CUỘC CHIẾN TÂM LINH NGÀN NĂM CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
-
- Tam đẳng
- Bài viết: 521
- Tham gia: 16:48, 30/01/10
CUỘC CHIẾN TÂM LINH NGÀN NĂM CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
CUỘC CHIẾN TÂM LINH NGÀN NĂM CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM .
Loạt bài khảo cứu Lịch sử của dienbatn .
"Thiếu gì những kẻ muốn xâm lăng,
Vũ khí hung tàn có thể ngăn.
Chỉ sợ Tâm Linh bày cuộc chiến,
Còn hơn là Ðịa chấn- Sơn băng.
Như Hải tinh trong Quốc bảo mình,
Ðời nào cũng có bậc anh minh.
Mỗi khi sông núi vang lời gọi,
Là có Rồng thiêng biến hữu hình ".
Thơ của một ẩn sĩ .
Lời nói đầu : Chuẩn bị kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội , dân tộc Việt Nam ta đã trải qua một chặng đường rất dài đầy đau thương nhưng vô cùng oanh liệt trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để bảo vệ và xây dựng Đất nước . Trong cuộc chiến ngàn năm đó , cuộc chiến về Tâm linh cũng cực kỳ quan trọng , nhiều khi mang tính chất sống còn . Rất nhiều tài liệu đã viết về vấn đề này , dienbatn chỉ xin hệ thống lại để chúng ta có thể nhận thấy tính chất quan trọng của cuộc chiến Tâm linh này . Thân ái . dienbatn .
1/Bài tham khảo thứ nhất :
NHẬN DIỆN CAO BIỀN .
Tạp chí Xưa & Nay, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, số 339, tháng 9-2009
Đỗ Thiếu Khang
Kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long, chúng ta cũng nên biết về một nhân vật có nhiều quan hệ với đất La Thành của ngàn năm trước. Đó là quan “toàn quyền” Cao Biền, một thầy “phù thuỷ” chính hiệu ở tầm cao “chót vót”, một thầy địa lý “siêu hạng”! Bóng dáng ông dường như vẫn còn lởn vởn trong tâm lý dân gian hễ gặp dịp là lại bùng lên: nơi này có “trấn yểm”, nơi kia có “lời phán” của Cao Biền… Chuyện đâu xa, đền Quán Đôi (Hà Nội) từ lâu vốn vắng khách, năm 2006 nhờ vụ “cọc gỗ lim trấn yểm” dưới lòng sông Tô Lịch của Cao Biền, đền bỗng trở nên nhộn nhịp.
Dấu ấn của Cao Biền ở Giao Châu .
Cao Biền (821-887) người Bột Hải, sau ngụ ở U Châu (ngoại thành Bắc Kinh ngày nay). Cha là Cao Nguyên, ông nội là Cao Sùng Văn (một danh tướng chỉ huy cấm quân dưới thời Đường Hiến Tông – Lý Thuần). Trong thời kỳ Bắc thuộc lần thứ III, ông được Đường Hy Tông – Lý Huyền phong cho làm Tĩnh Hải Quân Tiết Độ Sứ, cai quản cả Giao Châu và Quảng Châu từ năm Hàm Thông thứ bảy (866) đến năm Càn Phù thứ hai (875).
Đánh lui quân Nam Chiếu .
Nam Chiếu là vương quốc của người Bạch và người Di (nằm trong khu vực tỉnh Vân Nam ngày nay) đã phát triển rực rỡ ở Đông Nam Á trong các thế kỷ VII và thể kỷ IX sau Công nguyên.
Người Bạch là cư dân nông nghiệp trong các vùng đất màu mỡ xung quanh hồ Nhị Hải. Mỗi bộ lạc của người Bạch là một tiểu Vương quốc, được gọi là chiếu; tất cả có 6 chiếu: Mông Huề, Việt Thác, Lãng Khung, Đằng Đạm, Thi Lãng và Mông Xá; trong 6 chiếu đó Mông Xá ở về phía Nam. Vì thế năm 737 khi vua của chiếu Mông Xá là Bì La Cáp lần lượt thống nhất các chiếu kia thành lập một vương quốc mới thì đặt tên là Nam Chiếu.
Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim chép:
“Trong khoảng năm Khai Nguyên (713-742) đời vua Huyền Tông nhà Đường, Nam Chiếu là Bì La Cáp cường thịnh lên, mà 5 chiếu kia suy hèn đi. Bì La Cáp mới đút lót cho quan Tiết Độ Sứ đạo Kiếm Nam là Vương Dục để xin hợp cả 6 chiếu lại làm một. Triều đình nhà Đường thuận cho, và đặt tên là Qui Nghĩa. Từ đó Nam Chiếu càng ngày càng thịnh lên, đem quân đi đánh Thổ Phồn… Bấy giờ Nam Chiếu đã mạnh lắm, bèn xưng đế và đặt quốc hiệu là Đại Mông Quốc rồi lại đổi lại là Đại Lễ…”
Nam Chiếu phát triển và bành trướng rất nhanh, đầu tiên vào Miến Điện, sau đó là toàn bộ Vân Nam, xuống Lào, vào Thái Lan, rồi ngược về phía bắc tới Tứ Xuyên (Trung Quốc). Năm 764, Nam Chiếu thiết lập kinh đô thứ hai tại Côn Minh (Trung Quốc). Năm Kỷ Dậu (829), quân Nam Chiếu chiếm đóng Thành Đô (Trung Quốc).
Năm 865 (Ất Dậu), Cao Biền được Đường Ý Tông cử làm đại tướng cùng giám quận Lý Duy Chu đem quân sang đóng ở Hải Môn để dẹp quân Nam Chiếu.
Đại Việt sử ký toàn thư chép:
“Năm Bính Tuất – 866 (Đường Hàm Thông, thứ 7). Mùa hạ, tháng 4, Nam Chiếu sai Trương Tập giúp Tù Thiên đánh Giao Châu, cho Phạm Nật Ta làm Đô Thống Giao Châu, Giám trận nhà Đường là Trần Sắc sai Vi Trọng Tể đem hơn 7.000 quân đến Phong Châu. Biền được thêm quân, tiến đánh Nam Chiếu, nhiều lần đánh tan được. Tháng ấy, Biền đánh tan quân Nam Chiếu, giết và bắt sống rất nhiều. Nam Chiếu thu quân còn sống sót chạy vào Châu thành cố giữ. Mùa đông, tháng 10, Cao Biền vây Châu Thành hơn 10 ngày, người Man rất khốn quẫn. Biền đến nơi đốc thúc, khích lệ tướng sĩ, lấy được thành, giết Tù Thiên và Chu Cổ Đạo là người thổ man dẫn đường cho quân Nam Chiếu, chém hơn 30.000 đầu. Quân Nam Chiếu trốn đi, Biền lại phá được hai động thổ man đã theo Nam Chiếu, giết tù trưởng. Người thổ man rủ nhau quy phục đến 17.000 người ”.
Từ đó nhà Đường đổi Giao Châu thành Tĩnh Hải Quân Tiết Trấn và để Cao Biền ở lại làm Tiết Độ Sứ.
Đắp thành Đại La (Hà Nội ngày nay).
Thành này ban đầu do Trương Bá Nghi đắp từ năm Đại Lịch thứ 2 (767) đời Đường Đại Tông – Lý Dự; năm 791 Triệu Xương đắp thêm; năm 808 Lý Nguyên Gia dời phủ trị tới bên sông Tô Lịch, đắp một cái thành nhỏ gọi là La Thành. Năm Hàm Thông thứ 6 (866) đời Đường Ý Tông – Lý Thôi, Cao Biền đắp lại có quy mô to lớn hơn gọi là Đại La:
“Thành có chu vi 1.982,5 trượng (H”6,6km), cao 2,6 trượng (H”8,67m), chân thành rộng 2,5 trượng (H”8,33m), nữ tường (bức tường nhỏ đắp trên tường thành lớn) 4 mặt cao 5,5 thước (H”1,83m), với 55 lầu vọng dịch, 6 nơi úng môn (thứ thành đắp vòng ngoài cửa thành), 3 hào nước, 34 đường đi. Cao Biền còn cho đắp đê vòng quanh ngoài thành dài 2.125,8 trượng (H”7,09km), đê cao 1,5 trượng (H”5,00m), chân đê rộng 2 trượng (H”6,66m).”
Dùng “thần quyền” và “tâm linh” nhằm diệt ý chí giành độc lập của dân ta.
Vốn là một tông đồ tầm cỡ của Đạo giáo, khi cai trị Giao Châu, trước ý chí quật cường của người Việt, bên cạnh việc dùng sức mạnh quân đội cùng hệ thống cai trị vô cùng ngặt nghèo, Cao Biền còn lợi dụng “thần quyền”, lợi dụng “tâm linh”, dựng lên những truyện thần kỳ nhằm diệt ý chí giành độc lập của dân ta.
Được thần thánh giúp đỡ.
Khi đắp La Thành, mấy lần bắt đầu đều bị sụt lở, tưởng như công việc không thành. Một đêm, Cao Biền đứng trên vọng lâu nhìn ra, thấy một vị thần cưỡi ngựa trắng chạy đi, chạy lại như bay rồi bảo Cao Biền cứ theo vết chân ngựa chạy mà đắp quả nhiên thành đắp được, sau khi đắp xong Cao Biền cho lập đền thờ vị thần ấy ở ngay nơi hiển hiện, gọi là đền Bạch Mã. Đền thờ này ngày nay vẫn còn ở phố Hàng Buồm, Hà Nội.
Kết nghĩa với anh em với thần thánh.
Ở làng Nam Trì (xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên ngày nay) có miếu thờ Lữ Gia (Thừa tướng thời Triệu Đà – Bắc thuộc lần thứ I) người Nam Trì gọi là Bảo Công và tướng Danh Lang (em kết nghĩa của Lữ Gia) được gọi là Lang Công. Theo Ngọc phả Thần tích do Hàn Lâm Đông Các Đại Học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn năm Nhâm Thân (1572) triều Lê Anh Tông niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất thì:
Một lần qua đây, Cao Biền đã đến miếu tế lễ và cầu khấn rằng: “Nay ta cầm quân đi đánh giặc Nam Chiếu, hai vị thần có anh linh thì âm phù cho ta thắng giặc. Sau khi thành công hẳn được sắc phong cúng tế, hương hỏa muôn đời”
Đêm ấy, Cao Biền chiêm bao thấy hai vị tướng mặc long bào, giáp ngọc long lanh, đội mũ trăm sao. Một vị cưỡi ngựa trắng, cao hơn bảy thước tay cầm siêu đao vàng, một vị cưỡi hổ vàng tay cầm búa việt. Cao Biền hỏi: “Danh tướng ở đâu đến đây?”. Một vị xưng: “Ta vốn là Trung Thiên Bảo Quốc”, vị kia xưng: “Ta là Trung Lang Tế Thế, đều là đại thần của nhà Triệu hồi xưa, nay thấy Ngài đem quân đi đánh giặc, chúng ta xin tòng chinh, âm phù cho Ngài thắng giặc”.
Hôm sau Cao Biền truyền cho phụ lão, dân làng Nam Trì rằng: “Ta với hai vị tướng Thượng Đẳng Linh Thần tại đây như có nhân duyên từ trước. Vừa qua giặc Nam Chiếu xâm phạm An Nam, làm cho nhân dân lầm than khổ cực, ta mang quân đi tiễu trừ giặc cướp. Qua nơi đây biết chắc là Thần linh rất thiêng. Quả nhiên đêm về, hai vị Thượng Đẳng Linh Thần hiện lên xin tòng chinh, âm phù cho quân ta thắng giặc ”.
