đạo mẫu việt nam

Trao đổi về phong tục, tín ngưỡng
Hình đại diện của thành viên
phminhtuan
Hội viên CLB
Hội viên CLB
Bài viết: 281
Tham gia: 14:28, 30/12/09
Đến từ: Nam sơn đạo quán

đạo mẫu việt nam

Gửi bài gửi bởi phminhtuan »

Đạo Mẫu là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam thờ các nữ thần (thường gọi là các Thánh Mẫu). Đạo Mẫu là một phần quan trọng trong hệ thống tín ngưỡng dân gian và bản sắc dân tộc của Việt Nam. Đạo Mẫu được thờ tại các đền, phủ. Ở miền Bắc Việt Nam, hầu hết các chùa cũng có bàn thờ Mẫu (Tiền Phật, hậu Mẫu).
Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Thánh Mẫu Liễu Hạnh được cho là công chúa của Ngọc Hoàng Thượng đế, do lỡ tay làm vỡ chén ngọc mà bị đày xuống trần làm con gái nhà họ Lê (ở nơi ngày nay thuộc tỉnh Nam Định) vào năm 1557. Dưới trần, bà có cuộc sống ngắn ngủi, lấy chồng và sinh con năm 18 tuổi và chết năm 21 tuổi. Do bà yêu cuộc sống trần tục nên Ngọc Hoàng cho bà tái sinh lần nữa. Trong kiếp mới, bà du ngoạn khắp đất nước, thưởng ngoạn phong cảnh thiên nhiên, gặp gỡ nhiều người. Bà thực hiện nhiều phép mầu, giúp dân chống quân xâm lược. Bà trở thành một lãnh tụ của nhân dân và thậm chí bà còn tranh đấu với vua chúa. Do đức hạnh của bà, nhân dân đã lập đền thờ bà (Đền Sòng tỉnh Thanh Hóa). Bà đã được thánh hóa và trở thành một vị Thánh Mẫu quan trọng nhất và một hình ảnh mẫu mực cho phụ nữ Việt Nam.
Cho dù cuộc đời của bà được giải nghĩa theo cách nào, Liễu Hạnh đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh của phụ nữ. Bà tách mình ra khỏi Khổng giáo với quan niệm trọng nam khinh nữ. Bà nhấn mạnh vào hạnh phúc, quyền tự do đi lại và độc lập tư tưởng. Vừa được kính sợ vừa được yêu mến, các nguyên tắc của bà về trừng phạt kẻ xấu và ban thưởng người tốt cũng đã gửi một thông điệp về sự bảo vệ và hy vọng vào công bằng xã hội cho nhân dân trong thời loạn lạc của các thế kỷ 17-19. Vừa là thần tiên vừa là người (con gái, vợ, mẹ), Liễu Hạnh chia sẻ vui buồn với những người trần tục. Bà được coi là vị thần cảm thông và độ lượng nhất. Bà trở thành một trong các vị thần của Đạo Mẫu và nhanh chóng được nâng lên vị trí quan trọng nhất, cai trị các vị thần ở dưới và thế giới con người.
Các vị thần khác của đạo Mẫu
Trong các đền thờ của Đạo Mẫu có nhiều vị thần được sắp xếp theo các thứ bậc. Đầu tiên là Vua Cha Ngọc Hoàng. Đây là vị thần tối cao và được đặt ở vị trí danh dự, nhưng lại ít được thờ cúng. Vị thần cao nhất của Đạo Mẫu là Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Các vị khác được đặt tại các ban thờ tam phủ hoặc tứ phủ. Các Chư Linh của ban Tứ Phủ được phân chia như dưới đây:
Tam Tòa Thánh Mẫu
1. Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên
Thánh Mẫu (Bà Chúa) Liễu Hạnh. Bà vốn là con vua Ngọc Hoàng, Đệ Nhị Quỳnh Hoa công chúa, ba lần giáng sinh phàm trần: lần thứ nhất bà giáng vào nhà họ Phạm (tên là Phạm Thị Tiên Nga) ở Quảng Nạp, Vỉ Nhuế, Ý Yên Nam Định (do vâng mệnh giáng sinh), được bốn mươi năm; lần thứ hai bà giáng vào nhà họ Lê (cải từ họ Trần, tên là Lê Thị Thắng, hiệu Giáng Tiên) ở An Thái, Vụ Bản, Nam Định (do lỡ tay đánh rơi chén ngọc nên bị trích giáng), kết duyên cùng Trần Đào Lang, đến năm 21 tuổi thì về trời; lần thứ ba bà giáng hiện tại Nga Sơn, Thanh Hóa (do tình nguyện hạ trần để tái hợp cùng Mai Sinh là hậu kiếp của Trần Đào Lang) được hơn một năm thì mãn hạn hồi tiên.
Sau đó bà hiển linh giúp dân giúp nước nên được các triều đại sắc phong là : “Mã Hoàng Công Chúa, Thượng Đẳng Tối Linh Tôn Thần”, “Thượng Thượng Đẳng Tối Linh Vi Bách Thần Chi Thủ” (triều vua Lê Thần Tôn), “Hộ Quốc Bình Nhung Chế Thắng Bảo Hòa Diệu Đại Vương” (triều vua Lê Huyền Tôn). Bởi vậy trong văn thỉnh Đức Thánh Mẫu mới có hát rằng:
“ Thỉnh mời Đệ Nhất Thiên Tiên
Sắc phong Chế Thắng xe loan ngự về
Phủ Dày, Vân Cát thôn quê
Nghĩa Hưng, Thiên Bản họ Lê cải trần
Hình dung cốt cách thanh tân
Mười năm định giá hôn nhân xướng tùy”
Đền thờ Mẫu Liễu Hạnh có ở khắp mọi nơi nhưng các nơi chính vẫn là những nới Mẫu giáng trần hoặc hiển linh lưu dấu thánh tích như: Phủ Nấp_Phủ Quảng Cung Đệ Nhất ở Vỉ Nhuế, Ý Yên, Nam Định (là nơi Mẫu giáng trần lần đầu tiên). Nguy nga nhất là quần thể Phủ Dày (nơi Mẫu giáng trần lần thứ hai) với các đền phủ chính là: Phủ Công Đồng, Phủ Chính Tiên Hương, Phủ Vân Cát, Phủ Bóng (Đền Cây Đa Bóng), Phủ Giáp Ba (Đông Phù Giáp Ba), Phủ Tổ, Đền Khởi Thánh và Lăng Mẫu (do vua Khải Định cùng Hoàng Hậu cầu tự, sinh ra được vua Bảo Đại nên xây để tạ ơn)… Rồi Đền Đồi Ngang_Phố Cát, Đền Sòng thuộc Thanh Hóa (nơi Mẫu giáng hiện lần thứ ba). Ngoài ra còn có Phủ Tây Hồ, Đền Rồng, Đền Dâu, Quán Cháo…đều là những nơi Mẫu để lại thánh tích.
Ngày hội chính của Mẫu là ngày 3/3 âm lịch, tức là ngày Mẫu hóa trong lần giáng sinh thứ hai, ngoài ra ngày rằm tháng 8 ở Phủ Tây Hồ cũng mở tiệc rất long trọng.
2. Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn
Thánh Mẫu (Bà chúa) Sơn Lâm. Bà vốn là con Vua Đế Thích, lần đầu hạ phàm bà là Quế Hoa Mị Nương công chúa, con Vua Hùng Vương. Theo sự tích khi sinh bà ra, Hoàng Hậu đau quá phải vịn vào cành quế mới sinh hạ được bà nên Vua Hùng Vương mới đặt tên cho bà là Quế Hoa công chúa, sau khi sinh được bà thì Hoàng Hậu cũng qua đời nên bà quyết chí tu hành, không kết duyên, về sau cùng mười hai nàng thị nữ vào rừng sâu, được lão tổ truyền đạo. Lần thứ hai bà giáng sinh vào cửa nhà họ Cao, một người tù trưởng trên đất Yên Bái.
Sau đó nhiều lần bà hiển linh, dạy dân trồng trọt, làm ăn, biết lên rẫy làm nương, đi rừng, làm ruộng bậc thang, được nhân dân suy tôn là: “Diệu Tín Thuyền Sư Diệu Nghĩa Tàng Hình”, “Bạch Anh Trưởng Quản Đỉnh Thượng Cao Sơn Thần Nữ Cao Mường Sơn Triều”. Sau này bà lại linh ứng giúp vua Lê Thái Tổ nên được gia phong là: “Lê Mại Đại Vương”. Trong văn thỉnh mời Đức Thánh Mẫu có hát rằng:
“Thỉnh mời Đệ Nhị Chúa Tiên
Vốn xưa giá ngự trên đền Đông Cuông
Hình dung nhan sắc khác thường
Giá danh đổi một hoa vương khôn bì
Biết đâu lá thắm thơ bài
Lòng trinh chẳng động một vài giá xuân”
Đền thờ Mẫu Thượng Ngàn có ở khắp mọi vùng, nơi nào có rừng núi thì đều có đền Mẫu Thượng. Nhưng nổi tiếng bậc nhất vẫn là cụm di tích Đền Đông Cuông, Đền Vọng Đông và Đền Tuần Quán tại Yên Bái (là nơi Mẫu giáng làm con gái nhà tù trưởng họ Cao). Tiếp nữa có Đền Công Đồng Bắc Lệ và Đền Thất Khê tại huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn, tương truyền là nơi vua Lê Thái Tổ lập để ghi nhớ công ơn Mẫu giúp vua. Ngoài ra còn có Đền Suối Mỡ thuộc Bắc Giang (xưa thuộc Hà Bắc, là nơi dấu tích của Mẫu khi xưa học đạo), Đền Tam Cờ trên tỉnh Tuyên Quang, Đền Mẫu Thượng thuộc thị xã Lào Cai.
Ngày hội chính của Mẫu Đông Cuông thường tổ chức vào ngày Mão đầu tiên của năm theo âm lịch. Còn trên Đền Bắc Lệ lại tổ chức hội vào ngày 20/9 âm lịch.
3. Mẫu Đệ Tam Thoải Cung
Thánh Mẫu (Bà Chúa) Thoải Phủ. Bà vốn là con Vua Bát Hải Thủy Quốc Động Đình, kết duyên cùng Kính Xuyên (là con Vua Đất). Nghe lời tiểu thiếp Thảo Mai, Kính Xuyên vu cho bà thất tiết, đem đóng cũi, bỏ lên rừng cho thú dữ ăn thịt. Tại nơi rừng sâu bà không những được thú rừng yêu quý, mang vật quả đến dâng mà còn gặp được nho sĩ Liễu Nghị. Bà bèn nhờ Liễu Nghị mang thư kể hết sự tình về cho vua cha. Sau đó bà được minh oan, kết duyên cùng Liễu Nghị, còn Kính Xuyên và Thảo Mai thì bị trừng phạt.
Khi ở chốn Động Đình bà vốn là con vua cha Bát Hải nên được gọi là: “Động Đình Công Chúa Ngọc Hồ Thần Nữ”, sau này bà còn có danh hiệu: “Bạch Ngọc Thủy Tinh Xích Lân Long Nữ Công Chúa”.Vậy nên trong văn thỉnh Đức Thánh Mẫu cũng có hát rằng:
“Thỉnh mời Đệ Tam Thánh Tiên
Xích Lân Long Nữ ngự miền Thoải Cung
Kính Xuyên sớm kết loan phòng
Thảo Mai tiểu thiếp ra lòng gieo oan
Kinh Xuyên chẳng xét ngay gian
Vàng mười nỡ để lầm than sao đành”
Đền thờ Mẫu Thoải có khá nhiều nhưng hầu hết đều do lòng thành kính của nhân dân hoặc do nơi cửa sông cửa biển chứ hầu như không có dấu tích của Mẫu vì Mẫu không giáng trần. Nổi tiếng nhất có Đền Mẫu Thác Hàn Sơn ở Hà Trung, Thanh Hóa, nơi bến Đò Lèn, còn có Đền Mẫu Thoải ở thị xã Lạng Sơn, gần sông Kì Cùng, và có ngôi đền Dầm ở bến sông Hồng, gần cầu Chương Dương, Gia Lâm cũng tên là Đền Mẫu Thoải hay còn gọi là Đền Cửa Sông. Ngày tiệc chính của Mẫu Thoải là ngày 10/6 âm lịch, thường được tổ chức long trọng nhất là ở Đền Mẫu Thác Hàn Sơn.
(sưu tầm từ blog minh đức)
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
phminhtuan
Hội viên CLB
Hội viên CLB
Bài viết: 281
Tham gia: 14:28, 30/12/09
Đến từ: Nam sơn đạo quán

TL: đạo mẫu việt nam

Gửi bài gửi bởi phminhtuan »

