Cơ sở tư tưởng của Đạo Phật là Tư Diệu Đế, là cốt lõi giáo pháp của đạo Phật, và cũng là điều mà Phật đã chứng ngộ lúc đạt đạo. Bốn chân lý này chính là câu trả lời cho câu hỏi của thời đại đó là: Tại sao con người cứ bị trói buộc trong luân hồi và liệu con người có cơ hội thoát khỏi nó hay không.
Tứ diệu đế là:
1.Khổ đếchân lý về sự Khổ: Chân lí thứ nhất cho rằng mọi dạng tồn tại đều mang tính chất khổ não, không trọn vẹn. Sinh, lão, bệnh, tử, xa lìa người mình yêu quý, ở gần người mình ghét bỏ, không đạt sở nguyện, là 8 điều khổ. Sâu xa hơn, bản chất của năm nhóm thân tâm, NGŨ UẨN là các điều kiện tạo nên cái ta, đều là khổ.
2.Tập đếchân lí về sự phát sinh của khổ: Nguyên nhân của khổ là sự ham muốn, Ái tìm sự thoả mãn dục vọng, thoả mãn được trở thành, thoả mãn được hoại diệt. Các loại ham muốn này là gốc của Luân hồi
3.Diệt đếchân lí về diệt khổ: Một khi gốc của mọi tham ái được tận diệt thì sự khổ cũng được tận diệt.
4.Đạo đếchân lí về con đường dẫn đến diệt khổ: Phương pháp để đạt sự diệt khổ là con đường diệt khổ tám nhánh (Bát chính đạo).
* Không thấu hiểu Tứ diệu đế được gọi là Vô Minh
* Phật xác nhận ba đặc tướng của cuộc đời là: Vô Thường, Vô Ngã, Khổvì Vô thường, Vô ngã mà dẫn đến Khổ
* Khổ xuất phát từ Áivà Vô Minh.Một khi dứt được những nguyên nhân đó thì ta có thể thoát khỏi vòng sinh tử (Luân Hồi).
* Thoát khỏi Luân Hồi là khi tu hành đắc đạo (thành Phật) đạt được Niết Bàn
* Con đường dẫn đến Niết Bàn là BÁT CHÍNH ĐẠO.
Cơ Sở Tư Tưởng Của ĐẠO PHẬT
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
- ktsdoanquyet
- Nhị đẳng
- Bài viết: 448
- Tham gia: 00:47, 16/04/11
- Đến từ: Việt Nam
Cơ Sở Tư Tưởng Của ĐẠO PHẬT
Sửa lần cuối bởi ktsdoanquyet vào lúc 10:45, 18/08/12 với 2 lần sửa.
Được cảm ơn bởi: TiT_TinhKhong_TiT
- ktsdoanquyet
- Nhị đẳng
- Bài viết: 448
- Tham gia: 00:47, 16/04/11
- Đến từ: Việt Nam
TL: Cơ Sở Tư Tưởng Của ĐẠO PHẬT
NGŨ UẨN:
tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm.
1. Sắc: chỉ thân và sáu giác quan (hay còn gọi là lục căn, bao gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), do Tứ đại chủng tạo thành, đó là bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa. Sắc tạo nên các giác quan và đối tượng của chúng.
2. Thụ: tức là toàn bộ các cảm giác, không phân biệt chúng là dễ chịu, khó chịu hay trung tính.
3. Tưởng: là nhận biết các tri giác như âm thanh, màu sắc, mùi vị..., kể cả nhận biết ý thức đang hiện diện.
4. Hành: là những hoạt động tâm lí sau khi có tưởng (vui buồn, yêu ghét …). Hành là đối tượng đã tạo nên nghiệp thiện ác...
5. Thức: bao gồm sáu dạng ý thức liên hệ tới sáu giác quan: Ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Thức phụ thuộc vào sáu căn tiếp xúc với sáu trần để hình thành nên sáu thức. Nếu không có thức người ta sẽ không phân biệt được mọi thứ trong cuộc sống
tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm.
1. Sắc: chỉ thân và sáu giác quan (hay còn gọi là lục căn, bao gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), do Tứ đại chủng tạo thành, đó là bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa. Sắc tạo nên các giác quan và đối tượng của chúng.
2. Thụ: tức là toàn bộ các cảm giác, không phân biệt chúng là dễ chịu, khó chịu hay trung tính.
3. Tưởng: là nhận biết các tri giác như âm thanh, màu sắc, mùi vị..., kể cả nhận biết ý thức đang hiện diện.
4. Hành: là những hoạt động tâm lí sau khi có tưởng (vui buồn, yêu ghét …). Hành là đối tượng đã tạo nên nghiệp thiện ác...