“Ta với hai vị thần ấy tuy âm dương cách biệt, nhưng đã chung một huyết khí bẩm sinh. Tuy rằng Nam Bắc hai phương nhưng đều chung một Trời một Đất nên từ nay ta cùng hai vị Thần kết nghĩa anh em và muốn hai vị Thần được hưởng cúng tế vạn năm, tiếng thơm lưu truyền bất hủ”.
Có kiếm thần .
Cách chùa Hàm Long (thôn Thái Bảo, xã Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh) về phía nam – tây nam chừng hơn một cây số có núi Con Rùa, một núi nhỏ, dáng mai rùa, chu vi khoảng trên một nghìn mét. Núi Con Rùa có một chỗ sạt về phía Đông, mùa mưa thường rỉ ra nước màu gỉ sắt; cách núi Con Rùa chừng hai cây số về phía đông – đông nam là thôn Phương Lưu, cư dân quần tụ trên một đảo gò đất có dáng đầu rùa, người ta truyền tụng rằng “rùa bị kiếm thần của Cao Biền chém đứt đầu, đến nay máu vẫn chảy, đầu rùa bị văng ra đến tận thôn Phương Lưu”!
Có phép “tản đậu thành binh”.
Ở núi Chè (Trà Sơn) Bắc Ninh, về phía làng Móng (xã Hoàn Sơn) cách đường số 1 mới chừng 1 km còn có nơi “quân Cao Biền dậy non”. Vì khi ra trận, ngoài quân lính bằng xương bằng thịt, Cao Biền còn dùng “âm binh” (lính từ cõi âm). Khi cần kíp ông ta chỉ rắc hạt đậu xuống đất, lấp cho kín (như kiểu ủ giá đỗ) rồi đọc mấy câu thần chú… Khi mở ra, mỗi hạt đậu hóa thành một người lính xung trận được ngay! Đó gọi là phép “tản đậu thành binh”. Mỗi hạt đậu, mỗi người lính; quân Cao Biền không những nhiều mà còn có một sức mạnh ma quái! (Có lẽ núi Chè xưa là nơi tuyển, luyện quân của Cao Biền).
Cưỡi diều giấy đi trấn yểm ở nhiều nơi .
Trong cuốn Việt Nam sử lược tác giả Trần Trọng Kim viết: “Sử chép, Cao Biền khi làm Thái thú ở quận Giao Châu nổi danh với tài phong thủy, thấy nước ta lắm huyệt đế vương, đã “cưỡi diều giấy đi trấn yểm khắp đó đây, làm hại mất nhiều long mạch””
Những truyền thuyết loại ấy tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng Bắc bộ. Tất cả đều nhằm nêu bật sức mạnh ghê gớm của quan Thái thú phương Bắc. Nó thể hiện uy danh rất lớn của Cao Biền, không chỉ lúc ông đang còn cai trị tại Giao Châu mà cả khi vua Đường điều chuyển ông đi nhậm chức ở Tây Xuyên hay khi ông đã tan thành cát bụi nhưng vẫn như còn hiển hiện đâu đó trên đất này! Dám chắc những truyền thuyết ấy có bàn tay dàn dựng của Cao Biền nhưng đến mức nào và ở đâu? Không có dữ liệu lịch sử nào để xác định.
Những truyền thuyết nhằm bài bác lại .
Dân ta dường như hiểu được thâm ý của Cao Biền nên đã dựng lên những câu chuyện dân gian nhằm hạ uy thế và bài bác lại:
Sơn thánh Tản Viên .
Theo truyền thuyết khi sang Giao Châu, Cao Biền thấy long mạch rất vượng, nên muốn phá đi, thường mặc áo phù thủy, cưỡi diều giấy đi khắp nơi để xem địa thế, hoặc giả tảng lập đàn cúng tế để lừa Thần bản địa đến rồi dùng kiếm báu chém đầu, chém xong đào hào, chôn kim khí để triệt long mạch. Cao Biền có lần đến núi Tản Viên, định dùng chước này, nhưng Tản Viên Sơn Thánh biết được liền mắng Cao Biền rồi đi.
Đắp thành Đại La .
Một hôm, Cao Biền ra chơi ngoài cửa đông của thành, chợt thấy trong chỗ mây mù tối tăm, có bóng người kỳ dị, mặc áo hoa, cưỡi rồng đỏ, tay cầm thẻ bài màu vàng, bay lượn mãi theo mây. Cao Biền kinh sợ, định lấy bùa để trấn yểm. Bỗng đêm hôm ấy thấy thần báo mộng rằng:
Ta là tinh anh ở Long Đỗ, nghe tin ông đắp thành nên đến để hội ngộ, việc gì mà phải trấn yểm?
Cao Biền lấy làm kỳ lạ, bèn lấy vàng, đồng và bùa chôn xuống để trấn yểm. Ngay đêm hôm đó mưa gió sấm sét nổi lên dữ dội, sáng ra xem, thấy vàng, đồng và bùa trấn yểm đều đã tan thành cát bụi. Cao Biền sợ hãi, bèn lập đền thờ ở ngay chỗ ấy và phong cho thần là thần Long Đỗ.
(Về thần Long Đỗ, có một dị bản nói rằng: khi vua Lý Thái Tổ dời kinh đô về Thăng Long, nhà vua sai đắp lại thành, nhưng hễ thành đắp xong lại lở, bèn sai người đến cầu đảo thần Long Đỗ. Chợt người cầu đảo thấy có con ngựa trắng từ trong đền đi ra, dạo quanh thành một vòng, đi tới đâu, để vết chân rõ ràng tại đó và cuối cùng vào đền rồi biến mất. Sau nhà vua cứ theo vết chân ngựa mà đắp thành thì thành không lở nữa, bèn nhân đó, phong thần Long Đỗ làm Thành Hoàng của Thăng Long)
Chúng tôi cho rằng sự kiện đắp thành Đại La đã có trước thời vua Lý Thái Tổ hơn một trăm năm nên truyền thuyết về thần Long Đỗ gắn với việc xây thành Đại La của Cao Biền là hợp lý hơn. Vả lại ngay trong Thiên đô chiếu của vua Lý Thái Tổ cũng có câu: Huống Cao Vương cố đô Đại La thành (Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương) để thuyết phục quần thần.
“Cao Biền dậy non”
Như trên đã nói, Cao Biền có phép thuật “tản đậu thành binh”. Có lần Cao Biền đọc thần chú ”còn thiếu mấy câu” (hay mấy chữ gì đó), mỗi hạt đậu đã nở thành một âm binh nhưng đều còn non, đứng lên không vững, lẩy ba lẩy bẩy! Vì thế mỗi khi thấy người nào yếu sức, chân tay run rẩy, người ta sử dụng thành ngữ: “lẩy bẩy như quân Cao Biền dậy non”
Cũng là truyện “tản đậu thành binh”, nhưng có cách kể khác: Cao Biền sang nước Nam với mục đích yểm bùa và triệt phá long mạch, ông ta nuôi 100 âm binh phục vụ mục đích này. Muốn nuôi được 100 âm binh, Cao Biền nhờ một bà hàng nước mỗi ngày thắp một nén hương để gọi dậy một âm binh, khi thắp đủ 100 nén hương trong vòng 100 ngày sẽ gọi dậy đủ 100 âm binh. Nhưng bà lão đã phá âm mưu của Cao Biền bằng cách thắp một lúc cả 100 nén hương trong vòng 1 ngày. Quả nhiên, âm binh của Cao Biền dậy đủ 100 nhưng vì “dậy non” nên không có tác dụng gì.
Truyện “tản đậu thành binh” còn có một cách kể khác nữa, cách kể này đậm chất thôn dã, mang dáng vẻ “hài hước” khiến người kể và người nghe cùng thích thú: “Cao Biền có tham vọng làm Hoàng đế Trung Hoa: Ông ta xây dựng một lực lượng quân đội mạnh bằng cách “ủ giá đỗ thành quân”! Buồn cho ông! Bà vợ thấy ông cứ thì thà thì thụt, giấu giấu giếm giếm; sốt ruột quá, nhân lúc ông “bận công vụ” lén mở ra xem… Thế là cả một đội quân hàng ức, vạn tên lính của Cao Biền hùng dũng bước ra… Nhưng vì “dậy non” nên chỉ một lát sau chúng lăn đùng ra chết sạch!”
CHÚ THÍCH:
Sách Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên viết rằng: “Các vua đời sau cũng theo đó mà phong tới Bạch Mã Quảng Lợi Tối linh Thượng đẳng thần”. Các nhà nghiên cứu ở Viện Hán Nôm dựa vào sách Trấn Vũ quán lục, thấy rằng “Long Độ” vốn là tên đất Long Biên vào cuối đời Hùng Vương, Sĩ Nhiếp khi làm Thái Thú Giao Châu, được phong tước “Long Độ linh hầu”. Vậy Long Độ là tên gọi gốc, đến đời nhà Trần, do có lệ kiêng húy tên Thái sư Trần Thủ Độ nên mới đổi thành “Long Đỗ”. Cũng như vậy, sang thời Lê, theo sách Bạch Mã thần từ khảo chính, “vì kiêng húy Thái Tổ là Lê Lợi mà đổi chữ “Lợi” trong “Quảng Lợi” thành chữ “Lại” trong “Quảng Lại” *
Những truyền thuyết mạo danh Cao Biền của các nhà phong thuỷ Việt Nam.
Khi Đạo giáo phát triển rộng lan xuống phía Nam, có những tín đồ lợi dụng uy danh của Cao Biền để đề cao Đạo giáo, nhất là đề cao phép thuật và thuật phong thuỷ:
Đá trấn yểm của Cao Biền ở Phù Cát (Bình Định).
Trong quyển Địa dư Bình Định của ông Bùi Văn Lăng viết từ năm 1930 cũng đề cập đến di tích Cao Biền như sau: “Dọc theo đường Quốc lộ số 1 chạy ra đến Phù Cát có đá Cao Biền. Đó là một cái thẻ thời xưa Cao Biền trấn yểm. Thẻ ấy bằng đá và chôn rất sâu. Thuở xưa dân làng đã có nhiều lần thuê voi về nhổ nhưng nhổ không lên”.
Ở Phù Mỹ, đường đi Đề Gi có một cụm núi nhỏ, cách đó không xa, lại có một hòn đá lớn nổi lên rất ngộ nghĩnh. Theo truyền thuyết thì đó là nơi Cao Biền đã dụng phép trấn yểm thuở xưa.
Mả Cao Biền ở Phú Yên.
Đấy là một độn cát nơi chân núi gần biển. Độn cát không lớn lắm, nhưng không bao giờ san bằng được, bốn mùa gió cát lại vun lên. Vì có thuật địa lý giỏi, Cao Biền đã tìm một nơi bốn mùa cát vun thành gò lớn để “trấn yểm” nên dân trong vùng có câu:
Ngó lên núi cả thấy mả Cao Biền.
Thấy đôi chim nhạn đang chuyền nhành mai.
Xin lưu ý rằng khi Cao Biền làm thái thú ở Giao Châu, lãnh thổ thuộc nhà Đường chỉ đến Quảng Nam, chưa đến Quảng Ngãi chứ chưa nói đến tận Phú Yên, vì từ đó trở vào thuộc Vương quốc Chămpa. Vùng đất này từ năm 192 đến năm 605 được gọi là Lâm Ấp, khởi đầu cho giai đoạn lịch sử Chămpa độc lập, trong sử sách Trung Quốc trước năm 859 gọi vương quốc này là Hoàn Vương, sử ta gọi là Chiêm Thành.
