lối học ất, bắt đầu ở lẽ cao xa, nhưng thành tựu ở đường thực tiễn. Học thuyết của Liêm Khê có thể chia ra hai phần: siêu hình học và luân lý học. Phần siêu hình, Liêm Khê đã lấy dịch và mượn tư tưởng của Lão Trang để làm căn bản cho lý thuyết của mình; phần luân lý, Liêm Khê đã dựa vào vi chỉ của “Tứ thư” để lập luận. Bởi vậy, vũ trụ quan của Liêm Khê tuy có chịu ảnh hưởng của Đạo gia, nhưng nhân sinh đạo đức quan của tiên sinh vẫn giữ được cái thuần túy của Nho giáo.
Đầu trang

PMK
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1039
Tham gia: 14:49, 25/11/10

TL: Nho Giáo

Gửi bài gửi bởi PMK »

Nếu việc nhầm lẫn gây ra hậu quả xấu thì có lẽ cần tích cực làm rõ.

PMK chỉ sợ việc phân biệt quá như thế lại gây ra sự chia rẽ tôn giáo, mi nước sông, ta nước giếng, mi với ta không chơi với nhau thì không hay lắm.

Lúc trái đất mới hình thành thì đâu đã có con người hay con vật gì, chứ đừng nói là có các tôn giáo khác nhau.

PMK nghĩ người giác ngộ là người có cái tâm rộng lớn bao dung, có thể dung nạp được vạn vật.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
lovato8888
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1284
Tham gia: 11:29, 24/03/10
Đến từ: TPHCM

TL: Nho Giáo

Gửi bài gửi bởi lovato8888 »

tam giáo nho phật lão
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
tigerstock68
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2135
Tham gia: 14:12, 29/03/11

TL: Nho Giáo

Gửi bài gửi bởi tigerstock68 »

Hoành Cừ (Trương Tài) và học thuật




Trương Tài
Lý thuyết của Hoành Cừ, tuy phần nhiều dựa vào những tư tưởng của cổ nhân, nhưng cũng có vài điều đặc sắc. Ngoài vũ trụ luận và luân lý thuyết ra, Hoành cừ còn quan tâm đến xã hội và chính trị nữa.

Luận về vũ trụ, Hoành Cừ tin rằng: chỉ có cái khí xung hòa của âm dương là có một năng lực rất mạnh mẽ đã cấu tạo ra trời đất và vạn vật. Cho nên, Hoành Cừ mới nói: “Thái hòa gọi là đạo”.

Thái hòa tức là khí hội hợp xung hòa của âm dương. Khí thuộc phần hình như hạ. Lấy cái hòa làm đạo thể, Hoành Cừ chỉ nói về “khí”, cho rằng nguyên khí tức là đạo, thành chữ “đạo” của Hoành Cừ thuộc phần hình nhi hạ.

Hoành Cừ tả sự chuyển vận của khí thái hóa như thế này: “Khí mờ miyj thái hư, thăng giáng phi dương, chưa từng chỉ tức. Dịch gọi là nhân uân [1], Trang Sinh gọi là dã mã [2] đó ư? Ấy là cái máy của sự hư, thực, động, tĩnh, mối đầu của lẽ âm, dương, cương, nhu.”

Lại nói: “Du khí mù mịt, hợp lại thành chất, sinh ra muôn vật khác nhau. Hai mối âm dương, tuần hoàn không ngừng, dựng nên nghĩa lớn của trời đất… Thái hư không thể không có khí, khí không thể ngưng tụ để sinh ra vạn vật, vạn vật không thể không tan ra để trở lại thái hư”.


TRƯƠNG TÀI

(1020 – 1077)

I. TIỂU SỬ:

Tiên sinh tư Tử Hậu; tổ tiên mấy đời ở đất Đại Lương [1]. Đến đời thân phụ tiên sinh là Trương Địch, làm chức điện trung thừa triệu Nhân Tông, ta tri Phù Châu [2] và mất tại đó. Các con thơ dại không trở về quê hương, phải kiều ngụ tại Hoành Cừ trấn [3]. Tiên sinh trưởng thành ở đấy, nên học giả mới xưng là “Hoành Cừ tiên sinh”.