5. Thức: bao gồm sáu dạng ý thức liên hệ tới sáu giác quan: Ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Thức phụ thuộc vào sáu căn tiếp xúc với sáu trần để hình thành nên sáu thức. Nếu không có thức người ta sẽ không phân biệt được mọi thứ trong cuộc sống
Sửa lần cuối bởi ktsdoanquyet vào lúc 11:08, 18/08/12 với 1 lần sửa.
Được cảm ơn bởi: TiT_TinhKhong_TiT
- ktsdoanquyet
- Nhị đẳng
- Bài viết: 448
- Tham gia: 00:47, 16/04/11
- Đến từ: Việt Nam
TL: Cơ Sở Tư Tưởng Của ĐẠO PHẬT
BÁT CHÍNH ĐẠO.
là con đường tám nhánh để giải thoát khỏi Khổ, là chân lí cuối cùng của Tứ diệu đế. Bát chính đạo là một trong 37 Bồ-đề phần hay 37 giác chi. Thông suốt được những điểm giáo lý này có thể được xem như đã thâm nhập toàn bộ con đường giác ngộ giải thoát của Ðức Phật. Bát chính đạo bao gồm:
1. Chính kiến: Gìn giữ một quan niệm xác đáng về Tứ diệu đế và giáo lí vô ngã.
2. Chính tư duy: Suy nghĩ hay có một mục đích đúng đắn, suy xét về ý nghĩa của bốn chân lí một cách không sai lầm.
3. Chính ngữ : Không nói dối hay không nói phù phiếm.
4. Chính nghiệp: Tránh phạm giới luật.
5. Chính mệnh: Tránh các nghề nghiệp liên quan đến sát sinh (giết hại sinh vật) như đồ tể, thợ săn, buôn vũ khí, buôn thuốc phiện.
6. Chính tinh tiến: Phát triển nghiệp tốt, diệt trừ nghiệp xấu.
7. Chính niệm : Tỉnh giác trên ba phương diện Thân, Khẩu, Ý;
8. Chính định: Tập trung tâm ý đạt bốn định xuất thế gian
là con đường tám nhánh để giải thoát khỏi Khổ, là chân lí cuối cùng của Tứ diệu đế. Bát chính đạo là một trong 37 Bồ-đề phần hay 37 giác chi. Thông suốt được những điểm giáo lý này có thể được xem như đã thâm nhập toàn bộ con đường giác ngộ giải thoát của Ðức Phật. Bát chính đạo bao gồm:
1. Chính kiến: Gìn giữ một quan niệm xác đáng về Tứ diệu đế và giáo lí vô ngã.
2. Chính tư duy: Suy nghĩ hay có một mục đích đúng đắn, suy xét về ý nghĩa của bốn chân lí một cách không sai lầm.
3. Chính ngữ : Không nói dối hay không nói phù phiếm.
4. Chính nghiệp: Tránh phạm giới luật.
5. Chính mệnh: Tránh các nghề nghiệp liên quan đến sát sinh (giết hại sinh vật) như đồ tể, thợ săn, buôn vũ khí, buôn thuốc phiện.
6. Chính tinh tiến: Phát triển nghiệp tốt, diệt trừ nghiệp xấu.
7. Chính niệm : Tỉnh giác trên ba phương diện Thân, Khẩu, Ý;
8. Chính định: Tập trung tâm ý đạt bốn định xuất thế gian
Được cảm ơn bởi: TiT_TinhKhong_TiT
- ktsdoanquyet
- Nhị đẳng
- Bài viết: 448
- Tham gia: 00:47, 16/04/11
- Đến từ: Việt Nam
TL: Cơ Sở Tư Tưởng Của ĐẠO PHẬT
Vì Sao Chúng Ta Cứ Mãi Luẩn Quẩn Trong Kiếp Luân Hồi
theo Đạo Phật là vì Nhân Duyên (Duyên Khởi)
Theo kinh Duyên khởi, mười hai nhân duyên cụ thể như sau:
1. Vô minh: sự không thấu hiểu Tứ diệu đế, không hiểu Khổ là tính chất căn bản của đời sống
2. Vô minh sinh Hành: hành động tạo nghiệp. Hành động này có thể tốt, xấu hay trung tính. Hành có thể ở trong ba dạng: thân, khẩu và ý
3. Hành sinh Thức: làm nền tảng cho một đời sống tới. Thức này đi vào bụng mẹ. Thức lựa chọn cha mẹ đúng như Hành tốt xấu quy định
4. Thức sinh Danh sắc: là toàn bộ tâm lí và vật lí của bào thai mới, do Ngũ uẩn tạo thành
5. Danh sắc sinh Lục căn: là các giác quan, sáu căn (năm giác quan và khả năng suy nghĩ là sáu);
6. Lục căn bắt đầu tiếp xúc với bên ngoài gọi là Xúc
7. Xúc sinh Thụ: là cảm nhận của con người mới với thế giới bên ngoài
8. Thụ sinh Ái: tham ái, lòng ham muốn xuất phát từ vô minh;
9. Ái sinh Thủ: là điều cá nhân mới muốn chiếm lấy cho mình;