Thơ của Cao Biền ở Bắc Ninh.
Bài thơ bằng chữ Hán, “tương truyền” là của Cao Biền viết về thế đất (theo thuyết phong thủy) của ngôi mộ tổ họ Đỗ tại xã An Bình huyện Thuận Thành như sau:
Phiên âm Hán Việt:
Gia Định, Bình Ngô, hình thế bất cô.
Thần Đồng tiền lập, quỷ sứ hậu phù,
Sĩ khôi thiên hạ, danh bá hoàng đô.
Đãn hiềm sơn xạ, khước kỵ thuỷ tù,
Khủng đa phi luỵ, chung hãm phi cô.
Dịch nghĩa:
Đất Gia Định, Bình Ngô, hình thế khéo điểm tô.
Thần đồng đứng trước trực, quỷ sứ đứng sau hầu.
Học đỗ đầu thiên hạ, tiếng lừng lẫy hoàng đô.
Nhưng hiềm có đường phạm, và sợ có nước tù.
Hay tai bay vạ gió, không lỗi mà phải lo
Không dám lạm bàn về lý thuyết phong thuỷ, cũng không có ý định mổ xẻ những luận đoán đúng sai của bài thơ về thế đất của mộ tổ họ Đỗ, càng không có ý định hướng theo câu ca xưa “hòn đất mà biết nói năng, thì thầy địa lý hàm răng chẳng còn”, chúng tôi chỉ muốn tìm lời giải cho câu hỏi: tác giả bài thơ này là Cao Biền hay của một kẻ mạo danh nào khác?
Xin hãy chú ý đến những địa danh “Gia Định, Bình Ngô” trong câu thứ nhất:
Gia Định, Bình Ngô, hình thế bất cô.
Tìm trong sử sách: Xã An Bình (nơi có mộ tổ họ Đỗ) nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, thời các vua Hùng vùng đất này nằm trong bộ lạc Dâu (gần thành Luy Dâu¬(1) xưa); đến thời Bắc thuộc lần thứ II (43-544 sau CN) có tên là Long Ngô Động thuộc đất Gia Định, nằm trong phủ Thuận An; mãi đến năm 1469 thời Lê Thánh Tông, niên hiệu Quang Thuận (1460-1469) mới có tên là “xã Bình Ngô, tổng Bình Ngô, huyện Gia Định, phủ Thuận Thành”. Như vậy những địa danh “Gia Định, Bình Ngô” chỉ có thể xuất hiện sau năm 1469.
Và đây, xóm Ngo Giữa của thôn Bình Ngô hiện cso đến Bình Ngô, một di tích lịch sử cấp quốc gia. Đền thờ Tổ nước (có Hồng Bàng phả), được xây dựng từ năm Vĩnh Tộ thứ 8 (Lê Thần Tông – 1627), qua nhiều lần trùng tu, hiện vật còn lại rất cổ kính, trong đền có hai bức hoành phi “Cổ Long Động” và “Ngô Động Hiển Linh”, ở cổng (tam quan) có 2 đôi câu đối, một câu ở hai bên cổng tả hữu ghi như sau:
Phiên âm Hán Việt:
Long Ngô Động thiên thu hiển hách.
Văn Miếu Bình vạn cổ anh linh.
Dịch nghĩa:
Long Ngô Động nghìn thu rạng rỡ.
Văn miếu An Bình muôn đời chói lọi khí thiêng.
Như ta đã biết, Cao Biền cai trị xứ này từ năm Hàm Thông thứ 7 (866) đến năm Càn Phù thứ 2 (875), tức là vào cuối thế kỷ thứ IX. Bài thơ trên nếu đúng là của Cao Biền thì lúc nhìn thấy mảnh đất Long Ngô Động ông chỉ có thể phán: “… nơi này 600 năm nữa sẽ có tên là Gia Định, Bình Ngô” khi đang “cưỡi trên diều giấy”!
Thật quá hoang đường! Vì tự nhiên luôn luôn biến đổi “bãi bể nương dâu”, “vật đổi sao dời”, “nước chảy đá mòn”… Các nhà phong thuỷ bao giờ cũng đi “thực địa”, có nhìn thấy hiện trạng của thế đất mới đánh giá “tốt”, “xấu”… Có lẽ nào thầy địa lý siêu hạng như Cao Biền lại ấu trĩ đến mức đánh giá một thế đất của 600 năm sau! Vả lại nếu Cao Biền luận đoán tương lai giỏi đến thế thì sao mới rời quận Giao Châu về nước “nhận nhiệm vụ khác” được 12 năm (875-887) đã “bị bộ tướng là Tất Sư Đạc giết”!
Rõ ràng bài thơ này không phải của Cao Biền và cũng chẳng có yếu tố gì mang bóng dáng Cao Biền. Không nghi ngờ gì nữa, bài thơ này chỉ có thể là sản phẩm sau năm 1469 (thế kỷ thứ XV) của các nhà phong thuỷ Việt Nam. Nhưng vì sao phải mạo danh Cao Biền. Phải chăng người ta muốn lợi dụng sự nhẹ dạ cả tin của dân chúng, mỗi khi nghe “các thầy Tàu đã phán” là nhất tề bái phục. Vả lại, một khi ông chúa trùm phong thuỷ của các thầy Tàu là “Cao Biền đã nói” thì … cứ gọi là “chắc như đinh đóng cột”!
Cao Biền, một quan “toàn quyền” năng nổ và thâm hiểm – vượt trên tất cả các Thái thú khác – của phương Bắc. Về cuối đời, Cao Biền càng tin vào phép thuật thần tiên, trọng dụng thuật sĩ là Lã Dụng Chi làm lòng quân ly tán. Năm Trung Hoà thứ 5 (885), Cao Biền tạo phản ở Dương Châu. Năm Quang Khải thứ 3 (887), Đường Hy Tông (Lý Hoàn) cử Tuyên Châu Quan Sát Sứ là Tần Ngạn, trợ chiến với Tất Sư Đạc phá Dương Châu, Cao Biền bị Tần Ngạn và bộ tướng là Tất Sư Đạc giết chết.
Dưới bàn tay một mãnh tướng, một nhà phong thuỷ, một tông đồ của Đạo Giáo, chính sách cai trị nước ta của ông rất hiểm độc: “Dùng sức mạnh, đồng thời lợi dụng thần quyền và tâm linh” hòng khuất phục dân ta. Đáng tiếc có người Việt vô tình đã là tòng phạm trong mưu đồ này.
Những công lao của ông trong việc thực hiện ý đồ bành trướng, bá quyền ở Giao Châu dám chắc được các sử gia phương Bắc đánh giá cao. Thời nay cũng không loại trừ người phương Bắc không lợi dụng tàn dư này để thực hiện mưu đồ vốn rất thâm hiểm của họ.
CHÚ THÍCH:
(1) Thành Luy Dâu xưa, nay là thôn Khương Tự, còn gọi là làng Dâu thuộc địa phận Thanh Khương, Thuận Thành, Bắc Ninh. Hiện còn một phần tường thành, hào nước bao quanh thành (cách tam quan chùa Dâu chừng 300m về phía bắc)
2/Bài tham khảo thứ hai :
Trích tứ bài : HIỆN TƯỢNG TRẤN YỂM TRÊN SÔNG TÔ LỊCH của dienbatn .
" ....Giáo sư Trần Quốc Vượng có kết luận như sau :" Trước đây,cổng Hoàng thành ngoài lính còn có Thần chấn giữ 4 cửa (Thăng long tứ trấn ) và có yểm bùa hay còn làm lễ Hiến sinh .Như vậy đây là cổng thành phía Tây của La thành.Thông qua tính tương đối thống nhất giữa niên đại của Tiền và đa số đồ Gốm: Bát,hòn kê.cho thấy niên đại của địa điểm này trong khoảng thế kỷ 11 cho đến 14,thuộc vào thời Lý -Trần Việt nam hay thời Tống của Trung quốc..
.Sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa hiện tượng sông Tô bị lở do đổi dòng và mắt nhà Vua bị đau ,đã tạo ra một lễ trấn yểm,trong đó có những bộ xương người cùng những hiện vật khác chăng.(Ở đây GS Trần Quốc Vượng muốn nhắc đến sự tích Ông Dầu bà Dầu trong chuyện cổ tích Việt nam -Người viết ).
Ðó là một phần của những gì đã đăng tải trên tờ báo.Gần đây,một người bạn của dienbatn có cho biết :Ðài truyền hình có phát tin người ta đã chuẩn bị khôi phục lại hiên trạng di vật như lúc ban đầu.
Người viết bài này lại có ý kiến khác hẳn,mong các Cao thủ trên Diễn đàn TUVILYSO cùng trao đổi :Theo thiển ý của người viết,đây là một hiện tượng chấn yểm nhằm cắt và bế Long mạch,chận đường của Khí (Khí đây là Khí trong bộ môn Phong thủy -Hoàn toàn không phải là Không khí ).Ai đã chấn yểm vị trí này và mục đích sự chấn yểm này để làm gì ?Theo thiển ý của người viết :Ðây là tác phẩm của Cao biền,Tiết độ sứ của TQ vào thế kỷ 8 -Tức là trước thời nhà Lý khoảng 200 năm.
Người viết xin được chứng minh như sau :Trước hết nói về ý kiến của GS Trần Quốc Vượng;người viết cũng đồng ý rằng đây là một sự chấn yểm sông Tô lịch,song không chỉ căn cứ vào niên đại của một số đồ Gốm nhặt được mà cho rằng sự việc xẩy ra vào thời Lý Trần.Nếu theo Truyền thuyết "Tại sao sông Tô lịch và sông Thiên phù hẹp lại " hay truyền thuyết " sự tích Ông Dầu bà Dầu ",tác giả của sự việc trên là các vị Vua nhà Lý,nhằm trấn yểm sự Báo thù của Ông bà Dầu,thì không có sự việc sông Tô lịch và Thiên phù cứ ngày càng hẹp lại,đến nay chỉ còn là một con sông nhỏ xíu,làm nhiệm vụ thải nước bẩn cho Hà nội.Ta nhớ rằng theo sử sách sông Tô lịch ngày xưa rất rộng,trên bến,dưới thuyền,là trục Giao thông chính thủa ấy.Mặt khác thời Lý Trần có rất nhiều nhà Phong thủy Việt nam tài giỏi như :Thiền sư Ðịnh không làng Cổ pháp (Sư thọ 79 tuổi -Năm Bính tý 808 ),Sư La chân Nhân (852 -936 ),Sư Vạn Hạnh..
Dĩ nhiên các vị sư đó không thể nào để cho các Vua Lý chấn yểm sông Tô lịch và Thiên phù,để đến nỗi sông Tô lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại và Ngôi báu Vua Lý chẳng bao lâu về tay nhà Trần.Dòng họ Lý bị tuyệt diệt đến nỗi chỉ có người nào đổi qua họ Nguyễn mới thoát khỏi.
Bây giờ ta xét sự việc dưới một góc độ khác qua các sự kiện Lịch sử và các Thuyền thuyết còn lưu lại trong dân gian.