Trần Triều Hiển Thánh (陳朝顯聖)
Khi thỉnh trần triều (trong khóa lễ) người ta thường thỉnh: Trần triều vương phụ vương mẫu vương quý phi, tứ vị hoàng tử, nhị vị vương cô, vương tế, vương tôn
1. Đức Đại Vương Trần Triều
Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Ông là con An Sinh Vương Trần Liễu, cháu gọi vua Trần Thái Tôn là chú ruột, sinh ngày 10/12 âm lịch. Còn có truyền thuyết kể lại rằng, nguyên xưa kia Đức Thánh Tản Viên thấy luồng khói trắng bay từ núi Tây hóa thành tinh thuồng luồng, xuống nhà người đàn bà kia tư thông, ngài nghĩ ắt hẳn đó sẽ đầu thai thành kẻ gây hậu họa cho nhân gian (tên đó sau này chính là Phạm Nhan_Nguyễn Bá Linh, cha là người Tàu Phúc Kiến, mẹ là người Đông Triều, nằm mơ thấy tinh thuồng luồng mà sinh ra hắn), vậy nên Đức Thánh Tản liền đem tâu chuyện đó với Ngọc Hoàng, Ngọc Hoàng hỏi rằng ai có thể xuống hạ phàm để trừ diệt mối hậu họa đó thì có Thanh Tiên Đồng Tử tình nguyện xin xuống phàm để giúp dân. Ngọc Đế ưng thuận sai ban thần kiếm, cờ ấn, tam tài của Lão Tử, ngũ bảo của Thái Công rồi truyền Kim Đồng Ngọc Nữ hộ giá xe mây xuống nước Nam hạ phàm. Liền đó Vương Mẫu nằm mơ thấy có người áo xanh tự xưng là người của Thiên Đình xuống đầu thai phù đời, từ ấy bà hoài thai, đủ ngày đủ tháng thì hạ sinh được ông, trong nhà ngào ngạt hương thơm và ánh sáng. Vậy nên, trong bản văn cũng có đoạn:
"Vương Phụ là Đức An Sinh
Cùng Đức Thánh Mẫu cầm lành hợp duyên
Điềm lành vốn tự thiên nhiên
Thanh Tiên Đồng Tử phút liền đầu thai
Chí kì sinh đặng con trai
Tài kiêm văn võ ít ai sánh bằng"
Sau này ông giúp vua Trần hai lần chống giặc Nguyên Mông, ông sinh được bốn người con trai (thường gọi là tứ vị vương tử) và hai người con gái (thường gọi là nhị vương cô hay nhị vị vương bà) đều có công lao giúp vua Trần chống giặc Nguyên, ngoài ra trong công cuộc “Sát Thát” còn có rất nhiều đóng góp của vương tế của ông là Phạm Ngũ Lão Điện Súy (thường gọi là Đức Thánh Phạm Điện Súy hay Phù Ủng Đại Vương) cùng các tướng tài của ông như: Dã Tượng, Yết Kiêu (thường gọi là đôi bên Đức Ông Tả Hữu)… Có thể nói trong công cuộc bảo vệ đất nước dưới thời Trần, có công đóng góp không nhỏ của gia đình ông. Hơn nữa ông còn là người một lòng vì nước vì dân, vì nghĩa lớn mà quên đi mối thù nhà: ông không nghe lời cha giành lại ngai vàng từ tay vua Trần, vậy nên được vua Trần nể trọng, tin tưởng, thường hỏi ý kiến ông về những việc đại sự quốc gia. Ông mất vào ngày 20/8 âm lịch.
Sinh thời, do công lao lớn của mình ông được vua Trần phong là Quốc Công Tiết Chế Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương hay là Đức Thượng Từ. Vua Trần Anh Tông ( xét về thứ bậc thì vừa là cháu lại là cháu rể của ông, vì vua lấy Cô Bé Cửa Suốt_Tĩnh Huệ Công Chúa tức là cháu gái của ông) phong ông là Đức Thượng Phụ Thượng Quốc Công Bình Bắc đại nguyên soái Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương (tước hiệu này nếu xét theo thời đại của chúng ta thì sẽ là: Ủy viên bộ chính trị, bí thư quân ủy trung ương, Nguyên Súy, Bộ trưởng Bộ quốc phòng. Sau này, khi mất đi tên tuổi ông vẫn vang lừng không chỉ trong Việt Nam mà còn lan ra toàn thế giới (ông là một trong số 10 vị tướng tài ba nhất trên thế giới, cùng với các vị như Nã Phá Luân (Napoleon), Thành Cát Tư Hãn... là những người có ý nghĩa to lớn với lịch sử thế giới), người ta tôn làm Đức Thánh Trần. Còn trong tín ngưỡng dân gian, người ta thường tôn danh ông là Đức Thánh Ông Trần Triều hay ngắn gọn hơn là Đức Ông Trần Triều.
Nếu một người có căn số hầu các giá nhà Trần thì giá Đức Ông có thể là giá mở khăn đầu tiên (vì Tam Tòa Thánh Mẫu không tung khăn), tuy nhiên cũng khá hiếm khi có người hầu về Đức Ông mà chỉ khi đại sự cần thỉnh ông về để trừ tà sát quỷ thì mới hầu ông (vì theo quan niệm cổ: “bóng” Đức Ông khá nặng nên không phải đồng cựu đã đội lệnh nhà Trần thì không thể hầu được) hoặc khi đại tiệc mở phủ thường thỉnh ông về chứng đàn Trần Triều (gồm voi, ngựa, thuyền rồng, tráp áo...) hoặc đồng mới tạ phủ và làm lễ đội lệnh nhà Trần. Khi ngự đồng, ông mặc áo đỏ, thêu rồng và hổ phù (có một số nơi hầu ông, chân đi hia, đầu đội mũ trụ), có thể mặc áo choàng bên ngoài, một số vùng hầu ông thường múa thanh đao. Khi về đồng, Đức Thánh Ông thường làm phép để sát quỷ trừ tinh (điều này chỉ có đúng đồng nhà Trần, có đội lệnh mới có thể làm như thế khi hầu ông) đó là: “lên đai thượng”nghĩa là cầm dải lụa đỏ thắt cổ (khi thắt vào cổ, mặt người hầu thường bạnh ra, đỏ,thì thế mới là thật đồng), lúc này người hầu dâng phải khéo léo móc một ngón tay vào dây thắt cổ để cho dãn bớt (vì dù là thật đồng nhưng Đức Thánh Ông chỉ giáng li giáng lai trên đầu đồng);“rạch lưỡi” nghĩa là dùng con dao hay vật nhọn rạch vào lưỡi người hầu để lấy máu (gọi là Đức Ông ban “dấu mặn”) sau đó phun ra tờ giấy phù hoặc rượu, có người xin giấy phù mang về để hộ thân trừ tà, có người bị tà mà quấy nhiễu lại xin rượu có máu, uống để trục tà; ngoài ra còn có uống dầu sôi, nung nóng bàn cuốc rồi đặt chân lên… Tuy nhiên, hiện nay, các lối hầu cổ như vậy đã ít dần, chỉ còn một số người khi hầu Đức Đại Vương Trần Triều là có thể làm như vậy. Làm như thế người ta gọi là làm phép nhà Trần ra uy, vậy nên văn hát giá Đức Thánh Ông Trần Triều có một số đoạn như:
“Thánh Ông có lệnh truyền ra
Các quan thủy bộ cùng là chư dinh
Hô vang trấn động Nam thành
Đánh Đông dẹp Bắc tung hoành mọi nơi”
Hay khi Đức Ông về ra uy tróc tà (lên đai thượng hay rạch lưỡi ban dấu mặn) người ta cũng hát rằng:
“Phép ông đôi má thu phình
Lưỡi thời lấy huyết quyết linh thần phù”
Do quan niệm dân gian nên khi có tà mà dịch bệnh người ta thường cầu đảo Đức Thánh Trần để sát quỷ trừ tà, nhất là phụ nữ bị bệnh về sản khoa (theo dân gian, phụ nữ bị bệnh sản khoa là do quỷ Phạm Nhan gây ra, mà Đức Ông lại là người đã chém đầu quỷ Phạm Nhan); ngoài ra có câu chuyện còn kể rằng nếu có giặc dã, vào đền xin Đức Ông mà thấy tráp kiếm có tiếng kêu bên trong thì nhất định là thắng lớn.
Đền thờ Đức Thánh Ông Trần Triều cùng với gia đình và tướng lĩnh của ông được nhân dân lập lên ở khắp nơi nhưng uy nghiêm và nổi tiếng nhất phải kể đến: Đền Kiếp Bạc ở Chí Linh, Hải Dương, được lập lên trên nền dấu tích ở nơi mà năm xưa ngài cho đóng quân doanh Vạn Kiếp, sau đó phải kể đến hai ngôi đền ở đất Nam Định, nguyên quán của ngài, đó là Đền Cố Trạch (Đền Trần) và Đền Bảo Lộc, đều thuộc Thiên Trường, Nam Định. Ngoài ra còn có Đền Phú Xá ở Hải Phòng (tương truyền là nơi đóng quân nghỉ chân năm xưa)
Ngày tiệc Đức Thánh Trần thường được tôn là ngày “giỗ Cha” của toàn thể dân tộc Việt Nam vào ngày 20/8 âm lịch (là ngày Đức Ông hóa) và được tổ chức long trọng nhất tại đến Kiếp Bạc. Ngoài ra vào giữa đêm ngày 14/1 âm lịch còn có tổ chức ban ấn của Đức Thánh Trần tại Đền Bảo Lộc.
2. Đức Ông Đệ Tam
Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng Đệ Tam Vương Tử. Đức Thánh Ông Hưng Đạo Đại Vương có tất cả bốn người con trai gọi là: Tứ Vị Vương Tử, nhưng chỉ có Đức Ông Đệ Tam là thường được hầu trong hàng Trần Triều. Ông vốn là con trai thứ ba của Hưng Đạo Vương, sau này, trong khi hỏi ý kiến về di nguyện của An Sinh Vương Trần Liễu trước đây, Đức Đại Vương có hiểu lầm ẩn ý trong câu trả lời của ông nên nghĩ rằng ông muốn tạo nghịch phản nên sai ông ra trấn thủ đất Vân Đồn, Quảng Ninh (thực chất là đày ông ra đó) và không cho ông phủ phục trước di quan khi Hưng Đạo Đại Vương mất. Tuy bị hàm oan, phải chịu đày ải ra cửa ải nhưng ông vẫn một lòng vì nước vì dân, có công lớn trong công cuộc trấn giũ cửa ải ở đất Quảng Ninh.
Vì công lao của ông trong việc trấn ải ở cửa biển nước ta nên người đời suy tôn ông là: Đức Đệ Tam Phó Súy Đông Hải Đại Vương Trần Quốc Tảng, còn trong tín ngướng hầu đồng người ta thường thỉnh ông là : Đức Ông Đệ Tam hay Đệ Tam Đức Thánh Ông Cửa Suốt Cửa Đông.
Thông thường những người hầu Hội Đồng Trần Triều thường hay hầu về Đức Ông Đệ Tam. Khi về ngự đồng, ông thường mặc trang phục màu đỏ giống với Đức Thánh Trần, hoặc cũng có một số nơi người ta cũng mặc áo trắng (có điều này sỡ dĩ là vì sự giao thoa giữ tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần và Đạo Mẫu Tứ Phủ nên coi hàng Đệ Tam mặc áo trắng, hơn nữa ông cũng trấn giữ nơi cửa biển (thoải) là Cửa Đông Cửa Suốt) và cũng làm các ấn phép giống với Đức Đại Vương như: lên đai thượng, rạch lưỡi ban dấu mặn, thư phù bắt quyết…Trong văn Đức Ông Đệ Tam cũng có đoạn hát kể về điển tích của ông như:
“Thời Trần Thị mở mang Nam Hải
Đức Đệ Tam dòng dõi kim chi”
Đền thờ Đức Ông Đệ Tam quy mô và bề thế nhất là Đền Cửa Ông ở ngoài Quảng Ninh. Ngày đại tiệc của Đức Ông Đệ Tam là ngày 3/2 âm lịch
3. Đệ Nhất Vương Cô
Đệ Nhất Vương Cô (Vương Bà) Quyên Thanh Công Chúa Trần Thị Trinh. Cô là con gái lớn của Hưng Đạo Đại Vương. Cô lấy vua Trần Nhân Tông, trở thành Vương Phi Nhất Phẩm đương triều, danh tiếng bậc nhất nên danh hiệu là: Đệ Nhất Nữ Thần Nương Tiến Cung, sau này cô được vua Trần Nhân Tông gia phong là: Đệ Nhất Khâm Từ Hoàng Hậu Quyên Thanh. Sau này cô đi tu, theo vua Trần Nhân Tông lên Yên Tử, và cô đã cùng với các cung phi khác thác hóa ở chùa Giải Oan, Yên Tử, Quảng Ninh.
Rất hiếm khi có người hầu về Đệ Nhất Vương Cô mà chỉ thỉnh cô tráng mạn (vì cô theo dòng tu ở ẩn trong núi nên hiếm khi ra ngự đồng, thế nên chỉ có một số ít các thanh đồng theo chân tu mới hầu cô). Khi ngự đồng cô mặc áo đỏ (có thể thêu rồng phượng hoặc áo gấm), đầu đội khăn đóng (khăn vành dây), dùng von đỏ thắt dải buộc lên.
Cô thường được thờ cùng với Đức Đại Vương ở trong các đền phủ. Tuy nhiên ở Đền Kiếp Bạc và Đền Bảo Lộc thì cô lại ngồi cận bên tả Đức Vương Phi (hay Vương Phu Nhân của Hưng Đạo Vương). Ngày tiệc của Vương Cô Nhất là 12/1 âm lịch. Khi thỉnh cô, văn thường hát rằng:
“Hoa hải đường thần thông Cô Nhất
Tức Mặc thư là đất trâm anh”
Hoặc cũng có khi hát là:
” Đức Thái Hậu ban cho mỹ tự
Đệ Nhất Vương Cô đại nữ Quyên Thanh
Kim chi ngọc diệp rành rành
Cung phi nhất phẩm đương triều ai hơn”
4. Đệ Nhị Vương Cô
Đệ Nhị Vương Cô (Vương Bà) Đại Hoàng Công Chúa Trần Thị Tĩnh. Cô là con gái thứ của Hưng Đạo Đại Vương. Còn tương truyền rằng Vương Phu Nhân nằm mộng thấy vì sao sa xuống rồi lại thấy rồng ấp bên mình thì mang thai cô vào năm Bính Thìn. Cô tuy là con gái ruột của Đức Đại Vương và Vương Phu Nhân nhưng sau này lại phải đổi ra thành nghĩa nữ lấy hiệu Anh Nguyên (Thủy Tiên) Quận Chúa. Nên danh hiệu của cô là : Đệ Nhị Nữ Đại Hoàng Anh Nguyên Quận Chúa.Sở dĩ vậy là có lí do: Hưng Đạo Vương rất quý mến Phạm Ngũ Lão, muốn gả cô cho Đức Ông họ Phạm, nhưng quy định của tôn thất nhà Trần là phải lấy người trong hoàng tộc, để bảo vệ ngai vàng. Vậy nên Đức Ông phải cho cô ra làm con nuôi, để khỏi phạm vào hoàng luật. Cô mang danh nghĩa tử của Hưng Đạo Vương, kết duyên cùng Phạm Ngũ Lão, trở thành Phạm Điện Súy Phu Nhân. Cũng có khi, cô còn thay quyền Hưng Đạo Vương, chấp chính ba quân, cô cũng không hề ngại gian nan, sát cánh cùng cha nơi chiến trường trong sự nghiệp vệ quốc thời Trần. Sử nhà Nguyên xưa cũng chép rằng: Công Chúa (tức chỉ Vương Cô) dáng thanh như ngọc da trắng như ngà, dáng đi khoan thai giọng nói dịu dàng nhưng khi ra trận thi uy dũng, nam nhi ít người sánh bằng.
Khi hầu về hàng Hội Đồng Trần Triều, giá Đệ Nhị Vương Cô hay được hầu nhất (vì cũng theo một số quan niệm, thì Đệ Nhị Vương Cô thường hay theo về bên Tứ Phủ, vậy nên những người hầu Trần Triều cùng với Tứ Phủ thường hay mở khăn giá Đệ Nhị Vương Cô). Khi ngự đồng cô thường mặc trang phục giống như Vương Cô Nhất nhưng không phải màu đỏ mà là màu vàng, tuy nhiên cũng do ảnh hưởng của Tứ Phủ, một số nơi hầu Vương Cô Đôi lại mặc màu xanh, và hiện giờ thì đa phần người ta thường dùng màu xanh, khi ngự, cô dắt một chiếc kiếm và cờ lệnh sau lưng, còn tay thì cũng cầm một kiếm một cờ lệnh. Trong hàng Trần Triều, cô là giá thứ 3 có làm phép để trừ tinh tróc tà, khi hầu cô người ta thường làm một số phép như: xiên lình (nghĩa là lấy chiếc ngạnh nhọn bằng sắt trắng, xiên từ má này sang má kia, bên trong miệng phải có ngậm quả cau. Tuy nhiên hiện giờ cách xiên lình này không mấy người làm được mà nếu có người nào hầu về cô làm phép xiên lình thì thường chỉ dùng hai chiếc ngạnh, đêm vào hai bên má rồi xoắn lại cho nó chọc sâu vào má chứ không xiên từ bên này sang bên kia như lối cổ), ngoài ra còn có phép tiến lửa tróc tà (nghĩa là người hầu về cô đốt một bó hương rồi cho vào mồm ngậm tắt, vậy nên còn gọi là ăn lửa).
Cô cũng thường được thờ với Đức Đại Vương trong các đền phủ. Nhưng riêng ở Đền Kiếp Bạc và Đền Bảo Lộc, cô lại ngồi cận bên hữu của Đức Vương Phu Nhân. Ngày tiệc của Vương Cô Đôi là ngày 5/5 âm lịch. Trong khi hầu cô, văn thường hát những đoạn như:
“Cô Đôi tên hiệu Đại Hoàng
Quê cô Bảo Lộc, Thiên Trường, Trần Quan”
Hay còn có những đoạn hát về tài của Vương Cô như:
"Hậu quân nghìn dặm xa xôi
Xem như nội tướng thực tài phu nhân"
Và có cả đoạn:
"Trên Non Đảo đùng đùng gió cuốn
Đỉnh Dược Sơn cuồn cuộn mây bay
Lâu đài Đệ Nhị Vương Cô
Đào Tiên nảy lộc non bồng khai hoa
Vương Phi thấy sao sa đơn chiếc
Năm Bính Thìn rồng ấp một bên"
5. Cô Bé Cửa Suốt
Tiên Cô Bé trấn giữ Cửa Suốt. Cô Bé Cửa Suốt là cháu gái của Hưng Đạo Vương, cùng với Đức Ông Đệ Tam trấn ải, quyền cô thống lĩnh ba quân, thủy binh trấn giữ ở ngoài Cửa Suốt vậy nên được gọi là Cô Bé Cửa Suốt (“Cô Bé” ở đây do thứ bậc của cô trong Hội Đồng Trần Triều, chứ cô không giống với các Cô Bé trong hàng Tiên Cô của Tứ Phủ). Còn có sử ghi lại cô vốn là Tĩnh Huệ Công Chúa, còn gái của Đức Ông Phạm Ngũ Lão và Đệ Nhị Vương Cô Đại Hoàng Công Chúa, nên còn gọi là Phạm Điện Súy Công Nữ Tử, sau này lại lấy vua Trần Anh Tông vậy nên có danh hiệu là Anh Tông Hoàng Đế Thứ Phi
Giá Cô Bé Cửa Suốt cũng thường hay được hầu, khi ngự về đồng cô cũng mặc trang phục giống với Nhị Vị Vương Cô nhưng là màu trắng (cũng là do sự ảnh hưởng của Tứ Phủ), thông thường cô hay cầm mái chèo và lá cờ lệnh, chèo thuyền ra trấn giữ Cửa Suốt, nhưng khi đánh trận, về ngự đồng cô cũng múa kiếm và cờ lệnh
Cô Bé Cửa Suốt được thờ trong Đền Cửa Ông cùng với Đức Ông Đệ Tam, nhưng cô cũng có ngôi đền nhỏ riêng ở gần Đền Cửa Ông và được gọi tên là: Đền Cô Bé Cửa Suốt hay Đền Cặp Tiên. Ngày tiệc của cô là ngày 2/3 âm lịch. Khi thỉnh cô, văn hát rằng:
“ Trông ra Cửa Suốt tờ mờ
Chiếc thoi Cô Bé lững lờ ngoài khơi”
6. Cậu Bé Cửa Đông
Thánh Cậu Bé trấn giữ Cửa Đông. Cậu Bé Cửa Suốt là cháu trai của Hưng Đạo Vương, ngang bằng với Cô Bé Cửa Suốt, cậu là Cậu Bé Quận bản đền trấn giữ trong Đền Cửa Ông, được Đức Ông Đệ Tam trao quyền trấn giữ Cửa Đông (cách gọi “Cậu Bé” cũng là do thứ bậc trong nội tộc Trần Triều chứ không giống với các Cậu Bé trong hàng Thánh Cậu của Tứ Phủ). Cậu Bé còn được phong là Hiển Thánh Vương Tôn Chủ Bộ Tướng
Giá Cậu Bé Cửa Suốt cũng ít khi ngự về, khi ngự đồng, cậu mặc áo vàng, đầu vấn khăn ngang và cầm đôi hèo hoa.
Cậu Bé Cửa Suốt được thờ làm Cậu Quận bản đền, coi sóc ra vào Đền Cửa Ông. Khi thỉnh cậu, văn hát rằng:
“Cửa Đông sóng dậy ầm ầm
Thỉnh mời Cậu Bé lai lâm ngự về”
(sưu tầm từ blog minh đức)
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
phminhtuan
Hội viên CLB
Hội viên CLB
Bài viết: 281
Tham gia: 14:28, 30/12/09
Đến từ: Nam sơn đạo quán

TL: đạo mẫu việt nam

Gửi bài gửi bởi phminhtuan »

Tam vị Chúa Mường (山林嶽府占卜神婆):
1. Chúa Đệ Nhất Tây Thiên
Chúa Bà Đệ Nhất Tây Thiên là bà chúa thượng dưới thời Hùng Vương. Bà là người con gái sinh trưởng trong một gia đình có dòng dõi Hùng Vương. Tương truyền rằng đức thân mẫu của bà nằm mơ thấy tiên nữ từ đám mây ngũ sắc hạ trần, rồi mang thai và sinh ra chúa bà. Càng lớn lên, bà càng sinh đẹp giỏi giang, sau lại tập hợp quân dân giúp Vua Hùng đánh đuổi giặc Ân. Sau này, đến ngày hóa, bà được quần tiên đón rước về chầu Đế Đình.
Chúa Đệ Nhất là người ban lộc bói toán và cúng lễ. Bà rất ít khi ngự đồng. Thông thường, trong lễ khai đàn mở phủ mà có dâng đàn Chúa Bói thì người ta thường thỉnh bà về chứng tòa Chúa Đệ Nhất màu đỏ. Khi ngự đồng, chúa mặc áo đỏ (áo lụa thêu phượng hoặc áo gấm), cầm quạt khai quang.
Chúa Tây Thiên không có đền thờ chính mà chỉ được thờ trên Đền Hùng thuộc tỉnh Phú Thọ và bà cũng được thờ cận bên Mẫu Tây Thiên ở Tam Dương, Tam Đảo, Vĩnh Phúc. Theo một tài liệu thì ngày tiệc của Chúa Đệ Nhất Tây Thiên là ngày 10/5 âm lịch (tương truyền là ngày chúa giáng hạ trần phàm). Khi thỉnh chúa, văn thường hát:
“Dâng văn Đệ Nhất Chúa Tiên
Tam Đảo, Vĩnh Phúc, Tây Thiên chúa về”
Hay cũng có đoạn hát rằng:
“Cung vàng lầu ngọc thảnh thơi
Trăng thanh gió mát cảnh trời bao la
Nửa đêm giờ Tí canh tà
Chúa đi bạch Phật Di Đà Quan Âm
Phật ban tâm phép nhiệm màu
Quy y Tam Bảo cúi đầu vâng theo”
2. Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ
Chúa Bà Đệ Nhị Nguyệt Hồ là bà chúa bói dưới thời Hùng Vương (có tài liệu lại nói chúa cũng giáng thế dưới thời Lê Trung Hưng, lại có tài liệu nói bà là con gái nuôi của Vua Hùng). Tương truyền rằng, chúa bà vốn là người thôn nữ ở đất Bắc Giang, từ nhỏ đã sống trong cảnh cơ hàn: vừa bị mù lòa lại vừa mồ côi cả cha lẫn mẹ. Nhưng bà là người rất tốt bụng, thảo hiền, có lòng nhân hậu, vì vậy, Lão Tổ Quỷ Cốc Tử Tiên Sinh đã truyền dạy cho bà những đạo pháp của mình (thuật chiêm tinh, bói toán) và đặt tên hiệu cho bà là Nguyệt Hồ (hoặc có nơi gọi là Nguyết Hồ). Sau khi đã học được phép của Tiên Sinh, bà dành hết cuộc đời mình để làm phúc cho dân lành. Chẳng bao lâu, danh tiếng đồn của Chúa Nguyệt Hồ đã lan tới kinh đô, đức vua bèn truyền chỉ, mời chúa về kinh đô (theo một số tài liệu ghi thì Vua Hùng nhận bà làm con nuôi), mỗi lần ra trận, vua đều cho người đến thỉnh cầu, nhờ chúa bà bấm đốt tay, xem lành dữ và hỏi chuyện quân cơ, mưu lược, bày binh bố trận.
Trong Tam Vị Chúa Mường thì bà Chúa Nguyệt là bà chúa bói danh tiếng bậc nhất và rất hay ngự đồng. Thông thường, khi có mở đàn Chúa Bói mà không thỉnh được cả Tam Vị Chúa Mường về ngự thì người ta thường hay thỉnh bà về chứng cả ba tòa chúa (Màu đỏ, màu xanh và màu trắng) còn bình thường thì chúa về chứng tòa Chúa Đệ Nhị màu xanh. Khi ngự đồng, chúa mặc áo xanh, múa mồi. Đôi khi chúa ngự về còn dùng lá trầu quả cau để xem bói, phán bảo trần gian.
Chúa Nguyệt Hồ được thờ chính tại Đền Nguyệt Hồ ở gần ga Kép, chợ Bố Hạ, tỉnh Bắc Giang (tương truyền là nguyên quán của Bà Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ khi xưa). Tiệc của Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ là ngày 15-16/2 âm lịch. Khi chúa về ngự văn thường hát các đoạn nói về điển tích của chúa như:
“Trên ngôi cao rầu rầu nét mặt
Chiếc gậy son chúa đặt phía sau
Lá trầu với lại quả cau
Tiền đài chiếc tráp sơn màu xanh la”
Hay cũng hát sử chúa rằng:
“ Nhớ người con gái thôn quê
Không may nhỡn đãng nhưng đà nhập tâm
Sống âm thầm mồ côi cha mẹ
Gặp được thầy Quỷ Cốc Tiên Sinh
Một đời làm phúc quên mình
Tiên sinh truyền phép ban danh Nguyệt Hồ
Tiếng đồn cho tới kinh đô
Có bà Chúa Bói Nguyệt Hồ rất hay”
3. Chúa Đệ Tam Lâm Thao
Chúa Bà Đệ Tam Lâm Thao là bà chúa chữa dưới thời Hùng Vương. Bà còn có tên là Bà Chúa Ót (theo một số ý kiến thì Tam Vị Chúa Mường có bà chúa Lâm Thao là bà chúa thỉnh cuối cùng nên được coi là út, đọc chệch đi là Bà Chúa Ót). Tương truyền rằng, bà là công chúa, con gái ruột của Vua Hùng, từ bé đã bị hỏng một bên mắt. Tuy vậy bà vẫn một lòng giúp vua cha trị quốc, bà là người lo việc quân nhu quân lương trong các cuộc chiến trận, ngoài ra bà còn là người có tài bốc thuốc nam, bà đi khắp vùng đem tài năng của mình để cứu giúp dân lành. Bà Chúa Đệ Tam Lâm Thao cũng là một người có lòng mộ đạo, thường xuyên ăn chay niệm phật để cầu cho quốc thái dân an.
Chúa Bà Lâm Thao cũng là vị chúa rất hay ngự về, sau Chúa Nguyệt Hồ. Như hai vị chúa trên, khi người ta dâng đàn Chúa Bói thì thường thỉnh chúa về chứng tòa Chúa Đệ Tam màu trắng. Khi về đồng bà thường mặc áo trắng, có nơi khi hầu bà thì múa mồi như Chúa Bà Đệ Nhị Nguyệt Hồ, nhưng có nơi hầu chúa lại chỉ dùng quạt khai quang.
Chúa Lâm Thao được thờ chính tại Đền Lâm Thao ở Cao Mại, Việt Trì, Phú Thọ (tương truyền là nơi khi xưa chúa lập kho quân nhu quân lương và bốc thuốc cứu dân). Ngày tiệc của Bà Chúa Ót tương truyền là 25/12 âm lịch. Trong văn chúa, thường hát rằng:
“ Lâm Thao, Cao Mại quê nhà
Anh linh trắc giáng Chúa Bà Đệ Tam”
Hay cũng có đoạn hát sử chúa:
“ Hùng Vương Thánh Tổ Lạc Hồng
Sớm khuya chầu chực ngai rồng vua cha
Ngắm xem khắp hết gần xa
Vào Chùa Hương Tích Phật Bà Quan Âm
Một lòng mộ đạo nhất tâm
Quy y Phật Tổ thần thông nhiệm màu”
Như đã nói ở trên, các bà Chúa Bói, Chúa Chữa ở trên Sơn Lâm, Sơn Trang có rất nhiều, nhưng hay về ngự đồng nhất là ba vị chúa gọi là Tam Vị Chúa Mường. Ngoài ra, đôi khi người ta cũng hay hầu thêm một số vị Chúa Bà sau đây:
4, Bà Chúa Cà Phê
Chúa Cà Phê là bà chúa bói người Nùng từ thời thượng cổ (chưa có tài liệu nào ghi chính xác là Chúa Cà Phê giáng hạ dưới thời nào), chỉ biết rằng trong các vị Chúa Bói trên ngàn, bà là người có nhiều quyền phép nhất (có một số quan niệm cho rằng Bà Chúa Cà Phê là Bà Tổ Chúa Bói, tức là bà chúa bói đầu tiên của nước Việt ta), tuy nhiên bà lại sống ẩn dật trong núi, không xuất thế vậy nên ít người biết tới bà, vậy nên tuy thế nhưng bà vẫn phải thỉnh sau Tam Vị Chúa Mường.
Chúa Cà Phê không hay về ngự đồng như Tam Vị Chúa Mường, nhưng nếu có đại tiệc mở đàn Chúa Bói thì người ta cũng hay thỉnh Chúa Bà về. Khi giáng đồng chúa thường mặc áo đen (có nơi hầu Chúa lại mặc áo xanh hoặc áo vàng, tuy nhiên khá ít người hầu chúa mặc màu áo như vậy), chúa về đồng cũng múa mồi.
Đền thờ Bà Chúa Cà Phê ở trong vùng rất hoang vu heo hút (thậm chí còn chưa có mạng lưới điện chạy tới), đó là ngôi đền nhỏ gọi là Đền Chúa Cà Phê ở trong miền Phố Vị, Lạng Sơn. Chúa ít khi ngự đồng nên văn chúa cũng khá ít, chỉ có một hai câu khi thỉnh chúa như:
“ Hách danh Chúa Bói Cà Phê
Lên chơi Phố Vị, trở về Tam Thanh”
5. Bà Chúa Tộc Mọi
Chúa Mọi cũng là một bà chúa bói, đúng như danh hiệu, bà là bà chúa của tộc người Mọi người rừng từ rất xa xưa. Hiện nay thì mọi tài liệu kể về sự tích cũng hiển tích của chúa rất ít, hầu như là không có nên chúa cũng được khá ít người biết tới.
Chúa Mọi hầu như không mấy khi ngự về đồng, trong số ít những người hầu, Bà Chúa Tộc Mọi thường mặc áo đen (hoặc áo chàm) và chúa về cũng múa mồi.
Theo truyền miệng (và cũng chưa xác định được chính xác) thì đền thờ chúa cũng ở Lạng Sơn, từ Đền Công Đồng Bắc Lệ đi vào đến cửa rừng Thất Khê, Đèo Kẻng thì khi xưa có ngôi đền chúa. Còn lại một câu hát văn lưu truyền là để thỉnh chúa như sau:
“Khắp Sơn Lâm nức danh Chúa Mọi
Tiếng vang lừng khắp cõi Nam Bang”
(sưu tầm từ blog minh đức)
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
phminhtuan
Hội viên CLB
Hội viên CLB
Bài viết: 281
Tham gia: 14:28, 30/12/09
Đến từ: Nam sơn đạo quán

