Kinh Dịch là môn triết học cổ của phương Đông, nó được xem là viên ngọc sáng trong kho tàng khoa học, nó không những là kinh sách của bậc đế vương cần đọc để làu thông đạo trị quốc mà nó còn là “pháp bảo” để xây dựng, cấu tạo và định hướng cho tất cả các ngành khoa học phục vụ cho đời sống của con người.Ngành học thuật Đông y của chúng ta cũng không ra ngoài quĩ đạo ấy. Cho nên, nền triết học này đã trở thành Y đạo, là linh hồn cho sự tồn tại và phát triển của nghành họcthuật củachúng ta.
Vì là bản sao của nền triết học, cho nên toàn bộ cấu trúc của Đông y từ tôn chỉ , mục đích cho đến việc phòng và chữa bệnh nơi đâu cũng được lý giải bằng thuyết khí hoá, nơi đâu cũng nhìn thấy từ tổng quát cho đến chuyên khoa từ ngữ của triết học như: Âm dương, ngũ hành, thuỷ hỏa, hư thực, hàn nhiệt, chánh tà.v.v… cùng những qui luật vận động cơ bản của Âm dương, ngũ hành trong vũ trụ luôn tồn tại và chi phối toàn diện đối với đời sống vạn vật ở dưới gầm trời này .
Việt Nam chúng ta là một dân tộc Á Đông, cho nên không riêng gì ngành học thuật Đông y mà hầu như toàn bộ các ngành khoa học phục vụ cho đời sống xã hội, đều có nguồn gốc xuất phát từ sự lý giải của bộ kinh điển này. Do đó nên đời sống của xã hội hầu như ngành nào, đâu đâu cũng dùng nó để xây dựng tôn chỉ ,dùng nó để định hướng cho sự tồn tại và phát triển của ngành mình ,từ cá nhân cho đến toàn thể cộng đồng xã hội .
Từ đó, các ngành khoa học khác cũng như ngành học thuật Đông y trong quá trình ứng dụng, những nhà sáng lập không thể sáng tạo thêm những thuật ngữ đặc thù, toàn diện của ngành mình để diễn đạt ý nghĩa cho thỏa đáng, nên tất cả đều buộc phải đem nguyên văn từ của triết học để đưa vào. Và một khi những từ này được đi vào một phạm trù nào đó, thì nó đòi hỏi mọi người không chỉ hiểu nó bằng một ý nghĩa thông thường, mà còn phải hiểu nó một cách toàn diện về triết học, thì danh của nó mới có thể sáng mà vận dụng một cách phù hợp, chính xác vào thực tế được. Bằng không, thì nó rất dể bị ngộ nhận dẫn đến những áp đặt sai lầm không đáng có, vào phạm trù đã được ứng dụng.
Riêng phạm trù y học, cụm từ nghề y chân chính cũng vậy. Nghề y thì ai cũng biết, nó bao gồm tất cả những người đang hành về y học mà trước đó họ đã được đào tạo kỹ lưỡng về y lý và y thuật. Do đó tất cả những người này họ đều có đầy đủ năng lực, để xử lý một cách khoa học mọi tình huống bệnh, cũng như lý giải được mọi nguồn gốc và cơ chế phát triển của bệnh.
Hai mặt này, người thầy thuốc có đầy đủ năng lực không thể xem nhẹ hay bỏ đi bất cứ bên nào. Vì nếu chỉ chú trọng đến y thuật thì việc điều trị của họ là: đau đâu chữa đó, bệnh gì thuốc ấy thì rất dễ dẫn đến sai lầm vì đối với những bệnh phức tạp, chứng thường một nơi mà nguyên nhân thì ở vào một nẻo. Còn nếu chỉ chú trọng đến phần y lý thì khả năng phân tích, lý luận của họ giỏi nhưng lại không vận dụng được phương pháp thích hợp để điều trị, thì cũng không thể đẩy lùi được cơ chế bệnh.
Trong thực tế, trường hợp thứ nhất thường thấy rơi vào hướng đào tạo mang tính gia truyền, nghĩa là cha con, anh em, thầy trò truyền lại cho nhau. Hứơng truyền dạy nầy trong quá khứ cũng nhờ đó mà nền YDHDT trải qua bao nhiêu biến cố, bị nhiều nguy cơ mai một nhưng nó vẫn luôn được tồn tại trong lòng của dân tộc. Tuy nhiên, hứơng truyền dạy này có đặc điểm là kinh nghiệm điều trị chỉ dừng lại ở
một số bệnh nào đó, nhưng hầu hết ngừơi được truyền dạy họ đều không thể lý giải được vịệc của mình làm, cũng như gặp bế tắc là họ cũng không hiểu được vì sao? Vì đối với những lọai bệnh này họ chưa từng biết, cũng như không được truyền dạy một cách đầy đủ về y lý.
