Công đức trì chú Đại bi

Trao đổi về y học, võ thuật, văn hóa, phong tục, tín ngưỡng
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Karuna
Mới gia nhập
Mới gia nhập
Bài viết: 2
Tham gia: 17:29, 16/02/12

TL: Công đức trì chú Đại bi

Gửi bài gửi bởi Karuna »

Tây Đô đạo sĩ đã viết:
Lá số cháu gái có căn tu đấy, mạng triệt thân cư tài tử tham từ cung phúc chiếu sang, lại có không kiếp thì tu học là con đường hay nhất cho cách này. Tiền vận khôi ấn tướng, triệt thì không nên tham vọng, bản thân cháu là người ôn hòa lương thiện, tôn trọng lẽ phải nhưng thiếu niên sẽ có nhiều nỗi niềm không vừa ý, đầu mặt có lúc bị thương tích. Cung phu vũ phá tuần không, hôn nhân cũng không hài lòng. Cháu nên chăm chỉ tụng đọc chú Đại bi, làm các việc công đức, an phận thủ thường thì cuộc đời cũng không đến nỗi nào. Cung tài của cháu có song lộc thiên phủ chiếu thì tiền bạc cũng dồi dào, cuộc sống không bị thiếu thốn. Cung phúc bị không kiếp là dòng họ có mộ bị lạc, tử tham là sao của người tu hành, cháu nên ghi tên các cụ đã khuất gửi lên chùa nhờ cầu siêu, bản thân cháu nhớ ngày ngày hồi hướng công đức cho các cụ thì sẽ hóa giải được bất lợi của cung phúc. Lá số chỉ là bản hồ sơ ghi nghiệp quá khứ, không được cập nhật nên không có gì cố định cả. Nếu mình biết tu học thì lá số không còn đúng nữa. Các cao thủ xem lá số của tôi bây giờ sai bét hết. Còn vấn đề chết thì trước sau ai cũng chết thôi, nếu mình biết rõ đạo thì coi cái chết như thay cái áo, bỏ áo cũ thay áo mới, không có gì đáng sợ cả. Chúng ta đã từng chết hàng tỉ lần rồi, và cũng đã đầu thai bằng ấy lần, có gì lưu tâm?

Việc thờ tượng thì cứ tự nhiên, miễn là thành tâm kính trọng là được. Cháu ghi chú Đại bi vào giấy, nếu không dùng thì đốt đi, không nên để vào những nơi kém thanh tịnh. Thân mến.



Con cảm ơn những lời quý báu của chú nhiều lắm ạ!

Thưa với chú, con đã quy y Tam Bảo thọ ngũ giới vào năm 2010. Sau đó thì con cũng đã thưa với mẹ rằng con không có ý định lập gia đình.
Mẹ con thì cũng quy y hướng về Tam Bảo. Thường nghe kinh giảng của các Thầy, lui tới viếng thăm chùa. Sau khi nghe con nói con không có ý định xây dựng gia đình thì mẹ con cũng hoan hỷ nói rằng nếu con đã chọn con đường đó thì cũng tốt, con sẽ không mắc nợ ai. Theo quan niệm mẹ con là như vậy!
Nhưng khi nghe con thổ lộ là con sẽ phụng dưỡng ba mẹ đến trăm tuổi, khi nào ba mẹ không còn nữa thì con sẽ nương tựa cửa chùa thì mẹ con lại tỏ vẻ buồn lắm! Mẹ nói với con là đừng bao giờ nói như vậy nữa, mẹ nghe mẹ buồn!

Con có một thắc mắc: một người tu tại gia khác thế nào với một người xuất gia vào cửa Phật, thưa chú?


Con không có truy cầu danh lợi. Ý nguyện của con trong kiếp này là mong muốn giúp ích được cho tha nhân với sức mình đến đâu thì hay đến đó. Nhưng ba mẹ con lại muốn con làm được gì đó vẻ vang cho gia đình. Mỗi khi nghe ba con nhắc đến việc xây dựng gia đình là trong lòng con lại thấy có lỗi, vì con không làm tròn được mong ước của ba mẹ. Trong lòng con có nhiều nỗi niềm không biết nói sao để ba mẹ hiểu dùm con. Mẹ con thì hướng về Tam Bảo. Ba con thì cũng có cúng dường Tam bảo xây chùa, quyên gạo nhưng dường như chưa hướng tâm hoàn toàn. Đi chùa thì mẹ con vào thắp nhang lạy Phật, ba con thì chỉ ngồi phía bên ngoài. Con không biết nên khuyên ba con như thế nào nữa!

Vấn đề mộ bị lạc. Con không biết có phải là Ông nội của con không. Nếu đúng thì chuyện rất dài dòng. Vì con nghe ba con kể hồi đó Ông Bà nội con lúc sinh ra ba con xong thì Ông nội ra Bắc tập kết. Sau đó hòa bình về thì mất liên lạc. Ông nội lập gia đình khác rồi sau này có trở về nhưng đã có gia đình riêng, con cháu riêng. Giờ Ông nội con đã mất vài tháng trước. Nhưng ba con đâu thể nào an táng đúng mộ phần trong dòng họ được, thưa chú. Vì bên ông nội con đã có gia đình riêng, con cháu riêng. Họ sẽ không để ba con làm điều đó.

Cảm ơn chú đã nghe những lời con chia sẻ.
Thật tình thì con ít nói lắm, tâm tư chỉ dấu trong lòng chứ không chia sẻ kể cả người thân. Con không biết nói những lời này với ai cả. Nay con thưa ra với chú xong thì trong lòng con nhẹ nhõm lắm!
Con sẽ ghi nhớ những lời khuyên quý báu của chú. Đặc biệt là bốn chữ "có gì lưu tâm?". Lúc đọc bốn từ đó xong con cảm thấy nhẹ nhàng lắm.
Được cảm ơn bởi: Nam Đế, mimeongo
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Công đức trì chú Đại bi

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »

"Karuna"

Con cảm ơn những lời quý báu của chú nhiều lắm ạ!

Thưa với chú, con đã quy y Tam Bảo thọ ngũ giới vào năm 2010. Sau đó thì con cũng đã thưa với mẹ rằng con không có ý định lập gia đình.
Mẹ con thì cũng quy y hướng về Tam Bảo. Thường nghe kinh giảng của các Thầy, lui tới viếng thăm chùa. Sau khi nghe con nói con không có ý định xây dựng gia đình thì mẹ con cũng hoan hỷ nói rằng nếu con đã chọn con đường đó thì cũng tốt, con sẽ không mắc nợ ai. Theo quan niệm mẹ con là như vậy!
Nhưng khi nghe con thổ lộ là con sẽ phụng dưỡng ba mẹ đến trăm tuổi, khi nào ba mẹ không còn nữa thì con sẽ nương tựa cửa chùa thì mẹ con lại tỏ vẻ buồn lắm! Mẹ nói với con là đừng bao giờ nói như vậy nữa, mẹ nghe mẹ buồn!