Theo Việt sử lược :Thành Ðại la được xây dựng vào Thế kỷ 7 có tên là Tống bình .Năm thứ 2 niên hiệu Trường khánh (Nhâm Dần -822 ),Vua Mục Tông nhà Ðường dùng Nguyên Hỷ làm quan đô hộ.Nguyên Hỷ thấy cửa thành có dòng nước ngược sợ rằng dân ở thành có ý đồ phản nghịch,liền sai Thầy bói gieo 1 quẻ.Thầy bói nói rằng :Sức ông không đủ để bồi đắp thành lớn,50 năm sau,có một người họ Cao đóng đô tại đây mà xây dựng Vương phủ .
Tới đời vua Ðường Y Tôn (841 -873 ),Cao biên được cử sang đất Việt làm Tiết Ðộ sứ.Cao biền là một con người đa hiệu: Vừa là một vị Tướng,vừa là một nhà Phù thủy,một Ðạo sĩ,cũng là một nhà Phong thủy có tài.La thành được Cao biền sửa chữa,chỉnh đốn lại cho hợp Phong thủy vào các năm :866,867,868.Theo truyền thuyết,khi Cao biền xây dựng lại Thành Ðại la,thì khu vực thi công có hiện tượng sụp lở đất.Cao biền liền tiến hành chấn yểm Thần sông Tô lịch và một số điểm khác như đền thờ Thần Bạch mã,núi Tảng viên.Sau đó công viêc xây dựng mới có thể hoàn tất.
Tới đây ta nhớ lại một truyền thuyết khác của Dân tộc Việt nam.Ðó là " Truyền thuyết Thành Cổ loa ".Tương truyền rằng khi xây dựng thành Cổ loa,An Dương Vương cũng xây mãi mà thành vẫn bị đổ.Khi đó Rùa Thần hiện ra chỉ cách cho xây và cho một cái móng chân ,lúc đó thành Cổ loa mới có thể xây dựng xong.
Về mặt địa lý,La thành và Thành Cổ loa cách nhau không xa (Theo đường chim bay chỉ vài chục km ).
Tới đây, ta buộc phải tự đặt câu hỏi : Có gì trùng hợp giữa hiện? tượng sụp đất của Thành Cổ loa,sự sụp đất của thành Ðại la và sự sụp lở đất không thể khắc phục được trên công trìng nạo vét sông Tô lịch
Qua hai Truyền thuyết trên,bỏ qua các sự việc có tính chất dị đoan,chúng ta phải chấp nhận một sự thực là :Vùng đất từ đầu nguồn sông Tô lịch kéo dài đến Cổ loa -Đông anh HÀ NỘI là một vùng đất có địa tầng địa chất không ổn định.Ta cũng cần phải nhớ rằng :Núi Tản viên nằm ở hướng Tây Hà nội.Mặt khác phía Tây và Tây bắc của La thành là một vùng núi non trùng điệp của các tỉnh HÒA BÌNH,SƠN LA,LAI CHÂU...Theo định nghĩa của môn Phong thủy Long mạch xuất phát từ những dặng núi cao.Núi mà từ đó khởi nguồn Long mạch gọi là Tổ sơn.Ngoài ra Long mạch còn xuất phát từ những khu vực khác gọi là Thiếu sơn.Ta cũng biết rằng Thiên khí từ trên trời luôn có tính chất giáng xuống ,các đỉnh núi cao là những Antena tiếp thu sinh khí.Từ những sự việc trên,ta cảm nhận được rằng có một Long mạch rất lớn bắt nguồn từ núi Tản viên và các rặng núi phía Tây,Tây bắc của Thành Đại la kéo dài qua thành Đại la theo dọc sông Tô lịch (khí thường đi theo nước ),chạy qua khu vực Hồ Tây bây giờ (Hồ Tây trước kia là một khúc của dòng sông Hồng ),sau đó sang tới tận địa phận Cổ loa -Đông anh -HÀ NỘI và còn theo hướng Đông,Đông bắc đi tiếp ...
Chính vì có Long mạch này mà Cao biền phải vô cùng bận tâm,khổ trí nhằm tiêu diệt hoặc chấn yểm.Có rất nhiều Truyền thuyết về Cao biền liên quan đến các khu vực khác nhau của Long mạch này.Ta có thể kể ra đây những hoạt động của Cao biền liên quan đến các khu vực của Long mạch này :Đầu tiên là truyền thuyết Cao biền chấn yển núi Tản viên,hắn đã sử dụng đến 8 vạn cái tháp bằng đất nung để chấn yểm núi Tản viên.Tới gần đây người ta còn đào được những cái Tháp đất nung đó tại khu vực Hà nội.Tiếp theo là Truyền thuyết Cao biến dùng hơn 4 tấn sắt,đồng...chôn để chấn yểm đền Bạch mã là nơi vị thần sông Tô lịch trú ngụ.Cao bìền còn nhiều lần dựng đàn tràng,dùng 4 thứ kim loại :Sắt,đồng,vàng,bạc chấn yểm nhiều nơi trên bờ sông Tô lịch.Theo sử sách,Cao biền đã đặt Bùa chấn yểm tới 19 nơi dọc theo sông Tô lịch.
Thời bấy giờ nước Nam có nhiều vị Đại sư tài ba lỗi lạc,hiểu biết rất giỏi về Nho,Y,Lý số và thuật Phong thủy đã hóa giải sự chấn yềm của Cao biền bằng phép Huyền môn.Các đại sư thường tụ tập tại ngôi đền SƠN TINH THỦY TINH ở núi Ba vì,hay ở Đền BẠCH MÃ ,dùng nhửng hiểu biết về Phong thủy để chấn áp Bùa phép của Cao biền.
Trở lại,đạo Bùa tìm thấy trên lòng sông Tô lich,có rất nhiều lý do để có thể kết luận rằng :Đó là tác phẩm của Cao biền ,chứ không phải là của các nhà vua Lý.Tác phẩm đó là của Cao biền đời nhà Đường,thuộc về Cao biền thế kỷ 9,tức là trước thời các nhà Lý khoảng 200 năm (Lý thái Tổ -Năm 1010 ).Nếu xét về niên đại của cổ vât tìm thấy,thì trong khoảng 200 năm các cổ vật trên cũng không có sự thay đổi nhiều.Cũng không loại trừ trường hợp,các cổ vật trên rớt xuống lòng sông thời gian sau, khi Cao biền chấn yểm.
Bây giờ ta lại xét đến mục đích của Cao biên khi chấn yềm sông Tô lịch.Cho tới tận giờ phút này,khi các bạn và tôi đang ngồi bên máy Vi tính,người ta vẫn sử dụng các thủ thuật :Châm,cứu,diện chẩn,xoa bóp,bấm huyệt...để chữa bệnh.Tất cả các thủ thuật đó đều dựa trên lý thuyết về hệ thống Kinh mạch,huyệt,lạc trong cơ thể con người.Người ta xác định được hàng ngàn vị trí Huyệt đạo trong cơ thể con người.Tùy theo từng trường hợp khi châm cứu,người ta dùng kim tam lăng để châm vào các huyệt khác nhau,với thời gian và độ nông sâu khác nhau.Trong dân gian còn lưu truyền các biện pháp bấm,điểm huyệt có thể làm cho một bộ phận nào đó của cơ thể không còn khả năng cử động,hoặc nặng hơn là bộ phận đó không còn sử dụng được.Ta vẫn biết rằng :THIÊN -ĐỊA NHÂN là hợp nhất.Mọi vật thể từ Vi mô cho đến Vĩ mô đều phải tuân theo những quy luật chung của sự tương tác vũ trụ.Phải nói dài dòng như vậy để có thể tạm kết luận rằng,trên Trái đất này,cũng phải có những đường Kinh mạch,huyệt,lạc như trong cơ thể con người.Trái đất này là một cơ thể sống chứ không phải là một cục đất chết như nhiều người vẫn nghĩ.Ta cũng có thể suy ra một hệ quả rằng :Tại một điểm nào đó,người ta có thể dùng một thủ thủ thuật nào đó,có thể ngăn,bế hoặc chặn đường đi của một Long mạch như Cao biền đã làm.Thủ thuật này người xưa gọi là Chấn yểm.
Bây giờ ta tạm thời đưa ra các nhận định như sau :
1/Đạo Bùa chấn yểm trên dòng sông Tô lịch là của Cao biền -Tiết độ sứ của nhà Đường,dùng để chấn yểm Long mạch,khi tiến hành xây dựng thành Đại la vào thế kỷ 9.Đó là 1 trong 19 nơi mà Cao biền đã thực hiện chấn yểm.Đạo Bùa đó hoàn toàn không phải do các Vua thời nhà Lý chấn yểm trong Truyền thuyết Ông Dầu,bà Dầu khoảng 200 năm sau khi Cao biền thực hiện chấn yểm.
2/Chấp nhận có một Long mạch rất lớn xuất phát từ phía Tây của thành Đại la (Các dãy núi thuộc các tỉnh Hòa bình,Sơn la,Lai châu,và gần nhất là dãy núi Tản viên );Long mạch này đi qua thành Đại la,cụ thể theo dọc sông Tô lịch,qua khu vực Hồ Tây,kéo dài sang Cổ loa -Đông anh - HÀ NỘI;Long mạch này còn kéo dài tới dãy Yên tử và theo hướng Đông Bắc tới tận Quảng ninh.Đây chỉ là nhánh Thanh long của Đồng bằng Bắc bộ.Nhánh Bạch hổ khi có điều kiên tôi xin chứng minh tiếp.
3/Cao biền đã thực hiện biện pháp chấn yểm Long mạch,nhằm bế dòng khí của Long mạch này.Thủ thuật chấn yểm tương tự như thuật điểm huyệt trong đông y học.
( http://vn.myblog.yahoo.com/dienbatn/article?mid=184" target="_blank ) .
3/Bài tham khảo thứ ba :
Nghi án phong thủy: Trụ đồng Mã Viện
Thiên Ðức
Hằng nằm cứ vào ngày 6/2 âm lịch lể kỷ niệm hai bà Trưng được cử hành tại nhiều nơi có người Việt sinh sống. Ðây là một sinh hoạt có tính lịch sử truyền thống.
Vào năm 40 sau công nguyên (scn), Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị quê ở Mê Linh đã dựng cờ khởi nghĩa, trước là trả thù cho chồng sau là đánh đuổi quân xâm lược, Hai Bà đã lấy được 65 thành trì và sau đó là xưng vương họ Trưng.
Năm 42 scn Mã Viện theo đường biển xua quân đánh trở lại. Trước thế giặc mạnh, quân hai bà chống cự không nổi, rút lui về Cẩm Khê và tan hàng từ đó.
Sau khi xâm chiếm đất Giao Chỉ Mã Viện cho thực hiện hai công trình là: Dựng trụ đồng Mã Viện tại động Cổ Sâm, châu Khâm và xây thành Kiên Giang hình tổ kén ở Phong Khê.
Trang lịch sử này đã gây nhiều tranh cãi về nhiều vấn đề như là:
- Nguyên do khởi nghĩa của Hai Bà vì thù chồng hay vì nợ nước?
- Hai Bà lập nên chế độ mẫu hệ đầu tiên ở Việt Nam chăng?
- Ngày lễ kỷ niệm của Hai Bà cũng có sự khác biệt? Ngày 6/2 hay 6/3 Âm lịch?
- Nguyên do cái chết của Hai Bà là nhảy sông tự tử hay bị chém đem đầu về Trung Quốc?