10. Thủ dẫn đến Hữu: là toàn bộ những gì ta gọi là tồn tại, sự sống, thế giới;
11. Hữu dẫn đến Sinh: một thế giới và cá nhân mới xuất hiện hẳn hoi;
12. Sinh sinh ra Lão tử : vì có Sinh nên có hoại diệt.
theo Đạo Phật là vì Nhân Duyên (Duyên Khởi)
Theo kinh Duyên khởi, mười hai nhân duyên cụ thể như sau:
1. Vô minh: sự không thấu hiểu Tứ diệu đế, không hiểu Khổ là tính chất căn bản của đời sống
2. Vô minh sinh Hành: hành động tạo nghiệp. Hành động này có thể tốt, xấu hay trung tính. Hành có thể ở trong ba dạng: thân, khẩu và ý
3. Hành sinh Thức: làm nền tảng cho một đời sống tới. Thức này đi vào bụng mẹ. Thức lựa chọn cha mẹ đúng như Hành tốt xấu quy định
4. Thức sinh Danh sắc: là toàn bộ tâm lí và vật lí của bào thai mới, do Ngũ uẩn tạo thành
5. Danh sắc sinh Lục căn: là các giác quan, sáu căn (năm giác quan và khả năng suy nghĩ là sáu);
6. Lục căn bắt đầu tiếp xúc với bên ngoài gọi là Xúc
7. Xúc sinh Thụ: là cảm nhận của con người mới với thế giới bên ngoài
8. Thụ sinh Ái: tham ái, lòng ham muốn xuất phát từ vô minh;
9. Ái sinh Thủ: là điều cá nhân mới muốn chiếm lấy cho mình;
10. Thủ dẫn đến Hữu: là toàn bộ những gì ta gọi là tồn tại, sự sống, thế giới;
11. Hữu dẫn đến Sinh: một thế giới và cá nhân mới xuất hiện hẳn hoi;
12. Sinh sinh ra Lão tử : vì có Sinh nên có hoại diệt.
Được cảm ơn bởi: TiT_TinhKhong_TiT
- ktsdoanquyet
- Nhị đẳng
- Bài viết: 448
- Tham gia: 00:47, 16/04/11
- Đến từ: Việt Nam
TL: Cơ Sở Tư Tưởng Của ĐẠO PHẬT
LUÂN HỒI.
nguyên nghĩa Phạn ngữ là “lang thang, trôi nổi” theo ngữ căn có khi được gọi là Hữu luân, vòng sinh tử, hoặc giản đơn là Sinh tử . Thuật ngữ này chỉ những đời sống tiếp nối nhau, trạng thái bị luân chuyển của một loài Hữu tình khi chưa đạt giải thoát, chứng ngộ Niết-bàn. Nguyên nhân trói buộc trong luân hồi là các pháp Bất thiện, gồm có tham ái, sân và si hoặc vô minh.
Nghiệp: là động cơ tác động lên cơ chế của sự tái sinh. Trong Đại thừa, luân hồi được xem là thế giới của hiện tượng và thể tính của nó chính là thể tính của Niết-bàn.
Luân hồi là một vòng xoay của sinh ra, sống trên đời, chết, tái sinh không chỉ trong Đạo Phật, mà cũng theo những tôn giáo khác, và những tôn giáo khác.
Luân hồi là tiến trình của việc theo đuổi tương tục hay dòng chảy của sự sống. Theo nguyên nghĩa, từ ngữ này liên hệ đến một dòng suối tương tục của tâm thức, hay sự tương tục nhưng nhưng bị lôi cuốn vô trật tự của đam mê, tham dục, cảm xúc, và kinh nghiệm.
Trong hầu hết các tôn giáo Ấn Độ, đời sống không được xem như bắt đầu với việc sinh và chấm dứt với sự chết, nhưng như là một sự hiện hữu tương tục trong đời sống hiện tại của cơ thể và mở rộng vượt xa hơn nữa với quá khứ và tương lai. Bản chất của những hành động xảy ra trong phạm vi một kiếp sống (tốt hay xấu) quyết định số phận tương lại của mỗi chúng sinh. Luân hồi được liên kết gần gũi với ý tưởng tái sinh, nhưng chủ yếu liên hệ đến điều kiện của đời sống, và kinh nghiệm của sự sống.