Con có một thắc mắc: một người tu tại gia khác thế nào với một người xuất gia vào cửa Phật, thưa chú?


Con không có truy cầu danh lợi. Ý nguyện của con trong kiếp này là mong muốn giúp ích được cho tha nhân với sức mình đến đâu thì hay đến đó. Nhưng ba mẹ con lại muốn con làm được gì đó vẻ vang cho gia đình. Mỗi khi nghe ba con nhắc đến việc xây dựng gia đình là trong lòng con lại thấy có lỗi, vì con không làm tròn được mong ước của ba mẹ. Trong lòng con có nhiều nỗi niềm không biết nói sao để ba mẹ hiểu dùm con. Mẹ con thì hướng về Tam Bảo. Ba con thì cũng có cúng dường Tam bảo xây chùa, quyên gạo nhưng dường như chưa hướng tâm hoàn toàn. Đi chùa thì mẹ con vào thắp nhang lạy Phật, ba con thì chỉ ngồi phía bên ngoài. Con không biết nên khuyên ba con như thế nào nữa!

Vấn đề mộ bị lạc. Con không biết có phải là Ông nội của con không. Nếu đúng thì chuyện rất dài dòng. Vì con nghe ba con kể hồi đó Ông Bà nội con lúc sinh ra ba con xong thì Ông nội ra Bắc tập kết. Sau đó hòa bình về thì mất liên lạc. Ông nội lập gia đình khác rồi sau này có trở về nhưng đã có gia đình riêng, con cháu riêng. Giờ Ông nội con đã mất vài tháng trước. Nhưng ba con đâu thể nào an táng đúng mộ phần trong dòng họ được, thưa chú. Vì bên ông nội con đã có gia đình riêng, con cháu riêng. Họ sẽ không để ba con làm điều đó.

Cảm ơn chú đã nghe những lời con chia sẻ.
Thật tình thì con ít nói lắm, tâm tư chỉ dấu trong lòng chứ không chia sẻ kể cả người thân. Con không biết nói những lời này với ai cả. Nay con thưa ra với chú xong thì trong lòng con nhẹ nhõm lắm!
Con sẽ ghi nhớ những lời khuyên quý báu của chú. Đặc biệt là bốn chữ "có gì lưu tâm?". Lúc đọc bốn từ đó xong con cảm thấy nhẹ nhàng lắm.


Người tu tại gia chỉ giữ 5 giới cấm, có thể không ăn chay trường, chỉ ăn một số ngày nhất định nào đó trong tháng. Lại tự làm ra của cải vật chất cho bản thân để sinh hoạt, tu học, không phải do người khác cung cấp. Vẫn có thể lập gia đình sinh con cái, làm ăn kinh tế.... Còn người xuất gia dùng của cải tiền bạc do tín chủ cúng dường cung cấp, tu học cho bản thân và giúp những người khác học theo lời Phật dạy, không lập gia đình, trách nhiệm nặng nề hơn rất nhiều.
Việc hiếu thảo đối với người Phật tử ngoài phụng dưỡng cha mẹ về của cải vật chất, cái ăn cái mặc, nuôi dưỡng khi đau ốm...việc quan trọng quyết định là hướng cha mẹ tới con đường giải thoát sinh tử luân hồi. Khuyên cha mẹ niệm Phật cầu vãng sinh Tịnh độ để không còn bị đọa lạc vào 6 nẻo luân hồi, đó mới là người thực sự có hiếu. Vì cuộc sống chúng ta không phải chỉ có một kiếp sống này mà thôi, nếu chưa được giải thoát sẽ có vô số kiếp sống về sau nữa.

Cháu lên mạng tìm các đĩa CD "Khuyên người niệm Phật" của cư sĩ Diệu Âm về nghe và mở cho cha mẹ cùng nghe, dần dần họ sẽ hiểu. Việc gì cũng cần sự khéo léo kiên nhẫn, không nên nóng vội.

5 giới cấm của người tu tại gia:

Ngũ giới


Ngũ giới là năm giới, năm điều ngăn cấm, phải giữ của người Phật tử tại gia. Sở dĩ đức Phật đặt ra năm giới, vì Ngài mong muốn cho người Phật tử tại gia hưởng được qủa báo tốt đẹp. Người Phật tử không thể chỉ thọ Tam Quy mà không trì Ngũ Giới. Người đã quy y là đã bước một nấc thang đầu tiên, nếu không giữ giới có nghĩa là dừng lại tại đó, không tiến bước tới nữa. Năm giới này không những để tiến bước trên đường giải thoát, mà còn đem lại trật tự, an vui, hòa bình cho gia đình, xã hội.
Người Phật tử tại gia đã quy y giữ từ một tới năm giới sau đây:
1/- Không sát sinh,
2/- Không trộm cướp,
3/- Không tà dâm,
4/- Không nói dối,
5/- Không dùng chất gây nghiện.
Đức Phật không bắt buộc người Phật tử phải tuân theo triệt để, cũng không hăm dọa nếu không tuân theo thì phải bị chịu hình phạt, có giữ giới hay không là tùy thuộc mỗi người tự liệu lấy. Đạo Phật khác với các Tôn Giáo khác một phần là ở điểm này. Năm giới là năm thành trì ngăn chặn cho chúng ta đừng đi vào đường ác, là năm hàng rào cản cho chúng ta khỏi rơi vào vực sâu tội lỗi.
Để hiểu rõ tường tận, chúng ta lần lượt phân tích từng giới một.

1. Không sát sanh


Không sát sinh bao gồm không giết hại từ con người đến súc vật lớn như voi, ngựa, trâu, bò v.v…, cho đến các loài nhỏ bé như côn trùng, sâu bọ, kiến v.v… Không những không giết hại mà còn không làm tổn thương đau đớn con người và các loài. Người Phật tử cũng không bảo người khác, bày mưu kế cho người khác làm các việc hành hạ, giết hại chúng sanh các loài. Khi thấy người khác đánh đập, sát hại con người và súc vật thì sinh lòng thương xót và khuyên can ngăn cản.
Sự giữ giới không sát sinh nhằm mục đích bảo vệ công bằng, mọi chúng sanh đều muốn sống sợ chết, mọi chúng sanh đều có Phật tánh như nhau. Giữ giới sát sinh là nuôi dưỡng lòng từ bi, người có lòng nhân không nỡ sát hại người hay vật. Giữ giới sát sinh tránh được nhân qủa báo ứng, vì nợ máu sẽ phải trả bằng máu không ở kiếp này thì ở kiếp sau, như vậy nghiệp oán xoay vần không có ngày chấm dứt.
Từ trước đến nay, loài người đã giết hại rất nhiều bằng đủ thứ phương tiện như làm lưới, câu v.v… bắt cá dưới nước; làm bẫy, cung tên, súng đạn giết loài cầm thú trên không, dưới đất; và nhất là dùng đủ thứ mưu mẹo để giết hại con người lẫn nhau.
Người giữ giới sát sinh luôn luôn có tâm an ổn, nét mặt hiền hòa. Nếu mọi người trên thế giới đều giữ giới không sát sinh thì thế giới không còn chiến tranh giết hại nữa.