Mất cha từ thuở nhỏ, tiên sinh có chí tự lập bất quần, tính thường ưa đàm luận việc binh cơ. Năm mười tám tuổi, tiên sinh khảng khái lấy công danh tự hứa, muốn kết khách chiếm lấy đất ở Thao Tây [4].

Một hôm, tiên sinh đến yết Phạm Trọng Yêm. Phạm biết tiên sinh là một người có chí lớn, khuyên nên đọc “Trung dung”. Từ đấy, tiên sinh bắt đầu có chí cầu đạo.

Khi đã đọc trọn sách Trung dung, tiên sinh thấy chưa đủ, bèn xem đến những kinh sách của đạo Thích, đạo Lão. Nhưng, sau cùng tiên sinh trở lại tìm được điều sở đắc trong Lục kinh.

Niên hiệu Gia Hựu, tiên sinh đến Kinh Sư ngồi trên da hổ giảng Dịch, được người đến nghe rất đông. Một ngày kia, tiên sinh tới thăm hai Trình và cùng nhau đàm luận đạo học. Sau cuộc đàm luận ấy, tiên sinh rất kính phục hai Trình, nên lúc về nói với môn đệ rằng: “Hai trình thâm minh Dịch lý hơn ta. Các ngươi hãy tìm đến đấy mà học”. Ngay hôm ấy, tiên sinh không giảng Dịch nữa.

Ra nhậm chức Vân Nham lệnh, tiên sinh gắng sức thi hành sự giáo hóa, khiến cho phong tục ở đó trở nên thuần hậu hơn xưa.

Năm Hi Ninh nguyên niên, tiên sinh được thuên chức Trước tác tá lang. Do đại thần tiền cử, tiên sinh được Thần Tông triệu vào hỏi về đạo trị dân. Tiên sinh khuyên vua nên dùng phép cũ của thời Tam Đại. Do đấy, tiên sinh được giữ chức Sùng văn viện hiệu thư.

Sau vì bất hợp với Vương An Thạch, tiên sinh thác cớ có bệnh mà trở về Hoành Cừ. Ở đấy, suốt ngày tiên sinh chỉ ngồi nhà, bên tả bên hữu đều có sách vỡ bút nghiên, cuối xuống đọc, ngẩng lên nghĩ, nếu tìm được điều gì hay thì chép ngay vào sách. Có lúc đêm khuya, tiên sinh cũng chỗi dậy, đốt đèn lên, đến bên sách, chép những tư tưởng vừa mới phát hiện ra ở trong trí mình.

Hy Ninh cửu niên, do Lữ Cấp Công tiến, tiên sinh được triệu đồng trí Thái thường Lễ viện [1]. Nhưng cũng không thực hiện được hoài bão của mình, tiên sinh lại xin trở về trứ thư để lập ngôn.

Đi đến nửa đường, tiên sinh mắc bệnh nặng, rồi đến Lâm Đồng [2] thì mất. Hôm ấy là một ngày thánh chạp năm Hy Ninh thứ mười.

Tiên sinh là một người có khí chất cương nghị, trang mạo trang nghiêm, song học giả càng gần tiên sinh chừng nào càng thân luyến. Có lòng hiếu cổ, tiên sinh thường muốn cho lễ chương pháp độ của đời Tống trở lại như thời Tam Đại. Bởi vậy, tiên sinh đã cùng với mấy người đồng chí tậu ruộng phân theo lối tỉnh điền [1]. Chủ ý suy minh di pháp của tiên vương. Nhưng việc chưa thành, tiên sinh đã mất.

Tiên sinh còn để lại tác phẩm: Lý quật, Đông minh, Tây minh, Chính mông, Dịch thuyết…

Niên hiệu Gia Định, tiên sinh được tứ thụy Hiển Công; niên hiệu Thuần Hựu, được tùng tự Học Cung và truy phong My Bá.

II. HỌC THUẬT:

Lý thuyết của Hoành Cừ, tuy phần nhiều dựa vào những tư tưởng của cổ nhân, nhưng cũng có vài điều đặc sắc. Ngoài vũ trụ luận và luân lý thuyết ra, Hoành cừ còn quan tâm đến xã hội và chính trị nữa.