TL: đạo mẫu việt nam

Gửi bài gửi bởi phminhtuan »

Ngũ Vị Tôn Ông (五位神威尊官皇太子):
1. Quan Lớn Đệ Nhất
Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên. Hay còn gọi là Đệ Nhất Tôn Ông. Quan lớn vốn là con trai cả của Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình, được coi là Ông Lớn cai quản Thượng Thiên. Tương truyền ông là Tôn Quan Đại Thần trên Đế Đình Thiên Cung, được sắc phong ngôi Thượng Thiên Nhất Phẩm Công Hầu, quản cai tam giới đình thần văn võ. Nhưng ông không giáng trần.
Quan Đệ Nhất cũng ít khi về ngự đồng, chỉ những dịp có đại sự như: mở phủ, tạ phủ, hầu xông đền xông điện thì quan mới về ngự đồng. Khi ngự đồng, ông mặc áo đỏ thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ điệp trạng mã. Thông thường khi khai đàn mở phủ, người ta phải thỉnh Quan Đệ Nhất về chứng đàn Thiên Phủ (Thượng Thiên: đàn gồm có long chu phượng mã (ngựa và thuyền rồng) … tất cả đều màu đỏ).
Do không giáng trần nên Quan Lớn Đệ Nhất không có đền và ngày tiệc chính, nhưng ở trong bất cứ đền nào cũng có tượng ông, ngồi giữa trong Năm Tòa Ông Lớn, mặc áo bào đỏ, đội mũ cánh chuồn. Khi ông ngự đồng văn thường hát:
“Hương một chiện chín lần soi thấu
Dãi lòng trần khải tấu linh thông
Thỉnh mời Đệ Nhất Tôn Ông
Lai lâm trắc giáng điện trung oai hùng”
Hay cũng có hát rằng:
“Anh linh lục trí thần thông
Quyền cai tam giới uy phong phép màu
Thượng Thiên xa giá lên chầu
Khâm ban sắc chỉ Công Hầu ra uy”
2.Quan Lớn Đệ Nhị:
Quan Lớn Đệ Nhị Thượng Ngàn. Hay còn gọi là Quan Đệ Nhị Giám Sát (có một số người gọi là Quan Thanh Tra Giám Sát). Quan lớn vốn là con trai thứ hai của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Ông theo lệnh Vua Cha, hạ phàm đầu thai vào Hoàng Cung (có sách nói là ông hạ phàm ngày mồng ba tháng mười một năm Ất Dậu vào một nhà quý tộc) ngày mồng mười tháng mười một năm Bính Dần, ông là người văn võ toàn tài, thông minh chính trực, được khắp muôn nơi ngưỡng mộ, các vương tôn công tử đều thuận tình đến làm học trò. Đến khi về chầu Thiên Đình, ông lại được giao quyền giám sát quản cai Sơn Lâm, Thượng Ngàn, ông giáng thế ban phúc cho dân, khi dân chúng bị hạn hán, cầu đảo ông thì lập tức có mưa thuận gió hòa.
Quan Đệ Nhị là một trong ba vị quan lớn rất hay ngự về đồng (kể cả trong những ngày tiệc vui). Khi ngự đồng, ông mặc áo xanh ( xanh la hay xanh lá cây) thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ và múa kiếm (cách hầu Quan Giám Sát thì có nơi múa đôi kiếm, có nơi múa một kiếm, có nơi lại múa một kiếm một cờ). Cũng như Quan Đệ Nhất, khi khai đàn mở phủ, người ta thỉnh Quan Đệ Nhị về chứng đàn Nhạc Phủ (Thượng Ngàn: đàn mã đều màu xanh). Ngoài ra vào những dịp đại lễ (như mở phủ khai đàn, tạ phủ...), trước ngày làm lễ, người ta thường thỉnh Quan Đệ Nhị về thanh tra giám sát đàn mã đền phủ.
Quan Giám Sát được thờ ở hai nơi chính là: Đền Quan Giám ở trên huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn (là nơi quan trấn giữ miền Sơn Lâm) và Đền Quan ở Phố Cát, Thanh Hóa (là nơi quan giáng hạ dạo chơi) và ngày tiệc chính của ông là ngày 10/11 âm lịch (là ngày hạ phàm của quan). Vì vậy trong khi quan ngự văn có hát rằng:
“Nhác trông lên tòa vàng san sát
Không đâu bằng Phố Cát, Đồi Ngang”
Hay để ca ngợi tài trí của Quan Giám Sát, văn hát rằng:
“Phép quan giá vũ đằng vân
Khắp muôn công tử xa gần làm tôi
Trời làm đại hạn nắng nôi
Kiều quan đảo vũ một thôi giờ Dần
Lệnh sai Hà Bá, Thủy Thần
Tự nhiên dâng nước xoay vần mưa sa”
Hay khi nói về điển tích của ông cũng có văn rằng:
“Năm Bính Dần mồng mười tháng một
Thái Hậu bà sinh giáng tôn quan”
3. Quan Lớn Đệ Tam
Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ. Hay còn gọi là Tam Phủ Vương Quan (Tam Phủ ở đây không phải là số lượng Phủ mà ý chỉ Thủy Phủ là phủ thứ ba trong hàng Tứ Phủ, vậy nên còn có thể gọi là Bơ Phủ Vương Quan). Quan lớn vốn là con trai thứ ba của Vua Cha Bát Hải Động Đình, là người rất được vua cha yêu quý nên giao quyền cai quản chốn Long Giai Động Đình, cận bên cạnh phụ vương. Dưới thời Hùng Vương, theo lệnh vua cha, ông cùng hai người em (có sách nói là hai người thân cận) lên giúp Vua Hùng chỉ huy thủy binh, lúc này ba vị giáng ở đất Hà Nam, được nhân dân tôn thành “Tam Vị Đại Vương”, trong đó, Quan Đệ Tam là người anh cả trong ba người. Nhưng lại có điển tích nói rằng, chỉ có một mình Quan Tam Phủ giáng trần vào nhà quý tộc dưới thời Hùng Vương, ông trở thành vị tướng quân thống lĩnh ba quân thủy lục. Sau đó trong một trận quyết chiến, ông hy sinh (phần thượng thân (đầu) và hạ thân (mình) trôi về hai bên bờ con sông Lục Đầu). Ông hóa đi, về chầu Long Cung, là người cầm cân nảy mực, thông tri Tam Giới, quyền cai các thanh đồng đạo quan (vậy nên có khi người ta còn gọi là Ông Cai Đầu Đồng). Khi thanh nhàn ông truyền ba quân tập hợp thuyền bè, dạo chơi khắp miền, trên sông dưới suối, phù hộ cho ngư dân.
Hầu như những người đã ra hầu Tứ Phủ, khi hầu hàng Quan Lớn, ai cũng phải hầu về Quan Đệ Tam. Có thể coi ông là vị Quan Lớn tài danh hàng đầu. Khi ngự đồng, ông mặc áo trắng thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ điệp và ông múa đôi song kiếm. Khi có đại tiệc khai đàn mở phủ, người ta thỉnh quan về chứng đàn Thoải Phủ (gồm có long chu phượng mã, lốt tam đầu cửu vĩ…: tất cả đều màu trắng).
Trong hàng quan lớn, vì danh tiếng bậc nhất nên Quan Lớn Đệ Tam cũng được lập đền thờ phụng ở khắp nơi. Nhưng đầu tiên phải kể đến Đền Lảnh Giang ở Mộc Nam, Duy Tiên, Hà Nam (gần Hưng Yên) tương truyền là nơi hạ thân của ông trôi về, sau đó phải nói đến Đền Xích Đằng cũng thuộc Hà Nam (hai ngôi đền này chỉ cách nhau cây cầu Yên Lệnh nối hai bờ sông Lục Đầu) là nơi thờ thượng thân của ngài. Ngoài ra còn có Đền Cửa Đông tại thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn (gần Đền Mẫu Thoải), Đền Lâm Du thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội và Đền Tam Kì thuộc thành phố Hải Phòng (gần bến xe Tam Bạc). Ngày tiệc của Quan Bơ Phủ là ngày 24/6 âm lịch (tương truyền là ngày đản nhật giáng sinh của ông). Vậy nên trong văn hát câu rằng:
“Đản hai tư tháng sáu xưng thần
Khắp Trung, Nam, Bắc muôn dân đảo cầu”
Khi ông về ngự đồng, khai quang chứng đàn mã sớ điệp, văn thường hát đoạn:
"Lòng thành thắp một chiện nhang
Tấu về Thoải Phủ các ban các tòa
Thiên Đình, Thoải Phủ, Diêm La
Tấu về Thoải Phủ Vua Cha Động Đình
Vốn xưa là chúa Thủy Tinh...”
Ngoài ra để ca ngợi tài đức, công lao của ông, văn cũng hát:
“Giáp bạc bao phen rực lửa hồng
Xông pha trăm trận cũng như không
Ra tay cứu nước trừ nguy biến
Tiếng để ngàn thu với non sông
[…] Gươm thần ba thước tay ngang dọc
Tài dậy trời Tây, chí lấp bể Đông”
Hay khi nói về những cuộc dạo chơi khắp sơn thoải đại giang của ông, văn thường hát theo điệu dọc:
“Chiếc thuyền nan nổi dòng Xích Bích
Đua mái chèo du lịch bốn phương
Có phen tuần thú sông Thương
Trở ra tỉnh Bắc qua giang Lục Đầu
[…] Có phen chơi ngã ba Bạch Hạc
Bạn loan ngồi đàn hát vui chơi
Dạo xem phong cảnh mọi nơi
Qua hang Anh Vũ sang chơi nước người”
Và còn có một đoạn rất hay nói về tài phép của quan:
“Hóa tức thì lâu đài điện các
Dâng nước về Thủy Quốc một khi
Có phen lấy ngọc lưu ly
Đùng đùng dâng nước phép thì ai đang”
4. Quan Lớn Đệ Tứ
Quan Lớn Đệ Tứ Khâm Sai. Quan lớn vốn là con trai thứ tư của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Được vua cha giao quyền trấn giữ đồng bằng địa linh, khâm sai tứ phủ (có người cho rằng, trong các quan thì ông trấn ở trung tâm trời đất), tuy thế nhưng ông thường ngự trên Thiên Đình, biên chép sổ sách sinh tử, chầu chực bên bệ ngọc bàn loan. Cũng như Quan Đệ Nhất, Quan Đệ Tứ không giáng trần.
Trong tòa quan lớn, Quan Lớn Đệ Tứ Khâm Sai ít khi giáng đồng nhất, cũng chỉ khi nào có đại lễ mới thỉnh ông về. Khi ngự đồng ông mặc áo vàng thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương khai quang rồi chứng sớ điệp. Thông thường, khi mở phủ khai đàn, người ta mới hay thỉnh Quan Đệ Tứ về để chứng đàn Địa Phủ (gồm long chu, phượng mã, tượng phục, nghê quỳ (voi và nghê hoặc lân)… tất cả đều màu vàng) Vì không giáng trần nên Quan Đệ Tứ cũng không có đền thờ riêng mà chỉ được thờ ở hầu hết các phủ đền trong Năm Tòa Ông Lớn (ông ngồi bên trái Quan Giám Sát hoặc bên phải Quan Tam Phủ). Còn ngày tiệc ông thì có tài liệu nói là 24/4 (nhưng nguồn tài liệu chưa chắc chắn nên chỉ đưa ra để tham khảo). Khi thỉnh Quan Đệ Tứ văn hay hát là:
“Tiệc bàn loan thỉnh Quan Đệ Tứ
Vốn con trời Thái Tử Thiên Cung
Sắc rồng choi chói vua phong
Quyền Quan Đệ Tứ uy hùng dậy vang”
5. Quan Lớn Đệ Ngũ
Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh. Hay còn gọi là Ông Lớn Tuần Tranh. Ông là con trai thứ năm của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Ông cũng giáng dưới thời Hùng Định Vương (Hùng Triều Thập Bát), trong một gia đình ở phủ Ninh Giang (nay là Hải Dương), ông cũng là vị tướng quân tài ba kiêm lĩnh thủy bộ, được giao quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh. Ông đã lập được nhiều công lao to lớn nên được sắc phong công hầu. Tại quê nhà, ông có cảm tình với một người thiếu nữ xinh đẹp, người thiếu nữ ấy vốn là vợ lẽ của quan huyện ở đó, nhưng vốn không hạnh phúc với cảnh “chồng chung”, nàng cũng đáp lại tình cảm của ông mà không hề nói cho ông biết là nàng đã có chồng. Vậy nên Quan Lớn Tuần Tranh vẫn đinh ninh đó là một tình cảm đẹp, hẹn ngày đưa nàng về làm vợ. Đến khi viên quan huyện kia biết chuyện, vu oan cho ông đã quyến rũ vợ mình. Quan Tuần Tranh bỗng nhiên mắc hàm oan, bị đem đày lên chốn Kì Cùng, Lạng Sơn. Tại đây, ông đã tự sát mong rửa oan, chứng tỏ mình vô tội, ông hóa xuống dòng sông Kì Cùng. Về lại nơi quê nhà, ông hiện thành đôi bạch xà, thử lòng ông bà nông lão, sau đó được ông bà nông dân nuôi nấng như thể con mình. Nhưng khi quan phủ biết chuyện ông bà nông lão tậu gà để nuôi đôi bạch xà, liền bắt ông bà phải lên cửa công chịu tội và giết chết đôi rắn kia đi. Hai ông bà thương xót, xin thả rắn xuống dòng sông Tranh, lạ thay khi vừa thả đôi bạch xà xuống thì chỗ đó tạo thành dòng xoáy dữ dội. Đến thời Thục Phán An Dương Vương, vua tập hợp thuyền bè để chống giặc Triệu Đà ở ngay bến sông Tranh, nhưng tại chỗ dòng xoáy đó, thuyền bè không tài nào qua được mà lại có cơn giông tố nổi lên giữa dòng. Vua bèn mời các vị lão làng đến lập đàn cầu đảo thì lập tức sóng yên bể lặng, hơn nữa, quân sĩ ra trận cũng được thắng to. Ghi nhớ công đức, vua Thục giải oan cho ông và phong là Giảo Long Hầu. Sau này ông còn hiển thánh linh ứng, có phép nhà trời, cai quản âm binh, ra oai giúp dân sát quỷ trừ tà, dẹp hết những kẻ hại nước hại dân.
Trong hàng Ngũ Vị Tôn Ông, cùng với Quan Lớn Đệ Tam, Quan Lớn Đệ Ngũ cũng là một vị quan lớn danh tiếng hết sức lẫy lừng, được nhân dân xa gần tôn kính phụng thờ. Tuy trong hàng Năm Tòa Ông Lớn, ông được thỉnh cuối cùng nhưng lại hay ngự về đồng nhất (bất cứ ai hầu Tứ Phủ, bất cứ dịp tiệc, đàn lễ nào đều phải thỉnh Quan Tuần Tranh về ngự). Khi ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ tán đàn rồi múa thanh long đao. Khi có đại đàn mở phủ hay bất cứ lễ tiệc nào, sau khi thỉnh các quan lớn về, đều phải đợi đến khi giá Quan Lớn Đệ Ngũ về chứng một lần hết tất cả các đàn mã sớ trạng rồi mới được đem đi hóa.
Quan Lớn Tuần Tranh cũng được thờ ở rất nhiều nơi nhưng phải kể đến hai nơi nổi tiếng bậc nhất: đầu tiên là Đền Ninh Giang hay Đền Quan Lớn Tuần Tranh lập bên bến sông (bến đò) Tranh ở Ninh Giang, Hải Dương (là nơi chính quán quê nhà của ông, nơi ông trấn giữ duyên hải sông Tranh, cũng là nơi ông hiển tích) và Đền Kì Cùng lập bên bến sông Kì Cùng, qua cầu Kì Lừa (là nơi ông bị lưu đày). Ngày tiệc chính của quan là ngày 25/5 âm lịch (là ngày ông bị lưu đày và bảo nhân dân quê ông làm giỗ vào ngày này), ngoài ra vào ngày 14/2, các đền thờ ông cũng mở tiệc đón ngày đản sinh của quan. Trong khi thỉnh ông về, văn thường hát:
“Uy gia lẫm liệt tung hoành
Trừ tà sát quỷ nên danh tướng tài
[…] Ninh Giang chính quán quê nhà
Dấu thiêng ghi để ngã ba Kì Cùng”
Hay nói về nỗi oan của ông, văn hát sử oán rằng:
“Nào ngờ đâu đất trời thay đổi
Người anh hùng mang tội xiềng gông
Tháng năm đày chốn Kì Cùng
Oan vì tuyết nguyệt đổi lòng ái ân
Trước cung điện triều đình tra xét
Bắt long hầu truyền hết mọi nơi
Oan vì bướm lả ong lơi
Triết hoa đoạt vũ tội trời không dung
Lệnh viễn xứ sơn cùng thủy kiệt
Nỗi oan này có thấu cao minh
Áo bào đã nhuộm chàm xanh
Tấm thân bách chiến tử sinh lẽ thường”
Hoặc có cả những đoạn ca ngợi công lao, tài đức của ông:
“Loa đồng hỏi nước sông Tranh
Đao thiêng dẹp giặc, anh hùng là ai
Sông Tranh đáp tiếng trả lời
Anh hùng lừng lẫy là người Ninh Giang”
Còn khi quan ngự đồng, khai quang chứng sớ điệp, ra oai giúp dân trừ tà thì văn hát rằng:
“Ông về truyền phán các quan
Tả cơ hữu đội lưỡng ban đáo đàn
Quân thủy quân bộ đôi hàng
Chư binh vạn mã hằng hà kéo ra
Lệnh truyền thiên đội vạn cơ
Quan Tuần bây giờ trắc giáng anh linh
Trước là bảo hộ gia đình
Sau ra thu tróc tà tinh phen này
Ra oai trần thế biết tay
Ngự lên đồng tử cứu rày nhân gian
Cứu đâu thời đấy khỏi oan…”
Và còn những đoạn nói về tài phép của quan lớn, giúp dân hộ quốc:
“Sắc ban phong kiêm chi Tam Giới
Hay tróc tà sát quỷ trừ tinh
Quan Tuần vạn phép muôn linh
Quyền ông cai quản âm binh nhà trời
[…] Lúc bấy giờ ra uy hùng hổ
Nương uy trời cứu hộ sinh nhân
Đùng đùng nổi trận phong vân
Thượng đồng ban dấu giúp dân trừ tà”
6. Quan Lớn Điều Thất
Quan Lớn Điều Thất Đào Tiên. Ông là con trai thứ bảy của Vua Cha Bát Hải Động Đình, luôn luôn kề cận túc trực bên vua cha. Ông là vị văn quan được vua cha giao cho biên sổ, coi giữ kho tàng kinh thư nơi Thủy Cung. Quan lớn luôn cứu giúp người trần gian, hễ ai là người sống hiếu thuận đều được quan biên chép sổ sinh được thọ trường. Ông cũng không giáng trần.
Quan Điều Thất thường không ra ngự đồng vì ông chỉ làm việc cận bên vua cha, nhưng khi hầu về hàng quan lớn, sau khi thỉnh Ngũ Vị Tôn Ông, đều phải thỉnh quan về tráng bóng. Trong số ít trường hợp ông ngự về đồng, ông thường mặc áo đỏ điều thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương và khai quang.
Tuy không giáng trần, nhưng ông lại linh ứng giúp dân nên được nhân dân lập đền thờ tại tỉnh Thái Bình (gần Đền Đồng Bằng thờ Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình, vì ông luôn kề cận bên vua cha) là Đền Quan Lớn Điều Thất. Khi thỉnh ông ngự đồng, văn thường hát:
“Trấn hải hà sơn xuyên dục tú
Nổi dấu thiêng trong phủ Thái Ninh
Con Vua Bát Hải Động Đình
Đào Tiên Quan Điều Thất anh linh khác thường”
(sưu tầm từ blog minh đức)
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
phminhtuan
Hội viên CLB
Hội viên CLB
Bài viết: 281
Tham gia: 14:28, 30/12/09
Đến từ: Nam sơn đạo quán