Trong xu thế phát triển của các ngành khoa học khác, nghề y chúng ta cũng không thể tiếp tục xem đây là hướng đào tạo tích cực, vì làm được mà không nói được nó đồng nghĩa với việc: tình cờ mà làm được. Đông y là môt ngành khoa học, thầy thuốc Đông y là những người làm công tác khoa học, cho nên việc tình cờ mà làm được thì không có lý nào dùng nó để làm khuôn mẫu, truyền dạy cho lớp kế thừa trong thời đại hiện nay được.
Trường hợp thứ hai, thường rơi vào hướng đào tạo ở trường lớp vì những người này sau khi học ra, phần đông đều biện chứng lý luận rất tốt, nhưng khi ứng dụng các phương pháp điều trị thì chưa thật hợp lý, thường nghiêng về bài bản hơn là thực tế lâm sàng. Nhưng dù sao hướng đào tạo này cũng là xu thế phù hợp nhất, trước mắt tuy họ chưa đủ kinh nghiệm nên cứ ứng dụng các phương pháp cơ bản này. Thế nhưng sau khi ra trường, họ chỉ cần một thời gian để tiếp tục học hỏi, đặc biệt là kinh nghiệm của những người đi trước và vận dụng với kiến thức của trường lớp vào thực tế, thì họ cũng có thể làm tốt đươc công việc của mình.
Cho nên, hễ nói đến nghề y là phải nói đến những người đã được đào tạo, trui rèn về y thuật lẫn y lý và đó mới thật sự là tính chất của một người thầy thuốc có đầy đủ năng lực để trị bệnh cứu người .
Còn đối với từ “chân chính” theo nghĩa đen là hoàn toàn xứng đáng với tên gọi. Có nghĩa là: đối với nghề y, danh hiệu thầy thuốc là hoàn toàn xứng đáng. Nhưng nếu chúng ta cứ bám chặt vào đó thì rất dễ tạo nên ngộ nhận rồi đi đến tự nhận vì: như thế nào là xứng đáng ,thế nào là không xứng đáng do nó hoàn toàn không có ranh giới cụ thể nào?
Liên hệ đến phạm trù triết học: Chân có nghĩa là chân thành, chân thật, chân thiện... mà bên trong không còn chỗ để cho sự xấu xa, giả tạo len vào. Vì thế nên nó còn có nghĩa: Đó là chân lý mà bên trong nó bao hàm tất cả tình yêu thương dành cho đời sống của nhân loại. Chân lý này được xuất phát từ lòng bản thể của vũ trụ, nơi chứa đặc tình yêu thương dành cho sự sống của muôn loài ở khắp cả thế gian. Vì chính nơi này, nó đã tự nguyện phân chia bản thể của mình ra, để tạo dựng nên đời sống của muôn loài mà bên trong lúc nào nó cũng tự nhiên và đương nhiên tròn đầy, viên mãn. Cho nên, chữ Chân này nó còn bao hàm luôn cả ý nghĩa đó.
Còn chữ Chánh có nghĩa là điều phải, điều đúng ,điều trong sáng ngay thẳng nhưng nó thiêng về lợi ích chung. Cho nên 2 từ Chân Chính này ghép lại thì có nghĩa: Khi bên trong đã có chân rồi thì bên ngoài mới có chánh được, còn ngược lại bên trong không chân thì mọi hành vi ứng xử bên ngoài đều khó có thể vì công chánh được. Đúng vậy, nếu bên trong con người đã chứa đặc tình yêu dành cho sự sống của thế nhân, thì khi hành xử bên ngoài với mọi người mới thật đúng, thật phải và mới thật sự làm những điều chánh đáng, ngay thẳng vì lợi ích chung được.
Cho nên, vấn đề được nêu ra đối với cụm từ này là: Ngoài năng lực chuyên môn, người thầy thuốc còn phải có trách nhiệm và tình thương yêu, sự cảm thông với nỗi khổ đau của người bệnh thì đó mới thật sự đúng như tên gọi người thầy thuốc chơn chánh được. Còn nếu chỉ có chuyên môn mà thiếu đi yếu tố này thì chưa thật sự xứng đáng với danh gọi này.