Cho dù có đặt nghi vấn như thế nào chăng nữa chúng ta cũng phải thừa nhận một điều là Bà Trưng là vị nữ vua đầu tiên tại Việt Nam, một vị vua thành tựu do công sức và tài trí trực tiếp đánh quân xâm lược. Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa do lòng yêu nước chân chính của mình, xuất thân từ giai cấp quí tộc, chứ không phải từ quan niệm đấu tranh giai cấp như nhà sử học xã hội chủ nghĩa lý giải.
Hai bà Trưng đã tạo dựng nên truyền thống vẻ vang nữ anh hùng dân tộc trong lịch sử Việt Nam.
Ðền thờ Hai Bà Trưng tại xã Hát Môn, Sơn Tây đang trong giai đoạn trùng tu
Nguồn: Thiên Ðức 8/2005
Một câu hỏi đặt ra là: tại sao trong suốt gần 2.000 năm kế tiếp dân tộc ta vẫn không xuất hiện được một vị nữ anh hùng thứ hai có tầm cỡ Bà Trưng cho dù lịch sử Việt Nam là lịch sử của chiến tranh chống ngoại xâm từ đó cho đến nay? Phải chăng người phụ nữ Việt Nam yếu hèn? Hay là có sự cản trở bởi một huyền lực nào đó xuất phát từ thời gian sau khi Hai Bà Trưng thua trận, đất nước rơi vào sự đô hộ của người Hán, mà lịch sử chưa làm sáng tỏ chăng?
Thật vậy nghi vấn đó phát xuất từ hai hành vi cụ thể đầy bí ẩn của Mã Viện sau khi xâm chiếm đất nước ta chưa được lý giải rõ ràng.
Theo Khâm Ðịnh Việt Sử Thương Giám Cương Mục (KDVSTGCM), trang 24-25 ghi:
“Trưng vương cùng em gái là Nhị cự chiến với quân Hán, quân vỡ, thế cô, đều bị thất trận chết. Mã Viện đuổi đánh tàn quân của hai bà là bọn Ðô Dương đến huyện Cư Phong thì hàng phục được họ. Mã Viện lập cột đồng để ghi địa giới tận cùng của Nhà Hán…”.
Sách Thủy Kinh Chú của Lịch Ðạo Nguyên chép rằng: Mã Văn Uyên (tức Mã Viện) dựng cái mốc đồng để làm giới hạn cuối cùng của đất phía nam Trung Quốc...
Sách Nhất Thống Chí nhà Ðại Thanh có chép:
Tương truyền cột đồng ở về động Cổ Sâm châu Khâm, Mã viện có thề rằng: “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”, nghĩa là “Cột đồng ấy gãy thì Giao Chỉ bị diệt”, nên người Việt đi qua dưới chân cột đồng ấy cứ lấy đá bồi đắp lên mãi thành gò đống cao. Ðó vì sợ cột đồng ấy bị đổ gãy.
Mã Viện nhà Hán đắp thành Kiển Giang.
Vì thấy huyện Tây Vu có đến ba vạn ba nghìn hộ, Mã Viện xin chia ra làm hai huyện Phong Khê và Vọng Hải. Vua Hán y cho Mã Viện lại lập hành quách, đặt tỉnh ấp (xóm làng), đắp thành Kiển Giang ở Phong Khê. Thành này hình tròn như cái Tổ kén. Nên gọi là thành Kiển giang. Ba năm sau Mã Viện về nước. (viethoc.org)
A- Trụ Ðồng Mã Viện .
Trải qua một thời gian dài bị đô hộ dưới thời Hán thuộc, trụ đồng Mã Viện đã hoàn toàn mất hết dấu tích nhưng vẫn còn để lại nhiều nghi vấn lịch sử như sau:
I - Sự thật của trụ đồng .
Trụ đồng Mã Viện là một câu chuyện có thật, đã được ghi vào sử liệu của cả hai nước Trung Hoa và Việt Nam. Ðây không phải là một huyền thoại hay là hư cấu.
Vào đời vua Trần Thánh Tôn, Ngài đã cho người đi tìm lại dấu tích cột đồng nhưng không thấy.
“Tháng 4 mùa hạ (1272,) sai viên ngoại lang là Lê Kính Phu sang hội với người nhà Nguyên biện luận việc cương giới. Nhà Nguyên sai Ngột Lương sang hỏi giới mốc đồng trụ ngày trước, nhà vua phái Lê Kính Phu đi hội đồng khám xét. Kính Phu nói với Nhà Nguyên rằng: “Chỗ cột đồng do Mã Viện dựng lên lâu ngày bị chìm lấp, nay không thể biết ở chỗ nào được”. Việc đó sau cũng thôi... ( KDVSTGCM, Quyển VII tr. 219)
“Tháng 8 mùa thu (1345) Sai sứ sang nhà Nguyên. Nhà Nguyên sai Vương Sĩ Hành sang hỏi địa giới cột đồng ngày trước. Nhà vua sai Phạm Sư Mạnh sang Nguyên biện bạch sự việc này” (KDVSTGCM, Quyển IX Tr.279).
II - Vị trí của trụ đồng .
Ða số sử liệu đã thống nhất vị trí của trụ đồng như sau:
- Sách Nhất Thống Chí nhà Ðại Thanh chép: Cột đồng ở về động Cổ Sâm, châu Khâm.
- Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư Ngoại Ký của Lê Văn Hưu Quyển III Tr. 22 ghi: Mã Viện bèn dựng cột đồng làm giới hạn cuối cùng của nhà Hán. Cột đồng tương truyền ở trên động cổ Lâu, châu Khâm.
Tóm lại theo sử liệu trên có thể kết luận là trụ đồng nằm ở vùng Châu Khâm tại động Cổ Sâm hay Cổ Lâu thuộc vùng biên giới cực bắc Giao Chỉ cũng là cực nam nhà Hán.
Một vấn đề cần được sáng tỏ nữa là: châu Khâm là huyện biên giới giữa Giao Chỉ và Nam Hán hiện nay nằm ở đâu?
Theo tài liệu nghiên cứu mới nhất của bác sỹ Trần Ðại Sỹ, Giám đốc Trung Quốc sự vụ, viện Pháp Á “Thử tìm lại biên giới cổ của Việt Nam bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống DNA”(1) (vietnamsante.com), thì:
Sau khi dẫn chứng lịch sử thời hai bà Trưng, di tích, cổ vật, cùng kết quả thử nghiệm DNA đã kết luận rằng: Biên giới cổ của nước Việt Nam với các triều đại Hồng Bàng, Âu Lạc, Lĩnh Nam phía Bắc quả tới hồ Ðộng đình, phía Tây giáp Tứ Xuyên.
Sự phát hiện này có thể xác quyết một điều là vị trí trụ đồng nằm ở biên giới phía Bắc Việt Nam qua thời gian đô hộ đã bị Trung Quốc lấn chiếm và vùng đất động Cổ Sâm (Cổ Lâu) hiện nằm sâu trong lãnh địa Trung Quốc hiện nay.
III - Ý nghĩa câu “Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt”
Trong hầu hết cổ sử Trung Quốc và sử Việt ghi chép lại, giải thích câu này chỉ là một lời thề. Ðiểm này có nhiều nghịch lý.
1. Ðây không thể là một lời thề. Thật vậy, Mã Viện là người đi chinh phục và vui mừng thắng trận, nên không có động cơ nào để tạo ra một lời thề ghi trên trụ đồng. Vì vậy sách sử gọi đây là lời thề là không đúng sự thật.
2. Ý nghĩa câu chữ “Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt” ngầm ý hăm dọa cũng như gây hận thù với dân tộc Giao Chỉ rất là phi chính trị. Theo sử sách cho biết Mã Viện là một danh tướng văn võ song toàn giỏi quân sự lẫn chính trị, có thể nào ngây ngô đưa ra một lời thề phi chính trị như trên hay không? Tất nhiên là không, vì thế Mã Viện cố tình ghi khắc câu này tất phải có mưu đồ sâu độc nào đó đối với đất nước Giao Chỉ vậy.
3. Ða số sách sử Trung Hoa cũng như Việt Nam đều giải thích câu: “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là trụ đồng gãy thì dân Giao chỉ bị giết. Chữ Chiết mà dịch là gãy đúng với ngôn ngữ, thế nhưng trong trường hợp này có điều không ổn. Vì rằng một cột trụ đồng kim loại, đặc ruột dựng giữa thiên nhiên thì làm sao có thể gãy được? nếu so với một cây cau, một cây dừa thân mộc, cao, tán cây rộng lung lay trước gió bão còn có thể đứng vững. Thì đây là một nghịch lý.
Do vậy sự dịch thuật câu chữ này hoàn toàn sai lầm một cách cố tình nhằm che dấu một bí mật lịch sử mà người viết sẽ phân tích ở phần sau.
IV- Công dụng của trụ đồng .
Hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi và cũng chưa có lời đáp thích hợp.
1) Theo sử gia Phạm Văn Sơn chuyện cột đồng Mã Viện thiết tưởng không đáng tin lắm chỉ nên coi là một giai thoại không hơn không kém... Nếu coi cột đồng Mã Viện là một mỹ đàm thì chép vào sử để làm một câu chuyện kể chơi cho có thú vị thiết tưởng không hại gì. (Việt sử Tân Biên, tr.199). Ðây chỉ là lối nói huề vốn khi không lý giải được những nghịch lý của câu chuyện trụ đồng, do vậy không đáng tin cậy. Viết lịch sử của một dân tộc cần sự nghiêm túc chứ không phải là chuyện mỹ đàm, kể chơi cho vui.
2) Theo tác giả Trương Thái Du trong bài “Một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử Việt Nam (Talawas - lịch sử).
Cột đồng Mã Viện dựng năm 43 ở quận Giao Chỉ và Tây Ðồ Di cũng chính là đài quan trắc thiên văn... Trong công tác thiên văn thời Mã Viện, để xác định những vùng đất mới, cần phải tiến hành quan trắc các chỉ số năm này qua năm khác. Cột thiên văn chuẩn phải vừa tránh được thời tiết xâm hại, vừa bền vững nên chất liệu đồng đã được chọn. Muốn đo đầy đủ thì phải cử người ở lại làm việc, ít nhất là hằng năm tập hợp số liệu đem về kinh đô. Chuyện dân gian Việt Nam kể rằng Mã Viện từng dựng cột đồng ở Bắc Việt lại càng khẳng định đây là cột thiên văn chứ không phải mốc giới. Chẳng ai đem mốc giới để giữa nơi đô hội, để mỗi người đi qua ném một hòn đá vào đấy mong cột đừng đổ. Câu “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” của Mã Viện ngầm bảo phải coi sóc “đài thiên văn” bỏ túi kia cẩn thận. Cơ sự là thế! Con toán thiên văn nhỏ của tôi ở tiểu mục 1 là minh họa suốt bài viết này.
Giả thiết này khó thuyết phục bởi những nghịch lý sau: Một cột đồng đặc ruột thuần túy trồng giữa trời mưa nắng không thể gọi là một đài (?) thiên văn được. Theo người viết hiểu ý của tác giả là trụ đồng Mã Viện được sử dụng như là một cái cột chuẩn để đo lường sự di chuyển của bóng mặt trời, mặt trăng... Nếu chỉ với công dụng như vậy thì chẳng cần phải dùng cột đồng làm gì cho năng nhọc, thực hiện khó khăn (từ việc gom đồng, đúc cột, điêu khắc, di chuyển, dựng cột...), rất tốn kém tiền bạc, công sức và thời gian. Ngoài ra còn viện lý do khỏi bị thời tiết xâm hại lại không chuẩn.