TL: đạo mẫu việt nam

Gửi bài gửi bởi phminhtuan »

Tứ Phủ Chầu Bà (四府十二位英靈公主)
1. Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên
Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên được coi là hóa thân của Mẫu Đệ Nhất. Chầu Bà vốn là Thiên Cung Tiên Nữ, con vua Ngọc Hoàng, giáng hiện trong xứ Thanh giúp dân hộ quốc. Trong hàng Tứ Phủ Chầu Bà, bà là vị ở ngôi cao nhất, cai quản Thượng Thiên, nắm giữ sổ Tam Tòa. Khi thanh nhàn bà lại cùng các cô nàng hầu cận vui vẻ dạo chơi, giáng phúc cho dân. Cũng có quan niệm cho rằng, bà còn là Quế Hoa Công Chúa (hay còn gọi là Chầu Quế, khác với Mẫu Đệ Nhị) trên Thiên Cung, xuống Đồi Ngang Phố Cát, kề cận bên Mẫu Liễu Hạnh.
Bà khá ít khi ngự đồng (đây cũng là đặc điểm chung của các vị thánh trên hàng Thượng Thiên), chỉ khi nào có tiệc khai đàn mở phủ, mà người ra trình đồng có tòa lễ Tứ Phủ Chầu Bà Sơn Trang thì thường thỉnh bà về chứng tòa đàn màu đỏ (gồm hình Chúa (Chầu), đôi cô hầu cận cầm quạt, mười hai cô nàng, động chúa, thuyền thoi…). Khi ngự đồng thì chầu thường mặc áo màu đỏ thêu phượng (hoặc có thể là áo gấm). Vì chầu là hóa thân của Mẫu Đệ Nhất nên nơi nào Mẫu ngự thì đều có thể coi là đền chầu, tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng có nơi thờ riêng, lưu rõ dấu tích của chầu nhất là Đền Rồng, Thanh Hóa. Khi thỉnh chầu, văn hát rằng:
“Gió nam phong bóng vàng xế xế
Thỉnh mời chầu loan giá ngự lên
[…] Sớm hôm vui vẻ Đền Rồng
Khi chơi phủ tía, lầu hồng vào ra
Khăng khăng giữ sổ Tam Tòa
Đêm ngày giá ngự vạn hoa cầm quyền”
2. Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn:
Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn được coi là hóa thân của Mẫu Đệ Nhị. Chầu cũng vốn là Thiên Thai Tiên Nữ, con vua Đế Thích, cai quản sơn lâm thượng ngàn, quyền hành khắp hết 81 cửa ngàn đất Nam Việt. Lại có sự tích cho rằng, bà cũng giáng sinh vào quý tộc Lê gia (có tài liệu ghi lại tên bà là Lê Thị Kiểm) ở vùng Thác Cái Thác Con, Hà Giang, sau này trở thành Bà Chúa Thượng Ngàn. Trong hàng Tứ Phủ Chầu Bà, bà là vị chầu bà có quyền hành tối cao của tòa Sơn Trang (mà đa phần các vị chầu bà đều ở trên sơn trang) nên gần như bà là vị có quyền cao nhất hàng chầu, chỉ sau Chầu Đệ Nhất.
Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn là vị chầu hay giáng đồng nhất trong hàng chầu (từ đồng tân đến đồng cựu ai cũng thỉnh chầu về ngự, để ban tài tiếp lộc sơn lâm sơn trang). Chầu ngự về đồng thường mặc áo màu xanh (xanh la hay xanh lá cây), cầm quạt khai cuông rồi múa mồi. Chầu Đệ Nhị thường hay ngự về trong các đàn mở phủ để chứng đàn Sơn Trang (kể cả với người không mở đủ bốn tòa sơn trang mà chỉ mở một tòa xanh). Ngoài ra khi đồng tân lính mới vào hầu cũng thường thỉnh chầu về để sang khăn cho đồng mới. Và đặc biệt, khi Chầu Đệ Nhị ngự đồng vào dịp lễ tiệc (đặc biệt là lễ Thượng Nguyên) trong năm, thì thường có nghi thức gọi là “trình giầu”. Khi chầu về ngự đồng, những con nhang đệ tử nào có căn số, đã lập bát hương bản mệnh, sẽ ngồi giữa chiếu ngự, phủ khăn đỏ và trên đầu đội mâm giầu trình (gồm cau, lá trầu, vỏ thuốc, thuốc lào, thuốc lá…), khi đó người ngồi đội giầu phải đặt lên mâm giầu trình 13.000 (thông thường là thế, có nơi thì là 15.000) dâng lên Chúa Sơn Trang và 12 cô tiên nàng hầu cận là những vị chứng mâm giầu của mình, lúc đó chầu sẽ cầm bó mồi (hoặc hương đã đốt cháy) khai cuông, chứng mâm giầu rồi xin tiền đài, nếu được nhất âm nhất dương (có một đồng tiền xấp, một đồng tiền ngửa) nghĩa là Phật Thánh đã chứng cho người ngồi đội giầu đó, rồi người đội giầu lễ tạ và đi ra để cho người khác vào tiếp tục.
Cũng như Chầu Đệ Nhất, Chầu Đệ Nhị được thờ phụng ở bất cứ nơi nào có rừng núi có Mẫu Đệ Nhị ngự. Nhưng khi thỉnh chầu, người ta thường hay nghĩ tới Đền Đông Cuông là nơi in dấu rõ nhất ở tỉnh Yên Bái. Vậy nên khi thỉnh chầu, văn hay hát rằng:
“Dâng văn tiên chúa Thượng Ngàn
Đông Cuông, Tuần Quán giáng đàn chứng đây”
Khi nói về sự tích của chầu văn cũng thường hát :
“Vốn dòng công chúa thiên thai
Giáng sinh hạ giới quyền cai thượng ngàn
Quyền cai Bảo Lạc Hà Giang
Thượng cầm hạ thú hổ lang khấu đầu”
Hay khi có nghi thức “trình giầu”, văn cũng hát:
“Hôm nay có mâm giầu trình
Trước trình cửa Phật, sau trình Vua Cha
Trình lên Quốc Mẫu,Chúa Bà
Năm Tòa Ông Lớn, Chầu Bà Sơn Trang
Trình lên Tứ Phủ Ông Hoàng
Tiên Cô Thánh Cậu chứng mâm giầu trình”
3. Chầu Đệ Tam Thoải Cung
Chầu Đệ Tam Thoải Cung được coi là hóa thân của Mẫu Đệ Tam. Chầu vốn là Thủy Tinh Tiên Nữ, con vua Thủy Tề, ở chốn Long Cung, chầu thường được tôn xưng là Lân Nữ Công Chúa, quyền quản cai coi giữ các tiên nữ chốn Thủy Phủ. Lại có sự tích cho rằng bà là con gái của Lạc Long Quân, danh hiệu Thủy Tinh Động Đình Ngọc Nữ Tam Giang Công Chúa (nhưng truyền thuyết này không được lưu truyền rộng rãi mà thực tế thì người ta vẫn công nhận sự tích Chầu Đệ Tam là con Vua Long Vương Bát Hải Động Đình hơn). Trong hàng Tứ Phủ Chầu Bà, bà là vị chầu có sự tích buồn nhất.
Chầu Đệ Tam là vị chầu ít khi giáng đồng nhất (người ta thường kiêng hầu chầu đặc biệt là trong các dịp tiệc mừng vui hoặc lễ Thượng Nguyên hoặc đại đàn mở phủ). Nếu trong đàn mở phủ mà dâng bốn tòa sơn trang thì người ta cũng không hay thỉnh chầu về chứng mà thường thỉnh Chúa Thác Bờ hoặc Chầu Bé Thoải Bản Đền thay cho giá chầu để chứng tòa màu trắng. Chầu chỉ ngự về khi người hầu bắc ghế hầu Tứ Phủ ở các ngôi đền thờ các vị thánh hàng Thoải hoặc tại chính đền thờ Mẫu Thoải. Chầu ngự về thường mặc áo màu trắng, cầm quạt khai cuông. Người ta ít khi hầu chầu trong những dịp tiệc vui vì khi chầu ngự thì khá u buồn, có điều đó cũng bởi sự tích của chầu: Chầu Đệ Tam vốn là con gái Vua Thủy Tề, ở chốn Long Giai. Chầu kết duyên cùng Kính Xuyên (là con Vua Đất). Khi Kính Xuyên đi vắng, chầu ở nhà khâu vá, chẳng may kim đâm vào tay chảy máu, chầu lấy tấm vải lụa trắng để thấm máu. Thảo Mai, tiểu thiếp của Kinh Xuyên, vốn đã sinh lòng đố kị từ lâu, nhân cơ hội đó giấu tấm lụa đi, đến khi Kính Xuyên về, Thảo Mai lấy ra rồi vu oan cho bà ở nhà đã cắt máu thề nguyền để tư thông cùng kẻ khác. Kính Xuyên không nghe lời thanh minh, ghen tuông mù quáng, một mực bắt đóng cũi bỏ bà lên rừng cho thú dữ ăn thịt. Ở nơi rừng núi, bà được muôn loài quý mến, dâng hoa quả nước uống cho bà. Đến một ngày kia thì bà gặp được Liễu Nghị, vốn là thư sinh, nhờ tập ấm cha mẹ để lại nên đèn sách chuyên cần. Hôm đó trên đường đi thi thì chẳng may bị lạc vào nơi bà bị đày ải. Thấy bà vậy, Liễu Nghị đến hỏi han, sau khi biết rõ sự tình, Liễu Nghị nguyện kết duyên cùng bà. Nhưng bà từ chối, sau đó lấy máu, viết thư nhờ Liễu Nghị mang về đến chốn Long Cung để vua cha thấu hêt sự tình rồi sẽ định liệu sau. Theo lời bà, Liễu Nghị ra đến sông Ngân Hán, là mái Long Giai ngoài biển Đông, thấy có cây ngô đồng, Liễu Nghị rút cây kim thoa, gõ vào cây ba lần. Tức thì gió giật mưa sa, biển động ầm ầm, giữa dòng thấy hiện lên đôi bạch xà, Liễu Nghị bèn trình bày mọi việc, đôi bạch xà vâng lệnh đưa Liễu Nghị xuống Thủy Cung. Tại đây, Liễu Nghị trao cho Vua Thủy Tề bức thư và kể hết mọi chuyện. Vua cha tức giận, sai người đi bắt Kính Xuyên và Thảo Mai, còn truyền cho Trưởng Tử Xích Lân lên đón bà về. Sau đó Chầu Đệ Tam được rước về Thoải Phủ, kết duyên cùng Liễu Nghị, người được giao cho chức Quốc Tế Thủy Quan. Còn Kính Xuyên và Thảo Mai thì bị gia hình chịu tội (Câu Chuyện này được lưu lại trong tích “Liễu Nghị truyền thư”).
Như Chầu Đệ Nhất và Chầu Đệ Nhị, Chầu Đệ Tam được thờ ở các cửa sông cửa biển, nơi có lập đền thờ Mẫu Đệ Tam, nhưng nơi được mọi người biết đến nhiều hơn cả là Đền Thác Hàn ở tỉnh Thanh Hóa. Khi chầu ngự đồng văn hay hát thỉnh rằng:
“Trịnh giang biên duềnh ngân lai láng
Nguyệt làu làu soi rạng Nam Minh
Con vua thủy quốc Động Đình
Có tiên thần nữ giáng sinh đền rồng”
Hoặc khi nói về nỗi oan khuất của chầu, văn cũng hát rằng:
“Trách Thảo Mai ra lòng giáo dở
Trá đồ thư làm cớ gieo oan
Kính Xuyên chẳng xét ngay gian
Nỡ đem đầy chốn lâm sơn sao đành”
Hay có những đoạn hát sử rầu:
“Tưởng nông nỗi dòng châu lã chã
Trách ai làm đôi ngả chia li
Từ nay hoa ở xuân về
Cầu Ô lỡ nhịp bến khuya vắng thuyền
Bứt rứt nỗi thung huyên nghĩa cả
Tấm thân này có xá chi đâu
Lẽ nào nát ngọc trầm châu
Vùi hoa dập liễu bởi câu tam tòng
Xót vì nỗi má hồng bội bạc
Âu cũng đành bèo dạt mây trôi
Sự này há kể chi ai
Lòng trinh chuyển động đất trời chứng minh”
4. Chầu Đệ Tứ Khâm Sai
Chầu Đệ Tứ Khâm Sai. Vốn xưa bà là Bồng Lai Tiên Nữ (có tài liệu ghi rằng bà là Mai Hoa Công Chúa trên Thiên Cung). Bà giáng thế hạ trần (có sách nói rằng bà giáng vào nhà họ Lí, tên là Lí Thị Ngọc Ba), sinh quán ở đất Quý Hương, An Thái, Vụ Bản, Nam Định, sau đó trở thành vị nữ tướng, tương truyền chầu là người khảng khái, chính trực, ra trận nếu có kẻ nào làm sai phép quân thì “tiền trảm hậu tấu” (chém đầu kẻ đó trước sau rồi mới về tâu với vua), nhưng đã có công giúp vua ra dẹp giặc và trấn giữ ở vùng Hà Trung, Thanh Hóa nên được sắc phong là Chiêu Dung Công Chúa. Sau này khi trở về Thiên Đình, bà được giao quyền khâm sai Tứ Phủ (từ Thủy Phủ cho tới Thiên Cung), Tam Tòa, biên chép sổ Thiên Đình, quyền cai bản mệnh gia trung (vậy nên có khi người ta còn gọi là Bà Thủ Bản Mệnh). Có khi chầu lại được coi là vị chầu bà giữ sổ Tứ Phủ, coi kho ngân xuyến, kề cận bên Mẫu Liễu Hạnh ở đất Phủ Dày. Đôi khi thanh nhàn, chầu truyền các tiên nàng dạo chơi khắp chốn, từ quê hương ra kinh thành, vân du khắp mọi nơi.
Chầu Đệ Tứ cũng ít khi về ngự đồng. Người ta thường hay hầu chầu khi về đền thờ chầu hoặc đất Nam Định (là nơi chầu kề cận Mẫu). Thường thì khi có đàn mở phủ mà đồng tân dâng bốn tòa Sơn Trang thì thỉnh chầu về chứng tòa màu vàng. Khi chầu ngự về mặc áo màu vàng, cầm quạt khai cuông rồi thường múa kiếm và cờ lệnh (chầu ra trận hoặc cầm cờ hiệu khâm sai), cũng có nơi hầu Chầu về múa quạt, múa mồi hoặc chỉ khai cuông rồi an tọa (điều này là do tập tục từng nơi).
Đền Chầu Đệ Tứ cũng được lập ở ba nơi: đầu tiên là Phủ Bà _Chầu Đệ Tứ nằm trong quần thể Phủ Dày (vì coi là chầu cận Mẫu) thuộc Vụ Bản, Nam Định (đồng thời là nơi quê nhà của chầu), tiếp theo là Đền Cây Thị_Đền Chầu Đệ Tứ thuộc Hà Trung, Thanh Hóa (là nơi chầu dẹp giặc) và ngoài ra ở Hà Nội còn có ngôi đền thờ vọng chầu ở bên bờ sông Hồng, gần cầu Chương Dương, Gia Lâm gọi là Đền Duyên Trường_Đền Chầu. Theo một tài liệu ghi lại thì ngày chính tiệc của Chầu Đệ Tứ là ngày 14/3 âm lịch. Khi chầu ngự về, văn hay hát rằng:
“Trấn Nam thiên nữ trung Nghiêu Thuấn
Đất Sơn Nam có đấng trâm anh
Quý Hương, An Thái xã danh
Có Chầu Đệ Tứ hách danh còn truyền
Làu làu thụ sắc hoàng thiên
Ngự đồng ảnh bóng khắp miền gần xa
Ra uy sát quỷ trừ tà
Chiêu tài tiếp lộc gần xa cho đồng
Khâm sai Tứ Phủ tùy tòng
Chiêu Dung Công Chúa ngự đồng cứu dân”
Hay nói về tài sắc của chầu, văn ca ngợi:
”Mặt hoa tươi tốt má hồng
Gồm lo tứ đức tam tòng vẻ vang
Rườm rà tóc phượng vấn ngang
Lưng ong má phần vẻ càng tốt tươi
Miệng chầu cười như trăm hoa nở
Đích lên tài Tiên Nữ Bồng Lai
Vào tâu ra rộng khoan thai
Đã trong hiển ứng lại ngoài tối linh”
(sưu tầm từ blog minh đức)
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
phminhtuan
Hội viên CLB
Hội viên CLB
Bài viết: 281
Tham gia: 14:28, 30/12/09
Đến từ: Nam sơn đạo quán

TL: đạo mẫu việt nam

Gửi bài gửi bởi phminhtuan »

