cái chết diễn ra như thế nào?

Trao đổi về y học, võ thuật, văn hóa, phong tục, tín ngưỡng
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Hình đại diện của thành viên
tigerstock68
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2135
Tham gia: 14:12, 29/03/11

cái chết diễn ra như thế nào?

Gửi bài gửi bởi tigerstock68 »

Hình ảnh

[highlight=#f3f3f3]Tử thư Ai Cập"[/highlight]

[highlight=#f3f3f3]
[/highlight]

Khoa học từ lâu đã chú ý nghiên cứu về giai đoạn cận tử của con người nhưng kết quả gần như rất hạn chế. Ngoài việc nghe những lời của người “từ cõi chết trở về” thuật lại, đo đạc sóng não, ghi nhận các hiện tượng xảy ra trước khi lâm chung… thì không có thêm giả thuyết nào về cận tử được công bố.
[/font]
Qua các tài liệu thu thập được từ nền văn minh Ai Cập cổ đại cho thấy các bậc danh sư đã nghiên cứu về cái chết và xem đó như nền tản để sống cho thật có ý nghĩa. Họ tin rằng có tồn tại nhiều cõi giới khác nhau trên Trái đất và sự sống chết chỉ là việc luân chuyển từ thế giới này sang thế giới khác [1].
[/font]
[/font]
Tử thư Ai Cập là những bài kinh sử dụng cho người chết, tên sách được dịch từ nguyên bản tiếng Ai Cập là “PER-T EM HRU”, có nội dung hướng dẫn linh hồn người chết đi xuyên vào thế giới “Duat” (Tuat) – cõi âm hoặc chiều không gian thứ 4.
[/font]
Theo huyền thoại Ai Cập, tử thư được viết bởi vị thần Thoth, một hiền triết thông thái cai quản các kinh sách, một hóa thân từ lưỡi của thầnSeth. Thoth cũng được xem là một vị thư ký của vua địa ngục (có lẽ là giống Địa Tạng Bồ Tát ở phương Đông), người chuyên ghi lại các phán xét của vua cõi chết Osiris (Diêm Vương).
[/font]
Các nhà nghiên cứu nhận định Tử thư được sử dụng vào khoảng từ năm 2400 TCN đến năm 100 SCN, ban đầu được dùng cho các tầng lớp trên, sau đó vào cuối triều đại thì phổ biến trong dân chúng. Văn bản cổ nhất tìm thấy được chạm khắc trong Kim tự tháp của vua Unas (khoảng năm 2400 TCN), các văn bản khác bằng giấy cói được đặt trong quan tài của thường dân.
[/font]
Sách thể hiện bằng chữ tượng hình và các hình họa mô tả sự di chuyển của linh hồn vào thế giới ngầm (dưới lòng đất), còn các hình chạm khắc trong Kim tự tháp thì miêu tả thế giới bên kia là bầu trời.
[/font]
Theo Tử thư Ai Cập linh hồn người chết sẽ phải vượt qua 2 thử thách vô cùng lớn lao để có thể tái sinh và ngăn chặn họ thoát khỏi cái chết lần thứ 2.
[/font]
Thử thách đầu tiên là việc sử dụng thần chú (hay bùa) của vị thần Thoth để bảo vệ linh hồn người chết khỏi ma quỷ và các quyền lực bóng tối, nơi những sinh vật có hình thù ghê gớm và đáng sợ sinh sống. Ngoài ra, nó còn giúp cho họ vượt các chướng ngại như là các các cửa hay hang động u ám, đảm bảo cho linh hồn có một con đường an toàn và tự do đến thế giới TUAT.
[/font]
Sau khi niệm đúng những câu thần chú của thần Thoth, tiếp theo bốn mươi hai vị thẩm phám sẽ cân quả tim, soi sét lại các hành động của linh hồn lúc còn sống và tiến hành thẩm vấn. Nếu linh hồn thú nhận, sám hối các tội lỗi do mình gây ra và được Thoth chấp thuận thì có thể đi sang vương quốc của Osiris. Ngược lại, trái tim của linh hồn kẻ nói dối sẽ bị quỷ Ma’at ăn sạch và anh ta sẽ không được tái sinh làm người cho kiếp tới.
[/font]Hình ảnh
Cuộc thử thách thứ 2, các thẩm phán cân quả tim tội lỗi của linh hồn
[/font]
Theo quan niệm truyền thống của người Ai Cập, con người bao gồm một cơ thể vật chất (gọi là “xa”), một linh hồn ma (“ba”) sống ở ngôi mộ sau khi chết và một thần thức – cái suy nghĩ của con người – gọi là “xu” và “ka”. [2]
[/font]
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
tigerstock68
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2135
Tham gia: 14:12, 29/03/11

TL: cái chết diễn ra như thế nào?

Gửi bài gửi bởi tigerstock68 »