Vì rằng cột đồng to và cao đủ để đo bóng mặt trời thì rất nặng hàng tấn tạo sức ép trên một tiết diện nhỏ thì với thời tiết mưa lụt khí hậu ẩm thấp, đất ướt, mềm nở ra rất dễ bị lún, hay đổ ngã nguy hiểm. Với độ lún hằng năm của trụ đồng, thì độ đo đạc lại càng thiếu chính xác, sẽ làm giảm mất giá trị công dụng nói ở trên. Với trụ gỗ tốt vừa nhẹ, bền, dễ kiếm, dễ bảo quản, dễ thay thế, lại đạt yêu cầu trên có lẽ hợp lý hơn cột đồng.
Với uy danh của một tướng lãnh thống trị đương thời chắc chắn có rất nhiều cách để bảo quản trụ đồng cần gì phải ngầm bảo dân bị trị phải coi sóc “đài thiên văn” bỏ túi kia cẩn thận bằng câu “Ðồng trụ chiết, Giao chỉ diệt” vừa vô chính trị đối với một vị tướng văn võ toàn tài, vừa mất tư cách đạo đức của một kẻ đi thống trị. Với toán công tác thường trực ghi số liệu báo cáo hằng năm không đủ sức bảo quản trụ khí tượng hay sao, mà cần phải ngầm bảo dân bị trị coi sóc?
3) Theo cổ sử, cột đồng chỉ là cột mốc biên giới mà thôi. Lối giải thích này cũng không thỏa đáng. Nếu là cột mốc biên giới tại sao không ghi những thông tin cần có của vùng biên giới mà lại ghi câu: “Trụ đồng chiết , Giao Chỉ diệt” trên cột đồng?
Thứ nữa là cột mốc biên giới tại sao không đặt tại những con đường đi giữa ranh giới của hai nước, mà lại đặt tại một hang động trong vùng hẻo lánh?
B - KIỂN THÀNH.
Là công trình cụ thể thứ hai của Mã Viện đã hoàn thành trước khi về nước. Theo sách sử giải thích thành Kiển Giang có hình tổ kén của con tằm, như vậy nó có hình tròn và dài túm hai đầu, chứ không đơn giản là hình tròn ghi trong sử liệu, đã đem lại nhiều ngộ nhận cho người đọc sử.
Hình dáng của Kiển Thành cũng đem là nhiều nghi vấn. Thật vậy đây là loại thành quách quân sự rất hiếm thấy trong sử sách, là loại hình dài và gầy hẹp có rất nhiều nhược điểm như sau:
- Dễ bị tàn phá bởi thời tiết gió bão, thật vậy một trường thành dài và ốm sẽ hứng chịu nhiều sức tàn phá của gió bão hơn là một bức thành ngắn, tròn hay vuông và rộng.
- Mục đích xây thành cho dân ở vì dân số đông mà lại xây thành hình ốm và đài là không kinh tế và khó có thể thỏa mãn đầy đủ nhu cầu phát triển cư dân về lâu dài.
- Về mặt quân sự một trường thành dài rất khó trấn thủ vì tốn kém nhiều nhân lực canh gác, và khó tiếp ứng từ đầu này đến đầu khác.
Vì thế câu hỏi đặt ra là tại sao không xây thành hình vuông, đa giác lồi hay hình tròn bình thường như những thành quách khác mà lại xây thành hình cái kén? Ẩn ý của kiến trúc này là gì vẫn chưa được giải đáp trong sử sách.
Tóm lại, những nghịch lý trên của lịch sử đã trải qua gần 2.000 năm vẫn chưa được lý giải minh bạch dưới nhãn quang của các nhà sử học hay nhà khảo cổ. Thế nhưng, nếu nhìn sự việc trên đây bằng nhãn quang của một nhà phong thủy thì tất cả mọi nghi vấn trên đều được giải đáp thỏa đáng.
Thật vậy đây là một trận đồ phong thủy mà Mã Viện bày ra nhằm hãm hại đất nước Giao Chỉ. Hai Bà Trưng đối với Việt Nam là những anh hùng dân tộc, thế nhưng theo quan niệm của triều đình Hán hai bà Trưng chỉ là yêu tặc.
Theo An Nam Chí Lược (trang 40) do tác giả Lê Tắc là người Việt Nam, chạy qua sống ở Trung Hoa và viết sử theo quan niệm của Trung Hoa như sau:
Năm Kiến Võ thứ 16 của Hán Quang Vũ Ðế (sau công nguyên 40), người đàn bà Giao Chỉ là Trưng Trắc làm phản, quận Cửu Chân và quận Nhật Nam đều hưởng ứng theo. đành các quận ấp, cướp được 60 thành, rồi tự lập làm vua...
Ðến năm Kiến Võ thứ 19 Mã Viện chém yêu tặc là Trưng Nhị (Nhị là em gái của Trưng Trắc) và đánh luôn dư đảng, bọn Ðô Lương, đến huyện Cư Phong, bọn này chịu đầu hàng... (viethoc.org)
Vào thời đại nhà Hán, thuật phong thủy, địa lý rất thịnh hành, tất cả những công trình xây dựng mồ mả, lâu đài đều tuân hành nghiêm túc quy luật địa lý phong thủy.
Ảnh hưởng bởi quan niệm này, Mã Viện sau khi trừ diệt được hai Bà Trưng (?) đã bày một trận đồ phong thủy để diệt tận gốc yêu quái, trừ hậu hoạn, nhằm hãm hại đất nước ta không còn vua nữ giới nữa bằng những hành động như sau:
1- Mã Viện cho dựng một trụ đồng tại động Cổ Sâm hay Cổ Lâu, nghi vấn đặt ra là tại sao không đặt nơi đồng bằng trống trải dễ thấy hay tại những con đường đi lại giữa hai nước như là cột mốc bình thường mà lại đặt tại một hang động? Chỉ có thể trả lời là động Cổ Sâm chính là huyệt hàm rồng kết phát làm vua của đất Giao Chỉ nên Mã Viện muốn phá hủy để đất nước không còn vua nữa, dễ bề cai trị.
Nếu tự nhiên Mã Viện cho đào sâu xuống để chôn hoàn toàn một trụ đồng mà không có lý do chính đáng thì mọi người sẽ nghi ngờ, và gặp nhiều khó khăn trong thực hiện, vả lại cũng kém hiệu quả về mặt phong thủy. Vì thế mà Mã Viện đã thâm độc, cho dựng đứng trụ đồng không cần phải chôn sâu và ghi khắc câu chữ “Trụ Ðồng chiết, Giao Chỉ diệt” bề ngoài như là hăm dọa, nhưng thực chất là khiêu khích lòng tự ái dân tộc của dân Giao Chỉ, sau đó ngầm hỗ trợ cho người dân mỗi ngày ném gạch đá vào trụ đồng để chôn lấp. Sự việc này có hai tác dụng thứ nhất là giữ cho trụ đồng không bị nghiêng ngả với thời gian, thứ hai trụ đồng nặng hàng tấn tạo một sức ép mạnh trên một tiết diện nhỏ thì dễ dàng từ từ lún sâu vào lòng đất mỗi khi thời tiết mưa ẩm, đất nở và mềm ra. Có như vậy mới che dấu được quỷ kế thâm độc của mình và tác dụng phong thủy lại càng tăng cao.
2- Ý nghĩa thật sự của câu: “Ðồng trụ chiết... Giao Chỉ Diệt”, Ðây là một câu thần phù còn ẩn dấu một hai chữ để che đậy âm mưu phá huyệt phong thủy. Thật vậy chữ Chiết ở đây không có nghĩa là gãy mà có nghĩa là tách làm hai, ví dụ như chiết cành chẳng hạn. Do đó câu trên nên giải thích là “trụ đồng tách huyệt (đế vương) ra làm hai, vua Giao Chỉ bị giết”. Chứ không thể dịch là trụ đồng bị gãy, dân Giao Chỉ bị giết hoàn toàn phi lý. Như vậy câu trên có hai chữ bi ẩn dấu là chữ huyệt và chữ vương.
3- Kiển Thành hình cái kén, nếu chúng ta tách rời hai sự kiện này ra thì sẽ không thấy âm mưu sâu độc của Mã Viện, vì thế người viết, kết hợp cả hai sự kiện này bằng một hình vẽ tượng hình, bạn đọc sẽ thấy rõ ràng hơn:
Hình dáng Kiển Thành, tổ con tằm, Âm, Thủy, tượng hình của người đàn bà, kết hợp với hình dáng trụ đồng Mã Viện, Dương, Hỏa, tượng hình của người đàn ông.
Theo Kinh Dịch lý thuyết Vũ trụ: Thái Cực - Lưỡng Nghi - Tứ Tượng - Bát Quái.
Bùa lưỡng nghi (loại tượng hình)
Nguồn: Thiên Ðức 8/2005
Theo thuật phong thủy, nói về nhà cửa thường sử dụng bùa bát quái để trấn yểm hướng xấu. Trong phạm vi rộng lớn của một đất nước, bùa bát quái không có hiệu lực, vì thế Mã Viện đã sử dụng một loại bùa rất hiếm hoi đề cập trong sách vở đó là loại bùa Lưỡng Nghi tức là bùa Âm Dương có hiệu lực cao hơn bùa bát quái hai bậc theo Kinh Dịch.
Loại bùa này được thực hiện bởi hai công trình: Kiển Thành, Âm thủy và trụ Ðồng Mã Viện, Dương Hỏa.
Ngoài ra, nói theo kiểu dung tục thì Mã Viện đã chơi một trò rất thô bỉ là “Ðóng cọc người đàn bà Giao Chỉ” nhằm triệt tiêu con đường kết phát vương quyền cho nữ giới Việt Nam sau này. Với chứng cứ đê tiện này cũng có thể chứng minh truyền thuyết quân Mã Viện lúc giao chiến với đội quân nữ giới của Hai Bà đã chơi trò đồng loạt “Truồng cởi” làm hổ thẹn nữ binh không phải là không có lý.
Tóm lại câu chuyện trên có thể kết luận như sau:
- Cột đồng Mã Viện là một dụng cụ phong thủy chôn tại động Cổ Sâm nhằm mục đích phá vỡ huyệt kết phát vương quyền của đất Giao Chỉ.
- Câu “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là một câu thần phù hay nói đúng lời là một lời nguyền có hiệu lực cho đến khi được giải mã (?).
- Hình dáng Kiển Thành kết hợp với trụ đồng Mã Viện tạo nên một đạo bùa Lưỡng Nghi nhằm trấn yểm không cho người đàn bà Giao Chỉ (mà thời nhà Hán gọi là yêu nữ) tiếp nối truyền thống anh hùng dân tộc.
Sở dĩ loại bùa chú này có hiệu lực lâu dài bởi hội đủ những điều kiện sau đây:
- Ðặt đúng huyệt vị.
- Ðiều quan trọng nhất không ai có thể hại mình bằng chính mình hại mình. Dựa vào nguyên tắc này Mã Viện đã thâm hiểm khích tướng để cho dân Giao Chỉ ném đá vào trụ đồng để giữ vững cho chôn trụ đồng có thời gian tự lún sâu vào huyệt đạo tạo thêm hiệu lực cho bùa trấn yểm.