5. Chầu Năm Suối Lân
Chầu Năm Suối Lân. Chầu Năm vốn là người Nùng, dưới thời Lê Trung Hưng ( còn có tài liệu ghi lại rằng, chầu là công chúa tìm nơi thanh vắng, đền cảnh Suối Lân thì chầu ở lại giúp dân), theo lệnh vua, chầu trấn giữ cửa rừng Suối Lân bên dòng sông Hóa, coi sóc khắp vùng sông Hóa. Ở đó chầu không chỉ trấn giữ nơi sơn lâm mà còn giúp dân làm ăn, dạy dân đi rừng, làm nương. Sau này, chầu hóa tại đó và hiển linh giúp dân thuần phục mọi loài ác thú, trừ diệt sơn tinh, ma quái. Tương truyền vào những đêm thanh, chầu hiện hình cùng 12 cô hầu cận bẻ lái giữa dòng sông Hóa.
Thông thường thì Chầu Năm ít ngự đồng hơn là Chầu Lục, chầu chỉ thường ngự trong ngày tiệc vui hoặc những ai sát căn về chầu thì mới hay hầu. Tuy nhiên Chầu Năm cũng là vị chầu bà trên sơn trang nên có đôi khi người ta cũng thỉnh chầu về chứng tòa Sơn Trang. Chầu ngự về đồng thường mặc áo màu lam (bây giờ ở một số nơi, để tránh áo Chầu Năm trùng với áo Chầu Lục thì người ta thường dâng chầu áo xanh thiên thanh và coi đó là màu áo của dòng Suối Lân hoặc chầu cũng có thể mặc áo màu xanh như của Chầu Đệ Nhị), chầu khai cuông rồi múa mồi. Chầu Năm là vị chầu bà cũng có thể chứng cho con nhang đệ tử đội mâm giầu trình.
Đền thờ Chầu Năm Suối Lân được lập bên bờ con sông Hóa, qua cầu Sông Hóa 2 thuộc huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn, tên là Đền Suối Lân, dòng suối Lân chảy cạnh đền quanh năm nước trong veo, xanh ngắt. Ngày tiệc chầu được tương truyền là ngày 20/5 (nguồn tài liệu chưa chắc chắn nên chỉ đưa ra để tham khảo). Khi thỉnh chầu văn hay hát:
“Ai lên thăm cảnh Suối Lân
Đi qua sông Hóa vào đền Chầu Năm
[...] Giở trang tích cũ Lê Triều
Suối Lân Công Chúa mĩ miều diễm hương”
Hay để ca ngợi tài phép của chầu, văn hát rằng:
“Trăng thanh hổ báo chầu về
Lung linh màu sắc đua khoe trước đền
[...] Phép tiên biến hóa thần thông
Mẫu sai chầu trấn cửa rừng Suối Lân
Chầu thương dân canh khuya biến hiện
Áo chàm xanh thêu lượn nét hoa
Ban đêm gà gáy canh tà
Cất cao tiếng hú hiện ra giữa rừng
Hô thần chú bỗng dưng núi chuyển
Các cửa ngàn bặt tiếng muông kêu
Tà ma phách tán hồn xiêu
Các loài ác thú sợ đều ẩn thân
Để cho biết Suối Lân Công Chúa
Phép sơn trang Thái Tổ ban truyền
Phép tiên biến lá thành thuyền
Mười hai Thổ Mán đôi bên cầm chèo”
6. Chầu Lục Cung Nương
Chầu Lục Cung Nương. Chầu Lục vốn là người Nùng (vì vậy nên có người còn gọi bà là Mế Lục Cung Nương), con nhà lệnh tộc trên vùng Chín Tư, Lạng Sơn cũng dưới thời Lê Trung Hưng, Tương truyền, chầu vốn là tiên nữ trên Thiên Đình, chẳng may để rơi chén ngọc nên bị trích giáng xuống trần gian. Chầu giáng sinh vào nhà họ Trần (cha họ Trần, mẹ họ Hoàng) vốn là lệnh tộc trên miền Lạng Sơn (lại có tài liệu cho rằng Chầu Bà giáng sinh vào nhà họ Quách vào giờ Mão, ngày Mão, tháng Mão, năm Kỉ Mão, được đặt tên là Quách Thị Hồng Hoa), được 19 năm thì mãn hạn về chầu Đế Đình, nhưng vì chầu còn thương nhớ phụ mẫu nơi trần gian nên Ngọc Đế cho bà hiển thánh, cai giữ miền non ngàn sơn trang, nơi rừng Chín Tư, Hữu Lũng. Cũng như Chầu Năm, Chầu Lục hiển ứng giúp dân làm trồng trọt. Tuy anh linh nhưng bà cũng rất đành hanh, còn lưu truyền rằng, chầu thường cùng các bạn tiên nàng giả làm các cô gái người Nùng, bán hàng, ung dung cợt khách qua đường.
Chầu Lục cũng là một trong các vị chầu danh tiếng trên ngàn có lẽ bởi vì chầu rất hay bắt đồng. Cũng như Chầu Đệ Nhị, người ta cũng thường hay thỉnh Chầu Lục về ngự đồng. Đôi khi Chầu Lục lại là giá chầu về sang khăn cho đồng tân lính mới và chứng đàn Sơn Trang trong lễ mở phủ. Chầu Lục cũng có thể chứng mâm giầu trình. Khi ngự đồng, chầu mặc áo màu lam (hoặc màu chàm xanh), khai cuông rồi múa mồi.
Đền thờ Chầu Lục Cung Nương được lập tại thôn Chín Tư, xã Hòa Lạc, huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn (tương truyền là nơi chầu hạ phàm và hiển thánh) được gọi là Đền Lũng hay Đền Chín Tư. Trong năm ngày tiệc Chầu Lục có hai ngày là ngày 10/5 âm lịch (có người nói đó là ngày đản sinh của chầu nhưng điều này cũng chưa chắc chắn) và ngày 20/9 âm lịch (có người cho đó là ngày hóa, có người lại cho rằng đó mới là ngày đản sinh của chầu chứ không phải là 10/5 âm lịch). Trong văn hát sự tích của bà có đoạn như:
“Đêm đông xuống trần gian báo mộng
Hoàng Thị Nương tâm động bào thai
Mãn tuần chín tháng lẻ mười
Sinh ra Chầu Lục tốt tươi lạ thường”
Hay với sự tích theo một tài liệu khác cũng có bản văn hát rằng:
“Hữu Lũng châu cao sơn vị thủy
Chín Tư ngàn tú khí anh linh
Vốn xưa chầu ngự đế đình
[...] Vừa gặp buổi trang đài mở yến
Chầu Lục vào dâng tiến kim bôi
Trống rung chưa kịp dư hồi
Bỗng dưng gió cuốn xảy rơi chén vàng
Trên bệ ngọc vua cha phật ý
Nổi lôi đình hạ chỉ chiếu ban
Đem đày chầu xuống trần gian
Thiên Đình định nhật khải hoàn hồi tiên
[...] Vừa năm Kỉ Mão, tháng hai
Ngày Mão, giờ Mão trang đài nở hoa
Giáng vào họ Quách lương gia...”
Hay có những đoạn rất buồn khi nói về cảnh chầu mãn hạn quy tiên:
“Vẹn một bầu nước trong leo lẻo
Trách trăng già sao khéo vẩn vơ
Vô tình ép uổng lòng tơ
Khéo sinh con tạo bởi duyên cớ gì
Hạn đến kì đôi mươi tháng chín
Ba thu về xa lánh hồn nương”
Hoặc còn có nhiều đoạn rất hay như:
“Ai lên tới sơn lâm châu thổ
Hỏi thăm đền chầu ngự nơi nao
Chín Tư, Hữu Lũng mà vào
Trên đền chầu ngự thấp cao mấy tầng
[...] Anh linh lừng lẫy thượng ngàn
Đản tuần tháng chín Nam Bang khấu đầu
[...] Trần gian đừng có trớ trêu
Hái măng kiếm củi chầu đều qưở ngay
Giở về mới biết linh thay
Nón xanh hài sảo kêu ngay chầu về”
7. Chầu Bảy Kim Giao
Chầu Bảy Kim Giao. Chầu Bảy vốn là người Mọi, chầu giáng thế để giúp dân. Chầu hạ sinh vào gia đình ở đất Thanh Liên, Mỏ Bạch, Thái Nguyên, sau này chầu giúp dân dẹp loài xâm lăng trên đất Thái Nguyên rồi bà cũng là người giúp người dân tộc Mọi biết làm ăn canh tác trồng trọt chăn nuôi (còn có người cho rằng bà chính là người dạy dân biết trồng chè tuyết). Sau này khi về thiên, chầu được giao quyền quản cai núi rừng Mỏ Bạch, Thái Nguyên, tương truyền vào những đêm canh khuya chầu thường hiện hình dạo chơi, cùng các tiên nàng hội họp giữa rừng xanh (Lại có tài liệu cho rằng bà là một vị nữ tướng dưới thời Hai Bà Trưng, cùng Chầu Bát đánh giặc và sau được thờ tại Tân La, Hưng Yên nên còn gọi là Chầu Bảy Tân La).
Chầu Bảy là vị chầu bà ít khi ngự đồng nhất trong hàng Tứ Phủ Chầu Bà. Rất hiếm khi thấy có người nào hầu mà bà về ngự. Nếu có chỉ là khi về đền chính của chầu, bà ngự đồng mặc áo màu tím (hoặc màu xanh), khai cuông rồi múa mồi.
Đền thờ Chầu Bảy Kim Giao là Đền Kim Giao tại Thanh Liên, Mỏ Bạch thuộc tỉnh Thái Nguyên (tương truyền là nơi còn in dấu tích của bà năm xưa). Khi thỉnh Chầu Bảy văn hay hát rằng:
“Thỉnh mời Chầu Bảy Kim Giao
Thái Nguyên, Mỏ Bạch ra vào sớm hôm
[...] Đền thờ cao ngất non xanh
Lô xô đá mọc xung quanh đường đèo
Đền thờ chim hót thông reo
Hang sâu vực thẳm cảnh đèo vắng tanh”
8. Chầu Tám Bát Nàn
Chầu Tám Bát Nàn. Chầu là vị chầu bà giáng sinh dưới thời nước ta còn trong ách đô hộ của nhà Đông Hán, tên thật của bà là Vũ Thị Thục Nương, con gái thầy thuốc Vũ Chất, nguyên quán ở Phượng Lâu, Bạch Hạc (nay thuộc Vĩnh Phúc).Tương truyền, gia đình họ Vũ vốn thuộc dòng hào phú, một hôm ông Vũ Chất đi dạo chơi qua ngọn núi nọ, thấy ngôi miếu thờ Sơn Tinh Công Chúa được lập từ thời thượng cổ, nay hoang tàn đổ nát, ông thành tâm liền huy động nhân dân quanh vùng góp tiền của công sức để tu sửa lại ngôi đền khang trang hơn. Khi về đến nhà chợt nằm mộng thấy có người tiên nữ đến xin làm con để trả ơn đã sửa đền. Liền đó, vợ ông thấy gió thu thổi, rồi có bóng người tiên nữ hiện ra trong làn hoa rơi trước cửa, kế đến thái bà thụ thai, đến ngày rằm tháng tám thì hạ sinh được chầu bà. Bà là người con gái xinh đẹp đảm đang lại giỏi cung kiếm. Thái Thú Giao Châu lúc bấy giờ là Tô Định đem lòng si mê, muốn cùng bà kết duyên nhưng bà không chịu. Hắn bèn sai người giết hại cha bà cùng với lang quân của bà là Phạm Danh Hương. Thù nhà nợ nước, bà bèn tập hợp quân dân phất cờ khởi nghĩa. Vào năm 40 (SCN), chầu cùng với Hai Bà Trưng đánh đuổi được quân xâm lược Đông Hán (trong tích này còn lưu truyền câu chuyện, khi dấy binh ở Tiên La thì chầu bà đã nghe tiếng Hai Bà Trưng hiệu triệu, nhưng còn băn khoăn chưa biết có nên tập hợp nghĩa quân cùng Hai Bà không, thì vào đêm đó, chầu nằm mơ thấy nữ thần vâng lệnh Ngọc Hoàng xuống trao cho chầu bà lá cờ thần (cờ xan) và khuyên chầu nên theo Hai Bà Trưng phất cờ dẹp giặc, và Chầu Bát đã làm theo ý trời, về Mê Linh tụ nghĩa), chầu được Bà Trưng Vương phong cho là Bát Nàn Đông Nhung Đại Tướng Quân (còn có cách giải thích là chầu đã giúp dân thoát khỏi tám nạn của quân đô hộ nên có danh “Bát Nàn Tướng Quân” là do đọc chệch từ “bát nạn”), giao cho bà cùng với bà Lê Chân (Thánh Thiên Công Chúa) trấn giữ miền duyên hải (từ Hải Phòng đến Thái Bình). Năm 43 (SCN), sau ba năm nước nhà độc lập, quân Đông Hán dưới quyền chỉ huy của Mã Viện, quay lại xâm chiếm nước ta, bà cùng với Hai Bà Trưng kiên cường đánh trả, nhưng do thế yếu ( trong trận quyết chiến cuối cùng, quân giặc đã dùng kế hiểm, biết binh sĩ ta toàn nữ giới, nên chúng hò nhau khỏa thân xông vào, các bà không chống đỡ nổi phải rút lui), cuối cùng chầu cũng theo gương hai bà, trẫm mình để bảo toàn khí tiết (có tài liệu còn ghi lại khi bà kéo quân về đến ngã ba Nông thì đột nhiên có dải lụa hồng từ đâu bay tới, thế là quân giặc liền hò réo để bao vây bà, thi thể của bà xẻ làm tám mảnh, trôi về đâu, hiển ở đấy để nhân dân lập đền thờ).
Chầu Bát cũng thường hay ngự về đồng (nhất là trong những dịp tiệc vui hoặc về đền chầu). Khi ngự đồng bà thường mặc áo màu vàng (trước đây thì thường lại là màu xanh), đầu đội khăn đóng (khăn vành dây) màu vàng, có dải von hoặc vỉ lét thắt dải buộc, sau lưng dắt kiếm và cờ lệnh, tay múa kiếm và cờ lệnh ngũ sắc.
Đền thờ Chầu Tám Bát Nàn có ở rất nhiều nơi: nổi tiếng nhất có Đền Tiên La thuộc thôn Đoan Hùng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình (tại đây là nơi nhân dân chịu ơn chầu cũng là nơi di thể chầu trôi về, nên ở đây chầu còn được tôn xưng hẳn là Mẫu Tiên La, nên cũng có khi gọi là Chầu Bát Tiên La), tại đây vẫn còn lưu truyền câu chuyện: khi Chầu Bát đã thác ở trên ngàn, chầu còn hóa phép đốn cây rừng, đóng thành bè gỗ theo dòng trôi về bến sông gần đền Tiên La rồi bà báo mộng cho người thủ đền cùng dân quanh vùng ra đón bè về để tu sửa đền. Tiếp đến là Đền Đồng Mỏ, thuộc thị trấn Đồng Mỏ, tỉnh Lạng Sơn (tương truyền là nơi chầu hóa), ngoài ra còn có Đền Tân La ở Dốc Lã thuộc tỉnh Hưng Yên (là nơi chầu đóng quân) và Đền Tiên La (đền vọng) hay còn gọi là Đền Tám Gian tại đường Lê Lợi, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng (cũng là nơi di hài chầu trôi về, tại đây bà còn được tôn xưng với tên Chúa Bát Nàn, thường được hầu sau hàng Tam Vị Chúa Mường, về làm lễ tấu hương và khai quang như quan lớn chứ không hầu vào hàng Tứ Phủ Chầu Bà như thông thường) và còn rất nhiều đền khác trong tỉnh Thái Bình và nơi quê nhà của bà ở tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày tiệc của Chầu Bát là ngày 17/3 âm lịch (là ngày chầu hóa). Vậy nên, khi chầu ngự, văn hay hát:
“Tháng ba mười bảy Nhâm Dần
Hồn thiêng đã thác về miền Tiên La”
Hay có những đoạn nói về cuộc đời và công lao to lớn của chầu:
“Bát Nàn Đại Tướng Đông Nhung
Quê người Bạch Hạc trên vùng Phượng Lâu
Vào những năm nửa đầu thế kỉ
Năm bốn ba nửa trước công nguyên
Có người con gái thảo hiền
Phượng Lâu, Bạch Hạc tự nhiên kéo về
Thân nữ nhi thù nhà nợ nước
Cùng Trưng Vương cất bước ra đi
Kiếm cung luyện tập ngại gì
Đã cam tấc dạ liều thì một phen”
Hay nói về nỗi thù nhà nợ nước của chầu, văn có đoạn:
“Gặp cơn loạn lạc đao binh
Giặc Tô sát hại dân tình khổ thay
Ách nô lệ xéo dày nhân nghĩa
Hại người hiền giết kẻ trung lương
Túi cơm giá áo một phường
Chung đường nghịch tặc tính đường lợi danh
Cơn sóng gió bất bình nổi dậy
Tin cha già lửa nước dầu sôi
Phạm Hương chàng đã qua đời
Vì ta nhan sắc nên người thảm thương
Trước từ đường tâm hương khấn nguyện
Nguyện thù nhà trả quyết cho xong
Gươm thiêng tráng sĩ anh hùng
Hồn thiêng chứng giám cho lòng thiếp đây”
Rồi còn rất nhiều đoạn (kể từ sự tích cho tới khi bà xông pha trận mạc) như:
"Xin làm con để trả ơn dày
Lại cho bè gỗ trăm cây làm đền
[...] Chợt thấy cánh hoa rơi trước cửa
Gió hào thu tiên nữ hiện thân
Thánh bà từ đó hiện thần
Ngày rằm tháng tám giờ Dần định sinh"
"Quân Tô Định ào ào kéo tới
Tàn gươm đao phơi phới cờ bay
Bốn bề khép chặt vòng vây
[...] Giặc kia dạ thú mặt người
Khỏa thân xông trận ta đành phải thua
[...] Kéo về đến ngã ba Nông
Bỗng nhiên có dải lụa hồng tung bay..."
9. Chầu Chín Cửu Tỉnh
Chầu Chín Cửu Tỉnh. Chầu bà vốn là tiên nữ trên Thiên Đình, sinh giáng ở đất Bỉm Sơn, Thanh Hóa, làm phúc giúp dân. Sau này khi thác hóa bà trờ thành vị Chầu Bà kề cận, biên chép sổ sách bên Cửu Trùng Thiên Cung Vạn Hoa Vương Mẫu. Khi thanh nhàn chầu thường cùng bạn cát dạo chơi khắp nơi, giáng hiện tại đất Thanh Hóa (có tài liệu cho rằng bà cũng là người cai quản chín mạch nước giếng âm dương trên đất Thanh. Theo âm Hán: Cửu là chín, Tỉnh là giếng nên Cửu Tỉnh cũng có nghĩa là chín giếng), có khi chầu cũng giá ngự trong Đền Sòng (vì vậy đôi khi người ta cũng gọi là Chầu Cửu Đền Sòng). Cũng có quan niệm cho rằng bà là Thụy Hoa Công Chúa (hay có một số sách nói là Chầu Quỳnh) trên Thiên Cung, xuống Đồi Ngang, Phố Cát, kề cận bên Mẫu Liễu Hạnh.
Chầu Cửu thường hay ngự đồng khi về các ngôi đền ở Phủ Dày, Nam Định hoặc Đền Sòng, Thanh Hóa. Khi ngự đồng chầu mặc áo màu đỏ (có một số nơi dâng chầu áo màu hồng), khai quang rồi múa mồi.
Vì coi là kề cận bên Mẫu nên Chầu Cửu thường được thờ chính ở những ngôi đền chính của Mẫu như Đền Rồng, Thanh Hóa và Phủ Bóng, Nam Định ngoài ra ở một số đền còn thờ chầu làm Chầu Thủ Đền coi giữ trong bản đền. Nhưng ngôi đền được coi là đền chính của chầu là Đền Sòng Sơn ở Bỉm Sơn, Thanh Hóa. Khi chầu ngự đồng văn thường hát:
“Chín mươi chín suối bao xa
Thỉnh mời Chầu Cửu bước ra ngự đồng
[...] Đất Sòng Sơn giáng sinh Chầu Cửu
Núi Bách Thần đặt hiệu thần tiên
Cửu Tỉnh, Mẫu đã ban truyền
Quyền chầu cai quản khắp miền xứ Thanh”
10. Chầu Mười Đồng Mỏ
Chầu Mười Đồng Mỏ. Chầu Mười vốn là người Tày, dưới thời Lê Thái Tổ Trung Hưng khởi binh chống giặc Minh. Chầu sinh quán trong một gia đình có truyền thống đao cung ở đất Mỏ Ba (Đồng Mỏ), Lạng Sơn. Sau này, chầu trở thành vị nữ tướng tài ba, tập hợp quân dân các dân tộc ở đất Đồng Mỏ, giúp vua Lê đánh đuổi giặc Minh. Vua rất tin tưởng, giao cho chầu trấn giữ các châu, nơi cửa ải Chi Lăng. Trong trận quyết chiến Chi Lăng, Xương Giang, chầu đã lập chiến công, chém cụt đầu tên tướng giặc là Liễu Thăng. Kháng chiến thắng lợi, bà được vua phong công, giao cho cai quản vùng Mỏ Ba, Đồng Mỏ, trấn giữ ải Chi Lăng. Tại vùng Mỏ Ba, ba giúp dân lập xóm ấp làng bản, dạy dân làm ăn, được già trẻ xa gần ai ai cũng mến phục. Đến cuối mùa thu thì chầu về tiên.
Chầu Mười thường hay về ngự đồng trong các dịp tiệc vui hoặc các cửa đền ở đất Lạng Sơn. Khi ngự đồng, chầu thường mặc áo vàng, một múa kiếm, tay kia múa cờ lệnh (hoặc mồi) là khi chầu xông pha nơi trận mạc.
Đền Chầu Mười được lập ngay sát cửa ải Chi Lăng, nơi bà trấn giữ năm xưa, chính là Đền Chầu Mười Đồng Mỏ hay Đền Mỏ Ba, lập tại xã Mỏ Ba, thị trấn Đồng Mỏ, Lạng Sơn, lập trên ngọn núi cao. Khi chầu ngự đồng, văn thường hát rằng:
“Ai lên Đồng Mỏ Chi Lăng
Nhớ người nữ kiệt cứu dân tiền triều
Nước non gặp vận hiểm nghèo
Chầu Mười Đồng Mỏ sớm chiều xông pha
Vốn dòng sinh quán Mỏ Ba
Cần lao nối dõi việc nhà đao cung
Gặp thời Thái Tổ Trung Hưng
Theo vua dẹp giặc Liễu Thăng hàng đầu”
Hay khi nói về cảnh chầu xông pha nơi chiến trận:
“Canh ba giờ Tí hiện ra
Áo vàng phấp phới khăn hoa dịu dàng
Vua ban kiếm bạc cờ vàng
Cưỡi trên mình ngựa hiên ngang oai hùng
Đêm thanh bẻ lái giữa dòng...”
11. Chầu Bé Bắc Lệ
Chầu Bé Bắc Lệ. Chầu Bé vốn gốc người Nùng, dưới thời Lê Thái Tổ, chầu giáng sinh xuống miền Bắc Lệ, Lạng Sơn. Chầu cũng là vị có công giúp dân, giúp nước. Có tài liệu cho rằng Chầu Bé tuy là một vị chầu bà người Nùng trên Lạng Sơn, nhưng chầu lại chính là do Mẫu Thượng Ngàn hóa thân, giúp vua Lê Thái Tổ trong cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh, và sau này được vua phong là Lê Mại Đại Vương. Vậy nên đôi khi Chầu Bé cũng được đồng nhất với Bà Chúa Sơn Trang. Chầu dạo chơi khắp chốn thắng cảnh hữu tình, dạy dân chúng trồng trọt chăn nuôi, lên rừng làm ruộng bậc thang, xuống sông suối đánh bắt cá tôm. Tương truyền, Chầu Bé có phép thần thông do Đức Thái Tổ ban quyền có thể lay núi chuyển ngàn, đôi lúc rong chơi chầu lấy tàu lá giả làm hàng bán để trêu đùa người trần gian. Tuy đành hanh sắc sảo nhưng chầu cũng hết sức nhân hậu, có việc dữ lành chầu đều mách bảo cho người trần.
Chầu Bé cùng với Chầu Đệ Nhị và Chầu Lục, là một trong ba vị Chầu Bà trên Thượng Ngàn hay về ngự đồng nhất. Tuy thứ bậc chầu gần như là cuối cùng trong hàng Tứ Phủ Chầu Bà nhưng không một ai hầu mà chầu không ngự đồng. Chầu ngự về đồng thường hay mặc áo đen (hoặc xanh chàm, còn trước đây chầu chỉ mặc quầy và áo ngắn đến hông), chân đi xà cạp, trên vai đeo gùi hoa, chầu về đồng thường khai quang rồi múa mồi. Đôi khi Chầu Bé có thể giống như Chầu Đệ Nhị và Chầu Lục: chầu về chứng tòa Sơn Trang trong đàn mở phủ, sang khăn cho tân đồng hoặc chứng mâm giầu trình.
Đền thờ chính của Chầu Bé là ngôi đền nhỏ bên cạnh đền Bắc Lệ ở xã Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn với ngày tiệc chầu thì có nơi nói là 12/9 âm lịch, có nơi nói là 19/9 âm lịch. Ngoài Chầu Bé Bắc Lệ ra thì ở một số bản đền có các Chầu Bé cũng trên Thượng Ngàn, là Chầu Bé coi giữ ở đền đó và chỉ khi về chính đền, các vị đó mới ngự. Đó là:
a.Chầu Bé Đông Cuông (ở Đền Đông Cuông, Yên Bái)
b. Chầu Bé Đồng Đăng (ở Đền Đồng Đăng, Lạng Sơn)
c. Chầu Bé Tam Cờ (ở Đền Tam Cờ, Tuyên Quang)
d. Chầu Bé Đền Ghềnh (ở Đền Ghềnh, Hà Nội)
Nhưng thông thường, người ta chỉ hay hầu về Chầu Bé Bắc Lệ (cũng bởi vì có khi người ta coi các vị Chầu Bé kia cũng chỉ là Chầu Bé Bắc Lệ, giáng hiện ở khắp nơi, được phụng thờ ở đền đó làm Chầu Bé bản đền nên mang các tên gọi khác nhau). Khi chầu ngự, văn thường hát rằng:
“Ai lên tới Lạng Sơn châu thổ
Hỏi thăm đền Chầu Bé nơi nào
Hỏi thăm Bắc Lệ mà vào
Đền thờ Chầu Bé thấp cao mấy tầng”
Hay khi nói về những cuộc dạo chơi nơi non bồng nước nhược, nơi cảnh trí hữu tình của chầu:
“Thường dạo cảnh Bảo Hà Thác Cái
Đền Đông Cuông đức đại tối linh
Tuyên Quang cảnh trí hữu tình
Núi Giùm Mẫu ngự thác ghềnh nguy nga
Vào rừng cấm một tòa bích động
Đền Ỷ La lồng lộng ngôi cao
Cây Xanh chầu mắc võng đào
Mỏ Than chầu ngự thấp cao mấy tầng
Cảnh núi rừng đèo heo hút gió
Thú lâm sơn hoa cỏ tốt tươi
Minh Lương suối lượn quanh đồi
Chầu thường dạo cảnh khắp nơi hữu tình
Lai Châu, Suối Rút, Hòa Bình
Đỉnh non Bắc Kạn một mình cheo leo
Hài xanh đủng đỉnh lưng đèo
Trên dòng sông Vị mái chèo đua bơi
Khi về xứ Lạng rong chơi
Nức danh Chầu Bé nơi nơi phụng thờ
Đền Ghềnh cảnh đẹp nên thơ
Chầu lên Hương Tích hái mơ đem về”
Hay khi nói về sự tích và vẻ đẹp của Chầu Bé, văn cũng hát rằng:
“Chầu Bé vốn người Nùng chính gốc
Quả áo lam, khăn lục vấn đầu
Đai xanh kiềng bạc túi chầu
Một bên dao quắm che tàu lá gai
Chân hài xảo đầu cài trâm nhím
Vòng kim cương tam khí lồng tay
Hây hây mặt nước vơi đầy
Như bông hoa nở giữa ngày đầu xuân
Tuổi Chầu Bé đương tuần trăng độ
Trên Sơn Lâm Thái Tổ ban quyền
Phép tiên lay núi chuyển ngàn
Bẻ ba tàu cọ làm hàng bán chơi”
12.Chầu Bé Thoải Cung:
Chầu Bé Thoải Cung. Bà cũng gọi là Chầu Bé nhưng khác với các vị Chầu Bé ở trên thượng bà là vị Chầu Bà về hàng Thoải Cung. Chỉ ở một số ngôi đền mới có thờ riêng Chầu Bà coi giữ bản đền (như Chầu Đệ Tứ, Chầu Cửu, Chầu Bé Đông Cuông...) còn lại đa số các ngôi đền (và cả các bản điện tại gia) thì đều có một vị Chầu Bà gọi là Chầu Thủ Đền hay Chầu Thủ Điện. Đó chính là Chầu Bé Thoải hay cũng có khi gọi là Chầu Bé Bản Đền. Chầu là người có quyền coi giữ, ra vào trong bản đền, tất cả những ai vào lễ trong bản đền đều phải tấu đến chầu.
Tuy ngự ngay trong bản đền nhưng Chầu Bé Thoải rất ít khi ngự về đồng, mà chỉ tráng bóng để chứng đầu đồng. Đôi khi có tiệc khai đàn mở phủ mà có dâng bốn tòa Sơn Trang thì chầu thường hay chứng tòa trắng (thay cho Chầu Đệ Tam, và cả những khi Chúa Thác Bờ không về) sau đó chứng bản đền luôn. Khi ngự đồng chầu hay mặc áo trắng, khai cuông.
Chầu Bé Thoải là tên chỉ chung cho các chầu bà coi giữ bản đền nên hầu như ở đền nào cũng có thờ một vị Chầu Bà như thế. Khi chầu ngự về, văn hay hát rằng:
“Hội Đồng Tam Phủ nghiêm quân
Có Chầu Bé Thoải thanh tân hay là
[...] Làm tôi chầu độ sống lâu
Phơ phơ mái tóc trên đầu như bông
Trứng rồng lại nở ra rồng
Hạt thông lại nở cây thông rườm rà”
(sưu tầm từ blog minh đức)
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
phminhtuan
Hội viên CLB
Hội viên CLB
Bài viết: 281
Tham gia: 14:28, 30/12/09
Đến từ: Nam sơn đạo quán