2. Không trộm cắp


Không trộm cướp có nghĩa là không cho thì không lấy, từ nhà cửa, ruộng vườn, của cải, tiền bạc cho đến các vật tư hữu nhỏ bé. Cũng gọi là trộm cướp, khi lấy của tư hay của công, của công ty hay của nhà nước, khi cưỡng ép người ta bằng vũ lực hay quyền hành, khi dùng những thủ đoạn lừa gạt, mưu mẹo v.v… để đoạt chiếm sở hữu, tiền bạc như quịt nợ, giật hụi, đầu cơ tích trữ, cân non đong thiếu, trốn sâu lậu thuế, v.v… cũng như trộm cướp không khác. Tóm lại tất cả các việc gian tham, lấy của bất chính đều là trộm cướp. Người Phật tử không được bày mưu kế cho người khác trộm cướp. Khi thấy người khác làm các việc trộm cướp thì phải khuyên bảo can gián.
Sự lợi ích của giới không trộm cướp là giữ được sự công bằng bình đẳng giữa người với người, mỗi người đều có quyền sở hữu riêng tư, xã hội không công bằng thì khó tồn tại lâu dài được. Không trộm cướp còn thể hiện lòng từ bi, vì một người phải cực khổ để làm ra tiền nuôi thân và gia đình và dành dụm phòng khi đau yếu hoặc tuổi già. Nếu bị mất sẽ đau khổ vô cùng, tuyệt vọng có khi đi đến tự tử.
Chúng ta nhiều khi cũng buồn khổ vì mất của, xét người khác cũng vậỵ Chúng ta không muốn ai trộm cướp của mình, thì cũng không nên trộm cướp của người, đó là lẽ công bằng.
Người trộm cướp, cho dù có thoát khỏi lưới pháp luật, nhưng lương tâm lúc nào cũng lo sợ, và nhân qủa nghiệp báo ở kiếp sau không thể tránh khỏi. Người không gian tham, đời này sống yên ổn, đi đâu cũng có người tin cậy, đời sau được phúc báo giàu sang. Về xã hội, nếu mọi người đều không gian tham trộm cướp, thì nhà không cần đóng cửa then cài nữa.
Nói tóm lại: Giới này liên quan đến yếu tố tài chính vật chất. Việc duy trì sự công bằng (không phải cào bằng) là tư tưởng cốt lõi. Sự gian lận bất công phải được loại trừ.

3. Không tà dâm


Không tà dâm là không dụ dỗ hay dùng thủ đoạn để cướp vợ người khác, không ép buộc người khác phải thỏa mãn tình dục với mình, không hãm hiếp đàn bà, con gái. Người Phật tử không được xui bảo, bày mưu cho người khác làm việc tà dâm. Cũng không vui, mà còn phải khuyên can, lên án khi thấy người làm điều tà dâm.
Không tà dâm để bảo vệ sự công bình, bảo vệ hạnh phúc cho gia đình mình và gia đình người, không tà dâm còn tránh được oán thù và qủa báo xấu, vì không có sự oán thù nào mãnh liệt cho bằng sự oán thù do lừa dối tình hay phụ tình gây ra. Nếu mọi người đều giữ giới tà dâm thì gia đình được đầm ấm, xã hội có luân thường đạo lý, không có những sự thù hằn chết chóc vì tà dâm nữa.
Mặc dù Phật chỉ cấm tà dâm, nhưng giữa vợ chồng cũng phải gữi lẽ, điều độ, biết tiết dục, để cho thân được khỏe, tâm được trong sạch nhẹ nhàng. Còn với người xuất gia thì tránh hẳn dâm dục.

4. Không nói dối


Nói dối là nói láo, nói không đúng sự thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có làm cho người nghe hành động sai vô cùng tai hại. Không nói dối còn bao gồm cả ba điều khác của miệng là không nói lời hai lưỡi, đòn càn (xóc) hai đầu, làm cho hai người khác ghét nhau, thù nhau. Kế tiếp là không được nói lời thêu dệt, thêm bớt, có ít xít ra nhiều, nói châm chọc, bóng bẩy làm cho người nghe buồn phiền. Còn không được nói lời độc ác, thô tục, cộc cằn như nguyền rủạ chửi mắng thậm tệ làm cho người nghe sợ hãi đau khổ. Người Phật tử không được xui bảo người khác nói các điều như trên, và khi thấy người khác nói những lời không đẹp ấy thì phải không vui, và khuyên can chê bai người ấy.
Trong Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, Phật bảo Tôn Giả A Nan, Thị giả của Phật: “Người ta sinh ra ở đời, họa từ trong miệng mà sinh ra, nên phải giữ gìn cửa miệng hơn cả lửa mạnh, vì lửa mạnh có đốt cháy cũng chỉ đốt cháy một đời này mà thôi, còn như nói ác sẽ đốt cháy trong vô số kiếp. Lửa chỉ đốt cháy nhà cửa, của cải của thế gian, còn lời nói ác đốt cháy bảy thứ của cải của Thánh nhân. Vì thế, này A Nan, chúng sanh họa từ trong miệng mà sinh ra, miệng lưỡi thực là búa sắc tự bổ vào mình, là cái họa để tự diệt mình”.
Phật tử cần giữ giới này vì đạo Phật là đạo của sự thật nên phải tôn trọng sự thật, vì nuôi dưỡng lòng từ bi, người Phật tử phải tránh sự dối trá lừa gạt để không gây cho người khác sợ hãi, buồn phiền, đau khổ. Đây cũng là để bảo tồn sự trung tín trong xã hội, mọi người tin cậy, đoàn kết giữ cho xã hội được ổn cố, vì nếu một xã hội không ai tin ai thì mọi công việc từ nhỏ đến lớn đều thất bại.