- Thời gian hiệu lực của bùa chú càng lâu dài nếu bí mật của nó chưa được tiết lậu, các sử gia Trung Quốc vì quyền lợi Trung Quốc đã che đậy sự việc này và dối trá cho đây chỉ là cột mốc biên giới đơn thuần mà không có giải thích toàn bộ sự kiện. Và theo truyền thuyết bùa ngải, phong thủy, nếu một người mà dùng bùa chú hại người khác nếu được cao nhân cứu giải thì loại bùa chú đó sẽ trở lại tác động với chủ nhân của nó. Vì thế người Trung Quốc rất sợ phản đòn và rất kín miệng về sự việc này.
Ngoài ra để cho đất Giao Chỉ không còn huyệt phát vua chúa nữa, Hán tộc đã âm thầm cướp trắng một phần đất của Giao Chi, trong đó có vùng châu Khâm động Cổ Sâm và xóa tan dấu tích để người dân Việt không còn phương cách truy cứu. Và sự việc này cũng không được ghi chép vào sử sách.
Trong thời đại không gian điện tử hiện nay, nhiều người sẽ đánh giá câu chuyện kể trên thuộc vào loại hoang đường nhảm nhí.
Tin hay không là tùy mỗi người, nhưng với chứng cứ và lý luận khó có thể phản biện như trên, trong tư cách là một người nghiên cứu phong thủy lâu năm, người viết trân trọng bố cáo:
Trước trời đất và mọi người chứng giám rằng:
Những âm mưu đê tiện của Mã Viện người Trung Quốc đã dùng thủ thuật phong thủy để ám hại dân tộc Giao Chỉ, nay đã được phơi bày ra ánh sáng.
Phải chấm dứt ngay mọi uy lực của lời nguyền và trao trả hiệu quả thảm hại lại cho cố chủ.
CÒN TIẾP...
Loạt bài khảo cứu Lịch sử của dienbatn .
"Thiếu gì những kẻ muốn xâm lăng,
Vũ khí hung tàn có thể ngăn.
Chỉ sợ Tâm Linh bày cuộc chiến,
Còn hơn là Ðịa chấn- Sơn băng.
Như Hải tinh trong Quốc bảo mình,
Ðời nào cũng có bậc anh minh.
Mỗi khi sông núi vang lời gọi,
Là có Rồng thiêng biến hữu hình ".
Thơ của một ẩn sĩ .
Lời nói đầu : Chuẩn bị kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội , dân tộc Việt Nam ta đã trải qua một chặng đường rất dài đầy đau thương nhưng vô cùng oanh liệt trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để bảo vệ và xây dựng Đất nước . Trong cuộc chiến ngàn năm đó , cuộc chiến về Tâm linh cũng cực kỳ quan trọng , nhiều khi mang tính chất sống còn . Rất nhiều tài liệu đã viết về vấn đề này , dienbatn chỉ xin hệ thống lại để chúng ta có thể nhận thấy tính chất quan trọng của cuộc chiến Tâm linh này . Thân ái . dienbatn .
1/Bài tham khảo thứ nhất :
NHẬN DIỆN CAO BIỀN .
Tạp chí Xưa & Nay, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, số 339, tháng 9-2009
Đỗ Thiếu Khang
Kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long, chúng ta cũng nên biết về một nhân vật có nhiều quan hệ với đất La Thành của ngàn năm trước. Đó là quan “toàn quyền” Cao Biền, một thầy “phù thuỷ” chính hiệu ở tầm cao “chót vót”, một thầy địa lý “siêu hạng”! Bóng dáng ông dường như vẫn còn lởn vởn trong tâm lý dân gian hễ gặp dịp là lại bùng lên: nơi này có “trấn yểm”, nơi kia có “lời phán” của Cao Biền… Chuyện đâu xa, đền Quán Đôi (Hà Nội) từ lâu vốn vắng khách, năm 2006 nhờ vụ “cọc gỗ lim trấn yểm” dưới lòng sông Tô Lịch của Cao Biền, đền bỗng trở nên nhộn nhịp.
Dấu ấn của Cao Biền ở Giao Châu .
Cao Biền (821-887) người Bột Hải, sau ngụ ở U Châu (ngoại thành Bắc Kinh ngày nay). Cha là Cao Nguyên, ông nội là Cao Sùng Văn (một danh tướng chỉ huy cấm quân dưới thời Đường Hiến Tông – Lý Thuần). Trong thời kỳ Bắc thuộc lần thứ III, ông được Đường Hy Tông – Lý Huyền phong cho làm Tĩnh Hải Quân Tiết Độ Sứ, cai quản cả Giao Châu và Quảng Châu từ năm Hàm Thông thứ bảy (866) đến năm Càn Phù thứ hai (875).
Đánh lui quân Nam Chiếu .
Nam Chiếu là vương quốc của người Bạch và người Di (nằm trong khu vực tỉnh Vân Nam ngày nay) đã phát triển rực rỡ ở Đông Nam Á trong các thế kỷ VII và thể kỷ IX sau Công nguyên.
Người Bạch là cư dân nông nghiệp trong các vùng đất màu mỡ xung quanh hồ Nhị Hải. Mỗi bộ lạc của người Bạch là một tiểu Vương quốc, được gọi là chiếu; tất cả có 6 chiếu: Mông Huề, Việt Thác, Lãng Khung, Đằng Đạm, Thi Lãng và Mông Xá; trong 6 chiếu đó Mông Xá ở về phía Nam. Vì thế năm 737 khi vua của chiếu Mông Xá là Bì La Cáp lần lượt thống nhất các chiếu kia thành lập một vương quốc mới thì đặt tên là Nam Chiếu.
Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim chép:
“Trong khoảng năm Khai Nguyên (713-742) đời vua Huyền Tông nhà Đường, Nam Chiếu là Bì La Cáp cường thịnh lên, mà 5 chiếu kia suy hèn đi. Bì La Cáp mới đút lót cho quan Tiết Độ Sứ đạo Kiếm Nam là Vương Dục để xin hợp cả 6 chiếu lại làm một. Triều đình nhà Đường thuận cho, và đặt tên là Qui Nghĩa. Từ đó Nam Chiếu càng ngày càng thịnh lên, đem quân đi đánh Thổ Phồn… Bấy giờ Nam Chiếu đã mạnh lắm, bèn xưng đế và đặt quốc hiệu là Đại Mông Quốc rồi lại đổi lại là Đại Lễ…”
Nam Chiếu phát triển và bành trướng rất nhanh, đầu tiên vào Miến Điện, sau đó là toàn bộ Vân Nam, xuống Lào, vào Thái Lan, rồi ngược về phía bắc tới Tứ Xuyên (Trung Quốc). Năm 764, Nam Chiếu thiết lập kinh đô thứ hai tại Côn Minh (Trung Quốc). Năm Kỷ Dậu (829), quân Nam Chiếu chiếm đóng Thành Đô (Trung Quốc).
Năm 865 (Ất Dậu), Cao Biền được Đường Ý Tông cử làm đại tướng cùng giám quận Lý Duy Chu đem quân sang đóng ở Hải Môn để dẹp quân Nam Chiếu.
Đại Việt sử ký toàn thư chép:
“Năm Bính Tuất – 866 (Đường Hàm Thông, thứ 7). Mùa hạ, tháng 4, Nam Chiếu sai Trương Tập giúp Tù Thiên đánh Giao Châu, cho Phạm Nật Ta làm Đô Thống Giao Châu, Giám trận nhà Đường là Trần Sắc sai Vi Trọng Tể đem hơn 7.000 quân đến Phong Châu. Biền được thêm quân, tiến đánh Nam Chiếu, nhiều lần đánh tan được. Tháng ấy, Biền đánh tan quân Nam Chiếu, giết và bắt sống rất nhiều. Nam Chiếu thu quân còn sống sót chạy vào Châu thành cố giữ. Mùa đông, tháng 10, Cao Biền vây Châu Thành hơn 10 ngày, người Man rất khốn quẫn. Biền đến nơi đốc thúc, khích lệ tướng sĩ, lấy được thành, giết Tù Thiên và Chu Cổ Đạo là người thổ man dẫn đường cho quân Nam Chiếu, chém hơn 30.000 đầu. Quân Nam Chiếu trốn đi, Biền lại phá được hai động thổ man đã theo Nam Chiếu, giết tù trưởng. Người thổ man rủ nhau quy phục đến 17.000 người ”.
Từ đó nhà Đường đổi Giao Châu thành Tĩnh Hải Quân Tiết Trấn và để Cao Biền ở lại làm Tiết Độ Sứ.
Đắp thành Đại La (Hà Nội ngày nay).
Thành này ban đầu do Trương Bá Nghi đắp từ năm Đại Lịch thứ 2 (767) đời Đường Đại Tông – Lý Dự; năm 791 Triệu Xương đắp thêm; năm 808 Lý Nguyên Gia dời phủ trị tới bên sông Tô Lịch, đắp một cái thành nhỏ gọi là La Thành. Năm Hàm Thông thứ 6 (866) đời Đường Ý Tông – Lý Thôi, Cao Biền đắp lại có quy mô to lớn hơn gọi là Đại La:
“Thành có chu vi 1.982,5 trượng (H”6,6km), cao 2,6 trượng (H”8,67m), chân thành rộng 2,5 trượng (H”8,33m), nữ tường (bức tường nhỏ đắp trên tường thành lớn) 4 mặt cao 5,5 thước (H”1,83m), với 55 lầu vọng dịch, 6 nơi úng môn (thứ thành đắp vòng ngoài cửa thành), 3 hào nước, 34 đường đi. Cao Biền còn cho đắp đê vòng quanh ngoài thành dài 2.125,8 trượng (H”7,09km), đê cao 1,5 trượng (H”5,00m), chân đê rộng 2 trượng (H”6,66m).”
Dùng “thần quyền” và “tâm linh” nhằm diệt ý chí giành độc lập của dân ta.
Vốn là một tông đồ tầm cỡ của Đạo giáo, khi cai trị Giao Châu, trước ý chí quật cường của người Việt, bên cạnh việc dùng sức mạnh quân đội cùng hệ thống cai trị vô cùng ngặt nghèo, Cao Biền còn lợi dụng “thần quyền”, lợi dụng “tâm linh”, dựng lên những truyện thần kỳ nhằm diệt ý chí giành độc lập của dân ta.
Được thần thánh giúp đỡ.
Khi đắp La Thành, mấy lần bắt đầu đều bị sụt lở, tưởng như công việc không thành. Một đêm, Cao Biền đứng trên vọng lâu nhìn ra, thấy một vị thần cưỡi ngựa trắng chạy đi, chạy lại như bay rồi bảo Cao Biền cứ theo vết chân ngựa chạy mà đắp quả nhiên thành đắp được, sau khi đắp xong Cao Biền cho lập đền thờ vị thần ấy ở ngay nơi hiển hiện, gọi là đền Bạch Mã. Đền thờ này ngày nay vẫn còn ở phố Hàng Buồm, Hà Nội.
Kết nghĩa với anh em với thần thánh.