TL: đạo mẫu việt nam

Gửi bài gửi bởi phminhtuan »

13. Bà Chúa Thác Bờ
Bà Chúa Thác Bờ. Bà vốn là người Mường, sinh quán ở đất Hòa Bình dưới thời nhà Lê (có người nói là thời Trần). Chúa Thác Bờ tên thật là Đinh Thị Vân, con gái một gia đình tộc trưởng người Mường ở Kim Bôi, Hòa Bình. Chúa xưa vốn là tiên nữ, giáng sinh vào nhà họ Đinh, sau này, đất nước gặp cơn loạn lạc, bà đã tập hợp dân Mường liên kết với các dân tộc khác ở vùng đất Hòa Bình, đứng lên đánh đuổi quân xâm lược. Sau khi đã đánh đuổi được bọn ngoại xâm, bà được triều đình giao cho cai quản vùng đất Mường ở Hòa Bình. Tại đây bà giúp dân ổn định cuộc sống, dạy nhân dân lên rẫy làm nương, xuống sông Đà thả lưới đánh bắt cá (tương truyền Chúa Thác còn là người giúp dân trị thủy, chế ngự con sông Đà cuồn cuộn sóng hung dữ). Khi thanh nhàn, chúa lại một mình trên chiếc thuyền độc mộc, chèo từ Bến Ngọc, Sông Đà đi du ngoạn khắp các thắng cảnh.
Chúa Thác Bờ rất hay ngự về đồng, thông thường Chúa Thác thường hay ngự về sau Chầu Đệ Tam (vậy nên có người lại gọi là Chầu Thác Bờ nhưng đôi khi có người lại hầu Chúa Thác sau Chúa Mường Đệ Tam Lâm Thao hoặc hầu chúa sau Chầu Bé Thượng), nhưng Chúa Thác Bờ thường hay ngự về hơn Chầu Đệ Tam và có khi người ta không thỉnh Chầu Đệ Tam mà thỉnh luôn chúa về chứng tòa Sơn Trang màu trắng rồi thả cá phóng sinh trong đại lễ khai đàn mở phủ. Chúa ngự về đồng thường mặc áo trắng, quầy đen, đai xanh, bên hông có xà tích bạc, chúa về khai cuông rồi một tay cầm chèo, một tay cầm mồi, bẻ lái dạo chơi trên sông Đà. Đền Chúa Thác Bờ là địa danh thắng cảnh hàng năm được rất đông du khách đến chiêm bái, được lập ở thị xã Hòa Bình, ngay trên hòn đảo giữa dòng sông Đà, ngoài ra còn có một nơi còn lưu lại thánh tích rõ ràng nhất của Chúa Thác Bờ là Động Tiên_nằm sừng sững giữa dòng sông Đà cuộn sóng. Từ các địa danh này đi tới nhà máy thủy điện Hòa Bình rất gần và đều phải đi bằng ca nô mới tới được. Ngày tiệc cúa Chúa Thác Bờ là ngày 1/4 âm lịch (có người nói là 12/4 âm lịch). Khi chúa về ngự văn thường hát rằng:
“Ai lên tới Thung Nai, Đà Bắc
Dọc sông Đà, bến Ngọc long lanh
Thăm đền Chúa Thác Hòa Bình
Chợ Bờ, hang Miếng thác ghềnh cheo leo
[...] Danh Chúa Thác trên ngàn lừng lẫy
Đất Hòa Bình đã dậy oai linh
Nửa đêm giờ Tí hiện hình
Áo pha màu tuyết bên mình dao quai”
Hay có bản văn còn nói về sự tích, tài sắc và những cuộc dạo chơi của Chúa Thác Bờ:
“Vầng nhật nguyệt đêm ngày soi tỏ
Cảnh Thác Bờ rực rỡ càn khôn
[...] Cảnh Thác Bờ là nơi thắng tích
Lập đền thờ thanh lịch xiết bao
Sông Đà nước chảy rì rào
Đi qua đền chúa là vào đền cô
Cảnh thanh xuân thiều quang soi tỏ
Chúa Thác Bờ tiên nữ giáng sinh
Họ Mường áo trắng đai xanh
Bên hông xà tích, bên mình dao quai
Đôi mắt phượng hoa cài trâm giắt
Vầng trán xinh vẻ mặt càng tươi
Môi son nở đoá hoa cười
Thanh tân lịch sự nét ngời thu ba
Tóc rườm rà rẽ đôi cánh phượng
Nét cong cong uốn lượn đường tơ
Xing xinh để liễu thẫn thờ
Người xinh thời cảnh Thác Bờ thêm tươi
Thú hữu tình rong chơi các ngả
Bước ngao du khắp cả non cao
Mường Bi, Mường Nậm, Phố Sào
Chồng Mâm, Yên Lịch lại vào Kim Bôi
Chiếc thuyền rồng chèo chơi bến ngọc
Dọc sông Đà dạo khắp suối khe
Hang Miếng, Suối Rút chèo về
Ngược xuôi xuôi ngược thuyền về động tiên”
14. Bà Chúa Năm Phương
Bà Chúa Năm Phương. Vốn xưa bà cũng là tiên nữ trên Thiên Đình. Sau chúa giáng thế hạ trần vào nhà họ Vũ ở cửa Cấm Giang, đất Gia Viên (nay là Hải Phòng). Chúa sinh ra hình dung tươi tốt, mọi bề đảm đang. Khi đã hồi tiên, Chúa Bà được giao quyền cai quản năm phương trời đất, bản cảnh bản xứ ngũ phương vậy nên được tôn xưng là Bà Chúa Quận Năm Phương (hay còn có tên khác là Vũ Quận Bạch Hoa Công Chúa). Tương truyền rằng, chúa hiển linh, ngự khắp nơi khắp cảnh trong năm phương trời đất, chúa dạo chơi khắp chốn, cứ đúng vào lúc canh ba giờ Tí, chúa hiện hình ra người mĩ nữ, gọi xe rong chơi, rồi đi về đến “Cây Đa mười ba gốc” là nơi chúa hiển linh, trả tiền cho phu xe, nhưng khi biết ra thì toàn là tiền âm. Chúa cũng thẳng tay trừng trị kẻ nào còn ngang ngược, chúa hành cho chân tay tê liệt, nằm mơ toàn thấy ma quỷ. Cũng có một câu chuyện truyền lại là: vào thời Pháp thuộc có một me Tây bị chúa hành cho chí rận, khắp người ngứa ngáy không yên, phải đến kêu xin, sám hối cửa chúa thì được khỏi, tạ ơn chúa, me Tây đó đã lập đền thờ rất trang nghiêm, quanh năm cũng lễ rất tấp nập.
Chúa Bà Năm Phương chỉ được hầu ở một số vùng (đặc biệt là Hải Phòng là nơi sinh quán quê nhà của Chúa Bà năm xưa). Hải Phòng và một số địa phương lân cận, trong các đàn lễ mở phủ thường có dâng một tòa đàn gọi là: Đàn Chúa Bà (gồm có hình Chúa Quận Năm Phương, hai cô hầu cận, có khi là có cả hình 12 cô nàng (tất cả đều màu trắng), nón chúa hài cườm, một cỗ xe ngựa (hoặc xe phu kéo) hay thường gọi là Xe Chúa Bà) và thỉnh mời Chúa Bà Năm Phương về ngự để chứng đàn đó. Chúa Năm Phương thường ngự về trước Chầu Năm Suối Lân hoặc cũng có một số người hầu chúa sau Tam Vị Chúa Mường. Chúa ngự về thường mặc áo trắng (hoặc có khi chỉ choàng chiếc khăn phủ diện) làm lễ khai cuông rồi cầm tiền tung lên trên ban Công Đồng trong bản đền bản điện để khai quang chứng đền, chứng điện, chứng đàn, chứng phủ (ở một số nơi khác còn hầu chúa về múa quạt hoặc múa mồi).
Đền Chúa Bà Năm Phương được lập ở rất nhiều nơi, nhưng nổi tiếng hơn cả là một số ngôi đền ở nguyên quán Hải Phòng, đất chúa ngự: đầu tiên phải kể đến Chùa Cấm thuộc Phố Cấm, Hải Phòng (tên tự là Cấm Giang Bản Cảnh Linh Từ hay Nguyệt Quang Tự, trong bản tự có hẳn cung cấm bề thế uy nghiêm thờ chúa), sau đó là Vườn Hoa Chéo, trên đường Trần Hưng Đạo, Hải Phòng (đây là nơi trước đây người me Tây kia lập đền tạ ơn chúa, đền xưa rất lộng lẫy, nhưng bây giờ đã không còn do tàn phá của chiến tranh, chỉ còn lại dấu tích nhỏ nhưng vẫn là nơi linh thiêng, hàng tháng có rất nhiều người dân đến đây lễ chúa), rồi “Cây Đa mười ba gốc” là ngôi miếu nhỏ thờ chúa (ở trên đường ra sân bay Cát Bi) là nơi chúa gọi phu xe chở về chốn đó, có cả Đền Tiên Nga cũng thuộc đường Lê Lợi, Hải Phòng, cuối cùng là ngôi miếu nhỏ không tên trên đường Lê Thánh Tông. Các ngôi đền đó đều tổ chức ngày tiệc chúa là ngày 16/6 âm lịch. Tính ra, xưa kia, trên đất Hải Phòng có ít nhất là năm nơi thờ Chúa Bà, vậy nên, khi chúa ngự, văn có hát rằng:
“Năm Phương, năm miếu rõ ràng
Ngũ Phương Bản Cảnh tiên nàng dâng hoa”
Hay khi nói về sự tích Bà Chúa Quận Năm Phương giáng sinh, văn hát:
“Tỏ thềm đan thấy trong tích cũ
Chốn lạc xuyên thủy tú sơn thanh
Bạch Hoa Công Chúa giáng sinh
Vào nhà họ Vũ phúc lành tộc cao
Điềm xà thủy mộng trao dưới trướng
Khi giáng trần thoang thoảng mùi hương”
Và một bản văn nữa cũng hát rằng:
“Hương trời thoảng thoảng gió đưa
Dấu thiêng ghi để ngàn xưa còn truyền
Có Bà Chúa Quận Năm Phương
Hình dung nhan sắc khác vời tiên cung”
Còn có cả một đoạn nói về quyền phép của Chúa Bà:
“Cứ đúng vào canh ba giờ Tí
Hiện ra người mĩ nữ cung nương
Quả nón dâu áo trắng hài cườm
Dạo chơi khắp hết năm phương lại về
Gọi phu xe trả cho tiền giấy
Biết Chúa Bà tay lạy miệng van
[...] Trần gian báng nhạo điêu ngoa
Sai cô thị nữ thu ba hồn về
Đêm nằm mơ thấy ma cùng quỷ
Chúa làm cho liệt vị chân tay
Phải đi thỉnh thánh mời thầy
Xem ra mới biết về tay Chúa Bà”
(sưu tầm từ blog minh đức)
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
phminhtuan
Hội viên CLB
Hội viên CLB
Bài viết: 281
Tham gia: 14:28, 30/12/09
Đến từ: Nam sơn đạo quán

TL: đạo mẫu việt nam

Gửi bài gửi bởi phminhtuan »