Xuất phát từ ý nghĩa trên, cho nên ngành y nói riêng và cộng đồng xã hội nói chung, luôn chú trọng và kêu gọi việc rèn luyện y đức của người thầy thuốc. Thế nhưng đại bộ phận người thầy thuốc đều không hiểu như thế nào là chân, thế nào là chánh, hay họ bị mập mờ giữa phải, trái, đúng, sai thì làm sao có thể kêu gọi họ dùng y thuật của mình để ra làm phước hay tích đức được? Hơn thế nữa, đối với từ y đức cũng vậy đó là từ của y học và triết học ghép lại, nếu không dùng lý giải từ của triết học thì nó sẽ trở thành trừu tượng, mơ màng. Ngoài ra, nó cũng sẽ bị ảnh hưởng, tác động bởi các từ ngữ của các chủ thuyết tín ngưỡng khác như : đạo đức, nhân đức, đại đức, đức Phât, đức Chúa, đức Mẹ v.v… và mọi người sẽ dễ dàng chấp nhận nó, nhưng tất cả đều thiên về yếu tố thần linh hơn là thực tế khoa học .
Do đó, khi bàn về y đức thì ngòai xã hội hiện nay nó đang trở thành vấn đề thời sự nóng, vì mọi người ai cũng phải bận tâm. Nhưng thật ra, y đức theo cách hiểu của thời đại ngày nay thì đây cũng là môt trong những ngộ nhận thật đáng tiếc, vì nó chưa thật sự mang đầy đủ ý nghĩa theo từ của triết học. Cũng như từ Chân Chính hay tất cả những thuật ngữ trong y học, vì thế nên mới tạo sự bất bình, ta thán về y đức đối với người thầy thuốc của cộng đồng.
Điều này có thể nói, vì đa phần thầy thuốc chúng ta đều tập trung dồn tâm huyết của mình vào việc thừa kế một nền y học, nhưng nó lại được sanh ra từ một nền triết học, cho nên phần đông đều chưa thật chú trọng đến việc trang bị chu đáo, dựa theo những điều căn bản của nền triết học này. Và một khi người thầy thuốc không thấu đáo được căn nguyên này, thì những từ ngữ mà cổ nhân buộc phải đem vào làm sao họ có thể thông suốt và có thể phấn đấu để trở thành một người thầy thuốc đúng như danh gọi được?
Trong khi đó, hầu hết quí thầy hiện nay đều cho rằng: hệ thống y lý, y thuật của Đông y đều đã có đủ vì nó là kết quả của một công trình nghiên cứu tổng hợp, đầy tính khoa học rất cụ thể và rất đầy đủ lắm rồi. Cho nên, những thuật ngữ này trong y học đều được mọi người bằng lòng và dừng lại ở ý nghĩa đó, chứ ít có người nào đòi hỏi gì thêm. Nếu trong quá trình ứng dụng gặp bế tắc thì họ lập tức dừng lại, nhưng cũng có một số thầy không bằng lòng như vậy và đã bỏ công ra tìm tòi, nghiên cứu để đựơc hiểu biết thêm.
Tuy nhiên, kết quả mang lại khi ứng dụng thì vẫn còn tuỳ theo tư duy, sở kiến của mỗi người, nhưng cũng có số người phủ nhận nó và cho rằng những từ này, câu nọ đã quá xưa cũ, lỗi thời không còn phù hợp với thực tế ngày nay nữa? Và khi gặp những bế tắc trong y học thì họ cũng dụng công để nghiên cứu, tìm tòi ra giải pháp khác nhưng thường là mang tính áp đặt. Tỷ như họ dùng các giải pháp của nền YHHĐ... hoặc có người cũng chấp nhận, nhưng lại áp đặt cho nó vào yếu tố thần linh, tà ma quái vị hoặc tìm mọi cứu cánh để giải quyết vấn đề này.
Nhưng nói chung, phần đông đều rơi vào trạng thái ngộ nhận, mỗi người mỗi cách không ai có thể giống ai. Tuy có điều mừng là hầu hết không một ai dám tự ý sửa chữa hay thay đổi những từ ngữ này, kể cả một số nhà hành y có học thức, có học vị khá cao .
Từ những đăc điểm trên, cho nên khi thực hành y đức người thầy thuốc thường rơi vào 3 khuynh hướng :
-Do bị ảnh hưởng, chi phối của tín ngưỡng mà có một số thầy đã thần thánh hoá việc thực hành y đức của minh và nặng về ban bố ơn điển hơn là trọng trách phục vụ đối với bệnh nhân .Thậm chí còn có nhiều người thiện tâm đến độ chữa bệnh không thu bất cứ khoản tiền nào, kể cả thuốc men lẫn công sức mà không cần biết rằng khả năng chuyên môn, hoàn cảnh đời sống của bản thân và gia đình mình có thể duy trì được trong bao nhiêu lâu ?
