Nguyên bản của bác sĩ Trần Đại Sỹ
Nguồn bài viết http://vanhoaphuongdong.com
1. PHẦN DẪN NHẬP
1.1. NGUỒN GỐC
- Từ năm 1974, một số Đại-học Y-khoa Trung-Quốc dùng Dịch Cân kinh làm khóa bản giảng dạy cho các thầy Tẩm-quất (Kinésithérapeutre) và Bác-sĩ Thể-thao để luyện lực phục hồi sau khi trị bệnh bị tiêu hao chân khí. Tài liệu còn dùng trị bệnh kết hợp Tây-y, Trung-dược, Châm-cứu
- Đến Đại hội Y-khoa toàn quốc năm 1985 tại Trung-Quốc, các trường Đại-học Y-khoa trao đổi kinh nghiệm, đã chú giải, phân tích, tước bỏ phần có hại, hoặc không có kết quả đi. Từ đấy Dịch Cân kinh được giảng dạy chung với một số bộ Khí-công khác, theo thứ tự là:
o Dịch Cân kinh
o Tráng yêu bát đoạn công, (8 thức luyện cho lưng khỏe)
o Ngũ cầm công, (năm thức luyện nhái theo 5 loại thú)
o Bát đoạn cẩm, (8 thức Khí-công đẹp như gấm)
o 24 thức luyện công của Trần Hy-Di
o Nội đơn thuật (căn cứ vào Kinh Dịch, Đạo Đức kinh)
o Thất diệu pháp môn (bẩy phép luyện công tuyệt diệu)
- Sở dĩ Dịch Cân kinh được đưa lên hàng đầu vì những lý do sau:
o Dễ luyện
o Luyện mau kết quả
o Khi luyện dù trẻ con, dù người già, dù ngộ tính kém cũng thu được kết quả
o Dù luyện sai, chỉ thu kết quả ít, chứ không sợ nguy hiểm
1.2. NỘI DUNG
- Bản Dịch Cân kinh mà các Đại-học Y-khoa Trung-Quốc dùng là cổ bản từ cuối đời Minh, đầu đời Thanh, lưu truyền tới nay. Nội dung Dịch Cân kinh chia ra làm 12 thức. Mỗi thức gồm nhiều câu Khẩu-quyết, theo thể văn vần để dễ nhớ. Tôi không phiên âm, cũng như dịch nguyên văn, vì tối vô ích. Tôi chỉ giảng nghĩa, phân tích các câu quyết đó rất chi tiết. Tuy nhiên sau mỗi thức tôi cũng chép nguyên bản bằng chữ Hán, cũng như hình vẽ trong cổ bản để độc giả tham chước. Về tên mỗi thức, tôi không theo cổ bản mà theo bản của các Đại-học Y khoa Trung-Quốc.
- Cũng như tất cả thư tịch Trung-Quốc, trải qua một thời gian dài, các câu Khẩu-quyết này bị nạn tam sao thất bản. Khi san định, phân tích để đem làm tài liệu, ban tu thư các Đại-học đã vứt bớt đi hầu hết các bản, chỉ nghiên cứu 27 bản mà thôi. Phần tôi trình bầy đây là theo bản của Đại-học Y-khoa Thượng-Hải và tham chước bản của các Đại-học Thành-Đô, Giang-Tô, Bắc-Kinh, Vân-Nam.
- Mỗi thức gồm có:
o Động tác và tư thế, để chỉ thế đứng khởi đầu, rồi các động tác biến hóa, thở hít.
o Hiệu năng (actions), để chỉ tổng quát của kết quả đạt được nếu luyện đúng.
o Chủ trị (Indications). Tôi dùng chữ Chủ-trị sát nghĩa hơn là chữ Chỉ-định
o Vị trí, huyệt vị. Mỗi khi định vị trí trên cơ thể, tôi diễn tả rất chi tiết, để đọc giả có thể luyện một mình. Tuy nhiên tôi lại mở ngoặc định rõ chỗ ấy thuộc kinh nào, huyệt nào, để các vị Bác-sĩ, Châm-cứu gia, Võ-sư, dễ nhận hơn. Độc giả chẳng nên thắc mắc làm gì.