5. Không dùng chất gây nghiện


Giới cấm này mới nghe thấy có vẻ không quan trọng, nhưng xét kỹ thấy thật quan trọng, chính vì uống rượu say mà có thể gây phạm bốn giới cấm nêu trên là sát sinh, cướp của, nói dối, hiếp dâm. Như thời đức Phật Ca Diếp có người uống rượu say mà phạm gian với vợ người khác, rồi bắt gà của người ta giết làm thịt ăn, đến khi người ta hỏi thì chối là không làm gì cả. Cũng không được ép người khác uống rượu đến say mê mẩn, mửa tháo, và khi thấy người khác nghiện rượu, nên tùy lúc mà khuyên can. Giới cấm uống rượu còn bao gồm cả việc dùng các thứ ma túy, vì nó cũng làm cho tinh thần người sử dụng mất sáng suốt minh mẫn, mê dại, tâm bình tiêu mất.
Mặc dù tội say rượu chưa phải là túc nghiệp, nhưng vẫn phải chịu qủa báo cuồng loạn, mất trí, điên dại ở kiếp sau.
Người không uống rượu còn tránh được sự hao tốn tiền bạc, thân ít bệnh tật, trí tuệ tăng trưởng, tuổi thọ cao, con cái khoẻ mạnh, và gia đình yên vui.
Trong Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, Phật còn lưu ý người Phật tử tại gia giữ năm giới không làm các nghề như:
  • Không làm nghề nuôi, buôn bán súc sinh, nếu có nuôi súc vật, sau khi thụ Ngũ giới được phép bán nhưng không được bán cho nhà đồ tể.
  • Không làm nghề chế tạo, buôn bán cung tên, đao kiếm, súng đạn, mìn bom, v.v…, nghĩa là tất cả các thứ dùng vào việc giết người, khủng bố, chiến tranh.
  • Không làm nghề sản xuất, buôn bán các loại rượu và các loại ma túy.
  • Không làm nghề sản xuất hoặc buôn bán hàng gian, hàng giả, hàng nhái, hàng hóa có nguồn gốc không lương thiện...v...v do trộm, cướp, bóc lột, khai thác lao động nô lệ...v...v mà có. Vì điều này chính là tiếp tay cho tội phạm thực hiện hành vi phạm tội. Nếu không muốn nói là cầm đầu vì kẻ cầm đầu trong tổ chức tội phạm thường không trực tiếp phạm tội mà do cấp dưới thực hiện.

Kết luận:


Nếu Tam Quy là nền tảng thì Ngũ Giới là năm bậc thang của người Phật tử tại gia bước dần lên Thánh qủa. Trong bước đầu, nếu người Phật tử giữ đủ năm giới thì tốt, nếu vì sự ràng buộc chưa thể giữ cả năm giới, có thể giữ vài giới mà mình thấy thực hành được, rồi sau sẽ phát nguyện giữ thêm các giới khác. Nếu không giữ được giới nào thì sao gọi được là Phật tử? Có những người không phải là Phật tử còn có thể giữ được 3 giới không trộm cướp, không nói dối, không uống rượu, huống chi là một Phật tử muốn vượt lên trên đời tầm thường của thế nhân. Một Phật tử không giữ được giới nào thì chưa phải là người Phật tử.
Người giữ giới sẽ được an vui khỏe mạnh sống lâu, kiếp sau sẽ được sinh lên cõi trời muốn gì được nấy, hoặc sinh lại cõi người ở nơi tốt lành, có địa vị giàu sang, ít bệnh, sống lâu, không hoạn nạn, gia đình đầm ấm yên vui, v.v…
Người không theo đạo Phật hay chưa phải là Phật tử cũng nên giữ năm giới được nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Năm giới nói trên chỉ là bài học thông thường không chỉ để áp dụng riêng cho Phật tử, mà nó còn hữu ích cho tất cả mọi người nếu biết áp dụng để có cuộc sống an vui tiến bộ. Nếu xã hội nào áp dụng triệt để năm giới này, thì xã hội đó văn minh và gương mẫu nhất thế giới vậy.

Thân mến.
Được cảm ơn bởi: Nam Đế, teamoon, mimeongo, babygal, chiemchiep, Karuna
Đầu trang

Thanh_Quynh_86
Mới gia nhập
Mới gia nhập
Bài viết: 48
Tham gia: 14:31, 28/11/11

TL: Công đức trì chú Đại bi

Gửi bài gửi bởi Thanh_Quynh_86 »

Thưa chú! Đúng như chú từng nói với con " đời là bể khổ"! Con nhìn cuộc sống xung quanh mình thấy ông trời không cho ai tất cả,ai cũng đều có những cái khổ riêng, không ai hạnh phúc toàn vẹn cả. Khổ- sướng là phần nhiều là do mình tạo ra, con biết con con nhiều thiếu xót, điều quan trọng nhất bây giờ là con đang gắng thay đổi bản thân mình trước, học Nhẫn nhiều hơn, tu dưỡng bản thân, chiến thắng được bản thân mình,vượt qua sự sân hận trong mình là vinh quanh nhất, con luôn muốn tìm để biết" quyền lực đích thực" trong con người mình là gì chú ạ. Con biết con có Tình thương, nhìn thấy mọi người xung quanh con, kẻ cả những người chưa thực tốt với con con cũng tìm thấy điều để cảm thương họ...cũng vì thế mà lòng con thấy bình yên hơn mặc dù hoàn cảnh con thì còn nhiều khó khăn lắm, con đã có lúc muốn dừng lại, muốn quay đầu lại nhưng con đã nhận thấy cuộc sống rối ren này mình chưa tìm thấy lối thoát thì nên gạt bỏ sang một bên con tìm đến Phật pháp, nghe những lời Phật dạy, con thấy mình con may mắn lắm vì xung quanh hình như luôn có người túc trực để đến khai thị, dẫn đường cho con đến con đường giải thoát. Con thực sự cảm thấy điều kì diệu đến xảy ra trong lòng con, một ngày được đọc sách, Niệm phật, học đạo là con cảm thấy vui hơn rất nhiều lần những thú vui khác trong cuộc sống. Mong chú mang Từ tâm đến được nhiều nhiều người hơn nữa giống như chú đã giúp con ạ. Chúc chú luôn an lạc.
Được cảm ơn bởi: Nam Đế, Tây Đô đạo sĩ, mimeongo, babygal, Karuna
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Công đức trì chú Đại bi

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »

Xem số để cải thiện vận mệnh

Xưa nay ai cũng tò mò muốn biết vận mạng của mình thế nào, nghe có ông thầy nào giỏi xem số lập tức tìm đến. Gặp thầy phán cho sẽ giàu sang vinh hiển sống dai thì khôn xiết vui mừng, lá số xấu gặp thầy mạnh miệng phán cho đi ăn mày hoặc chết sớm thì tuyệt vọng muốn tự tử cho xong. Vậy thì xem số có lợi gì?
Trong thực tế các lá số đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng, cũng như một bản lý lịch ghi những sở trường sở đoản, những vận hạn có thể xảy ra trong tương lai của một người. Các bạn trẻ đi xem số sẽ tìm ra cho mình một cách sống, một phương pháp ứng xử thích hợp nhằm phát huy những năng khiếu, những điểm mạnh, khắc phục những điểm yếu, khi nào cần mạnh dạn hành động, khi nào cần chờ đợi. Biết các vận hạn của mình thì như người nông phu nắm rõ thời tiết lịch pháp để gieo trồng có hiệu quả cao.
Muốn cải thiện vận mạng thì ta cần biết nguồn gốc bản lý lịch cá nhân của mình. Hiện nay vấn đề luân hồi đã được nhiều nước phương Tây nghiên cứu nghiêm túc và đã phần nào công nhận. Còn các tôn giáo thì đã khẳng định từ rất lâu. Mỗi chúng ta đều có một lá số, đó chính là bản ghi chép những gì mình đã gây tạo trong tiền kiếp được mã hóa qua cách bố trí phối hợp các tinh đẩu và 12 cung số. Nhà lý số giỏi dễ dàng giải mã và đưa ra những khả năng, những ưu nhược điểm và các vận hạn tốt xấu...có thể xảy đến cho cuộc đời đương số. Như vậy chính mình đã tạo nên lá số, người có tài lộc vượng thì tiền kiếp đã tạo thiện nghiệp về tiền bạc, người công danh nhẹ bước thì đã tạo nghiệp tốt cho công danh, người đau ốm luôn, làm đâu thua lỗ đó là tiền kiếp đã tạo nghiệp xấu về sức khỏe và tiền tài, người hôn nhân vất vả thì tiền kiếp đã ngoại tình, chia rẽ hôn nhân người ta...
Việc cải thiện số mạng rất khó. Ngay chúng ta bị nghiện thuốc lá, thích món ăn hoặc thú vui như đánh bài bạc số đầu số đuôi mà muốn cai là cả một vấn đề. Tuy nhiên cũng rất nhiều người sau khi biết số mạng của mình đã kiên trì cố gắng và cải thiện khá thành công. Có trách nhiệm với bản thân hơn, việc gì xảy đến cũng kiên nhẫn giải quyết vì biết rằng đó là do nghiệp của mình đã gây nhân bây giờ xảy ra quả, gia đình hạnh phúc hơn, không than trời trách đất trách người...điều quan trọng hơn là biết chắc nếu mình đã gây nghiệp thì chính mình sẽ cải thiện được nghiệp. Có lẽ đây chính là mục đích đi xem số.
Được cảm ơn bởi: Nam Đế, THT, tigerstock68, mimeongo, huong.design85, babygal, Hoa Giọt Tuyết, Karuna
Đầu trang

Psy
Chính thức
Chính thức
Bài viết: 60
Tham gia: 18:14, 13/08/11

TL: Công đức trì chú Đại bi

Gửi bài gửi bởi Psy »

Thưa chú Tây Đô Đạo Sĩ, cháu có người bạn sống rất hiếu nghĩa, tính tình hiền lành tốt bụng. Sau khi đọc nhiều bài viết của chú thấy chú rất coi trọng cung Phúc đức trên mỗi lá số, với kiến thức hạn hẹp cháu nhìn vào cung Phúc trên lá số của bạn thấy không tốt nhưng không hiểu cụ thể là như thế nào, mà bạn cháu đang đứng trước quyết định vào Nam sống và làm việc vào tháng tới. Cháu cũng khuyên bạn trì chú Đại bi, đi chùa thì phải đọc câu chú dặn để hồi hướng công đức cho gia quyến nhưng có lẽ chưa thực hiện được vì là tuýp người sống tư tưởng vô thần. Vậy cháu mong chú xem qua cung Phúc này và xin chú có đôi lời giúp bạn cháu. Cháu cảm ơn chú Tây Đô rất nhiều.

Hình ảnh
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Công đức trì chú Đại bi

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »

Linh Ứng quan thẾ âm và trì tỤng chú ĐẠi bi trỊ bỆnh ung thƯ và các bỆnh khác

LINH ỨNG QUAN THẾ ÂM VÀ TRÌ TỤNG CHÚ ĐẠI BI TRỊ BỆNH UNG THƯ VÀ CÁC BỆNH KHÁC

Một công năng khác của Thần chú là cứu khổ. Những lúc ta lâm cảnh hoạn nạn, đau thương, cùng khổ, tuyệt vọng, bi đát nhất; những lúc mà ta thấy mình rơi vào con đường cùng, bế tắc, không còn lối thoát; hãy vững niềm tin vào Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, nhất tâm trì tụng Thần chú Đại Bi, chắc chắn Ngài sẽ giúp ta những phương tiện thiện xảo, đưa ta vượt qua cảnh khổ đến nơi an lạc, hạnh phúc

Đây là người thật việc thật kể về sự nhiệm mậu của Chú Đại Bi

1/ Anh Lương Tấn Trung pháp danh Chúc Gíác, kỷ sư , nhà nghiên cứu khoa học , giảng viên,
Anh Trung đã kể rõ trong Chương trình Phập pháp nhiệm mầu , chuyện thật đời mình rất hay
ĐT của anh Trung là 08-38395343 - 0908558569
2/ Cháu Nguyễn quỳnh Anh Đoan còn nhỏ bị mắc bệnh ung thư tủy sống thời kỳ 3 (Di căn) , nhờ cháu và gia đình tha thiết trì tụng Chú Đại Bi mà khỏi bệnh ung thư
Xin nhấp vào hai liên kết dưới để xem video :

http://www.youtube.com/watch?v=5xJS9mqcu7A" target="_blank" target="_blank" target="_blank
http://www.youtube.com/watch?v=5XCwjqYQ_KU" target="_blank" target="_blank" target="_blank


Linh Ứng quan thẾ âm và trì tỤng chú ĐẠi bi trỊ bỆnh ung thƯ và các bỆnh khác
Được cảm ơn bởi: Vũ Tướng, gianglam, mimeongo, minhhau
Đầu trang

Thanh_Quynh_86
Mới gia nhập
Mới gia nhập
Bài viết: 48
Tham gia: 14:31, 28/11/11

TL: Công đức trì chú Đại bi

Gửi bài gửi bởi Thanh_Quynh_86 »