Trong Đạo Phật, vào thời điểm sắp chết tâm thức (thức của những giác quan khác nhau, chẳng hạn như nhãn thức, nhĩ thức,...) hoạt động như hạt giống cho sự sản sinh một tâm thức mới trong một cấu trúc sinh học mới, dẫn đến ý chí thúc đẩy tại thời điểm của cái chết (là điều tự chúng tiêm nhiễm bởi những sự thúc đẩy của ý chí kiếp trước).
Trong những tôn giáo khác của Ấn Độ, những sự thúc đẩy ý chí sinh ra từ đời sống hiện tại được trao truyền đến một cấu trúc tâm thức thông thường được biết như linh thức hay hương linh, là điều sau thời điểm trung ấm, hình thành căn bản cho một cấu trúc sinh học mới sẽ có kết quả là sự tái sinh và một đời sống mới. Tiến trình vòng xoay này chấm dứt trong sự đạt đến của giải thoát. Nếu một người sống trong những cung cách cực kỳ xấu ác, người ấy có thể tái sinh như một súc vật hay những chúng sinh không may mắn khác trong sáu cõi luân hồi (như quỷ đói, hay rơi vào địa ngục)
nguyên nghĩa Phạn ngữ là “lang thang, trôi nổi” theo ngữ căn có khi được gọi là Hữu luân, vòng sinh tử, hoặc giản đơn là Sinh tử . Thuật ngữ này chỉ những đời sống tiếp nối nhau, trạng thái bị luân chuyển của một loài Hữu tình khi chưa đạt giải thoát, chứng ngộ Niết-bàn. Nguyên nhân trói buộc trong luân hồi là các pháp Bất thiện, gồm có tham ái, sân và si hoặc vô minh.
Nghiệp: là động cơ tác động lên cơ chế của sự tái sinh. Trong Đại thừa, luân hồi được xem là thế giới của hiện tượng và thể tính của nó chính là thể tính của Niết-bàn.
Luân hồi là một vòng xoay của sinh ra, sống trên đời, chết, tái sinh không chỉ trong Đạo Phật, mà cũng theo những tôn giáo khác, và những tôn giáo khác.
Luân hồi là tiến trình của việc theo đuổi tương tục hay dòng chảy của sự sống. Theo nguyên nghĩa, từ ngữ này liên hệ đến một dòng suối tương tục của tâm thức, hay sự tương tục nhưng nhưng bị lôi cuốn vô trật tự của đam mê, tham dục, cảm xúc, và kinh nghiệm.
Trong hầu hết các tôn giáo Ấn Độ, đời sống không được xem như bắt đầu với việc sinh và chấm dứt với sự chết, nhưng như là một sự hiện hữu tương tục trong đời sống hiện tại của cơ thể và mở rộng vượt xa hơn nữa với quá khứ và tương lai. Bản chất của những hành động xảy ra trong phạm vi một kiếp sống (tốt hay xấu) quyết định số phận tương lại của mỗi chúng sinh. Luân hồi được liên kết gần gũi với ý tưởng tái sinh, nhưng chủ yếu liên hệ đến điều kiện của đời sống, và kinh nghiệm của sự sống.
Trong Đạo Phật, vào thời điểm sắp chết tâm thức (thức của những giác quan khác nhau, chẳng hạn như nhãn thức, nhĩ thức,...) hoạt động như hạt giống cho sự sản sinh một tâm thức mới trong một cấu trúc sinh học mới, dẫn đến ý chí thúc đẩy tại thời điểm của cái chết (là điều tự chúng tiêm nhiễm bởi những sự thúc đẩy của ý chí kiếp trước).
Trong những tôn giáo khác của Ấn Độ, những sự thúc đẩy ý chí sinh ra từ đời sống hiện tại được trao truyền đến một cấu trúc tâm thức thông thường được biết như linh thức hay hương linh, là điều sau thời điểm trung ấm, hình thành căn bản cho một cấu trúc sinh học mới sẽ có kết quả là sự tái sinh và một đời sống mới. Tiến trình vòng xoay này chấm dứt trong sự đạt đến của giải thoát. Nếu một người sống trong những cung cách cực kỳ xấu ác, người ấy có thể tái sinh như một súc vật hay những chúng sinh không may mắn khác trong sáu cõi luân hồi (như quỷ đói, hay rơi vào địa ngục)
Được cảm ơn bởi: TiT_TinhKhong_TiT