Luận về vũ trụ, Hoành Cừ tin rằng: chỉ có cái khí xung hòa của âm dương là có một năng lực rất mạnh mẽ đã cấu tạo ra trời đất và vạn vật. Cho nên, Hoành Cừ mới nói: “Thái hòa gọi là đạo”.

Thái hòa tức là khí hội hợp xung hòa của âm dương. Khí thuộc phần hình như hạ. Lấy cái hòa làm đạo thể, Hoành Cừ chỉ nói về “khí”, cho rằng nguyên khí tức là đạo, thành chữ “đạo” của Hoành Cừ thuộc phần hình nhi hạ.

Hoành Cừ tả sự chuyển vận của khí thái hóa như thế này: “Khí mờ miyj thái hư, thăng giáng phi dương, chưa từng chỉ tức. Dịch gọi là nhân uân [1], Trang Sinh gọi là dã mã [2] đó ư? Ấy là cái máy của sự hư, thực, động, tĩnh, mối đầu của lẽ âm, dương, cương, nhu.”

Lại nói: “Du khí mù mịt, hợp lại thành chất, sinh ra muôn vật khác nhau. Hai mối âm dương, tuần hoàn không ngừng, dựng nên nghĩa lớn của trời đất… Thái hư không thể không có khí, khí không thể ngưng tụ để sinh ra vạn vật, vạn vật không thể không tan ra để trở lại thái hư”.

Lấy cái khí hội hợp xung hòa của âm dương làm mối đầu của vạn vật, Hoành Cừ không tin có một vật gì ở giữa thế gian này có thể thoát ra ngoài khí thái hòa, dẫu đến quỹ thần cũng chỉ ở trong vòng ấy mà thôi: “Quỹ thần là lương năng của hai khí âm dương”.

Người đời, mỗi khi nói đến quỉ thần, không khỏi nghĩ đến những chuyện là lùng quái đản. Nhưng ý nghĩa hai chữ quỉ thần trong triết học không có tính chất kia. Hoành Cừ từ vũ trụ tạo hóa nói đến quỉ thần: quỷ tức là qui (về), thần tức là thân (duỗi); quỉ thần chẳng qua là sự co duỗi của âm dương. Hai chữ quĩ thần của Hoành Cứ có tính cách khoa học hơn tính cách thần bí: trong ý của Hoành Cừ, quỉ thần cũng như mây, mưa, sấm, chớp, chỉ là những hiện tượng của khí âm dương, không có tri thức và ý chí như người đời vẫn tưởng.

Luận về tâm tính, Hoành Cừ cũng nảy ra được một vài ý tưởng mới mẻ. Những học giả trước kia thường hợp tâm tính làm một, nhưng Hoành Cừ lại cho rằng “Tâm” và “Tính” là hai vật khác nhau. Hoành Cừ lấy tâm làm tổng danh cho toàn thể tinh thần giới củ người ta, rồi từ bản thể của tâm nói đến tính, từ sự phát động của tính nói đến tình. Bởi thế, Hoành Cừ mới nói: “Tâm thống quát cả tính tình”.

Hoành Cừ là người thủ sáng ra thuyết “thiên, địa, khí chất lưỡnng tính”. Thuyết ấy đã được tiên nho khen là chính đáng, có công với Thánh Môn và có ích cho bọn hậu học. Nguyên từ khi Mạnh Kha xướng thuyết “tính thiện”, Tuân Huống xướng thuyết “tính ác”, Dương Hùng xướng thuyết “tính thiện ác hỗn”, làm cho học giả phân vân chưa định được lời nào là hợp lý. Bởi vì, nếu bảo rằng tính người ai cũng lành, làm sao lại có người độc ác? Nếu bảo rằng tính người ai cũng ác, làm sao lại có người lương thiện? Nếu bảo rằng tính người lẫn cả thiện ác, làm sao lại có người chỉ có lành mà không có dữ, hoặc chỉ có dữ mà không có lành? Đến Hoành Cừ nói rằng: “Có hình rồi mới có tính của khí chất. Khéo đem lại (cái tính lúc đầu) thì giữ được cái tính bản nhiên của trời đất phú cho mình”.