NHình ảnhếu như “Tử thư Ai Cập” xuất hiện từ sớm và bị gián đoạn khá lâu bởi thiếu sự kế thừa bởi những nhà tâm linh giác ngộ, thì tại Tây Tạng sự xuất hiện của dòng tu Kim Cang Thừa (Mật Tông) đã gìn giữ và bổ sung những nghiên cứu giáo lý về cái chết cho đến ngày nay.
[/font]
Nguồn gốc của Tử thư Tây Tạng (Bardo Thodol)
[/font]
Theo Đạo sư Chogyam Trungpa Tử thư Tây Tạng bắt nguồn vào khoảng thế kỷ thứ VII, sau đó vào được vị thầy Karma Lingpa tái khám phá và thực nghiệm lại vào thế kỷ thứ XIV.
[/font]
Karma Lingpa là đạo sư tái sinh có nhiệm vụ khám phá các kinh sách được Đức Liên Hoa Sanh (được xem như là sơ tổ của Mật Tông Tây Tạng) cất giấu trong các hang động, giữa tảng đá, ký thác vào tâm thức của đệ tử… và đợi đến thời điểm thích hợp các giáo huấn này sẽ được trở lại với loài người. Những vị tái sinh để tái khám phá các kinh sách như thế gọi theo tiếng Tây Tạng là Terma.
[/font]
Các kinh sách Terma khám phá được viết bằng thứ ngôn ngữ tượng hình của Tây Tạng, Phạn ngữ hoặc đôi khi là chữ viết ở cõi Thiên Không Hành Nữ (Dakini).
[/font]
Sau khi khám phá bộ “Tử thư” thì vợ và con của Karma Lingpa đột ngột qua đời sau đó ít lâu. Nhận ra sự vô thường của sinh tử, ông tiến hành nhập thất và thực hành giáo huấn về sáu dạng Bardo. Sau đó Karma Lingpa đã chết trong 7 ngày và hiểu rõ về tiến trình của sinh tử.
[/font]
Tiến trình của cái chết
[/font]
Tử thư Tây Tạng miêu tả cái chết bắt nguồn từ việc 4 nguyên tố vi tế (đất, nước, gió, lửa) và thần thức tan rã tại các luân xa và rút khỏi các kinh mạch.
[/font]
Trong tập “Những lời khai thị của Đức Liên Hoa Sanh về cõi trung giới” viết về tiến trình của cái chết diễn ra lần lượt như sau:
[/font]
* Tiến trình bên ngoài:
[/font]
- Khi nguyên tố ĐẤT tan vào nguyên tố NƯỚC luân xa RỐN sẽ tan hoại, người chết có cảm giác nặng nề và nhìn thấy những ảo ảnh.
[/font]
- Khi nguyên tố NƯỚC tan vào nguyên tố LỬA thì luân xa TIM sẽ tan hoại, người chết cảm thấy khó thở, miệng và mũi khô cạn, tâm thức rối bời và sẽ nhìn thấy những vệt khói mờ ảo.
[/font]
- Khi nguyên tố LỬA tan vào nguyên tố GIÓ luân xa CỔ HỌNG sẽ tan hoại, nhiệt độ trong thân thể người chết hạ thấp dần, cảm giác chao đảo và sẽ nhìn thấy hiện tượng đom đóm.
[/font]
- Khi nguyên tố GIÓ tan vào THẦN THỨC hơi thở sẽ chấm dứt, người chết nhìn thấy ánh sáng lập lòe.
[/font]
* Tiến trình bên trong:
[/font]
Khi 4 quá trình tan rã bên ngoài hoàn tất, tiếp theo sẽ xảy ra quá trình tan rã bên trong (hay là sự tan rã của THẦN THỨC).
[/font]
Tử thư Tây Tạng nói rằng trong mỗi cơ thể con người có tồn tại 2 giọt chủng tự (bindu) vi tế nhận được từ cha và mẹ khi thụ thai gồm: một giọt bindu màu trắng (còn gọi là giọt Bồ đề tâm) tại luân xa ĐỈNH ĐẦU có hình dáng chủng tự “HANG” (tiếng Tây Tạng) và một giọt bindu màu đỏ có hình dáng chủng tự “A” nằm tại luân xa RỐN.
[/font]
Khi giọt bindu màu đỏ tan rã người chết sẽ nhìn thấy cảnh tượng màu đỏ và khi giọt bindu màu trắng hoại thì cảnh tượng màu trắng xuất hiện.
[/font]
Cơ hội GIÁC NGỘ ngay trong cái chết
[/font]
Sự tan hoại của 4 nguyên tố và thần thức vào 3 đường kinh mạch trung ương (nằm dọc xương sống) sẽ dẫn đết trạng thái 3 độc THAM, SÂN, SI ngưng đọng lại trong đôi phút. Nếu là một hành giả tu thiền, bằng cách quán tưởng ông ta sẽ lợi dụng giây phút này để di chuyển THẦN THỨC của mình thoát ra khỏi cơ thể bằng đường đỉnh đầu và sẽ đến một cõi Phật để siêu thoát.
[/font]
Phép di chuyển thần thức trong lúc chết của Mật Tông Tây Tạng được gọi là P’howa.
[/font]
Các cửa để THẦN THỨC thoát ra ngoài
[/font]
Khi quá trình tan rã bên trong và bên ngoài diễn ra hoàn tất, thần thức tụ lại kinh mạch trung ương, nếu không có cơ hội di chuyển thần thức bằng pháp tu P’howa thì NGHIỆP QUẢ sẽ dẫn dắt thần thức người chết thoát ra ngoài cơ thể.
[/font]
Quyển “Kho tàng các giáo huấn siêu việt” nói rằng có 8 con đường để thần thức thoát ra bên ngoài cơ thể gồm: lỗ hậu môn, sinh dục, rún, miệng, lỗ tai, mắt, lỗ mũi và đỉnh đầu. Trong đó:
[/font]
- Nếu nếu thần thức thoát ra bằng lỗ hậu môn thì linh hồn tái sinh vào ĐỊA NGỤC;
[/font]
- Nếu thoát ra bằng lỗ sinh dục thì tái sinh vào cõi SÚC SINH;
[/font]
- Thoát qua miệng sẽ tái sinh trong cõi NGẠ QUỶ;
[/font]
- Thoát qua mũi sẽ tái sinh vào cõi NGƯỜI;
[/font]
- Thoát qua rún thì tái sinh thì tái sinh vào cõi DỤC;
[/font]
- Thoát qua lổ tai tái sinh tái sinh cõi ASURA;
[/font]
- Nếu qua mắt kể cả mắt thứ ba sẽ tái sinh vào SẮC GIỚI (cõi trời);
[/font]
- Còn thoát ra bằng đường đỉnh đầu thì siêu thoát và tái sinh vào cõi VÔ SẮC GIỚI (hay CÕI CỰC LẠC).
[/font]
Theo quyển “Giáo Lý Về Bardo – Con Đường Của Cái Chết Và Tái Sinh” thì sự lo sợ về cái chết sẽ dẫn đến cảnh linh hồn chạy trốn trong hoảng loạn và tái sinh trong cõi thấp. Nếu linh hồn trốn vào ngôi nhà màu đỏ có khói đen bay ra, kèm theo tiếng nhạc êm dịu (giống như quán bar) thì đó là cổng vào ĐỊA NGỤC; nếu linh hồn nương theo ánh sáng màu xanh lá cây và đi vào các hang động thì đó là cõi SÚC SINH; nếu nương theo ánh sáng màu vàng thì đi vào cõi NGẠ QUỶ; nếu nương theo ánh sáng màu đỏ và bước vào một khu vườn đẹp thì đi vào cõi ASURA; nếu nương theo ánh sáng màu trắng và có cảm giác như bước vào thiên đường thì tái sinh vào cõi THIÊN; và nếu nương theo ánh sáng màu xanh thì được tái sinh làm NGƯỜI.
[/font]
Hành trình đầu thai của một linh hồn
[/font]
Cũng theo quyển “Giáo Lý Về Bardo – Con Đường Của Cái Chết Và Tái Sinh”, khi quyết định chọn lối đi có ánh sáng màu xanh thì hai cánh cổng của 2 thế giới hiện ra, đó là thế giới của đàn ông và thế giới của đàn bà – đây là lựa chọn mang tính quyết định đến giới tính của linh hồn sau khi sinh ra.
[/font]
Khi bước qua cánh cổng của đàn ông (hay đàn bà) linh hồn sẽ nhìn thấy cảnh những người cha và mẹ tương lai của mình đang trong tư thế giao hợp, do bị gió NGHIỆP thổi linh hồn sẽ tái sinh trong một gia đình phù hợp với nó. Lúc này THẦN THỨC sẽ rơi vào tử cung bà mẹ tương lai và sinh được tạo thành bào thai để được sinh ra như những con người bình thường.
[/font]
Cảnh tượng của cõi trung giới (hay chiều không gian thứ 4)
[/font]
Đạo sư Chogyam Trungpa Rinpoche viết trong quyển Bardo thì cõi trong giới có một bầu trời xanh không có mây, không có Mặt trăng Mặt trời và các ngôi sao.
[/font]
Linh hồn khi rơi vào cõi trung giới sẽ trải nghiệm những cơn bão tố dữ dội, nhiều nơi có màu đen dày đặc, nghe được những âm thanh ghê gớm, cùng những sinh vật có hình thù quái dị và nghe được tiếng nói của chúng.
[/font]
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
tigerstock68
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2135
Tham gia: 14:12, 29/03/11

TL: cái chết diễn ra như thế nào?

Gửi bài gửi bởi tigerstock68 »