Ngoài ra, khuynh hướng này còn kéo theo 1 số người chưa đủ tư cách chuyên môn cũng tham gia như một phong trào rất rầm rộ, với nhiều động lực khác nhau. Nhưng cuối cùng, hầu như tất cả đều bị biến tướng đi vì thiếu năng lực, đồng thời cũng vì sự sống mà những người này đã tô vẽ lên khuôn mặt của y đức thông qua những việc làm từ thiện ấy rất nhiều nét chấm phá trông thật đau lòng, làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của những người thầy thuốc chân chính.
-Khuynh hướng thứ hai là thực hành không cần hiểu.
Khuynh hướng này thường rơi vào các cơ quan, công sở thuộc khu vực nhà nước. Đối với bộ phận này, việc thực hiện 12 điều y đức của ngành cũng giống như thực hiện những nội qui của cơ quan, nên bắt buộc họ phải làm nếu không muốn bị kỉ luật hay đuổi việc. Còn đối với họ thì cụm từ này quá mơ hồ, không có giá trị đem lại lợi ích thực tế cho cuộc sống, cho nên mọi người không sẵn sàng và cũng không có hứng thú để thực hiện .
-Khuynh hướng thứ ba là không bận tâm gì và cứ bám theo tư lợi. Bộ phận này, hầu hết đều có động cơ vào nghề y với mục đích sau này dùng nó để làm kinh tế. Vì vậy sau khi đã rành nghề là họ bắt đầu thu lợi và cũng không cần biết rằng, những lợi lộc mà họ đang thâu được chính là sự khổ đau, bệnh tật mà đồng loại của họ đang phải gánh chịu đến kiệt sức từng ngày?
Dù biết rằng qui luật muôn đời của đời sống xã hội là tất cả mọi người đều phải làm việc để tạo ra lợi ích chung, trong đó có lợi ích cho bản thân mình. Cho nên đây cũng là một nhu cầu chính đáng, để cho con người tồn tại và phát triển cuộc sống. Nhưng đối với những người thầy thuốc chân chính, sự tư lợi này không có nghĩa là họ đem nghề trị bệnh cứu người của mình ra để làm kinh tế theo kiểu mua bán, mà bên trong có sử dụng nhiều thủ đoạn để thu về càng nhiều lợi, thì càng tốt.
Vì vậy, đối với cụm từ chân chính khi đặt lên vai người thầy thuốc thì quả là một đòi hỏi rất khắc nghiệt, nó đòi hỏi ngoài chuyên môn người thầy thuốc còn phải ra sức học tập, rèn luyện cho bản thân mình về y đức, y tâm xuất phát từ chân lý của tình yêu và sự sống của tạo hóa(Vũ trụ) dành cho nhân loại .
Riêng đối với nghề y, nếu chúng ta thật sự dùng nó để tư lợi cho bản thân mình thì điều đó cũng quá dễ, mà về phía người bệnh họ cũng phải chấp nhận chớ không thể làm gì . Nhưng trừ số thầy thuốc của Tây y và những người sản xuất, kinh doanh các mặc hàng thuốc ra thì điều chắc chắn là hầu hết thầy thuốc Đông y đang hành nghề chữa bệnh, cho dù họ có chân chính hay không thì cũng không thể làm giàu .
Vì theo lý giải của triết học, phạm vi hành nghề chữa bệnh của người thầy thuốc được qui nạp vào hàm số của hào Tử tôn. Do hào này có mối quan hệ khắc chế hào Quan quỉ , (tử khắc quỉ ) mà Quan quỉ có hàm số là chuyên đi gây ra nạn tai , bệnh tật cho con người... Do đó hào tử tôn mới có vai trò đến để giải trừ tai nạn, bệnh tật để bảo vệ sức khoẻ cho con người mà chính người thầy thuốc đi chữa bệnh là hiện thân cho sự biến hoá này của nó .
Thế nhưng, năng lực của hào tử tôn có hay không, mạnh hay yếu tất cả đều phụ thuộc vào sự nuôi dưỡng hổ trợ của hào huynh đệ (huynh sinh tử) là nguyên thần của nó. Nếu hào này mạnh mẽ thì năng lực của hào tử tôn mới được sung túc và nó mới đủ sức để đi khắc trừ quan quỉ, dẹp tan bệnh tật đem đến niềm vui và hạnh phúc cho con người. Còn trái lại thì hào tử tôn sẽ bị suy yếu thì người thầy thuốc cũng sẽ không đủ bản lãnh để đi trị bệnh cứu người.