Theo Hoành Cừ, người ta ai cũng có hai tính” một tính bản nhiên của trời đất phú cho, thì ai cũng lành, vì đó là lẽ chí thiện chí mỹ của trời đất; một tính bẩm thụ của khí chất, mà khí chất có sự dày, mỏng, trong, đục khác nhau, thành thử tính ấy tùy sự bất đồng của khí chất nên trở nên lành hay dữ. Kẻ bẩm thụ được khí chất tốt đẹp, trong trẻo thì tính thiện; kẻ bẩm thụ phải khí chất mỏng manh, vẫn đục thì tính ác. Tuy nhiên, dù một người hung ác đến bực nào, nếu biết sửa đổi tính ác kia đi, sẽ giữ được nguyên cái tính lành là tính vốn có của mình.

Bởi vậy, điều chủ yêu trong phương pháp tu vi của Hoành Cừ là biến hóa khí chất. Hoành Cừ nói rằng: “Điều bổ ích lớn trong sự học đạo là ở chỗ tự có thể biến hóa khí chất. Không thế, rốt cuộc không phát minh được điều gì, không thấy được lẽ uyên áp của thánh nhân. Cho nên học giả trước hết phải biến hóa khí chất.”

Cách biến hóa khí chất của Hoành Cừ là phải giữ lòng nhân nghĩa, tự nhiên tâm hòa, thể chính; lại phải luôn luôn giữ cho sự động tác đều trúng lễ thì khí chất sẽ dần dần biến đổi rồi được trở nên tốt đẹp hoàn toàn.

Xem thế, phép tu tập để biến hóa khí chất của Hoành Cừ thực tốn lắm công phu và cần nhiều nghị lực.

Những tư tưởng về vũ trụ và tâm thể của Hoành Cừ người ta thấy trong các sách Chính mông, Tính lý thập di và Lý quật, còn quan niện về nhân sinh đạo đức của Hoành Cừ được phát hiện ra trong thiên Tây Minh [1]. Trong thiên ấy, Hoành Cừ nói rằng: “Kiền là cha, Khôn là mẹ, ta là con của Kiền Khôn [2], cùng muôn vật hồn nhiên ở trong khoảng trời đất. Ta bẩm thụ cái “khí” của trời đất mà thành hình, bẩm thụ cái “chí” của trời đất mà có tính. Dân là anh em đồng bào của ta, muôn vật là đồng loại với ta. Vua là con trưởng của cha mẹ ta, đại thần là người giúp việc cho anh trưởng ta. Ta tôn người tuổi cả, cũng như ta kính trọng anh ta; ta thương kẻ hèn yếu, cũng như ta thương em ta. Ta trọng đấng thánh nhân hợp đức với trời đất, kính bậc hiền giả được chất linh tú của trời đất. Còn những kẻ đau ốm, tàn tật, quỳnh độc [3], quan quả [4] là những anh em hoạn nạn của ta. Ta đối với trời đất, cũng như đối với cha mẹ, phải thay thế cha mẹ mà bảo tuất những anh em cùng khốn ấy… Ta được phú quí phúc trạch, ấy là trời hậu đãi ta; ta phải nghèo hèn ưu khổ, ấy là trời mài chuốt cho ta để ta gắng chí làm nên sự nghiệp. Vậy ta nên bền tâm vững chí mà phụng sự trời đất, khi còn thì thuận, khi mất thì an”.

Nhân sinh quan của Hoành Cừ là lấy thế giới làm một nhà, trời đất làm cha mẹ, nhân loại làm anh em, vạn vật làm đồng loại của mình. Vì xem thế giới là một nhà, trời đất làm cha mẹ, nên người ta phải giữ cho tròn bổn phận làm người; vì xem nhân loại là anh em, vạn vật đều là đồng loại, nên người ta phải rộng lòng nhân ái. Tư tưởng ấy rất quảng viễn, chẳng khác gì tư tưởng “vạn vật với ta là mọt” của Trang Chu.