Tại Tây Tạng, những người từ cõi chết trở về và có những trải nghiệm về cõi trung giới được gọi là các vị “Delog”. Họ là những đạo sư thực hành pháp môn thiền Đại Thủ Ấn, pháp di chuyển thần thức P’howa, đôi khi là các hành giả sơ cơ, cho đến những người không có cơ duyên gì với Phật giáo. Chuyến du hành sang bên kia cửa tử của họ thường dài ngày (3 hoặc 7 ngày) cho nên có nhiều sự kiện để nghiên cứu hơn là những trường hợp cận tử ở phương Tây.
[/font]
Những thông tin trong bài viết dưới đây được tóm lượt từ quyển “Chết an lạc tái sinh hoan hỷ” của Đại sư Tây Tạng Tulku Thondrup, một tập sách trình bày những nghiên cứu và khảo sát về các trường hợp cận tử dưới góc nhìn của Phật giáo Tây Tạng. Tulku Thondrup viết với giọng văn đơn giản và đương nhiên là dễ hiểu hơn quyển “Tử thư Tây Tạng” khi đơn giản hóa sự uyên thâm của các giáo lý Mật tông về các khí lực bardo.
[/font]
Sự phản chiếu những dao động của TÂM THỨC
[/font]
Do tâm thức của phàm nhân bị chi phối bởi các dòng khí lực (bardo) của Nghiệp cho nên những suy nghĩ (hay ý tưởng) vẫn vơ (hay chân chính) cứ như những cơn sóng liên tục xuất hiện trong đầu ta hết đợt này đến đợt khác. Đôi khi các suy nghĩ này xuất hiện ra bên ngoài thân (hành động) hoặc khẩu (lời nói) nhưng cũng có lúc phàm nhân kìm nén được chúng và chôn dấu nó trong tâm thức. Sự kìm nén này thực hiện được là nhờ thân vật lý và sự cấu tạo của những kinh mạch vi tế bên trong cơ thể.
[/font]
Khi cái chết kéo đến, thân vật lý không còn, tâm thức thoát ra ngoài thân thể và liên tục bị trôi giạt và phóng chiếu bởi những Nghiệp của quá khứ. “Trong cõi Sipai Bardo, chúng ta có được khả năng kỳ diệu như xuyên qua bất cứ mọi vật thể ngăn cách kể cả núi non, vách tường hay các tầng nhà điạ ốc…” [1], cho nên linh hồn chỉ cần nghĩ ngợi đến một người thân quen nào đó, lập tức gió Nghiệp sẽ đưa thần thức đến gặp họ cho dù có khoản cách xa bằng một đại dương. Do tâm thức bị Nghiệp Quả phóng chiếu nên nó nghe và nhìn thấy các sự vật một cách méo mó.
[/font]
Ví dụ khi thần thức rời khỏi thể xác, có rất nhiều trường hợp nó không nhận ra đâu là thân vật lý của mình. Như trường hợp của bà Lingza Chokyi thì nhìn thấy thể xác mình là một con rắn lớn có mặc quần áo đang thối rửa, Đạo sư Denma Sangye Seng-Ge thì thấy một tháp màu trắng phủ tuyết, hay như Changchub Seng-ge thì thấy hình ảnh một con chó đã chết.
[/font]
Ngay khi thần thức hội tụ tại 3 kinh mạch trung ương và thoát ra ngoài trong 9 cửa trên thân thể thì sự kiện này sẽ tạo ra những cảnh khác nhau như thần thức đi vào đường hầm, ngôi nhà có ánh sáng đỏ, cầu thang đi lên phía trên… nhiều trường hợp cận tử ở phương Tây có ghi nhận sự kiện linh hồn đi qua một đường hầm ánh sáng hày một vùng mây khói có màu…
[/font]
Nhiều trường hợp trong cõi trung ấm nhìn thấy “đi qua một con đường hay những đường hầm hẹp, băng qua một sa mạc, vượt qua những chiếc cầu trên những dòng sông chảy xiết, bị Thần Chết (Lords of Dead) phán xử, có thể bị những đao phủ hành hình và đẩy xuống địa ngục, được tới các cõi cao hơn hoặc những cõi trời thanh tịnh. Tất cả những chứng nghiệm này đều là phản ứng của những thói quen về thể chất, văn hóa, tâm trí và tình cảm mà chúng ta đã tích lũy trong quá khứ.” [2]
[/font]
Sự nhạy bén của tâm thức trong cõi vi tế làm linh hồn có khả năng đọc được ý nghĩ của người khác nhưng lại thiếu khả năng kiềm chế sự dao động của Nghiệp quả nên tâm thức liên tục chuyển biến từ cảnh khổ này sang cảnh khổ khác, trôi dạt trong sự sợ hãi… và điều này gây ra những cảnh tượng khủng khiếp như bị gió bão cuốn trôi, rơi xuống nước, bi mưa gươm đao xuyên qua người, bị thiêu cháy trong biển lửa, bị nước sôi đổ lên người…
[/font]
Ví dụ như trường hợp của bà Samten Chotso khi còn sống có giết và vặt lông vài con chim bằng nước sôi. Khi vị Phán quan hỏi đến phần tội lỗi, nhớ lại hành động sát sinh của mình trong quá khứ, ngay lập tức bà thấy mình bị đánh bằng roi trên một cánh đồng nóng cháy và bị nước sôi đổ lên người trong sự tê dại vì đau đớn.
[/font]
Định tâm để vượt qua sự dao động
[/font]
Sự dao động của tâm thức sẽ đẩy linh hồn đến những trải nghiệm trong cảnh tượng hãi hùng chưa từng nghe thấy trong thể xác. Đạo sư Denma Sangye Seng-Ge trong một trạng thái xuất thần của thiền định thấy tâm thức mình du hành khắp vũ trụ bằng ánh sáng của thân thể, ông thấy thân thể mình là một cái tháp với những con ếch đeo bám và có người khóc… Bất giác tâm thức ông dao động và nghĩ về cái chết của mình, rồi đột nhiên Denma trải nghiệm những cảnh tượng hãi hùng như bị cơn bão Nghiệp cuốn trôi, nghe tiếng rống của dã thú, bị làn gió gươm đao xô tới… nhưng sự thiền định vững chắc đã giúp Denma định tâm lại, ông quán chiếu mọi thứ chỉ là hư không và mọi cảnh tượng ghê gớm rồi cũng biến mất.
[/font]
Tulku Thondrup nói rằng sự tu tập thiền định hay lòng sùng mộ một vị Phật (Bồ tát) sẽ giúp tâm thức ổn định hơn sau khi ta chết và đặc biệt là không tái sinh vào cõi thấp hơn.
[/font]
Sự phán xét của tòa án
[/font]
Nhiều trường hợp của các vị delog được dẫn chứng trong quyển sách của Tulku Thondrup cho thấy họ đã trải qua sự phán xét của vị thẩm phán ở cõi chết. Các vị này có nhiều hình dạng khác nhau như các vị pháp vương, các vị Phật (Bồ tát) nhưng đôi khi ông ta lại hiện thân bằng hình thù của một con thú có đầu người… Điều này được giải thích như là sự dao động của tâm thức tùy theo Nghiệp Quả tốt hay xấu.
[/font]
Một số trường hợp có lòng tin vào Phật giáo thì ghi nhận được sự kiện linh hồn được một vị Thần Bảo Hộ (Guardian Deity) dẫn dắt suốt cuộc hành trình từ lúc chết cho đến khi chạm vào “cổng” tòa án.
[/font]
Tùy theo thiện Nghiệp và ác Nghiệp mà tòa án sẽ phán xét nơi tái sinh của linh hồn trong kiếp tới. Tại đây thần thức sẽ tự thú nhận những tội lỗi của mình và kể ra những việc làm tốt đẹp, có vị thần sẽ dùng chiếc gương phản chiếu để đọc các hành vi của linh hồn, cân đo các Nghiệp và đưa linh hồn đến nơi tái sinh mới.
[/font]
Sự hiển lộ của tâm thức vi tế khiến cho mọi suy nghĩ của thần thức điều bị phơi bày và những hình ảnh tội lỗi sẽ thay nhau phóng chiếu, đây chính là chiếc gương soi rọi tâm thức.
[/font]
Những người không muốn ra đi
[/font]
Ngoài những linh hồn chết và tái sinh vào sáu cõi, còn có những người không có quá nhiều Nghiệp xấu để đi vào địa ngục, cõi thú, cõi atula nhưng lại chưa đủ phước để tái sinh làm người hoặc đi lên các cõi giới cao hơn; cùng với sự tham luyến cảnh trần quá mãnh liệt nên họ ở lại cõi người sống và trở thành những loài ma.
[/font]
Đạo sư Denma Sangye Seng-Ge trong cơn xuất thần và chu du của mình đã nhìn thấy vô số những vong linh đau khổ do tham luyến vào đời sống vật chất. Đó là những vong hồn chết sớm hơn tuổi thọ (do cộng nghiệp) từ các vụ tai nạn có đông người: những người giàu ở lại vì tiếc nuối tài sản đã gầy dựng, người chết trẻ thì nghĩ rằng mình chưa hưởng thụ hết dục vọng của trần thế, các nhà chính trị thì không nỡ từ bỏ quyền lực to lớn của mình, những người có lòng sân hận thì mong muốn tìm cơ hội trả thù kẻ địch, kẻ ít Nghiệp tốt thì chờ đợi người sống hồi hướng cho mình để con đường tái sinh có nhiều thuận lợi hơn, có vong hồn nán lại chờ đoàn tụ với người thân rồi sẽ ra đi cùng lúc… nhưng sự bám luyến vào cõi trần lại đưa họ vào những cảnh đói khát, đau khổ, thèm muốn… nhưng không thể thỏa mãn.
[/font]
Chết, tái sinh và sự quên mất quá khứ
[/font]
Từ những trích dẫn trong quyển sách của Tulku Thondrup cho thấy, ngoài những linh hồn là các loài ma chưa tái sinh sau khi chết thì những thần thức đi vào 6 đường lục đạo đều quên mất quá khứ sống ở cõi trần của mình.
[/font]
Thầy tu Tagla Konchog Gyaltsen trong chuyến du hành của mình đến địa ngục đã chứng kiến nhiều cảnh tượng đau khổ của các chúng sinh ở đây và hầu hết không nhớ được tiền kiếp của mình trước đây.
[/font]
Gyalwa Yungtrung, một tín đồ của đạo Bon, trong cuộc hành trình ở cõi chết đã cầu khẩn các vị tổ sư đạo Bon và Phật giáo để tìm mẹ mình. Và rồi ông được đưa phía bắc của núi Tudi và nhìn thấy những em bé sơ sinh đang nằm trong những bông hoa. Vị Dakini dẫn đường chỉ vào bông hoa có một bé trai và nói đây là tái sinh của mẹ ông nhưng đứa bé lại không nhớ gì về gia đình của mình – nhưng còn nhận ra Yungtrung.
[/font]
Những cõi giới của thế giới bên kia
[/font]
Từ những câu chuyện tái sinh của những vị delog Tây Tạng cho chúng ta thấy có sự sự tồn tại những thế giới (cõi địa ngục, atula, cõi thiên…) ở xung quanh núi tudi và từ không gian của người chết có những con đường rất đáng sợ để đi đến đó.
[/font]
Những linh hồn lẫn khuất qua các hiện tượng ngoại cảm vẫn còn đang ở trong diện chờ, họ không dám đi qua các cửa tái sinh do còn bám luyến hoặc chờ đợi con cháu hồi hướng đủ công đức để có cơ hội tái sinh trong một hoàn cảnh thuận lợi hơn.
[/font]
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
tigerstock68
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2135
Tham gia: 14:12, 29/03/11

TL: cái chết diễn ra như thế nào?

Gửi bài gửi bởi tigerstock68 »

Chết có thật đáng sợ không

[blockquote][highlight=#f3f3f3]
Hình ảnh
Phật nhập niết bàn
[/highlight][/blockquote][/font][/b][/font]
Phần 1. “Mạng sống mong manh – cái chết là điều chắc chắn”
[/font]
Đó là câu châm ngôn nổi tiếng trong Đạo Phật. Biết rõ cái chết là điều chắc chắn và là một hiện tượng tự nhiên mà mọi người phải đương đầu, chúng ta không nên sợ chết. Theo bản năng, tất cả chúng ta đều sợ chết vì chúng ta không biết làm sao để tránh khỏi nó. Chúng ta thích bám víu vào đời sống, vào thân xác của chúng ta, vì vậy trở nên đầy tham dục và luyến ái.