Nhẫn một chút sóng yên gió lặng
Lùi một bước biển rộng trời cao.
Trong dòng đời, con người thường sống và luôn tạo nghiệp nên dễ nóng nảy, buồn phiền giận hờn, làm khổ lẫn nhau. Vậy hãy tự An lòng mình:
"Muốn an thì nhẫn, đã nhẫn thì an".
Muốn An phải hoá giải nghiệp, hóa giải tâm giận hờn, tâm ác nơi lòng ta. Nhẫn là điều quan trọng để tâm hồn và cuộc sống của chúng ta cảm thấy nhẹ nhàng, bình an.
Mong mọi người cùng Nhẫn, cùng thành thật lòng mình, cùng xoá tan phiền não, nghiệp chướng và trì tụng Chú đại bi.
Được cảm ơn bởi: Vũ Tướng
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Vũ Tướng
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 887
Tham gia: 19:40, 03/01/11

TL: Công đức trì chú Đại bi

Gửi bài gửi bởi Vũ Tướng »

Trước sau thì cũng phải hướng về đạo Phật. Đệ tử biết tội
Cảm ơn các thầy
Được cảm ơn bởi: Tây Đô đạo sĩ, Mango-style
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
tigerstock68
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2135
Tham gia: 14:12, 29/03/11

TL: Công đức trì chú Đại bi

Gửi bài gửi bởi tigerstock68 »

32 tướng tốt của bậc Đại nhân

Hình ảnh
[/color][/font]
Sau khi Thái tử Tất-Đạt-Đa đản sinh, vua cha Tịnh-Phạn triệu tập các vị tinh thông tướng số đến tiên đoán vận mệnh cho Thái tử. Các vị xem tướng xong, đồng tâu lên rằng: “Thái tử có đủ 32 tướng tốt của một Bậc Đại nhân, thật hiếm có trên đời. Đây là những dấu hiệu báo trước Ngài sẽ là Bậc vĩ nhân đệ nhất trong thiên hạ. Nếu Ngài làm vua, sẽ là vị Chuyển luân Thánh vương; nếu xuất gia tu hành, Ngài sẽ là Bậc Đại Giác Ngộ”.
[/font]
Trong mùa an cư cuối cùng, Đức Phật báo trước sẽ lên cung trời Đao-Lợi thuyết pháp cho chư Thiên và Thánh mẫu Ma-Gia. Vua xứ Kosala là Pasennadi, do lòng kính ngưỡng Đức Phật, xin phép được họa chân dung Ngài trước khi Ngài tạm rời nhân gian. Được Đức Phật chấp thuận, nhà vua thỉnh Ngài thọ trai tại hoàng cung; ở đây có 12 vị họa sư nổi tiếng cùng tề tựu để quan sát và vẽ lại chân dung Đức Phật.

Tuy nhiên, sau đó tất cả các họa sư đều quỳ xuống xin nhà vua tha tội, vì “Hình tướng Đức Thế Tôn đẹp lạ lùng, chúng thần sững sờ chỉ ngắm nhìn suốt buổi mà không vẽ được nét nào cả”. Đức Phật nghe nói thương tình, cho in bóng mình lên nền nhà để các họa sư đồ họa lại. Đây là bức vẽ chân dung đầu tiên của Đức Phật.

Về sau, nhà vua lại truyền lệnh cho các thợ điêu khắc tài giỏi trong nước tạc tượng Đức Phật theo mẫu vẽ ấy. Nhưng không người thợ nào dám nhận nhiệm vụ, vì “Sắc tướng Đức Thế Tôn vạn lần cao quý, siêu tuyệt trần gian; nếu không chuyển tải được những đức tướng ấy trên tượng thì e đắc tội với Ngài”.

Có một vị Thiên nhân chuyên về kiến trúc tên Tỳ-Thủ Yết-Ma hóa thân làm thợ mộc, yết kiến nhà vua xin nhận việc. Chỉ sau một ngày, vị Trời ấy đã tạc xong pho tượng Đức Phật bằng gỗ trầm hương, cao 7 thước mộc, mặt và tay chân đều màu vàng tía. Nhà vua vừa trông thấy bức tượng, phát sinh đức tin thanh tịnh, chứng Nhu thuận nhẫn, bao nhiêu nghiệp chướng phiền não đều được tiêu trừ (kinh Đại thừa công đức tạc tượng Phật – Đại chính Tân tu Đại tạng kinh).

Các tài liệu Phật học mô tả 32 tướng tốt của Đức Phật có đôi chỗ khác nhau, nhưng tựu trung có thể kể ra như sau:
[/font]
1- Đỉnh đầu có nhục kế.
2- Tóc màu xanh đậm, xoăn thành vòng theo chiều bên phải.
3- Trán rộng và bằng phẳng.
4- Khoảng giữa hai chân mày có một sợi lông trắng mịn.
5-Mắt xanh biếc, mi dài như mi ngưu vương.
6- Có đủ 40 răng.
7- Răng nhỏ và đều khít.
8- Răng trơn láng, trắng trong như ngọc.
9- Chân răng rất sâu, không khuyết hở.
10- Lưỡi rộng và dài, có thể chạm đến chân tóc trên trán.
11- Nước trong cổ họng có vị ngọt thơm.
12- Quai hàm như hàm sư tử
13- Giọng nói trong ấm và vang xa như tiếng Phạm vương.
14- Thân hình thon cao.
15- Da mịn màng, màu như vàng ròng, bụi không thể bám vào.
16- Lông trên mình màu xanh và mềm mại, đều xoay tròn theo chiều bên phải.
17- Mỗi lỗ chân lông chỉ có một sợi lông mọc.
18- Bảy chỗ bằng phẳng và đều đặn.
19- Nửa thân trên như thân sư tử.
20- Không có khuyết lõm giữa hai vai.
21- Hai tay buông thỏng dài đến đầu gối.
22- Đầu cánh tay trắng tròn.
23- Ngón tay thon dài.
24- Tay chân mềm mại.
25- Lòng bàn chân có đủ 1.000 xoáy trôn ốc.
26- Kẻ ngón chân có màng da lưới.
27- Âm tàng như mã vương.
28- Đùi như lộc vương.
29- Gót chân thon, tròn đẹp.
30- Mắt cá chân tròn, không lộ ra.
31- Mu bàn chân cao và đều đặn.
32- Lòng bàn chân bằng phẳng, có hình bánh xe.