Cao lại Vũ Thứ Lang nói rằng: “Thiên Tây Minh đã lấy những tư tưởng về luân lý của các bậc danh nho xưa nay kết thành một khối, rồi giản dị biểu minh nó ra. Thiên Thái Cực Đồ Thuyết của Liêm Khê đối với triết học cùng thiên Tây Minh của Hoành Cừ đối với luân lý học đều có cái công tích ngang nhau. Thái Cực Đồ Thuyết đã tập thành những điều phát đạt lẽ ẩn vi về vũ trụ quan của chư tử mà lập nên thuyết vũ trụ rất chính xác; Tây Minh đã tổng quát những điều phát đạt lẽ ẩn vi về nhân sinh quan của thánh hiền mà lập nên thuyết luân lý rất lớn lao. Cho nên, Thái Cực Đồ Thuyết và Tây Minh có thể gọi là hai viên ngọc bích của Tống học”.

Về chính trị, Hoành Cừ không có được một ý gì mới mẻ, vì Hoành Cừ là một người rất hiếu cổ, tin rằng bậc quân chủ nếu biết dùng pháp độ của tiên vương để trị lý quốc gia và tổ chức xã hội, thì trong nước mới có kỷ cương, phong tục mới được thuần hậu. Bởi vậy, lúc ra làm quan, cũng như khi ở hương thôn, Hoành Cừ đã chủ trương thuyết “theo lễ cũ”: dạy cho bọn trẻ con biết sai, tảo, ứng, đối; khuyên mọi người về những việc quan, hôn, tang, tế nên theo phép cũ của tiên vương. Hoành Cừ lại thường ca tụng phép tỉnh điền của nhà Chu, vì cho rằng phép ấy được quân bình hơn mọi phép khác: “Trị thiên hạ không do tỉnh địa thì không được quân bình”.

Hoàng Lội Sử có nói về Hoành Cừ rằng: “Tiên sinh lúc trẻ thích nói chuyện binh cơ, vốn là một hào sĩ phóng túng bất ky. Từ khi chịu sự tài chế của Phạm Văn Chính [1], tiên sinh mới trở lại suy tầm lẽ tính mệnh. Tiên sinh đã nhiều năm nghiên cứu học thuyết Phật, Lão, kể đến thiết tha với hai Trình, mà được quay về mối chính của Thánh học. Tinh tư lực tiễn, có nghị lực quả cảm, tự tin mình có thể đến được địa vị của thánh hiền, tiên sinh thường nói: Vì trời đất lập tâm, vì sinh dân lập mệnh, vì thánh nhân đời trước nối tuyệt học, vì vạn thế mở thái bình”.

Tóm lại, cái học của Hoành Cừ lấy Dịch làm tông, lấy Trung Dung làm đích, lấy Tam Lễ [1] làm thể. Hoành Cừ đã dựa vào Dịch để lập vũ trụ luận, dựa vào Trung Dung để lập nền luân lý học và dựa vào Tam Lễ để lập thuyết chính trị và xã hội. Trừ những điều đặc sắc ở trong thiên Tây Minh và trong những lời bàn về quỉ thần, tâm tính, cái học của Hoành Cừ tuy rộng rãi nhưng không sâu xa. Luận về vũ trụ, Hoành Cừ đã lấy cái “dụng” của đạo làm cái “thể” của đạo. Dịch có Thái cực rồi mới phân lưỡng nghi. Thái cực là đạo, lưỡng nghi là khí. Đạo thuộc hình nhi thượng, khí thuộc hình như hạ. Hoành Cừ lại tin rằng vũ trụ quan chỉ có một khí thái hòa [2] rồi mới phân ra hai mối âm, dương. Tuy Hoành Cừ cũng lập thuyết “nhất nguyên phân lưỡng đoan”, song “nhất nguyên” và “lưỡng đoan” của Hoành Cừ cũng đều là khí cả. Luận về chính trị, Hoành Cừ có những tư tưởng hẹp hòi, chỉ lấy điển chương pháp độ của tiên vương làm thước ngọc khuôn vàng, không biết tùy thời mà biến đổi. Còn sự suy tầm đạo lý, Hoành Cừ đã dùng rất nhiều công phu khó nhọc, tỏ ra khí chất và thiên tư của Hoành Cừ có phần kém cỏi hơn Liêm Khê. Tuy nhiên, Hoành Cừ vẫn là người có công lớn đối với Thánh học, và những tác phẩm của Hoành Cừ cũng giúp được nhiều điều lợi ích cho học giả đời sau.
Đầu trang

Trả lời bài viết