Một đứa nhỏ ra đời đem niềm vui và hạnh phúc cho những người thân yêu. Dù người mẹ đau đớn cùng cực lúc sanh nhưng vẫn vui mừng và thích thú ngắm nhìn đứa con mới sanh. Người mẹ cảm thấy được đền bù xứng đáng sau nhiều khó khăn đau đớn phải chịu đựng. Tuy nhiên đứa trẻ lọt lòng ra đã khóc hình như nó muốn nói ra nó cũng phải chịu đau khổ của kiếp người. Đứa trẻ trở thành một thiếu niên rồi trưởng thành, tạo các loại hành vi tốt và xấu. Rồi nó trở nên già nua, và cuối cùng từ giã cõi đời này, bỏ lại bạn bè và thân quyến đau buồn: Đó là bản chất cuộc sống của một con người. Con người cố gắng tránh khỏi nanh vuốt của tử thần nhưng không một ai có thể thoát khỏi. Đến lúc gần chết, đầu óc liên tưởng đến của cải tích lũy, và lo sợ quá đáng về những đứa con thân yêu của mình. Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, con người lo lắng quá sức về thân xác quý báu của mình; mặc dù với sự chăm sóc chu đáo và cẩn trọng nhưng nay đã suy nhược, kiệt quệ và tan rã. Thật đau đớn khi phải xa lìa thân xác. Không thể chịu đựng được thế nhưng không tránh nổi. Đó là tâm trạng của mọi người khi từ giã cõi đời này với than van rền rĩ. Sự đau đớn về cái chết thật là khủng khiếp, đó là thái độ của kẻ do ngu muội mà ra.

SỢ CHẾT
[/font]
Con người lo âu không phải vì ngoại cảnh mà vì hy vọng và tưởng tượng về đời sống tương lai của mình. Cái chết, chẳng hạn, tự nó không khủng khiếp và khiếp sợ hay kinh hãi chỉ do tâm trí của chúng ta tưởng tượng mà ra. Chúng ta thường không đủ can đảm để đối đầu với ý tưởng về cái chết. Với những kẻ không dám đối đầu với thực tế, khổ đau thật sự khủng khiếp và không thể chấp nhận được. Nhưng nếu chúng ta biết đương đầu với sự thật, nó sẽ làm dịu bớt hay loại trừ cái khủng khiếp của sự sợ hãi. Đời sống ví như một viên đạn lao tới mục tiêu, tức là cái chết. Hiểu như vậy, chúng ta phải can đảm trực diện với hiện tượng tự nhiên này. Muốn được tự do trong đời sống, chúng ta phải không sợ chết. Sợ hãi chỉ đến với những kẻ không hiểu quy luật thiên nhiên. “Dù ở đâu đi nữa, nếu có phát xuất, thì sợ hãi chỉ phát xuất nơi người mất trí điên khùng và không bao giờ phát xuất nơi người khôn ngoan”. Đó là lời Đức Phật dạy trong Kinh Anguttara Nikaya. Sợ hãi chỉ là trạng thái của tâm thần. Khoa học cho ta thấy quá trình của một cái chết ra sao? Cái chết chỉ là sự hao mòn sinh lý của cơ thể con người. Chúng ta đừng sợ hãi và tưởng tượng hay tiên đoán về những sự khủng khiếp không bao giờ đến để tìm cách chống lại. Một thầy thuốc nổi tiếng, Sir William Osler nói như sau: “Theo kinh nghiệm hành nghề của tôi, tôi thấy hầu hết những người chết không đau đớn và sợ hãi”.

Một nữ y tá lão thành nói: “Hình như thảm kịch lớn nhất đối với tôi là mọi người suốt đời bị nỗi sợ chết ám ảnh. Khi chết đến, ta thấy rằng nó cũng tự nhiên như bản chất cuộc sống. Rất ít người sợ chết khi đã sống trọn cuộc đời. Theo kinh nghiệm của tôi, tôi chỉ thấy có một người có vẻ sợ hãi – một phụ nữ đã làm một điều dữ cho người chị nay đã quá trễ để hối cải”.

“Một điều lạ lùng và đẹp đẽ sẽ đến với dù là đàn ông hay đàn bà khi họ đã sống trọn đời. Tất cả sợ hãi, khiếp đảm đều biến mất. Tôi thường ngắm thấy tia sáng bình minh hạnh phúc trong ánh mắt của họ khi họ nhận thức điều đó đúng. Đó là tất cả ơn huệ của Tạo Hóa”.

Vì tham sống nên sự sợ chết được hình thành một cách thiếu tự nhiên. Nó tạo sự lo âu trong đời sống. Vì vậy, con người sẽ không bao giờ dám mạo hiểm làm điều gì cho dù đó là lẽ phải. Họ sống trong sợ hãi, lo lắng về bệnh tật và các tai nạn có thể sẩy ra cướp mất mạng sống quý giá của mình. Nhận thức chết là điều không tránh nổi, kẻ yêu đời sống trần thế sẽ đắm trong nhiệt thành cầu nguyện với niềm hy vọng linh hồn sẽ được lên thiên đàng. Không một ai có hạnh phúc giữa cơn lốc của sợ hãi và hy vọng như vậy. Đúng thật khó có thể coi thường hay không lưu ý đến những bộc phát tự nhiên của bản năng để tự bảo vệ. Tuy nhiên có một phương pháp để vượt qua sự sợ hãi. Hãy quên đi quan niệm về cái “tôi”; hãy đem tình thương vị kỷ hướng ra ngoài có nghĩa là làm lợi ích cho nhân loại và tỏ tình thương với người khác. Bất cứ ai không quên sự thật rằng một ngày nào đó mình sẽ chết và cái chết không thể tránh khỏi, sẽ hăng hái chu toàn nhiệm vụ với đồng loại trước khi chết, làm được như vậy thì bây giờ cũng như mai hậu mọi người chắc chắn sẽ chiêm ngưỡng kính phục. Say mê phục vụ người khác, chẳng bao lâu chính bạn sẽ thoát khỏi cái tự kỷ luyến ái nặng nề, mơ ước, kiêu căng, tự phụ, và tự tôn.

BỆNH VÀ CHẾT
[/font]
Bệnh và chết là việc sẩy ra tự nhiên trong đời sống của chúng ta, và chúng ta phải chấp nhận điều đó với sự hiểu biết. Theo thuyết tâm lý hiện đại, nguyên nhân căng thẳng tinh thần là do việc không dám đương đầu và chấp nhận sự thực ở đời. Nếu không vượt qua hay khắc phục được sự căng thẳng đó sẽ gây nên bệnh tật. Trong khi bệnh hoạn mà quá lo lắng hay thất vọng chỉ làm cho bệnh tăng lên. Đối với những người có tâm hồn và hành động trong sạch, chết chẳng có gì đáng sợ. Mạng sống của chúng ta gồm có tâm trí và thể xác hợp thành và vì vậy tâm trí và thể xác không chết riêng. Nghiệp báo do những hành động xấu của chúng ta đã gây nên trong đời trước theo chúng ta vào lúc tái sanh khiến chúng ta phải chịu những khổ đau trong đời này. Những khổ đau đó có thể tránh khỏi nếu chúng ta cố gắng tạo công đức, sống một cuộc đời đạo hạnh, và có những hành động tốt bất cứ ở đâu hay bất cứ lúc nào. Làm như vậy, chúng ta có thể đương đầu với cái chết một cách can đảm và thực tế. Theo lời Phật dạy, chúng ta không nên tin tưởng vào một vị “cứu tinh” nào có thể lãnh gánh nặng, và cứu vớt chúng ta khỏi hậu quả do những hành động sai lầm của chúng ta. Chúng ta luôn luôn nhớ tới lời khuyên của Đức Phật: “Hãy tin vào mình để tự cứu, hãy gắng sức và chuyên cần”. Người Phật tử không sầu thảm và bi thương trước cái chết của thân nhân và bạn bè. Không có cái gì có thể ngăn cản được bánh xe nhân quả. Khi một người chết, nghiệp do họ tạo nên sẽ theo họ đến cuộc đời mới. Kẻ quen, người thân, bạn bè và thân quyến chỉ có thể tiễn đưa người chết đến huyệt mà thôi trong khi người chết mang theo những hành động tốt hay xấu của mình. Những người còn sống nên chịu đựng sự mất mát trong bình tĩnh và hiểu biết. Chết là một tiến trình không thể tránh khỏi ở thế gian này. Đó là một điều chắc chắn trong vũ trụ này. Cánh rừng có thể trở thành đô thị và đô thị có thể trở thành bãi cát. Núi có thể biến thành hồ. Sự biến dạng có thể xảy ra ở khắp nơi duy chỉ có cái chết là điều không đổi. Tất cả mọi thứ chỉ là tạm bợ. Chúng ta có cha ông, và cha ông của chúng ta cũng có cha ông, nhưng bây giờ họ ở đâu? Tất cả đều đã quá vãng.