Điểm qua 32 tướng tốt để chúng ta có thể nhận diện nhân dáng toàn mỹ của Đức Phật. Thật ra, có một vài chi tiết khó hình dung nơi một con người thời nay, như tướng lưỡi rộng dài quá mức hay màng da lưới ở kẻ ngón; hoặc một số tướng tốt chỉ xuất hiện khi Đức Phật đã trưởng thành chứ không phải được mô tả lúc Ngài đang ở tuổi sơ sinh, như tướng răng, giọng nói, thân hình…

Tuy nhiên, chúng ta không nên dùng ý thức phàm tình để xét đoán về một Bậc Thánh nhân, vì đôi khi những chi tiết mô tả về Ngài có thể ẩn tàng một ý nghĩa sâu xa nào đó. Ví dụ, tướng lưỡi rộng dài là kết quả bao nhiêu đời kiếp Ngài không một lời nói hư dối; khối thịt vun trên đỉnh đầu (nhục kế) là tướng của một người có trí tuệ tột đỉnh; lông trắng giữa hai chân mày (bạch hào tướng quang) tượng trưng cho Trung đạo, lìa sự cố chấp hai bên; lòng bàn chân có hình bánh xe biểu hiện một sứ mạng cao cả là lưu truyền chánh pháp… Những tướng tốt hy hữu ấy đã minh chứng bao nhiêu công đức tích lũy được trong vô lượng kiếp tu hành của một Bồ tát Nhất sanh bổ xứ, chỉ còn một đời ở cõi Ta-bà là thành tựu Phật quả.

Thân tướng tốt đẹp cũng là sự thị hiện của Ngài, do chìu theo sự ưa thích cái đẹp của chúng sinh. Khi mới tiếp xúc lần đầu, chúng ta thường chú ý đến vẻ ngoài của người đối diện, sau đó mới tìm hiểu về tính tình và đời sống nội tâm. Đức Bổn Sư của chúng ta, với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp thật toàn mỹ và phi phàm, đã khiến cho bất cứ ai, khi vừa gặp Ngài đều sinh lòng quý kính. Đây là điều kiện thuận lợi để tiếp cận với người khác, sau đó Ngài mới tùy duyên mà giáo hóa. Trong pháp hội của Đức Phật, được nhìn dung mạo Ngài, nghe giọng nói Ngài trầm hùng như tiếng sóng biển, tiếng chim Ca-lăng-tần-già, toàn thể đại chúng đều sinh lòng kính tín, tâm hoan hỷ thanh tịnh lạ thường. Nhiều người đắc quả vị Hiền Thánh chỉ sau một lần được diện kiến Đức Phật hoặc nghe Ngài thuyết pháp.

Nhưng thân tướng đẹp đẽ vô song ấy, có phải không bao giờ đổi thay hoại diệt? Trong kinh kể lại, một hôm Đức Phật ngồi sưởi ấm dưới nắng, Ngài A-Nan đến gần, buồn rầu thưa rằng “Bạch Đức Thế Tôn, làn da ánh như vàng ròng của Người nay còn đâu, chỉ có màu xám xịt nhăn nheo của tuổi già”. Đức Phật dạy: “Này A-Nan, đây là sanh thân của Như-Lai, hữu hình ắt hữu hoại”.

Thân xác do tứ đại hợp thành, đủ duyên thì hiện hữu, hết duyên lại trở về cát bụi. Vô thường có tha ai bao giờ? Vô thường là quy luật tất yếu của cuộc sống, nhưng cũng là điều kiện cần thiết cho sự tiến hóa của vũ trụ vạn loại. Hoa nở rồi tàn, rụng xuống thành rác, từ rác có cây khác mọc lên, và hoa lại nở, tạo thành vòng biến chuyển không dừng trụ. Sanh thân của Đức Phật, dù đầy đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp cũng do tứ đại duyên hợp tạm có, tồn tại trên thế gian trong 80 năm và cũng chịu sự chi phối của luật vô thường, cũng ở trong vòng biến chuyển của luân hồi sinh tử. Thế thì, ý nghĩa cao cả của sự tu hành là Giác Ngộ – Giải Thoát phải được hiểu như thế nào?

Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt. Khi thân Như-Lai còn tồn tại, thì chư Thiên và loài người coù thể thấy thân ấy. Khi thân hoại mạng chung, thì chư Thiên và loài người không thể thấy được”. Động lực khiến tái sanh vào kiếp khác là phiền não tham sân si đã bị chặt đứt thì dù sanh thân còn tồn tại nhưng đã thoát khỏi vòng kiềm tỏa của luân hồi.

Chư Thiên và loài người chỉ có thể thấy được sanh thân của Đức Phật, tức thân có 80 vẻ đẹp và 32 tướng tốt, thân có sinh ra, có bệnh tật, có già nua và có hoại diệt. Nhưng khi sanh thân không còn nữa, thì mắt của Trời người không thể thấy Như-Lai. Bởi vì Như-Lai chính là Pháp Thân vô tướng, là Thật tướng thường trụ. Pháp thân vô tướng nên không bao giờ sinh diệt, vì không có chỗ trụ nên thường hiện hữu khắp cõi Tam thiên, vắng lặng mà chiếu soi, không thể dùng ý thức suy lường mà sẵn đủ nơi tất cả chúng sanh.

Đức Bổn Sư đã nhận ra và hằng sống với tánh giác sẵn đủ ấy nên Ngài là Phật; còn chúng sanh do quên tánh giác, mãi đuổi theo trần cảnh, tạo nghiệp, nên vẫn còn lang thang trong sáu nẻo luân hồi. Chư Phật thị hiện nơi đời cũng chỉ có một mục đích duy nhất là chỉ cho chúng ta thấy và trực nhận tánh giác nơi mình, từ đó gột rửa dần tập khí phiền não, cuối cùng thể nhập Pháp thân. Đó là ý nghĩa của sự tu hành, cũng là bản hoài của chư Phật, Chư Bồ tát.

Cuộc đời của Đức Bổn Sư, từ lúc còn trên ngôi vị Thái tử đã không màng đến danh lợi hạnh phúc thế gian, đến khi thành đạo vẫn vì chúng sanh giáo hóa suốt 45 năm ròng, là một cuộc đời vô cùng trong sáng và đẹp đẽ. Ngài cũng là người, nhưng là một người phi thường từ thể chất đến tinh thần, từ hình tướng đến tâm linh, từ trí tuệ đến lòng từ bi ban rải bình đẳng đến chúng sanh vạn loại.