Tứ Phủ Ông Hoàng (十位八海龍兒皇子王爺):
1. Ông Hoàng Cả
Ông Hoàng Cả (thường gọi tắt là Ông Cả) hay còn gọi là Ông Hoàng Quận: là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Trong Tứ Phủ Ông Hoàng, ông là anh cả, giáng sinh ra đầu. Sau này ông lên cõi Thượng Thiên, coi giữ sổ sách.Thiên Tào. Có khi ông rong chơi khắp chốn khi chơi Thiếu Lĩnh, lúc chơi Non Bồng. Ông dạo khắp các nơi Bồng Lai, Tiên Cảnh, khi trên thượng giới ông cuỡi con Xích Long, khi dạo chơi trên mặt nước Ông Hoàng cưỡi lốt tam đầu cửu vĩ. Có khi ông cũng ngự lên cõi trần gian phù hộ cho người làm ăn buôn bán hoặc kẻ học hành khoa cử. Tuy nhiên Ông Hoàng Cả không giáng trần.
Ông Cả rất ít khi ngự đồng, khi ngự về ông thường mặc áo đỏ (có thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ), đầu đội khăn xếp có thắt lét đỏ. Ông Hoàng Cả ngự về thường chỉ tấu hương, khai quang (cũng có người hầu ông về múa hèo, nhưng khá hiếm vì không mấy người hầu về Ông Cả)
Ông Hoàng Cả không giáng trần nên không có đền thờ. Khi thỉnh ông tráng bóng văn thường hát là:
“Bóng trăng thanh ánh vàng phơi phới
Động Đình Hồ Bát Hải Long Vương
Có ông Hoàng Quận phi phương
Khi thăng Thượng Giới đẹp duyên cưỡi rồng”
2. Ông Hoàng Đôi
Ông Hoàng Đôi (thường gọi tắt là Ông Đôi) hay còn gọi là Ông Triệu Tường: là con trai Đức Vua Cha. Ông theo lệnh, giáng sinh lên cõi trần gian, làm con trai thứ hai nhà họ Nguyễn, sau đó ông trở thành danh tướng, có công giúp nhà Lê trong công cuộc “Phù Lê Dẹp Mạc”, ông là người đã đem quân truy đuổi họ Mạc đến tận đất Cao Bằng, rồi ông được vua Lê phong công, giao cho kéo binh đóng ở đất Tống Sơn, Triệu Tường, Thanh Hóa.
Ông Đôi cũng khá ít khi ngự đồng, nếu có ngự về, ông mặc áo như Ông Hoàng Cả (nhưng màu xanh), chỉ có ở Hà Nội là hay thỉnh ông về nhưng lại thỉnh ông như một vị Quan Lớn (gọi là Ông Lớn Triệu Tường), ngự sau giá Quan Điều Thất, ông về tấu hương, khai quang rồi múa cờ lệnh (cờ lệnh đại, vuông, ngũ sắc). Đền thờ Ông Hoàng Đôi được lập ở nơi mà xưa kia ông đã kéo binh vê đóng ở đó gọi là Đền Triệu Tường (hay còn gọi là Đền Quan Triệu) ở đất Tống Sơn, núi Triệu Tường, nay thuộc tỉnh Thanh Hóa, ngoài ra ở Hà Nội cũng có một ngôi đền gọi là Đền Quan Triệu (hay tên thường gọi là Đền Hoàng). Khi thỉnh ông về ngự văn háy hát rằng:
“Chí càn khôn nổi miền Nam Việt
Đất Thanh Hoa nhân kiệt địa linh
Có Ông Hoàng Triệu giáng sinh
Vào nhà Nguyễn tộc lên danh tướng tài”
3.Ông Hoàng Bơ:
Ông Hoàng Bơ (thường gọi tắt là Ông Bơ) hay còn gọi là Ông Bơ Thoải. Ông là con trai thứ ba hàng Tứ Phủ Ông Hoàng, con trai vua Long Vương Bát Hải Động Đình. Ông Hoàng Bơ thường ngự dưới tòa Thoải Cung, coi giữ việc trong Đền Vàng Thủy Phủ. Có khi ông biến trên mặt nước, hiện lên chân dung một vị Hoàng Tử có diện mạo phi phương, cưỡi cá chép vàng. Đôi lúc ông biến hiện, ngồi trên con thuyền, rong chơi khắp chốn, cùng các bạn tiên uống rượu, ngâm thơ, đàn hát, trông trăng, đánh cờ, hưởng thú vui của các bậc tao nhân mặc khách (có điển tích nói rằng, Ông Bơ cũng là người em trai thân cận bên Quan Lớn Đệ Tam, khi thanh nhàn các ông thường ngự thuyền rồng, cùng dạo chơi khắp chốn), nhưng thấy cảnh dân chúng còn lầm than, vua cha sai ông lên khâm sai cõi trần, mở hội Phúc Duyên, giáng phúc cho dân, độ cho kẻ buôn bán làm ăn, người học hành đỗ đạt.
Ông Bơ là một trong ba vị Ông Hoàng hay về ngự nhất. Khi giá ngự đồng, ông mặc áo trắng (có thêu rồng kết uốn thành hình chũ thọ), thắt đai vàng, đầu đội khăn xếp có thắt lét trắng, cài chiếc kim lệch màu trắng bạc. Có khi ông ngự về tấu hương, khai quang rồi một tay cầm mái chèo, một tay cầm quạt thong thả bẻ lái dạo chơi, cũng có khi ông cầm đôi hèo hoa, rong ruổi cưỡi ngựa đi ngao du sơn thủy.
Ông Hoàng Bơ không giáng sinh lên trần phàm nên không có đền thờ riêng. Ông thường được coi là ngự trong Đền Lảnh Giang (cùng với Quan Tam Phủ) và Đền Đồng Bằng (kề cận bên Đức Vua Cha Bát Hải). Khi thỉnh Ông Bơ, văn hay hát rằng:
“Trên Thượng Thiên mây bay năm vẻ
Dưới Thủy Tề nước rẽ làm đôi
Ông Bơ lịch sự tốt tươi
Biến trên mặt nước cưỡi đôi chép vàng”
Hay nói về tài mạo song toàn của ông, văn hát rằng:
“Biến lên mặt nước lạ lùng
Ông Hoàng Bơ Thoải chân dung khác thường
Ông Bơ Thoải đường đường dong mạo
Mặt nhường gương tiết tháo oai phong
Thanh xuân một đấng anh hùng
Toàn tài văn võ làu thông mọi đường
Sáng tựa gương trần ai chẳng bụi
Bầu rượu tiên thơ túi xênh xang
Khăn thêu, áo trắng, đai vàng
Võ hài chân bước, vai mang đôi hèo”
Hay khi ông thong thả ngự đồng nghe văn, thả hồn cùng gió trăng:
“Ngồi bên khe suối nảy cung đàn
Bồi hồi nhớ tới bạn chi loan
Tâm thơ Đỗ Phủ hồn theo gió
Gửi khách Tương Như khúc Phượng Hoàng”
Và khi Ông Bơ sắp sửa xe giá hồi cung, văn thường hay hát đoạn sau:
“Trên bờ phụng giá đôi bên
Hoàng lên yên ngựa, bạn tiên theo hầu
Xanh tiền múa hát theo sau
Cờ thần nghiêm chỉnh đi đầu loa vang
Phong quang, tấp nập, rộn ràng
Chăng đèn kết chữ rước hoàng ngư vui”
4. Ông Hoàng Bảy Bảo Hà
Ông Hoàng Bảy hay thường gọi là Ông Bảy Bảo Hà. Ông là con Đức Vua Cha. Theo lệnh vua, ông giáng phàm trần, trở thành con trai thứ bảy trong danh tộc họ Nguyễn, cuối thời Lê. Vào triều Lê Cảnh Hưng, có giặc Trung Quốc từ Vân Nam tràn sang cướp bóc, đốt phá. Triều đình bèn cử ông, dọc theo sông Hồng, lên đánh đuổi quân giặc và trấn giữ vùng biên ải nơi Bảo Hà, Lào Cai. Tại đất Bảo Hà, ông thống lĩnh lục thủy, đánh đuổi quân giặc về vùng Vân Nam, sau đó ông chiêu dụ các thổ hào địa phương đón người Dao, người Thổ, người Nùng lên khẩn điền lập ấp. Sau này trong một trận chiến đấu không cân sức, Ông Bảy bị giặc bắt, chúng tra khảo hành hạ dã man, nhưng ông vẫn một lòng kiên trung, quyết không đầu hàng, cuối cùng, không làm gì được, chúng sát hại ông rồi mang thi thể vứt xuống dòng sông. Kì lạ thay, di quan của ông dọc theo sông Hồng, trôi đến phà Trái Hút, Bảo Hà, Lào Cai thì dừng lại. Còn một điều kì lạ nữa là khi ông bị giặc sát hại, thì trời bỗng chuyển gió, mây vần vũ, kết lại thành hình thần mã (ngựa), từ thi thể ông phát ra một đạo hào quang, phi lên thân ngựa, đến Bảo Hà thì dừng lại, trời bỗng quang đãng, mây ngũ sắc kết thành hình tứ linh chầu hội. Sau này khi hiển linh ông được giao quyền cho trấn giữ đất Lào Cai, ngự trong dinh Bảo Hà, đến lúc này ông nổi tiếng là một Ông Hoàng không chỉ giỏi kiếm cung mà còn rất ăn chơi, phong lưu: khi thanh nhàn ông ngả bàn đèn, uống trà mạn Long Tỉnh, ngồi chơi tổ tôm, tam cúc, xóc đĩa... lúc nào cũng có thập nhị tiên nàng hầu cận, ông cũng luôn khuyên bảo nhân dân phải ăn ở có nhân có đức, tu dưỡng bản thân để lưu phúc cho con cháu. Triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị sắc tặng ông danh hiệu “Trấn An Hiển Liệt” và các triều vua nhà Nguyễn khác tôn ông danh hiệu: “Thần Vệ Quốc_ Ông Hoàng Bảy Bảo Hà”.
Ông Bảy là Ông Hoàng hay ngự về đồng nhất, cũng bởi vì trong hàng Tứ Phủ Ông Hoàng, ông rất hay chấm lính bắt đồng (có quan niệm cho rằng, những người nào mà sát căn Ông Bảy thì thường thích uống trà tàu, hay đánh tổ tôm, xóc đĩa...). Khi ngự về đồng, ông thường mặc áo lam hoặc tím chàm (thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ), đầu đội khăn xếp có thắt lét lam, cài chiếc kim lệch màu ngọc thạch. Ông ngự về tấu hương, khai quang rồi cầm đôi hèo, cưỡi ngựa đi chấm đồng. Đến giá Ông Bảy về ngự, nếu ông ném cây hèo vào người nào thì coi như ông đã chấm đồng người đó. Lúc ông giá ngự, thường dâng ông ba tuần trà tàu rồi thuốc lá có tẩm thuốc phiện.
Đền thờ Ông Hoàng Bảy được lập tại nơi năm xưa di hài của ông lưu lại là Đền Bảo Hà, nằm ở chân đồi Cấm, bên bờ thượng lưu sông Hồng, ở bên bến phà Trái Hút, thuộc xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai (Vì thú chơi phong lưu của ông nên nơi ông ngự còn được mệnh danh là Trái Hút Bảo Hà). Ngày tiệc chính của ông là ngày 17/7 âm lịch, vào ngày này, ở đền ông tập nập du khách thập phương đến dâng ông ngựa xám, bàn đèn, thuốc cống, kẹo xìu (kẹo lạc)... để cầu tài cầu lộc. Khi thỉnh ông về ngự, văn thường hát rằng:
“Bảo Hà đất ấy phong quang
Thỉnh Ông Hoàng Bảy xe loan ngự về
[...] Bắc Nam đôi sứ vào ra
Đồn rằng Ông Bảy Bảo Hà tối linh”
Khi nói về sự tích của ông, văn hát:
“Con ngôi Thượng Đế Đức Vua Cha
Giáng tại Sơn Lâm, trấn Bảo Hà
Diện mạo hồng hào so vẻ ngọc
Dung nghi tươi tốt khác nhường hoa”
Hay khi ông ngự vui, văn thường hát để ông ban thưởng:
“Ai lên Trái Hút Bảo Hà
Nếm mùi phong nguyệt ấy là cảnh tiên
[...] Cỏ cây hoa lá tần ngần
Hoa đào năm ngoái mười phần kém xa
[...] Ba gian tòa đá phủ rêu
Ai người có phúc được theo Ông Hoàng
[...] Dang tay mở khóa động đào
Ai người dày phúc đưa vào quần tiên
[...] Lâng lâng rũ sạch bụi trần
Một ngày bắc ghế nên duyên nợ nhiều”
Hay có cả những đoạn rất hay, độc đáo nói về các thú ăn chơi của Ông Bảy như xóc đĩa, tam cúc, tổ tôm...:
“Đĩa vàng bát ngọc bày ra
Bạn tiên trải chiếu long hoa tức thì
Phàm tâm tả hữu hồ kì
Ông Bảy xóc đĩa bốn bề xôn xao”
“Khi thanh nhàn Ông Hoàng giá ngự
Ngự về đồng dự hội tổ tôm
Màn hoa chắn gió đông nồm
Hiên loan bóng quế chiều hôm đánh bài
Ông Bảy ngồi khoan thai cách điệu
Sập công đồng trải chiếu long lân
Hương xông gấm vóc áo quần
Dang tay châu báu kim ngân đánh bài”
“Cuộc cờ xóa xóa bày bày
Ván bài tam cúc xưa nay tức cười
[...] Pháo kia nổi hiệu lôi oanh
Tốt không bảo vệ giữ mình được sao
Người nay đợi lệnh Thiên tào
Giữ xe pháo mã điều vào giáp công
[...] Xưa nay việc nước việc nhà
Giữ bền sĩ tốt ấy là thành công”
Và có hẳn một đoạn nói về thập nhị tiên nàng hầu cận ông:
“Lệnh sai thập nhị tiên nàng
Cô nào việc ấy sửa sang đứng hầu
Cô Cả pha nước trà tàu
Nhấp vào vừa ý gật đầu ban khen
Cô Đôi dâng bộ khay đèn
Xe ngà diện sứ móc tiêm nạm vàng
[...] Cô Mười Hai trải chiếu chia bài
Tổ tôm chắn cạ nào ai dám bì
[...] Thoi xanh vượt suối băng ngàn
Mười hai tiên nữ rước hoàng về dinh”
5. Ông Hoàng Mười Nghệ An
Ông Hoàng Mười hay còn gọi là Ông Mười Nghệ An. Ông là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình, vốn là thiên quan trên Đế Đình, thần tiên trong chốn Đào Nguyên. Theo lệnh ông giáng trần để giúp dân phù đời. Về thân thế của ông khi hạ phàm thì có rất nhiều dị bản. Theo như ở vùng Nghệ Tĩnh thì ông được coi là Lê Khôi, vị tướng tài, cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh, sau làm đến nguyên thần tam triều Lê gia, phong đến chức Khâm Sai Tiết Chế Thủy Lục Chư Dinh Hộ Vệ Thượng Tướng Quân. Lại có một dị bản khác cho rằng ông giáng xuống trần là Uy Minh Vương Lí Nhật Quang, con trai Vua Lí Thái Tổ, cai quản châu Nghệ An. Nhưng sự tích được lưu truyền nhiều nhất có lẽ là câu chuyện: Ông Mười giáng sinh thành Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời Vua Lê Thái Tổ, có công giúp vua dẹp giặc Minh, sau được giao cho trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh (cũng chính là nơi quê nhà). Tại đây ông luôn một lòng chăm lo đến đời sống của nhân dân, truyện kể rằng có một lần xảy ra cơn cuồng phong làm đổ hết nhà cửa, ông liền sai quân lên rừng đốn gỗ về làm nhà cho dân, rồi mở kho lương cứu tế. Trong một lần đi thuyền trên sông, đến đoạn chân núi Hồng Lĩnh, thì lại có đợt phong ba nổi lên, nhấn chìm thuyền của ông và ông đã hóa ngay trên sông Lam. Trong khi mội người đang thương tiếc cử hành tang lễ, thì trời quang đãng, nổi áng mây vàng, bỗng thấy thi thể của ông nổi trên mặt nước nhẹ tựa như không, sắc mặt vẫn hồng hào tươi tắn như người đang nằm ngủ, khi vào đến bờ, đột nhiên đất xung quanh ùn ùn bao bọc, che lấy di quan của ông. Lúc đó trên trời bỗng nổi mây ngũ sắc, kết thành hình xích mã (có bản nói là xích điểu) và có các thiên binh thiên tướng xuống để rước ông về trời. Sau này khi hiển ứng, ông được giao cho trấn thủ đất Nghệ Tĩnh, ngự trong phủ Nghệ An. Nhân dân suy tôn ông là Ông Hoàng Mười (hay còn gọi là Ông Mười Củi) không chỉ vì ông là con trai thứ mười của Vua Cha (như một số sách đã nói) mà còn vì ông là người tài đức vẹn toàn, văn võ song toàn (“mười” mang ý nghĩa tròn đầy, viên mãn), không những ông xông pha chinh chiến nơi trận mạc, mà ông còn là người rất hào hoa phong nhã, giỏi thơ phú văn chương, không chỉ nơi trần thế mà các bạn tiên trên Thiên Giới ai cũng mến phục, các nàng tiên nữ thì thầm thương trộm nhớ. Sau các triều đại đã sắc tặng Ông Mười tất cả là 21 sắc phong (tất cả đều còn lưu giữ trong đền thờ ông).
Cùng với Ông Hoàng Bảy, Ông Hoàng Mười cũng là một trong hai vị Ông Hoàng luôn về ngự đồng, cũng bởi vì ông còn được coi là người được Vua Mẫu giao cho đi chấm lính nhận đồng (khác với Ông Bảy, những người nào mà sát căn Ông Mười thì thường hay hào hoa phong nhã, giỏi thi phú văn chương). Khi ngự về đồng Ông Mười thường mặc áo vàng (có thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ), đầu đội khăn xếp có thắt lét vàng, cài chiếc kim lệch màu vàng kim. Ông ngự về tấu hương rồi khai quang, có khi ông múa cờ xông pha chinh chiến, có khi lại lấy quạt làm quyển thư, lấy bút gài đầu để đi bách bộ vịnh phú ngâm thơ, có khi ông lại cầm dải lụa vàng như đang cùng người dân lao động kéo lưới trên sông Lam (quan niệm cho rằng đó cũng là ông kéo tài kéo lộc về cho bản đền) và ông cũng cầm hèo lên ngựa đi chấm đồng như Ông Bảy, người ta cũng thường dâng tờ tiền 10.000đ màu đỏ vàng để làm lá cờ, cài lên đầu ông. Khi ông ngự vui, thường có dâng đọi chè xanh, miếng trầu vàng cau đậu, thuốc lá (là những đặc sản của quê hương ông) rồi cung văn tấu những điệu Hò Xứ Nghệ rất mượt mà êm tai.
Đền thờ Ông Hoàng Mười là Đền Chợ Củi, chính là nơi năm xưa di quan ông trôi về và hóa, qua cây cầu Bến Thủy, bên sông Lam, núi Hồng Lĩnh, thuộc xã Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (cũng chính là nơi quê nhà của Ông Mười). Ngày ông giáng sinh 10/10 âm lịch được coi là ngày tiệc chính của ông, vào ngày này, du khách thập phương nô nức đến chiêm bái cửa đền ông thật là tấp nập, trải dải đến tận đôi bờ sông Lam, người ta dâng ông: cờ quạt bút sách ... để cầu tài cầu lộc cũng là cầu mong cho con em được đỗ đạt khoa cử, thành tài để làm rạng danh tổ tông. Khi thỉnh Ông Mười, văn hay hát rằng:
“Ông Mười trấn thủ Nghệ An
Về huyện Thiên Bản làm quan Phủ Dày”
Hay nói về tài đức của ông cũng có đoạn (cả trong hát văn và những câu hò xứ Nghệ):
“Gươm thiêng chống đất chỉ trời
Đánh Đông dẹp Bắc việc ngoài binh nhung
Hai vai nặng gánh cương thường
Sông Lam sóng cả buồm giương một chèo”
“Đất Nghệ An anh hùng hào kiệt
Tiếng Ông Mười lẫm liệt ngàn xưa
Cung gươm lên ngựa đề cờ
Ra tay gìn giữ cõi bờ Việt Nam”
“Chí anh hùng ra tay cứu nước
Đi tới đâu giặc bước lui ngay
Việt Nam ghi chép sử dày
Cung cao điện ngọc đêm ngày khói nhang”
“Năm cửa ô tới Đô Thành
Nam Đàn, Nghi Lộc nức danh Ông Mười”
Rồi có cả đoạn thơ hát khi Ông Hoàng Mười “tái đáo Thiên Thai”:
“Hoa đào rơi rắc lối Thiên Thai
Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi
Ngõ hạnh suối đào xa cách mãi
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng soi
Đá mòn rêu nhạt nước chảy hoa trôi
Ước cũ duyên xưa có thế thôi”
Hay khi dâng ông miếng trầu têm, văn thường hát:
“Đất lề quê thói Nghệ An
Miếng trầu cau đậu dâng Quan Hoàng Mười”
Và có cả khi văn tấu điệu hò Nghệ Tĩnh để ông vỗ gối ban thưởng:
“Muối đã mặn ba năm còn mặn
Gừng đã cay chín tháng vẫn cay
Ghế ông tình nặng nghĩa dày
Xa xôi đến mấy, ra đây ngự đồng”
“Xứ Nghệ vui nhất Chợ Vinh
Đẹp nhất Bến Thủy, anh linh Ông Mười”
Rồi có hẳn một đoạn hát về các nàng tiên nữ hầu cận bên Ông Mười:
“Năm ba tố nữ theo hầu
Trâm thoa cài tóc nhiễu tàu vắt vai
Đầu lược khảm chân văn hài
Cô Cả dâng điếu, Cô Đôi theo hầu
Cô Bơ gối xếp theo sau
Cô Tư xứ Nghệ têm trầu ông xơi
[...] Đôi cô múa lượn xanh tiền
Mười hai tố nữ đôi bên rõ ràng
Các cô rẽ áng mây vàng
Cưỡi con xích điểu rước hoàng hồi cung
[...] Bốn cô đi trước múa cờ
Bốn cô theo kiệu, bốn cô cầm tàn tre
Lệnh sai thập nhi tiên nàng
Các cô tiên nữ rước hoàng về kinh”
(sưu tầm từ blog minh đức)
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
phminhtuan
Hội viên CLB
Hội viên CLB
Bài viết: 281
Tham gia: 14:28, 30/12/09
Đến từ: Nam sơn đạo quán

TL: đạo mẫu việt nam

Gửi bài gửi bởi phminhtuan »