Đừng nghe kẻ ngụy biện cho rằng chúng tôi đang trình bày một quan niệm yếm thế bi quan. Đó là quan điểm thực tế nhất của chủ nghĩa hiện thực. Tại sao chúng ta lại không thực tế mà mù quáng trước những sự kiện thực tế đó? Có phải cái chết thiêu đốt mọi thứ? Đúng vậy! Nhưng đừng quên điều này: Cái chết khiến mọi người hiểu rõ số phận của mình là dù cao sang đến đâu, hay kỹ thuật và y khoa tiến bộ đến đâu đi chăng nữa cái chết vẫn như nhau: Hoặc ở trong quan tài hay trở thành một nắm tro tàn. Sống và chết là một quá trình liên tục cho đến khi chúng ta trở nên toàn hảo.

DANH THƠM CÒN MÃI
[/font]
Đức Phật dạy: “Thân xác của con người tuy thành tro bụi nhưng danh tiếng của họ vẫn còn”. Ảnh hưởng của kiếp trước đôi khi rất sâu và mạnh hơn ảnh hưởng của thân xác đang sống với một số khả năng hạn hẹp. Đôi khi chúng ta cảm nghĩ và hành động theo tư tưởng của những người mà xác thân đã thành tro bụi. Tư tưởng đó rất quan trọng trong mỗi hành động của chúng ta. Mỗi người sống là một phần thân xác của tổ tiên đã khuất. Trong ý nghĩ này, chúng ta có thể cho rằng những bậc anh hùng thời đại, những triết gia vĩ đại, các hiền triết, những thi nhân và nhạc sĩ của mỗi dân tộc đang sống với chúng ta. Vì chúng ta liên hệ đến những liệt sĩ và những nhà tư tuởng trong quá khứ, chúng ta có thể chia sẻ những tư tưởng khôn ngoan, những lý tưởng cao quý, và cả đến âm nhạc bất diệt qua nhiều thời đại. Dù rằng thân xác đã chết, nhưng ảnh hưởng của họ vẫn còn. Xác thân chẳng là gì cả, nó chỉ là sự tổng hợp trừu tượng, một hỗn hợp luôn luôn thay đổi của các thành phần hóa học Con người phải hiểu rằng đời sống của mình như một giọt nước trong một con sông đang chảy và nên vui vẻ đóng góp một phần của mình cho dòng sông cuộc sống.

Không hiểu rõ bản chất của đời sống, con người sẽ bị chìm đắm trong vũng bùn ngu muội của thế gian và rên rỉ khóc than. Nhưng khi hiểu được thực chất của mình, con người sẽ từ bỏ tất cả những cái tạm bợ và tìm trạng thái Vĩnh Cửu. Trước khi đến trạng thái Vĩnh Cửu, con ngưòi phải đương đầu với cái chết này đến cái chết khác. Vì cái chết không nghĩa lý gì, con người không nên ngăn chặn sự tiếp diễn không ngừng cái vòng sanh tử.

Theo Đạo Phật, không có kiếp sống đầu và kiếp sống cuối cùng của chúng ta trên thế gian này. Nếu bạn làm điều thiện với lòng tin tưởng, bạn sẽ có một kiếp sau tốt đẹp hơn. Mặt khác, nếu bạn cảm thấy bạn không muốn tái sanh mãi mãi, và muốn đi đến cứu cánh đó, bạn phải cố gắng phát triển tâm trí, loại bỏ mọi tham dục và tinh thần ô trược.

TRIẾT LÝ ĐẠO PHẬT
[/font]
Một vị Thánh cao thượng đã đạt đến mức toàn hảo không khóc than khi những người thân và những người gần gũi qua đời vì Ngài đã hoàn toàn quét sạch hết mọi cảm xúc. Ngài A Na Luật, một vị A La Hán, không khóc than khi Đức Phật qua đời. Tuy nhiên Ngài A Nan lúc đó chỉ là một Tu Đà Hoàn mới đạt được quả vị thứ nhất trong các bậc Thánh, đã không kìm giữ được khóc than. Các Tỳ kheo than khóc phải nhớ quan điểm của Đức Phật về những hoàn cảnh có bản chất như vậy:

“Ông A Nan! Có phải Đức Phật đã dạy chúng ta rằng những gì sanh ra, những gì tồn tại và những gì duyên hợp đều đi đến tan rã (Thành, Trụ, Hoại, Diệt)? Đó là tính chất của duyên hợp. Khi duyên hợp xuất hiện rồi lại mất đi – có thành thì phải có hoại – Và khi những duyên hợp đó hết, Tịch Tịnh hiện tiền”.

Những lời dạy trên đây mô tả nền móng cấu trúc của Triết Lý Phật giáo.

NGUYÊN NHÂN CỦA KHỔ ĐAU
[/font]
Nguyên nhân của các buồn phiền và khổ đau là do Luyến Ái dưới mọi dạng thức. Nếu chúng ta muốn tránh khổ đau, chúng ta phải bỏ luyến ái – không phải chỉ luyến ái người mà luyến ái của cải nữa. Đó là sự thực căn bản, là bài học mà cái chết dạy ta. Luyến ái cung cấp cho chúng ta nhiều thứ để thỏa mãn cảm xúc của chúng ta, và dẫn ta vào con đường trần tục. Nhưng cuối cùng luyến ái trở thành nguyên nhân của đau khổ. Nếu không học điều này, cái chết có thể tấn công và khủng bố chúng ta. Sự kiện này đã được Đức Phật soi sáng rõ ràng. Ngài dạy: “Cái chết sẽ mang con người đi khỏi dù người đó cố bám lấy con cái và của cải, giống như một trận lụt lớn cuốn sạch cả ngôi làng đang ngủ”.

Lời dạy này ngụ ý là nếu ngôi làng đó tỉnh thức và cảnh giác thì có thể tránh khỏi sự tàn phá của lũ lụt.

AI CŨNG PHẢI CHẾT
[/font]
Chúng ta hãy nghiên cứu Đức Phật giải quyết vấn đề cho hai người, vì luyến ái mà cái chết làm cho đau khổ. Một người là Bà Kisagatomi. Đứa con trai duy nhất của bà ta bị rắn cắn chết. Bà ta bồng đứa con trai chết đến cầu cứu Đức Phật. Đức Phật bảo Bà hãy đem đến cho Đức Phật một vài hạt giống cải (mù tạc) của một gia đình không có ai chết, Đức Phật sẽ chữa cho. Nhưng Bà ta không thể tìm thấy một gia đình nào mà không có người chết. Tất cả các gia đình mà Bà đã đến thì không nhà nào là không khóc than hay đã khóc than về cái chết của người thân vào một lúc nào đó. Bà đã hiểu sự thực đắng cay: cái chết rất phổ biến. Cái chết giáng xuống tất cả mọi người và không chừa ai cả. Buồn đau là di sản đối với mọi người.

Một người khác được Đức Phật dạy là Patacara. Trường hợp của Bà này buồn thảm hơn. Chỉ trong một thời gian ngắn, Bà mất hai đứa con, chồng, anh em, cha mẹ và tất cả của cải. Buồn đau đến mất trí, Bà đã lõa lồ chạy như điên như dại trên đường phố cho đến khi gặp Đức Phật. Đức Phật đã giúp Bà trở lại bình thường bằng cách giảng giải cho Bà nghe là cái chết là một hiện tượng tự nhiên của tất cả mọi người.

“Con đã đau khổ nhiều lần như thế này, chứ không phải lần này thôi, Patacara; con đã đau khổ nhiều lần trong những tiền kiếp của con. Đã lâu, con đau khổ vì cái chết của cha, mẹ, con cái và những người thân của con. Khi con đau khổ như vậy, nước mắt của con thật nhiều hơn nước ở biển cả”.

Cuối cùng, Patacara nhận thức được cái vô thường của cuộc đời. Patacara và Kisagotami hiểu rõ cái khổ và cả hai đều cảm nhận được sự đau khổ của cái chết. Bằng cách hiểu sâu xa Đế Thứ Nhất của Tứ Diệu Đế về “khổ” thì ba Đế còn lại cũng hiểu được. Ngài nói: “Này các Tỳ kheo, đây là khổ, nguyên nhân của khổ, đây là diệt khổ, và con đường dẫn đến chấm dứt không?”.