Nhưng cũng thật trớ trêu, hào tử tôn được hào huynh đệ nuôi dưỡng, giúp đỡ mà bản chất của nó lại là hào chuyên đi tranh đoạt, phá hao tài lộc, do hàm số của hào huynh đệ là chuyên gia đi phá hao đa đoan. Cho nên, một khi hào này được mạnh mẽ thì năng lực của hào tử tôn cũng sẽ tăng lên, nhưng điều đó cũng có nghĩa là cường độ tranh đoạt, phá hao tài vật của nó đối với người thầy thuốc cũng tăng theo cùng một tỉ lệ.
Còn đối với thầy thuốc Tây y và các nhà sản xuất kinh doanh thuốc thì không như vậy vì: xuất phát của ngành Tây y là đến từ khu vực vùng miền có phong thổ của trời Tây. Dựa theo lý giải của triết học: Trời Tây thuộc âm, âm chủ tư lợi về vật chất. Cho nên ngành học thuật Tây y ra đời là để nhằm thỏa mãn nhu cầu bệnh tật của con người và họ luôn giữ nguyên tắc bình đẵng. Có nghĩa là mối quan hệ giữa người thầy thuốc và bệnh nhân, hay nhà sản xuất các mặt hàng thuốc Đông dược cũng vậy, đó là mối quan hệ mua bán, kinh doanh mà cà 2 đều có lợi. Do đó, hào Tử tôn không còn là hiện thân của họ, mà được thay vào đó là hàm số của hào Tài, cho nên nếu họ đắc thời hào Tài được vượng tướng thì sự phất lên làm giàu bằng nghề của họ là điều không có vấn đề gì.
Còn đối với người thầy thuốc đi trị bệnh cứu người, cho dù họ có được đắc thời, may mắn hay tài giỏi hơn người đi nữa thì cũng không thê nào phất lên từ nghề này mà giàu có được. Đó là do nguyên thần là cái gốc
của nghề nghiệp mình, cái mà mình có được là của người khác nuôi dưỡng ban cho. Nhưng cũng chính người này lại là kẻ chuyên đi tranh đoạt tài vật với chính mình để làm nguồn dưỡng mạng, thì có nghĩa là họ giúp ta mặt này nhưng cũng sẽ chiếm hữu của ta về mặt khác và cuối cùng ta cũng không thể nào phât lên làm giàu được.
Hơn nữa, người thầy thuốc chân chính đều là những người luôn thực hành y đức tốt, thì mục tiêu của họ theo đuổi nghề y là để trị bệnh cứu người chớ không phải là trị bệnh để được làm giàu. Cũng chính vì vậy, nên người thầy thuốc đông y đừng bao giờ hy vọng dùng nghề chữa bệnh để phất lên giàu có cho dù mình thật sự tài giỏi, thật sự có bản lĩnh về nghề nghiệp hơn người.
Cho nên, người thầy thuốc chúng ta chỉ mong sao có được một cuộc sống trung bình, đủ ăn, đủ mặc để phục vụ sức khỏe thật tốt cho mọi người, góp phần cùng với đồng nghiệp kế thừa nền YDHDT để cho nó luôn được phát triển. Điều đó mới thật sự là điều may mắn, điều hạnh phúc nhất của người thầy thuốc và cũng chính điều đó mới thật sự bình thường, phù hợp với qui luật của tự nhiên, hợp với nghề y của người thầy thuốc. Còn ngược lại, nếu có ai đó vô tình hay cố ý mà cứ hy vọng dùng nghề chữa bệnh để được làm giàu thì đó mới là điều trái với sự thường, trái với sự thường là sự bất thường và bất thường là hiện tượng giàu có này không thể bền lâu vậy.
Nói tóm lại, giữa hai cụm từ Chân chính và Y đức của người thầy thuốc nó đều có mối quan hệ Mẫu Tử, rất mật thiết với nhau, nhưng Y đức phải được khởi đầu thông qua việc sự học tập, rèn luyện của người thầy thuốc để trở thành người thầy thuốc Chân chính. Và sau khi được xứng tầm với danh gọi này rồi thì Y đức cũng không cần phải bận tâm kêu gọi nhiều, vì tự nó sẽ đương nhiên được tỏa sáng. Hay nói cách khác, người thầy thuốc chân chính là cái nhân còn y đức là cái quả tất nhiên sẽ dành cho họ, người thầy thuốc trị bệnh cứu người, đem lại sức khỏe và niềm vui cho cuộc sống vậy.
phutan