Chỉ phác thảo về những đặc điểm bên ngoài của Đức Phật, cũng đủ cho chúng ta phát khởi lòng tôn kính đối với Ngài – Bậc giáo chủ vĩ đại, Bậc Tôn sư của Trời người, như kinh Nikaya viết: “Một chúng sinh duy nhất, một con người phi thường xuất hiện trong thế gian này, vì lợi ích cho số đông, vì hạnh phúc cho số đông, vì lòng bi mẫn, vì sự tốt đẹp, vì lợi ích và hạnh phúc cho Chư Thiên và loài người!” Những người con Phật chúng ta, muốn làm tròn chữ hiếu đối với Đức Bổn Sư, phải nguyện đời đời tinh tấn tu hành theo lời Ngài chỉ dạy để cuối cùng, thành tựu quả vị Phật như Ngài!
[/color][/font]
Được cảm ơn bởi: teamoon, cocacola, Tây Đô đạo sĩ, Vũ Tướng, manhho
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Công đức trì chú Đại bi

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »

GIẢI TRỪ VONG NHẬP

Bà Trần Thị Tuyết Hạnh, năm mươi bảy tuổi, bị lâm bệnh ngay khi vừa nhập trại tỵ nạn ở đảo Phi Luật Tân. Bác sĩ chiếu khám cho bà nhiều lần và đưa bà ra khỏi trại để chụp hình nữa mà vẫn không tìm ra căn nguyên bịnh lý. Bà Hạnh đau rất kỳ cục, bà không chịu ăn uống và không ngủ trên cả tháng mà sức vóc không hề hấn gì. Mặt bà đỏ gay, con mắt láo liên và về chiều thì mí mắt sụp xuống, buồn rầu khóc thảm, làm nhảm kể lể những chuyện đau buồn. Vì lý do mắc bệnh kỳ dị nên ban điều hành trại thương lượng co quan lo hồ sơ định cư cấp tốc cho gia đình bà Hạnh nhập cảnh Hoa Kỳ sớm để có thể đủ điều kiện thuốc thang trị liệu bệnh tình cho bà.

Khi đến vùng San Francisco, người nhà cấp đưa bà Hạnh đến nhà thương trị liệu, song các bác sĩ giỏi đều bó tay chứng bệnh “không chịu ăn, không chịu uống”, mà vẫn sống như thường của bà Hạnh. Hai tháng trôi qua, bệnh tình không thuyên giảm, người nhà vẫn tiếp tục đưa bà Hạnh đi khám bác sỉ cho có lệ và để ai nấy yên lòng.

Một hôm có cụ Lành đưa đường, chồng bà Hạnh đem vợ đến chùa Từ Quang gặp tôi để nhờ giúp đỡ. Mới nhìn qua nét mặt, khí sắc của bà Hạnh là tôi biết ngay bà bị âm khí ám nhập. Tôi đưa ngay bà lên chánh điện để “tra vấn” cái vong linh đang nhập trong người bà. Bà Hạnh nhìn tôi với vẻ sợ hãi và run cầm cập như đang ở giữa băng tuyết. Bà cúi đầu khóc thút thít, nghẹn ngào và biểu lộ sự tức tối, uất ức. Tôi gạn hỏi hoài mà vong nhập kia không chịu “khai báo” một chút tung tích gì. Tôi bèn gọi các chú trong chùa trợ niệm và lấy chiếc mõ nhỏ đặt ngay trên đầu bà Hạnh tụng chú Ðại Bi thì bà Hạnh nhắm nghiền hai mắt, tóc trên đầu bà bay ngược như một cơn bão thổi mạnh, hai tay bà chấp lại như một búp sen và miệng the thé nói một giọng con gái độ mười chin, hai mươi tuổi.

Tiếng người con gái này nói mình đã chết trên biển cùng mẹ ruột và nhiều người vì gặp bão, nên tàu chìm. Tôi hỏi các chi tiết khác thì vong linh nói mà phát âm không rõ, chỉ thốt lên the thé kêu đói, than lạnh rồi vật lăn giữa điện Phật bất tỉnh. Tôi và những người có mặt thấy thế xúc động quá, liền khai kinh Phổ Môn tụng cầu an cho bà Hạnh và liên tục niệm danh hiệu Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát; đồng lúc tụng niệm tôi lấy nước thờ trên bàn Phật và đọc thần chú Quán Âm, Tâm Kinh Bát Nhã rồi đem cho bà Hạnh uống. Khi bà Hạnh vừa uống xong ly nước thì liền tỉnh dậy và bà vội vàng nhảy tới bàn thờ vong, đưa tay bốc thức ăn bỏ vào miệng ngồm ngoàm như kẻ bị đói lâu ngày. Ăn đã đời, bà quơ tất cả đồ cúng nào là chuối, bánh, trái cây, khoai, bắp… trên bàn thờ cô hồn bỏ vào trong túi áo, lận trong lưng quần và trải tà áo tràng mà bà đang mặc gói tất cả thức ăn, chui vào trong góc bàn thờ linh và tiếp tục ăn như ma quỷ. Bà còn khóc và la lên là có nhiều người đang dành ăn và đánh tháo bà.

Thấy hình ảnh kỳ quái của bà Hạnh, ai cũng sợ và nhiều người bỏ chạy xuống lầu. Tôi bình tĩnh niệm chú Chuẩn Ðề và dùng lời nhỏ nhẹ, ngọt ngào kêu bà Hạnh ra ngoài và quỳ giữa chánh điện. Tôi lại tiếp tục “vấn cung” vong linh đang nhập vào trong bà Hạnh một lần nữa. Lúc này, vong linh mới nói rõ tên tuổi, ngày chết là nhu cầu muốn được nghe kinh siêu độ. Tôi liền viết bài vị thờ ngay lúc ấy, kêu các vị dưới bếp nấu cơm chay cúng vong và tôi khai kinh Di Ðà cầu siêu hôm đó, có gần một trăm Tăng Ni và Phật tử, vì hôm đó là nhằm lễ sám hối Bố tát gần đến mùa Vu Ln Rằm tháng bảy.

Sau khi tụng kinh Di Ðà, niệm danh hiệu Phật, đến chổ quy y linh ký tự, thì bà Hạnh ngã xuống đất bất tỉnh. Ðộ chừng mười phút sau, bà Hạnh tỉnh dậy và trở lại người bình thường như mình đã ngủ một giấc thật dài. Gia đình bà Hạnh và mọi người hôm đó đều cảm kích và vô cùng mừng rỡ khi thấy bà Hạnh bình phục. Tôi bảo cụ Ðức Hạnh, cô Thanh Tịnh nấu cháo trắng để bà Hạnh ăn kẻo nhịn đói lâu ngày ăn cơm vào nặng bao tử, và đưa bà vào phòng nghỉ. Ngay tối hôm đó, bà Hạnh đòi về nhà vì thấy đã khỏe hoàn toàn. Sáng hôm sau, tự bà Hạnh và cả nhà đến chùa lễ tạ và xin quy y.

Hôm chứng kiến lễ đưa vong linh cô gái Việt Nam chết trên biển ra khỏi người bà Hạnh và ký tự vong linh bất hạnh ấy tại chùa Từ Quang, cụ Tâm Huy chép miệng thành thơ rằng:

Pháp Phật nhiệm mầu

Cứu người khổ đau

Quan Âm linh hiển

Hạnh nguyện thâm sâu.

Nguồn:Linh Ứng Quán Thế Âm
Đầu trang

Trả lời bài viết