NĂM UẨN
[/font]
Chết là sự tan rã của Uẩn. Những Uẩn này là thọ, tưởng, hành, thức, và sắc hay vật chất. Bốn nhóm đầu thuộc về tinh thần hay nama, họp thành đơn vị của thức. Nhóm thứ năm, rupa là vật chất hay vật lý uẩn. Sự phối hợp của tâm vật lý đó theo quy ước được đặt cho một cá nhân, một con người hay cái Tôi. Cho nên những cá thể hiện hữu như thế không phải là những cá nhân nào mà là hai thành phần cấu tạo cơ bản của tinh thần và vật chất, thành phần này là những hiện tượng hiếm. Chúng ta không coi năm uẩn là những hiện tượng mà là một thực thể vì lẽ do cái tâm tự lừa dối của chúng ta, do ham muốn bẩm sinh của chúng ta cho những thứ nói trên là của ta để thỏa mãn cái Ngã quan trọng của chúng ta.

Chúng ta sẽ thấy được bộ mặt thật của sự vật nếu chúng ta chịu nhẫn nại và có ý chí. Nếu chúng ta quay vào nội tâm và quán chiếu bề sâu của tâm khảm, chú tâm và nhận xét một cách khách quan, không hề liên tưởng đến bản ngã trong một thời gian như Đức Phật dạy trong kinh Sati Patthana, chúng ta sẽ thấy năm uẩn, không phải là một thực thể mà mà một loạt các tiến trình vật chất và tinh thần. Rồi chúng ta không còn lầm lẫn cho cái bề ngoài là thật. Chúng ta sẽ nhìn thấy năm uẩn này phát sanh và biến đi liên tục nhanh chóng. Chúng luôn luôn biến đổi từng phút từng giây, không bao giờ Tĩnh mà Động, không bao giờ là Thực Thể mà luôn luôn Biến Hiện.

TÁI SANH
[/font]
Bốn uẩn hay thức và ba nhóm của yếu tố tinh thần (Thọ, Tưởng, và Hành), tạo thành Nama hay đơn vị của thức, biến chuyển không ngừng, nổi lên rồi biến đi không cùng một khuôn mẫu vì những khuôn mẫu đó cũng biến hóa luôn. Chúng phải lập lại ngay một nền tảng tự nhiên mới (Sắc) – một lớp vật chất tươi tốt như trước – để hoạt động điều hòa. Nghiệp quả hành động như một định luật, và định luật này điều khiển việc sắp xếp năm uẩn sau khi chết. Kết quả là”tái sanh”.

YẾU TỐ VÀ NĂNG LƯỢNG
[/font]
Tóm lại, sự phối hợp của năm uẩn gọi là sanh và sự hiện hữu của những uẩn đó được gọi là đời sống. Sự tan rã của chúng gọi là chết (tử), và sự tái phối hợp của những uẩn ấy gọi là tái sanh. Tuy nhiên, một người bình thường không dễ dàng gì hiểu được tại sao những cái gọi là uẩn đó lại có thể tái phối hợp. Chúng ta cần hiểu rõ bản chất của các yếu tố (năm uẩn), năng lượng tinh thần (hay sức mạnh tinh thần), định luật về nghiệp quả, và sự song hành của năng lượng vũ trụ (Khí) rất quan trọng. Một số người cho rằng cái chết là sự tan rã của năm uẩn và sau đó, chẳng còn gì tồn tại nữa. Có người lại cho rằng chết có nghĩa là sự chuyển tiếp linh hồn từ một thân xác này đến một thân xác khác; và với một số người khác nữa, chết là sự kìm giữ vĩnh viễn một linh hồn chờ đợi ngày Xét Xử… Tuy nhiên với người Phật tử, chết chẳng là gì cả mà chỉ là tạm chấm dứt một hiện tượng tạm thời. Chết chưa phải là một sự hủy diệt hoàn toàn của cái được gọi là chúng sanh.

NGUYÊN NHÂN CÁI CHẾT
[/font]
Theo Đạo Phật, Chết xảy ra do một trong bốn nguyên nhân sau đây:

1. Mạng căn (hay thọ mạng) của chúng sanh mỗi loài đã hết. Cái chết này là mạng triệt (Ayukkhaya)

2. Sức hành của Nghiệp tạo nên đời sống đã kiệt. Cái chết này gọi là Khamma-kkhaya (Nghiệp dĩ)

3. Sự chấm dứt cùng một lúc của hai nguyên nhân trên – Ubbayakkhaya.

4. Cuối cùng có thể do những hoàn cảnh bên ngoài như tai nạn, biến cố bất ngờ, hiện tượng thiên nhiên, hay Nghiệp quả từ kiếp trước không đề cập tại điều II. Cái chết này gọi là Upacchedake.

Có một sự tương đồng rất đúng để giải nghĩa bốn trường hợp chết trên đây: Một ngọn đèn dầu có thể tắt do một trong bốn nguyên nhân:

1. Bấc trong ngọn đèn đã cháy hết. Điều này giống như cái chết vì thời gian cho một kiếp đã hết.

2. Dầu đã cạn giống như Nghiệp lực đã hết.

3. Dầu và bấc đã cháy hết cùng một lúc giống như cái chết do cả hai nguyên nhân phối hợp đề cập tại I và II.

4. Hiệu quả của các yếu tố bên ngoài như gió thổi làm đèn tắt – giống như chết do các nguyên nhân ngoại cảnh.

Cho nên, Nghiệp quả không phải là nguyên nhân duy nhất của cái chết. Có những nguyên nhân bên ngoài gây ra cái chết. Giáo lý của Đức Phật minh định rõ ràng Nghiệp quả không thể giải thích tất cả những việc xảy ra trong đời sống của chúng ta.

ĐƯƠNG ĐẦU VỚI BIẾN CỐ
[/font]
Làm sao chúng ta có thể đương đầu với các điều không tránh được này một cách tốt nhất? Nên tiên liệu và suy nghĩ là cái chết trước sau cũng phải đến… Điều này không có nghĩa là người Phật tử quan niệm cuộc đời là ảm đạm. Chết là một sự thực, và ta phải đương đầu – và Phật giáo là tôn giáo của lý trí huấn luyện các đệ tử trực diện với các sự kiện, dù các sự kiện này làm ta không hài lòng. Trưởng Giáo Nanak, vị khai sáng ra Đạo Sikh nói: “Thế gian sợ chết, với tôi, chết đem niềm vui”. Thật rõ ràng những vĩ nhân và những người cao thượng không sợ chết và sæn sàng chấp nhận nó. Nhiều vĩ nhân đã hy sinh mạng sống của mình để người khác được hạnh phúc. Tên tuổi của các vị này đã được lưu truyền trên bảng vàng lịch sử thế giới cho hậu thế.

CÁI CHẾT KHÔNG TRÁNH ĐƯỢC
[/font]
Thật là một nghịch lý khi chúng ta thấy cái chết đã cướp đi biết bao sinh mạng của nhân loại nhưng chúng ta ít khi nghĩ đến cái ý tưởng đó là chúng ta cũngthế, trước sau cũng trở thành nạn nhân của tử thần. Vì quá lưu luyến với cuộc đời, chúng ta không muốn mang trong lòng tư tưởng yếu đuối, nhưng thực tế cái chết là một sự thật hiển nhiên. Chúng ta muốn chấm dứt ý nghĩ ghê gớm đó và tự lừa dối mình rằng chết là một điều xa vời, một điều không cần phải lo lắng. Chúng ta phải có đủ can đảm để đương đầu với biến cố ấy. Chúng ta phải sæn sàng trực diện với sự thực trần trụi này. Chết là điều có thật. Nếu chúng ta nhận thức được như vậy, và biết rằng cái chết không tránh khỏi; chúng ta hãy coi nó như một sự bình thuờng chứ không phải là một biến cố đáng sợ để khi nó đến, chúng ta sẽ đương đầu với nó một cách bình tĩnh, can đảm và tự tin.

BỔN PHẬN VÀ TRÁCH NHIỆM
[/font]
Biết rằng một ngày nào đó, cái chết sẽ cướp mạng sống của ta, chúng ta phải bình tĩnh, can đảm và tự tin để làm tròn bổn phận và trách nhiệm với gia đình. Chúng ta không nên chần chừ chu toàn trách nhiệm và bổn phận của chúng ta. Những việc gì có thể làm được hôm nay, đừng để đến ngày mai. Chúng ta không nên phí phạm thì giờ và sống một cách hữu ích. Những bổn phận đối với vợ, chồng và con cái đứng hàng ưu tiên phải được thi hành đúng lúc. Để tránh gây căng thẳng và khó khăn cho gia đình, chúng ta đừng chờ đợi đến phút cuối cùng mới viết di chúc. Cái chết có thể đến với chúng ta bất cứ lúc nào – nó không chừa ai cả và không chờ đợi. Chúng ta nên can đảm trực diện với biến cố tối hậu này với hy vọng và tin tưởng rằng chúng ta đang chuẩn bị cho đời sống kế tiếp.