2. PHẦN CHUẨN BỊ
2.1. ĐIỀU KIỆN ĐỂ LUYỆN
- Từ sáu tuổi trở lên
- Chỗ luyện phải thoáng khí, không bị nhiễu loạn vì tiếng động, không nóng hay lạnh quá (20 đến 30 độ C)
- Ăn vừa đủ no, không đói quá, không no quá, không say rượu
- Y phục rộng
- Giải khai đại tiểu tiện trước khi luyện
- Luyện từng thức theo thứ tự
- Không nhất thiết phải luyện đủ 12 thức một lúc
- Khi mới luyện, luyện từng thức một. Tỷ dụ hôm nay luyện thức thứ nhất. Ngày mai ôn lại thức thứ nhất, rồi luyện sang thức thứ nhì. Ngày thứ ba ôn lại hai thức đầu rồi luyện thức thứ ba
- Mỗi ngày luyện một hay hai lần
- Trong toàn bộ tôi dùng chữ :
o Thổ nạp để chỉ thở hít hay hô hấp
o Thổ (hô) để chỉ thở ra. Còn gọi là thổ cố nạp tân (thở khí cũ ra, nạp khí mới vào)
o Nạp (hấp) để chỉ hít vào. Thổ nạp dài ngắn tùy ý, không bắt buộc
o Dẫn khí, tức dùng ý dẫn khí, hay tưởng tượng dẫn khí theo hướng nhất định
2.2. TRƯỜNG HỢP KHÔNG NÊN LUYỆN
- Đang bị cảm, cúm, sốt
- Bị thương các vết thương chưa đóng sẹo
- Phụ nữ có thai từ 3 tháng trở đi (Phụ nữ đang cho con bú luyện rất tốt)
- Ăn no quá hay đói quá
- Sau khi làm việc quá mệt
2.3. TƯ THÚC DỰ BỊ LÚC MỚI LUYỆN
- Đứng: thân ngay thẳng tự nhiên
- Hai chân mở vừa tầm, rộng bằng hai vai
- Gối, bàn chân tự nhiên, thẳng
- Hai vai, tay buông thõng, hai bàn tay khép nhẹ
- Mắt nhìn thẳng phía trước, không lưu ý vào hình, cảnh
- Tiến hành toàn thân buông lỏng: Mắt đầu, cần cổ, hai vai, hai tay, ngực, lưng, bụng, đùi, chân...
- Buông lỏng hay còn gọi là phóng túng, nghĩa là thả cho cơ thể tự do, không cố gắng, không chú ý, không suy nghĩ
- Ý niệm: thần tĩnh, không suy nghĩ, không chú ý đến âm thanh, mầu sắc, nóng lạnh
- Hơi thở bình thường. Đây là tư thức căn bản, lấy làm gốc khởi đầu cho nhiều thức. Tất cả các thức Dịch Cân kinh đều là Lập thức (thức đứng). Không có Ngọa thức (thức nằm) và Tọa thức (thức ngồi)
2.4. HIỆU NĂNG
- Điều thông khí huyết
- Tăng vệ khí
- Ích tủy thiêm tinh
- Kiên cân, ích cốt
- Gia tăng chân-nguyên khí
- Minh tâm, định thần
- Giữ tuổi trẻ lâu dài
- Gia tăng nội lực
2.5. CHỦ TRỊ
- Có thể trị độc lập, hay phụ trợ cho việc trị bệnh bằng bất cứ khoa nào: Tây-y, Châm-cứu, Trung-dược v.v.
- Phục hồi sức khỏe sau khi trị bệnh
- Trị tất cả các bệnh khí: khí hư, bế khí, khí hãm
- Trị tất cả các bệnh về huyết: huyết hư, bần huyết
- Trị tất cả các chứng phong thấp
- Trị tất cả các bệnh về thần kinh
- Trị tất cả các bệnh tâm, phế
2.6.THU CÔNG
Kính thưa Quý-vị, kinh nghiệm giảng huấn Khí-công mà chúng tôi thu được :
- Dù tuổi trẻ, dù cao niên
- Dù tư chất cực thông minh hay bình thường
- Dù người mới tự luyện
- Dù những vị Bác-sĩ thâm cứu Trung-y, dù các vị lương y
- Dù các võ sư, hay huấn luyện viên võ thuật
Sau khi tập ngoại công, luyện nội công, luyện khí công xong, thì chân khí nảy sinh. Chân khí nảy sinh, cần quy liễm lại, thì mới không bị chạy hỗn loạn. Vì vậy Quý-vị cần hướng dẫn cho thân chủ thu công. Đây là kinh nghiệm đặc biệt của chúng tôi, sau nhiều năm giảng dạy y học, võ học, thiền công và khí công. Phương pháp thu công, chúng tôi chép vào cuối tập tài liệu này.
Dịch Cân Kinh (Phần 1)
Dịch Cân Kinh (Phần 1)
Được cảm ơn bởi: hoalovequynh, alonekami_92
-
- Đang bị cấm
- Bài viết: 2
- Tham gia: 20:05, 23/11/10
TL: Dịch Cân Kinh (Phần 1)
Bản này tôi đã đọc qua, thấy nhiều bản khác nữa. Có những bản sau khi tập luyện thường thu được kết quả là người tập bị chứng dở dở ương ương, lại zô nhà thương chữa trị dài hạn. Thủ trưởng tôi cũng tập theo bài trên được hai năm sau đó thì bỏ hẳn vì chả có tác dụng gì nhiều, lại quay về với thuốc đông y gia truyền.