Tứ Phủ Thánh Cô(四府山莊神領聖姑)
1. Cô Nhất Thượng Thiên
Cô Nhất Thượng Thiên. Cô cũng vốn là con Vua Cha dưới Thủy Tề dưới Thoải Cung, được phong là Thiên Cung Công Chúa trên Thiên Đình. Có người nói rằng cô cũng với Cô Chín hầu cận bên cạnh Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên (tức Mẫu Liễu Hạnh) lại có nơi quan niệm cô là Tiên Cô kề cận, tay biên tay chép kề bên Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên (tuy nhiên do có quan niệm là Mẫu Đệ Nhất cũng chính là chầu cho nên hai ý kiến này hầu như là thống nhất với nhau). Cô giá ngự trong cung tòa, cận bên Mẫu cho nên khi đến các đền phủ người ta thường có lời tấu để cô kêu thay lạy đỡ trước cửa Vua Mẫu Đình Thần Tứ Phủ. Khi thanh nhàn cô cưỡi gió cưỡi mây rong chơi khắp chốn, từ Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Nghệ An, Thanh Hóa cho đến tận Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Định... Cô là tiên cô thần thông lục trí, cô chấm đồng người nết na thảo hiền rồi đem về tiến Mẫu trong Đền Sòng Sơn. Cô Nhất khá ít khi ngự đồng, chỉ những người sát căn cô mới hay hầu cô hoặc trong các dịp khai đàn mở phủ Cô Nhất về chứng đồng tân lính mới. Khi ngự về Cô Nhất mặc áo màu đỏ (áo gấm hoặc áo lụa thêu phượng), đầu đội khăn đóng (khăn vành dây), thắt khăn và vỉ lét đỏ. Cô làm lễ khai cuông rồi múa quạt. Cô Nhất thường được thờ vào ban Tứ Phủ Thánh Cô ở trong các bản đền. Cũng có một số người nói rằng có đền cô là Đền Cô Nhất ở trong đất Nghệ An giáp Thanh Hóa với món đặc sản bánh ngào. Khi thỉnh cô, văn thường hát:
“Hương đưa nhang xạ ngát lừng
Thỉnh mời Cô Nhất về chơi trong Nam thành
Hải Phòng, Hà Nội, Bắc Ninh
Nội thành ngoại thị một mình rong chơi
Chơi thôi cô lại tái hồi
Nghệ An, Thanh Hóa là nơi đi về
[...] Thượng đồng má phấn lưng ong
Cô Nhất chấm đồng tiến Mẫu Sòng Sơn
Phép cô lục trí ai hơn
Quyền cô cai quản giang sơn thủy tề”
Hay khi cô về múa quạt văn cũng hát rằng:
“Quạt thần ba sáu nan dương
Cô cầm đến quạt lại thương thanh đồng
[...] Quạt cho gió lộng giang hà
Quạt cho nam nữ trẻ già bình an”
2. Cô Đôi Thượng Ngàn
Cô Đôi Thượng Ngàn. Cô vốn là con Vua Đế Thích trên Thiên Cung, được phong là Sơn Tinh Công Chúa, ra vào hầu cận bơ tòa Vua Mẫu trong điện ngọc, nơi tiên cảnh. Sau cô giáng sinh xuống đất Ninh Bình làm con gái nhà một chúa đất ở chốn sơn lâm, khi hạ sinh, Cô Đôi rất xinh đẹp: da trắng, tóc xanh mượt mà, mặt tròn, lưng ong thon thả. Sau này cô quyết chí đi theo hầu Đức Diệu Tín Thuyền Sư Lê Mại Đại Vương (chính là Mẫu Thượng Ngàn, Bà Chúa Sơn Trang) học đạo phép để giúp dân. Rồi khi về thiên, cô được theo hầu cận ngay bên cạnh Mẫu Thượng Ngàn Đông Cuông Tuần Quán được Mẫu Bà truyền cho vạn phép, giao cho cô dạy người rừng biết thống nhất về ngôn ngữ (nên có khi còn gọi là Cô Đôi Đông Cuông), cũng có người cho rằng cô về theo hầu cận Chầu Đệ Nhị. Lúc thanh nhàn cô về ngự cảnh sơn lâm núi rừng ở đất Ninh Bình quê nhà, trong ba gian đền mát, cô cùng các bạn tiên nàng ca hát vui thú tháng ngày trên sườn dốc Bò, có khi cô biến hiện ra người thiếu nữ xinh đẹp, luận đàm văn thơ cùng các bậc danh sĩ, tương truyền cô cũng rất giỏi văn thơ, làm biết bao kẻ phải mến phục. Cô Đôi cũng là tiên cô cai quản kho lộc Sơn Lâm Sơn Trang, người trần gian ai nhất tâm thì thường được Cô Đôi ban thưởng, nhược bằng có nợ mà không mau trả lễ cô lại bắt đền nặng hơn. Cô Đôi Thượng rất hay ngự về đồng, vì danh tiếng cô lừng lẫy ai ai cũng biết đến, đệ tử cô đông vô số và cô cũng hay bắt đồng. Trong đại lễ khai đàn mở phủ người ta thường dâng lễ vàng cây lên 5 tiên cô là Cô Đôi, Cô Bơ, Cô Sáu, Cô Chín và Cô Bé, trong đó Cô Đôi thường là giá cô ngự về đầu tiên (mở khăn cho hàng cô) để chứng lễ. Khi cô về ngự thường mặc áo lá xanh hoặc quầy đen và áo xanh (ngắn đến hông), trên đầu có dùng khăn (khăn von hoặc khăn vấn) kết thành hình đóa hoa, cũng có một số nơi dâng cô áo xanh, đội khăn đóng (khăn vành dây) và thắt lét xanh, hai bên có cài hai đóa hoa. Cô về đồng thường khai cuông rồi múa mồi, múa tay tiên hái tài hái lộc cho đồng tử. Vì Cô Đôi Thượng hầu cận bên Mẫu Đông Cuông nên đền cô cũng được lập gần Đền Đông Cuông, trong đền thờ Cô Đôi và Cô Bé Đông Cuông, cách đền chính khoảng 500m, trước cửa đền có giếng nước quanh năm trong mát. Nhưng chính đền của cô lại là Đền Cô Đôi Thượng Ngàn tại xã Nho Quan, Ninh Bình (qua rừng quốc gia Cúc Phương) thuộc làng Bồng Lai vậy nên khi cô về ngự, văn thường thỉnh:
“Bồng Lai là cảnh Thiên Thai
Tấu Cô Đôi Thượng đại tài hái hoa
Hầu Vua hầu Mẫu bơ tòa
Tiếng tăm lừng lẫy Vua Bà yêu thương
Về đồng đánh phấn soi gương
Lược ngà chải chuốt, khăn xanh vấn đầu
Rong chơi quán Sở Tần lầu
Xa giá lên chầu Thượng Đế Vua Cha
Đệ tử vô số hằng hà
Ban tài tiếp lộc gần xa cho đồng”
Hay có những đoạn hát rằng:
” Đứng trên ngàn rừng xanh bát ngát
Thấy cô về ngỡ Phật Quan Âm
[...] Ba gian đền mát thảnh thơi
Sớm rong sườn núi tối ngồi đỉnh non
Ca rằng tang tính tình tang
Ai ơi có biết cô ngàn tôi chăng”
Có cả những đoạn ca ngợi tài sắc của Cô Đôi:
“Chắp tay bái lạy cô ngàn
Đông Cuông Công Chúa giáng đàn hôm nay
Trần gian nhẫn nhục khôn thay
Mời cô lai giáng đền này anh linh
Hiệu là Công Chúa Sơn Tinh
Mặt tròn vành nguyệt má xinh môi hồng
Làn da trắng tựa tuyết đông
Tóc rườm rà biếc lưng ong dịu dàng
Chân đi đưa nhởn đưa nhang
Bước nào bước ấy tiên nàng cung Nga”
Rồi có những đoạn rất hay như:
“Ai lên mạn ngược sông Hồng
Nghe chăng tiếng hát ấm lòng thượng du
Hát từ mảnh đất hoang vu
Lăng Khay, Lăng Khít, Phố Lu, Bảo Hà”
Và có cả đoạn:
“Hát lên vang vọng núi rừng
Cho chim về tổ thanh đồng gần nhau
Người đi trước dắt người đi sau
Đừng nên chia rẽ thêm sầu lòng cô”
3. Cô Bơ Thoải Cung
Cô Bơ Thoải Cung. Cô vốn là con Thủy Tề ở dưới Thoải Cung, được phong là Thoải Cung Công Chúa, giá ngự vào ra trong Cung Quảng Hàn. Có người còn nói rằng, Cô Bơ là con gái vua Long Vương rất xinh đẹp nết na nên được Đức Vương Mẫu (có người cho rằng đó là Mẫu Cửu Trùng Thiên) cho theo hầu cận, chầu chực trong cung cấm. Sau này Cô Bơ Thoải giáng sinh vào thời Lê Trung Hưng, tương truyền sự tích như sau: Đức Thái Bà nằm mộng thấy có người con gái xinh đẹp, dáng ngọc thướt tha, tóc mượt mắt sáng, má hồng, môi đỏ, cổ cao ba ngấn, mặc áo trắng đến trước sập nằm dâng lên người một viên minh châu rồi nói rằng mình vốn là Thủy Cung Tiên Nữ, nay vâng lệnh cao minh lên phàm trần đầu thai vào nhà đó, sau này để giúp vua giúp nước, thì Thái Bà thụ thai. Đến ngày 2/8 thì bỗng trên trời mây xanh uốn lượn, nơi Thủy Cung nhã nhạc vang lên, đúng lúc đó, Thái Bà hạ sinh ra được một người con gái, xem ra thì nhan sắc mười phần đúng như trước kia đã thấy chiêm bao. Thấy sự lạ kì vậy nên bà chắc hẳn con mình là bậc thần nữ giáng hạ, sau này sẽ ra tay phù đời nên hết lòng nuôi nấng dạy dỗ bảo ban. Cô lớn lên trở thành người thiếu nữ xinh đẹp, tưởng như ví với các bậc tài nữ từ ngàn xưa, lại giỏi văn thơ đàn hát. Đến khi cô vừa độ trăng tròn thì cũng là lúc nước nhà phải chịu ách đô hộ của giặc Minh, cô cùng thân mẫu lánh vào phía sâu vùng Hà Trung Thanh Hóa, nơi ngã ba bến Đò Lèn, Phong Mục. Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, cô đã có công giúp vua Lê trong những năm đầu kháng chiến (và có nơi còn nói rằng cô cũng hiển ứng giúp nhà Lê trong công cuộc “Phù Lê Dẹp Mạc” sau này). Trong dân gian vẫn còn lưu truyền lại câu chuyện sau: Vào những năm đầu khởi nghĩa, quân ta (ý nói nghĩa quân do vua Lê Lợi chỉ huy) vẫn còn yếu về lực lượng, thường xuyên bị địch truy đuổi, một lần Lê Lợi (có sách nói là Lê Lai) bị địch đuổi đến ngã ba sông Thác Hàn ở Hà Trung thì gặp Cô Bơ đang tỉa ngô liền xin cô giúp đỡ, cô bảo người lấy quần áo nông dân mặc vào, còn áo bào thì đem vùi xuống dưới ruộng ngô rồi cũng cô xuống ruộng giả như đang tỉa ngô. Vừa lúc đó thì quân giặc kéo đến, chúng hỏi cô có thấy ai chạy qua đo không thì cô bảo rằng chỉ có cô và anh trai (do Lê Lợi đóng giả) đang tỉa ngô, thấy vậy quân giặc bỏ đi. Lê Lợi rất biết ơn cô, hẹn ngày sau đại thắng khải hoàn sẽ rước cô về Triều Đình phong công và phong cô làm phi tử. Sau đó cô cũng không quản gian nguy, bí mật chèo thuyền trên ngã ba sông, chở quân sĩ qua sông, có khi là chở cả quân nhu quân lương. Có thể nói trong kháng chiến chống Minh thì công lao của cô là không nhỏ. Đến ngày khúc hát khải hoàn cất lên thì vua Lê mới nhớ đến người thiếu nữ năm xưa ở đất Hà Trung, liền sai quân đến đón, nhưng đến nơi thì cô đã thác tự bao giờ, còn nghe các bô lão kể lại là ngày qua ngày cô đã một lòng đợi chờ, không chịu kết duyên cùng ai, cho đến khi thác hóa vẫn một lòng kiên trinh. Người ta cho rằng, Cô Bơ được lệnh Vua Cha giáng trần để giúp vua, đến chí kì mãn hạn thì có xe loan lên đón rước cô về Thủy Cung. Sau đó cô hiển linh giúp dân chúng ở vùng ngã ba sông, độ cho thuyền bè qua lại được thuận buồm xuôi gió vậy nên cô còn có danh hiệu là Cô Bơ Bông (do tích cô giáng ở ngã ba sông) hay Cô Bơ Thác Hàn (theo tên gọi ở nơi quê nhà). Ai hữu sự đến kêu van cửa cô đều được như ý nên danh tiếng cô vang lừng khắp nơi nơi Cô Bơ luôn giá ngự về đồng, già trẻ, từ đồng tân đến đồng cựu, hầu như ai cũng hầu về Cô Bơ Bông. Khi cô giáng vào ai, dù già hay trẻ thì sắc mặt đều trở nên hồng hào tươi tốt, đẹp đẽ lạ thường. Khi cô ngự đồng, cô thường mặc áo trắng, đầu đội khăn đóng (khăn vành dây) có thắt lét trắng (có khi dùng thắt dải lưng hồng) rồi cô cầm đôi mái chèo, bẻ lái dạo chơi khắp nơi. Lúc chèo thuyền có khi có còn khoác thêm chiếc áo choàng trắng, trên khăn có cài ba nén hương, bên hông có dắt tiền đò, rồi khi chèo thuyền xong, cô lại cầm dải lụa để đi đo gió đo nước đo mây. Lúc cô an tọa người ta thường xin cô thuốc để trị bệnh, vậy nên Cô Bơ ngự về thường hay làm phép “thần phù” để ban thuốc chữa bệnh. Vì theo quan niệm nguyên xưa Cô Bơ Bông hầu cận Mẫu Thoải, lại theo sự tích nơi quê nhà cô là ở đất Hà Trung, Thanh Hóa, ngã ba Bông bến đò Lèn nên đền cô được lập ở đó, gần đền Mẫu Thác Hàn (chính là Mẫu Thoải), gọi tên là Đền Cô Bơ Bông thuộc xã Hà Sơn, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, trước đây đường đi vào rất khó khăn, nhưng hiện giờ đã được tu sửa nên giao thông đã dễ dàng hơn. Đền cô là nơi thắng cảnh “trên bến dưới thuyền”, nơi giao của Ngũ huyện kê: “Một tiếng gà gáy năm huyện đều nghe” cũng với danh tiếng anh linh của tiên cô nên khách thập phương đến chiêm bái, cầu xin nhân duyên, khoa cử, làm ăn rất đông đúc. Thuyền bè dưới bến sông qua lại đều phải đốt vàng mã kêu cô, rồi những người đến kêu cầu đều dâng cô nón trắng hài cườm, võng lụa thuyền rồng. Khi thỉnh cô, văn thường hát:
“Hiển danh là bóng Cô Bơ
Lên tâu xuống rộng trong tòa Thoải Cung”
Hay còn hát là:
“Hàn Sơn tú khí anh linh
Có Cô Bơ Thoải giáng sinh phù đời
[...] Hà Trung đất ấy quê nhà
Dấu thiêng ghi để ngã ba Thác Hàn”
Rồi để ca ngợi tài sắc của Cô Bơ cũng có nhiều đoạn rất hay như:
“Đẹp bằng Nghiêu Thuấn nữ trung
So nên tài sắc tiên cung nào tày
Cô Bơ đàn hát cũng hay
Ngũ âm khéo này năm dây tang tình
Ngự chơi đâu một mình một phủ
Áo khăn hầu sắm sửa dâng ngay
Dâng cô quả nón đôi hài
Dâng gương dâng lược vòng tay quạt ngà
Chấm đồng đâu kể trẻ già
Khắp miền dương thế gần xa tiếng đồn”
Rồi có cả đoạn;
“Bậc thần nữ phong cô nhan sắc
Vẻ khuynh thành nhất mực trần gian
Hây hây má phấn tựa hương
Mặt hoa đầy đặn trán vuông chữ điền
Vẻ thiên nhiên hình dung tầm thước
Gót hài hoa càng bước càng xinh
Đã nên quốc sắc khuynh thành
Mày ngang bán nguyệt dương đình nở hoa”
Hay cũng có cả đoạn sau:
”Dao vàng cô diếc móng tay
Bút thần cô kẻ lông mày cong cong
Rập rờn nét liễu nằm ngang
Phấn son tô điểm má hồng thiên trung
Thật là tiên nữ thủy cung...”
4. Cô Tư Ỷ La
Có người nói cô Tư là Tiên Nữ theo hầu Chầu Đệ Tứ Khâm Sai nhưng theo tài liệu cổ chính xác nhất thì cô Tư theo hầu Mẫu Thượng, cô xinh đẹp dịu dàng, được Mẫu hết mực yêu quý, khi thanh nhàn cô thường dạo chơi cảnh Tây Hồ với chiếc áo lụa vàng tha thướt thêu hoa cỏ. Cô được thờ trên đền Ỷ La, Tuyên Quang.
5. Cô Năm Suối Lân
Cô là Tiên Nàng người dân tộc theo hầu cận Chầu Năm Suối Lân, cô ở trên Thượng Ngàn, có tính đành hanh, ai mà phạm lỗi thì cô phạt có khi là dở khóc dở cười, có khi cô cho đi lạc trong rừng, ai biết tâm thành lễ bái, cô ban tài tiếp lộc Sơn Lâm Sơn Trang, cô là người cai quản con Suối Lân, bốn mùa xanh ngắt, nhưng ai ko biết mà xuống tắm sẽ bị cô phạt cho sốt nóng mê sảng. Khi ngự đồng cô hay mặc áo xanh hoặc áo lam, đầu vấn khăn hình củ ấu và tay cầm đôi mồi lửa. Đền cô là ngôi đền nhỏ cạnh đền Chầu Năm, bên bờ sông Hóa
6.Cô Sáu Sơn Trang :
Cô là Tiên Nàng hầu cận sát bên Mẫu Thượng Trang Châu, cũng có nơi nói cô là người kề cận Chầu Lục Cung Nương và gọi cô là Cô Sáu Lục Cung, nhưng mọi tài liệu đêù thống nhất cô Sáu là người có tài bốc thuốc cứu người, khi cô lên ngàn hái thuốc thì cầm thú reo ca, voi quỳ hổ phục bên đường cô đi, cô rất khôn ngoan nhưng cũng rất đành hanh, cô đặc biệt ghét người ăn nói quanh co, ăn không nói có. Khi giáng đồng cô mặc quả áo lam ngắn vạt dài tay, chít khăn xanh, trâm cài lược dắt, tay cầm bó mồi
7. Cô Bảy Kim Giao
Cô theo hầu Chầu Bảy Kim Giao trên đất Thanh Liên, Mỏ Bạch, Thái Nguyên, cũng là người dân tộc Mọi, cô hiển ứng, đêm đêm mắc võng đào cùng các bạn tiên ngôi hòa ca. Khi về đồng cô mặc áo lụa tím.
8. Cô Tám Đồi Chè
Cô Tám không phải là người theo hầu Chầu Tám Bát Nàn, mà cô có tích sử riêng, côlà người thiếu nữ hái chè đất Hà Chung, cũng một lòng giúp vua, tuy sau này chưa được đền đáp nhưng cô cũng được dân lập đền thờ là đền Phong Mục, Hà Trung, Thanh Hóa, chỉ cách đền cô Bơ Bông có một con sông.Khi ngự đồng cô mặc áo xanh quầy (váy) xanh,đầu kết khăn xanh, cô múa mồi rồi múa dáng điệu hái chè
9. Cô Chín Sòng Sơn
Còn gọi là cô Chín Giếng, một tiên cô tài phép, theo hầu Mẫu Sòng, lại có tài xem bói,1000 quẻ cô bói ra thì ko sai một quẻ nào,Cô có phép thần thông quảng đại, ai mà phạm tội cô về tâu với Thiên Đình cho thu giam hồn phách, rồi cô hành cho dở điên dở dại, sau Vua truyền dân lập đền cô ở xứ Thanh, ngay trước đền là chín chiếc giếng tự nhiên do cô cai quản. Còn có truyền thuyết về cô : Cô là Tiên Nữ hầu Mẫu trong đền Sòng, quản cai chín giếng, cô dạo chơi bốn phương khắp ngả trời Nam, sau về đến đất Thanh Hóa cảnh lạ vô biên, cô hài lòng liền hội họp thần nữ năm ba bạn cát, lấy gỗ cây sung làm nhà, còn cây si thì cô mắc võng, nhân dân cầu đảo linh ứng liền lập đền thờ là Đền Cô Chín ở Thanh Hóa, cách đền Sòng Sơn khoảng 30km.Khi ngự đồng cô mặc áo hồng phơn phớt màu đào phai, có khi cô múa quạt tiến Mẫu, múa cờ tiến Vua, cũng có khi cô thêu hoa dệt lụa, rồi lại múa cánh tiên. Ai cầu đảo cô đều sắm sửa lễ vật : Nón đỏ hài hoa võng hồng để dâng cô đều được cô chứng minh. Ở một số địa phương đền thờ cô và tôn với các danh khác như Cô Chín Rồng, Cô Chín Suối nhưng chính đều là Cô Chín Sòng được thờ phụng
10. Cô Mười Mỏ Ba
Cô theo hầu Chầu Mười Mỏ Ba, giúp vua đánh giặc Ngô, khi ngự về cô mặc áo vàng cầm cung kiếm cưỡi trên mình ngựa theo chầu bà xông pha trận mạc, sau này cô cũng được thờ tại đền Chầu Mười
11. Cô Bé Thượng Ngàn
Cũng như Chầu Bé, các vị cô bé đều là những bộ nàng trên Tòa Sơn Trang, hầu Mẫu Thượng Ngàn, có rất nhiều cô bé trên khắp các cửa rừng lớn nhỏ, các cô về mặc quần áo thổ cẩm, chân quấn xà cạp, đeo kiềng bạc, tay cầm ô, vai đeo gùi. Các cô bé gồm:
a,Cô Bé Thượng Ngàn (Thị Xã Lạng Sơn)
b,Cô Bé Suối Ngang (Hữu Lũng)
c,Cô Bé Đèo Kẻng (Thất Khê)
d,Cô Bé Đông Cuông (Yên Bái)
e,Cô Bé Tân An (Lào Cai)
f,Cô Bé Cây Xanh (Bắc Giang)
g,Cô Bé Nguyệt Hồ (Bắc Giang)
h,Cô Bé Minh Lương (Tuyên Quang)
i,Cô Bé Cây Xanh (Tuyên Quang)
k,Cô Bé Thác Bờ (Hòa Bình)
12.Cô Bé Thoải Phủ :
Cô Bé ngự dưới tòa Thoải Phủ, chỉ tráng bóng chứ ko mở khăn, đứng hàng 12 trong các cô
(sưu tầm từ blog minh đức)
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
phminhtuan
Hội viên CLB
Hội viên CLB
Bài viết: 281
Tham gia: 14:28, 30/12/09
Đến từ: Nam sơn đạo quán

TL: đạo mẫu việt nam

Gửi bài gửi bởi phminhtuan »

Tứ Phủ Thánh Cậu (十位超靈少聖舅)
Là các vị cậu chết trẻ, tinh nghịch, thường phù hộ cho các gia đình buôn bán cũng như những người muốn cầu học hành. Tứ Phủ Thánh Cậu gồm :
1. Cậu Hoàng Cả
2. Cậu Hoàng Đôi
3. Cậu Hoàng Bơ
4. Cậu Bé
a, Cậu Bé Đồi Ngang (Cậu Hoàng Quận)
b, Cậu Bé Đồi Non
Ngoài ra ở mỗi bản đền lại có một cậu bé coi giữ gọi là cậu bé bản đền, trong đó thường hay ngự đồng như : Cậu Bé Phủ Bóng, Cậu Bé Đông Cuông ....
Các cậu về thương mặc áo cánh các màu ứng với mỗi giá, đầu vấn khăn, hai bên tay thường có hoa cài, chân quấn xà cạp, đi giày thêu. Các cậu về thường làm lễ tấu rồi đi hèo hoặc múa lân
Quan Ngũ Hổ (五方神虎威靈)
· Đông Phương Giáp Ất Mộc Đức Thanh Hổ Thần Quan (–方甲乙木德青虎威靈)
· Nam Phương Bính Đinh Hỏa Đức Xích Hổ Thần Quan (南方丙丁火德赤虎威靈)
· Trung Ương Mậu Kỷ Thổ Đức Hoàng Hổ Thần Quan (中央戊已土德黃虎威靈)
· Tây Phương Canh Thân Kim Đức Bạch Hổ Thần Quan (西方庚辛金德白虎威靈)
· Bắc Phương Nhâm Quý Thủy Đức Hắc Hổ Thần Quan (北方壬癸水德黑虎威靈)
Ông Lốt (兩位青蛇白蛇大神將軍)
· Thanh Xà Đại Tướng Quân
· Bạch Xà Đại Tướng Quân
Tùy từng đền, có người hầu Năm Ông Hạ Ban và Hai Ông Lốt.
(sưu tầm từ blog minh đức)
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Phong tục - Tín ngưỡng”