ÁI DỤC VÀ VÔ MINH
[/font]
Có thể chế ngự được cái chết không? Câu trả lời là Có! Có chết vì có sanh. Sự tiếp diễn không ngừng của cái sanh được gọi là luân hồi. Nếu chu trình của sự sống ngưng lại, cái chết có thể chấm dứt ngay tại giai đoạn Vô Minh (Avijja) và Ái Dục (Tanha ) – Đó là gốc rễ của cái vòng sanh tử cần phải tiêu diệt. Cho nên, nếu cắt được Ái Dục và Vô Minh, sanh đuợc chế ngự, chết bị chinh phục, luân hồi siêu thoát, và Niết Bàn hiện tiền.

Chúng ta phải hiểu là mọi vật trong vũ trụ này đều không có thật, và cuộc sống chỉ là ảo mộng. Nếu chúng ta dùng khoa học hay triết lý để phân tách, cuối cùng chúng ta khám phá thấy không có gì cả mà chỉ là hư không. Gandhi đã từng nói: “Sợ chết chẳng khác gì sợ bỏ một cái áo cũ đã rách”. Vì luyến ái, chúng ta rất đau khổ khi mất người mình thương yêu. Việc này xảy ra cho Bà Visakha, một đệ tử hết lòng trong thời Đức Phật. Khi đứa cháu gái yêu dấu của Bà chết, Bà tìm đến Đức Phật để yêu cầu Đức Phật giải cứu cho Bà khỏi phiền não.

“Này Visakha, ngươi có muốn có nhiều con nhiều cháu như số trẻ trong thành phố này không? ” Đức Phật hỏi Bà.

-”Thưa vâng, bạch Đức Thế Tôn, dĩ nhiên là con thích”.

-”Này Visakha, nếu vậy, ngươi sẽ khóc khi chúng chết phải không? Những ai có một trăm thứ yêu dấu, những người đó có một trăm điều phiền não. Kẻ không có thứ gì yêu dấu, kẻ đó không có phiền não. Người như vậy mới thoát khỏi phiền não”.

Khi chúng ta mang lòng luyến ái, chúng ta phải chuẩn bị chịu đựng phiền não trong lúc chia ly.

Tham sống đôi khi làm cho người ta sợ chết. Chúng ta không dám chấp nhận rủi ro thậm chí vì một lý tưởng chính đáng. Chúng ta sợ hãi là bệnh tật hay tai nạn sẽ chấm dứt cuộc đời hình như quý giá của chúng ta. Biết rằng chết là điều tất nhiên, chúng ta hy vọng và cầu nguyện cho linh hồn được lên Trời để xác thân chúng ta được yên ổn và gìn giữ. Tin tưởng như vậy bắt nguồn từ những tham vọng mãnh liệt, muốn có một đời sống trường cửu.

Mỗi người, mỗi cá nhân phải biết rõ vai trò của cái chết nó định đoạt số phận của mình. Dù là hoàng tộc hay bình dân, giàu hay nghèo, mạnh hay yếu, nơi an nghỉ cuối cùng của thân xác con người là ở trong quan tài chôn sâu sáu tấc, hoặc trong bình đựng tro cốt, hoặc ở dưới nước.

Tất cả nhân loại phải đương đầu và chịu chung một số phận. Vì ngu si không hiểu thực chất của đời sống, chúng ta thường rên rỉ khóc than. Khi ta hiểu được thực chất của đời sống, chúng ta có thể nhìn thẳng cái vô thường của tất cả mọi duyên hợp và tìm cách giải thoát. Nếu chúng ta không thoát khỏi những trói buộc của cuộc đời, chúng ta sẽ phải đối mặt với cái chết mãi mãi. Về phương diện này, vai trò của cái chết thật rõ ràng. Nếu người ta không chịu nổi cái chết, thì họ phải hết sức cố gắng để vượt qua cái vòng sanh tử, tử sanh.

SUY GẪM VỀ CÁI CHẾT
[/font]
Tại sao chúng ta phải nghĩ về cái chết? Tại sao ta phải suy gẫm nó? Đức Phật không những chỉ khuyến khích chúng ta nói về cái chết, Ngài cũng khuyên chúng ta suy gẫm nó và nghĩ đến nó thường xuyên. Đó là có sanh thì có chết. Tinh thần và thể xác được tạo nên trong lúc thai nghén, phát triển, lớn lên và trưởng thành. Nói một cách khác chúng theo tiến trình già nua. Đầu tiên, chúng ta gọi tiến trình đó là lớn lên, rồi già đi. Thật ra đó chỉ là một tiến trình của sự lớn lên, phát triển, trưởng thành và cuối cùng là cái chết không sao tránh được.

Ngày nay, theo thống kê trên thế giới, mỗi ngày có hai trăm ngàn (200,000) người chết hay độ 70 triệu mỗi năm.

Chúng ta không quen suy gẫm về cái chết hoặc đả động đến nó. Điều chúng ta thường làm là tránh nghĩ về cái chết và sống như thể chẳng bao giờ phải chết cả. Chừng nào mà chúng ta còn sợ chết, chúng ta không bao giờ sống một cuộc đời đầy đủ và tốt đẹp nhất. Cho nên một trong những lý do chính yếu để suy gẫm cái chết là để chúng ta hoàn toàn tỉnh thức để khỏi sợ hãi. Suy gẫm về cái chết không làm cho chúng ta chán nản hay không lành mạnh, mà chỉ có mục đích giúp cho chúng ta thoát khỏi sợ hãi.

Lý do thứ hai suy gẫm về cái chết sẽ thay đổi lối sống và thái độ của chúng ta với cuộc đời. Giá trị trong cuộc sống hoàn toàn thay đổi một khi chúng ta không nghĩ rằng chúng ta sống mãi ở đời, chúng ta sẽ bắt đầu một lối sống khác hẳn.

Lý do thứ ba là để có khả năng làm quen đương đầu với cái chết một cách xác đáng và yên lành.

Suy gẫm về cái chết có ba điều lợi ích:

- bớt sợ hãi

- đem lại phẩm chất mới cho đời sống để chúng ta sống cuộc đời có giá trị thích đáng và

[/font]
- giúp chúng ta chết trong vinh dự.

Những lợi ích trên giúp chúng ta sống lương thiện và chết có phẩm giá.

Suy gẫm về cái chết chúng ta còn cần gì nữa?

Đạo Phật khuyến khích suy gẫm về những nhân tố sau đây:

- Tôi sống với tuổi của tôi, tôi không lo già;

- Bệnh tật là lẽ thường, tôi không quá nghĩ về nó;

- Tôi gánh chịu Nghiệp quả của tôi và tôi không thoát khỏi Nghiệp lực;

- Chết là lẽ thường tôi không quá lo nghĩ về cái chết và

- Tất cả những gì dễ thương và thích thú của tôi sẽ thay đổi và bỏ tôi.

Khi chúng ta bình tâm suy gẫm về những thực trạng ấy, và giữ trong tiềm thức, nó sẽ có tác dụng mạnh mẽ để khuất phục sợ hãi, tuổi già, bệnh tật, cái chết, và chia ly. Điều này không phải là làm chúng ta kém lành mạnh mà chính là giúp chúng ta thoát khỏi sợ hãi. Cho nên tại sao chúng ta suy gẫm về cái chết? Không phải là chúng ta mong mỏi cái chết đến mà chúng ta không muốn sống hay chết trong sự sợ hãi.

CHẾT LÀ MỘT PHẦN CỦA ĐỜI SỐNG
[/font]
Chết đến với tất cả mọi người và là một phần của cái vòng sinh tử. Người chết trẻ, kẻ chết già, chẳng ai không chết. Chẳng ai mời chúng ta đến thế giới này, và cũng chẳng ai bảo chúng ta từ giã. Tôi không tránh được cái chết, và mọi người, mọi cỏ cây, mọi hình thức, mọi chúng sanh đều theo con đường đó. Thu về, lá rụng. Chúng ta không khóc vì cuối mùa lá rụng là điều tất nhiên. Cái chết của loài người cũng thế.

Những người có đạo hạnh, ít sợ chết hơn những người thế tục vì lẽ họ chỉ muốn sống để thỏa mãn năm giác quan của họ.

Theo quan niệm của Nhà Phật, chết chưa phải là chấm dứt, và sanh cũng không phải là bắt đầu. Thực ra, chết chính là sự bắt đầu (một kiếp sống mới), và sanh là sự chấm dứt (kiếp sống cũ). Cái chết chỉ là một phần trong tiến trình sanh tử, tử sanh. Nếu chúng ta hiểu được tiến trình đó, cái chết không làm ta khiếp sợ bởi vì chết chưa phải là hết. Nó chỉ là đoạn cuối của cái vòng sanh tử, đi hết vòng này lại đến vòng khác, và tiếp diễn không ngừng tỉ như lá lìa cành chưa phải là hết. Chúng vào lòng đất và nuôi rể cây, sang năm cây lại có lá mới. Đời sống của con người cũng như vậy. Cái chết làm nhân duyên cho sự tái sanh. Hiểu biết được nguyên tắc căn bản đó, chúng ta sẽ nhẹ bớt sợ hãi.

SỐNG CÓ Ý THỨC
[/font]
Chúng ta sống một cách điên rồ, không nghĩ rằng mình đã tốn biết bao nhiêu thì giờ cho những việc vô bổ. Hôm nay, chúng ta phí thì giờ lo cho những chuyện năm tới, cho 20 năm tới, và lo lắng cho tương lai đến độ chúng ta chẳng sống trọn vẹn mỗi ngày?

Và giá trị trong đời sống của chúng ta sẽ thay đổi. Đời sống có gì quan trọng? Những gì thúc đẩy chúng ta? Những gì lôi cuốn chúng ta? Nếu chúng ta thực sự suy gẫm cái chết, chúng ta sẽ xét lại giá trị của chúng ta. Có nhiều tiền, chúng ta không thể đem theo được. Thân xác chúng ta phải bỏ lại để mai táng bằng cách này hay cách khác. Chỉ còn lại nắm xương tàn vô giá trị. Chúng ta không thể mang theo ngay cả cái xác thân quý giá với chúng ta khi chúng ta lìa bỏ cõi đời này.

Phẩm chất của của cuộc đời quan trọng hơn sự thủ đắc vật chất. Phẩm chất của cuộc đời trước tiên là phẩm chất của tâm trí chúng ta. Chúng ta sống thế nào ngày hôm nay quan trọng hơn nhiều ngoại vật khác. Chết là điều kiện để tái sanh. Điều kiện cho sự tái sanh là cái chết và phẩm chất tâm trí, cái độc nhất mà chúng ta mang theo. Đó là cái gia tài để chúng ta thừa hưởng mà không để lại cho người khác:

- Tôi tạo Nghiệp, tôi phải thọ Nghiệp.

- Nghiệp sanh ra tôi, tôi phải tôn trọng và gánh chịu.

- Nghiệp lành hay Nghiệp dữ tôi tạo ra, tôi đều phải gánh chịu hết, do đó tôi là người thừa kế.

Những gì theo ta là những phẩm hạnh có ở trong ta: phẩm hạnh của tâm trí, của tinh thần, cùng những phẩm hạnh tốt hay xấu. Đó là tất cả những thứ chúng ta được thừa hưởng. Đó là điều kiện quyết định việc tái sanh và tương lai của chúng ta. Đến lượt những phẩm hạnh đó đem lại một giá trị cho đời sống của chúng ta. Chúng ta có thể vui về bạc triệu mà chúng ta đã kiếm được nhưng điều quan trọng hơn là chúng ta cần sống yên ổn và trau dồi đạo đức. Điều này có tác dụng tốt vào lối sống của chúng ta, và vào những giá trị mà chúng ta phát triển. Không phải là vấn đề thành công, mà là vấn đề làm sao để thành công.

CHẾT XỨNG ĐÁNG
[/font]
Sau khi đã suy xét các điều trên, nếu chết không còn là một sự đe dọa mà là một kinh nghiệm thực tế, chúng ta có thể trực diện nó với lòng tin tưởng. Chúng ta không chỉ theo những điều nói trên mà còn cần có nhiều hành động khác để chết một cách xứng đáng. Nếu chúng ta sống lương thiện, chúng ta chết dễ dàng hơn. Dù đã sống sung sướng hay đau khổ, chúng ta phải cố gắng chết một cách xứng đáng. Để đương đầu với cái chết phải đến, chúng ta hãy nỗ lực trong việc phát triển phẩm hạnh không sợ hãi.

Có một số người sợ chết hơn sợ đau đớn và sợ chia lìa người thân hơn là những thứ đáng sợ khác. Khi một người sắp chết, nên gợi lòng can đảm và trấn an họ. Nhưng trước tiên, mình phải trấn an mình đã. Dĩ nhiên, đau đớn sẽ hành hạ và không thể chịu đựng nổi. Nhưng ngày nay, nhờ những tiến bộ y khoa, những đau đớn của chúng ta được giảm thiểu trước khi chết. Đau đớn không còn là một điều sợ hãi không tránh được nữa.

Tôi thường trấn an người sắp chết, như trường hợp một người không còn sống nổi vì ung thư: người ta không để bạn phải đau đớn vì việc điều trị nhanh chóng sẽ giảm bớt đau đớn. Kết quả quan trọng là người bệnh được thoải mái và chết nhẹ nhàng.

Một số người khác lo âu vì sợ mất của cải. Nhưng nếu họ biết suy gẫm về cái chết thì không có gì phải lo. Chúng ta hiểu có hợp thì có tan. Nếu một người sắp từ trần không suy gẫm được điều này, chúng ta cần ân cần khuyến khích và trấn an họ là con cái và những người thân quyến còn lại sẽ được chăm sóc. Cần giúp họ an lòng là mọi việc sẽ đều tốt đẹp, có bạn hữu lo lắng cho họ, họ cần có sự động viên can đảm để được thoải mái, an tâm, và tất cả mọi việc sẽ được lo lắng chu đáo.

Trọng tâm của việc này là gợi lòng can đảm của người sắp chết để họ được an lòng. Làm thế nào để chết xứng đáng? Theo Phật giáo là tạo một bầu không khí bình an trong phòng người sắp ra đi. Không ích lợi gì nếu có người gào thét, kêu la và khóc lóc. Có gì quan trọng hơn đối với một người sắp chết là việc phải chết? Làm như vậy, người sắp chết không an tâm ra đi. Điều tốt hơn là bạn bè và thân quyến có mặt cần chứng tỏ bằng sự hiện diện của họ rằng họ quan tâm, yêu mến, và sæn sàng giúp đỡ người sắp ra đi.

“Biểu tượng tôn giáo rất hữu ích và tiện dụng trong lúc này. Nếu người sắp chết là một Phật tử, một tượng Phật nhỏ cùng sự có mặt của các nhà Sư với những lời cầu nguyện êm dịu sẽ rất ích lợi và giúp người chết có niềm an lạc và phẩm hạnh cao quí nhất. Đó là điều tuyệt diệu giúp người ra đi, đi tìm cuộc sống mới trong đường lối tốt đẹp nhất” — (Đại đức Ajahn Jagaro)

CHẾT NHẸ NHÀNG
[/font]
Mọi người đều mong muốn chết êm ả sau khi đã làm tròn nhiệm vụ và bổn phận trong lúc sanh thời. Sự thật ra có bao nhiêu người đã sửa soạn cho cái chết này? Chẳng hạn, có bao nhiêu người đã chịu khó nhọc chu toàn nhiệm vụ với gia đình, thân nhân, bạn bè, xứ sở, đạo giáo và thân phận của chính mình? Họ sẽ không yên tâm ra đi khi họ không chu toàn được một trong những nhiệm vụ đó.

Chúng ta phải học cách vượt qua nỗi sợ chết, hiểu rằng các thần linh cũng phải chịu số phận như vậy. Những ai phung phí thời giờ vô ích, sẽ than van khi mình đến ngày tận số.

Khi con người nhìn thấy đời sống của mình chỉ là một một giọt nước trong con sông dài, họ sẽ cố gắng để góp sức, dù là ít ỏi vào dòng đời vĩ đại đó. Người khôn ngoan đều hiểu rằng, muốn sống phải tìm cách giải thoát bằng cách tránh tội lỗi, làm điều thiện, và thanh tịnh tâm trí. Người hiểu đời sống theo Giáo Lý của Đức Phật không bao giờ lo lắng về cái chết. Cái chết không gây ra phiền não, nhưng thật sẽ đáng buồn nếu ta chết mà chưa kịp làm gì cho chính mình và cho người khác.

NGÀY HÔM NAY TÔI CHẾT
[/font]
David Morris là một học giả Phật giáo Tây phương chết lúc 85 tuổi. Ít lâu sau khi ông chết, kẻ viết tập sách nhỏ này nhận được lá thư của ông (hiển nhiên ông đã viết thư này trước đây và dặn thư này gửi đi khi ông chết). Thư như sau: “ông sẽ vui khi biết tôi chết ngày hôm nay. Có hai lý do: Điều thứ nhất, ông sẽ yên lòng khi biết được sự đau đớn của tôi do bệnh tật cuối cùng đã hết. Điều thứ hai, từ khi tôi trở thành Phật tử, tôi đã giữ năm giới một cách trung thực. Kết quả, ông biết kiếp tới của tôi sẽ không đau khổ.” Đời sống như một giấc mộng. Cái chết là một điều xảy ra thực tế và tái sanh là điều xuất hiện tự nhiên. Để trực diện với biến cố này, ta phải tiếp tục hay chấm dứt cái vòng sanh tử luân hồi để thoát khỏi khổ đau, đó mới chính là con người tri thức cần quan tâm.

Đại Lão Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda Maha Nayaka Thera
[/font]
[/color][/font]
Đầu trang

Trả lời bài viết