Ở làng Nam Trì (xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên ngày nay) có miếu thờ Lữ Gia (Thừa tướng thời Triệu Đà – Bắc thuộc lần thứ I) người Nam Trì gọi là Bảo Công và tướng Danh Lang (em kết nghĩa của Lữ Gia) được gọi là Lang Công. Theo Ngọc phả Thần tích do Hàn Lâm Đông Các Đại Học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn năm Nhâm Thân (1572) triều Lê Anh Tông niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất thì:
Một lần qua đây, Cao Biền đã đến miếu tế lễ và cầu khấn rằng: “Nay ta cầm quân đi đánh giặc Nam Chiếu, hai vị thần có anh linh thì âm phù cho ta thắng giặc. Sau khi thành công hẳn được sắc phong cúng tế, hương hỏa muôn đời”
Đêm ấy, Cao Biền chiêm bao thấy hai vị tướng mặc long bào, giáp ngọc long lanh, đội mũ trăm sao. Một vị cưỡi ngựa trắng, cao hơn bảy thước tay cầm siêu đao vàng, một vị cưỡi hổ vàng tay cầm búa việt. Cao Biền hỏi: “Danh tướng ở đâu đến đây?”. Một vị xưng: “Ta vốn là Trung Thiên Bảo Quốc”, vị kia xưng: “Ta là Trung Lang Tế Thế, đều là đại thần của nhà Triệu hồi xưa, nay thấy Ngài đem quân đi đánh giặc, chúng ta xin tòng chinh, âm phù cho Ngài thắng giặc”.
Hôm sau Cao Biền truyền cho phụ lão, dân làng Nam Trì rằng: “Ta với hai vị tướng Thượng Đẳng Linh Thần tại đây như có nhân duyên từ trước. Vừa qua giặc Nam Chiếu xâm phạm An Nam, làm cho nhân dân lầm than khổ cực, ta mang quân đi tiễu trừ giặc cướp. Qua nơi đây biết chắc là Thần linh rất thiêng. Quả nhiên đêm về, hai vị Thượng Đẳng Linh Thần hiện lên xin tòng chinh, âm phù cho quân ta thắng giặc ”.
“Ta với hai vị thần ấy tuy âm dương cách biệt, nhưng đã chung một huyết khí bẩm sinh. Tuy rằng Nam Bắc hai phương nhưng đều chung một Trời một Đất nên từ nay ta cùng hai vị Thần kết nghĩa anh em và muốn hai vị Thần được hưởng cúng tế vạn năm, tiếng thơm lưu truyền bất hủ”.
Có kiếm thần .
Cách chùa Hàm Long (thôn Thái Bảo, xã Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh) về phía nam – tây nam chừng hơn một cây số có núi Con Rùa, một núi nhỏ, dáng mai rùa, chu vi khoảng trên một nghìn mét. Núi Con Rùa có một chỗ sạt về phía Đông, mùa mưa thường rỉ ra nước màu gỉ sắt; cách núi Con Rùa chừng hai cây số về phía đông – đông nam là thôn Phương Lưu, cư dân quần tụ trên một đảo gò đất có dáng đầu rùa, người ta truyền tụng rằng “rùa bị kiếm thần của Cao Biền chém đứt đầu, đến nay máu vẫn chảy, đầu rùa bị văng ra đến tận thôn Phương Lưu”!
Có phép “tản đậu thành binh”.
Ở núi Chè (Trà Sơn) Bắc Ninh, về phía làng Móng (xã Hoàn Sơn) cách đường số 1 mới chừng 1 km còn có nơi “quân Cao Biền dậy non”. Vì khi ra trận, ngoài quân lính bằng xương bằng thịt, Cao Biền còn dùng “âm binh” (lính từ cõi âm). Khi cần kíp ông ta chỉ rắc hạt đậu xuống đất, lấp cho kín (như kiểu ủ giá đỗ) rồi đọc mấy câu thần chú… Khi mở ra, mỗi hạt đậu hóa thành một người lính xung trận được ngay! Đó gọi là phép “tản đậu thành binh”. Mỗi hạt đậu, mỗi người lính; quân Cao Biền không những nhiều mà còn có một sức mạnh ma quái! (Có lẽ núi Chè xưa là nơi tuyển, luyện quân của Cao Biền).
Cưỡi diều giấy đi trấn yểm ở nhiều nơi .
Trong cuốn Việt Nam sử lược tác giả Trần Trọng Kim viết: “Sử chép, Cao Biền khi làm Thái thú ở quận Giao Châu nổi danh với tài phong thủy, thấy nước ta lắm huyệt đế vương, đã “cưỡi diều giấy đi trấn yểm khắp đó đây, làm hại mất nhiều long mạch””
Những truyền thuyết loại ấy tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng Bắc bộ. Tất cả đều nhằm nêu bật sức mạnh ghê gớm của quan Thái thú phương Bắc. Nó thể hiện uy danh rất lớn của Cao Biền, không chỉ lúc ông đang còn cai trị tại Giao Châu mà cả khi vua Đường điều chuyển ông đi nhậm chức ở Tây Xuyên hay khi ông đã tan thành cát bụi nhưng vẫn như còn hiển hiện đâu đó trên đất này! Dám chắc những truyền thuyết ấy có bàn tay dàn dựng của Cao Biền nhưng đến mức nào và ở đâu? Không có dữ liệu lịch sử nào để xác định.
Những truyền thuyết nhằm bài bác lại .
Dân ta dường như hiểu được thâm ý của Cao Biền nên đã dựng lên những câu chuyện dân gian nhằm hạ uy thế và bài bác lại:
Sơn thánh Tản Viên .
Theo truyền thuyết khi sang Giao Châu, Cao Biền thấy long mạch rất vượng, nên muốn phá đi, thường mặc áo phù thủy, cưỡi diều giấy đi khắp nơi để xem địa thế, hoặc giả tảng lập đàn cúng tế để lừa Thần bản địa đến rồi dùng kiếm báu chém đầu, chém xong đào hào, chôn kim khí để triệt long mạch. Cao Biền có lần đến núi Tản Viên, định dùng chước này, nhưng Tản Viên Sơn Thánh biết được liền mắng Cao Biền rồi đi.
Đắp thành Đại La .
Một hôm, Cao Biền ra chơi ngoài cửa đông của thành, chợt thấy trong chỗ mây mù tối tăm, có bóng người kỳ dị, mặc áo hoa, cưỡi rồng đỏ, tay cầm thẻ bài màu vàng, bay lượn mãi theo mây. Cao Biền kinh sợ, định lấy bùa để trấn yểm. Bỗng đêm hôm ấy thấy thần báo mộng rằng:
Ta là tinh anh ở Long Đỗ, nghe tin ông đắp thành nên đến để hội ngộ, việc gì mà phải trấn yểm?
Cao Biền lấy làm kỳ lạ, bèn lấy vàng, đồng và bùa chôn xuống để trấn yểm. Ngay đêm hôm đó mưa gió sấm sét nổi lên dữ dội, sáng ra xem, thấy vàng, đồng và bùa trấn yểm đều đã tan thành cát bụi. Cao Biền sợ hãi, bèn lập đền thờ ở ngay chỗ ấy và phong cho thần là thần Long Đỗ.
(Về thần Long Đỗ, có một dị bản nói rằng: khi vua Lý Thái Tổ dời kinh đô về Thăng Long, nhà vua sai đắp lại thành, nhưng hễ thành đắp xong lại lở, bèn sai người đến cầu đảo thần Long Đỗ. Chợt người cầu đảo thấy có con ngựa trắng từ trong đền đi ra, dạo quanh thành một vòng, đi tới đâu, để vết chân rõ ràng tại đó và cuối cùng vào đền rồi biến mất. Sau nhà vua cứ theo vết chân ngựa mà đắp thành thì thành không lở nữa, bèn nhân đó, phong thần Long Đỗ làm Thành Hoàng của Thăng Long)
Chúng tôi cho rằng sự kiện đắp thành Đại La đã có trước thời vua Lý Thái Tổ hơn một trăm năm nên truyền thuyết về thần Long Đỗ gắn với việc xây thành Đại La của Cao Biền là hợp lý hơn. Vả lại ngay trong Thiên đô chiếu của vua Lý Thái Tổ cũng có câu: Huống Cao Vương cố đô Đại La thành (Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương) để thuyết phục quần thần.
“Cao Biền dậy non”
Như trên đã nói, Cao Biền có phép thuật “tản đậu thành binh”. Có lần Cao Biền đọc thần chú ”còn thiếu mấy câu” (hay mấy chữ gì đó), mỗi hạt đậu đã nở thành một âm binh nhưng đều còn non, đứng lên không vững, lẩy ba lẩy bẩy! Vì thế mỗi khi thấy người nào yếu sức, chân tay run rẩy, người ta sử dụng thành ngữ: “lẩy bẩy như quân Cao Biền dậy non”
Cũng là truyện “tản đậu thành binh”, nhưng có cách kể khác: Cao Biền sang nước Nam với mục đích yểm bùa và triệt phá long mạch, ông ta nuôi 100 âm binh phục vụ mục đích này. Muốn nuôi được 100 âm binh, Cao Biền nhờ một bà hàng nước mỗi ngày thắp một nén hương để gọi dậy một âm binh, khi thắp đủ 100 nén hương trong vòng 100 ngày sẽ gọi dậy đủ 100 âm binh. Nhưng bà lão đã phá âm mưu của Cao Biền bằng cách thắp một lúc cả 100 nén hương trong vòng 1 ngày. Quả nhiên, âm binh của Cao Biền dậy đủ 100 nhưng vì “dậy non” nên không có tác dụng gì.
Truyện “tản đậu thành binh” còn có một cách kể khác nữa, cách kể này đậm chất thôn dã, mang dáng vẻ “hài hước” khiến người kể và người nghe cùng thích thú: “Cao Biền có tham vọng làm Hoàng đế Trung Hoa: Ông ta xây dựng một lực lượng quân đội mạnh bằng cách “ủ giá đỗ thành quân”! Buồn cho ông! Bà vợ thấy ông cứ thì thà thì thụt, giấu giấu giếm giếm; sốt ruột quá, nhân lúc ông “bận công vụ” lén mở ra xem… Thế là cả một đội quân hàng ức, vạn tên lính của Cao Biền hùng dũng bước ra… Nhưng vì “dậy non” nên chỉ một lát sau chúng lăn đùng ra chết sạch!”
CHÚ THÍCH:
Sách Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên viết rằng: “Các vua đời sau cũng theo đó mà phong tới Bạch Mã Quảng Lợi Tối linh Thượng đẳng thần”. Các nhà nghiên cứu ở Viện Hán Nôm dựa vào sách Trấn Vũ quán lục, thấy rằng “Long Độ” vốn là tên đất Long Biên vào cuối đời Hùng Vương, Sĩ Nhiếp khi làm Thái Thú Giao Châu, được phong tước “Long Độ linh hầu”. Vậy Long Độ là tên gọi gốc, đến đời nhà Trần, do có lệ kiêng húy tên Thái sư Trần Thủ Độ nên mới đổi thành “Long Đỗ”. Cũng như vậy, sang thời Lê, theo sách Bạch Mã thần từ khảo chính, “vì kiêng húy Thái Tổ là Lê Lợi mà đổi chữ “Lợi” trong “Quảng Lợi” thành chữ “Lại” trong “Quảng Lại” *
Những truyền thuyết mạo danh Cao Biền của các nhà phong thuỷ Việt Nam.
Khi Đạo giáo phát triển rộng lan xuống phía Nam, có những tín đồ lợi dụng uy danh của Cao Biền để đề cao Đạo giáo, nhất là đề cao phép thuật và thuật phong thuỷ:
Đá trấn yểm của Cao Biền ở Phù Cát (Bình Định).
Trong quyển Địa dư Bình Định của ông Bùi Văn Lăng viết từ năm 1930 cũng đề cập đến di tích Cao Biền như sau: “Dọc theo đường Quốc lộ số 1 chạy ra đến Phù Cát có đá Cao Biền. Đó là một cái thẻ thời xưa Cao Biền trấn yểm. Thẻ ấy bằng đá và chôn rất sâu. Thuở xưa dân làng đã có nhiều lần thuê voi về nhổ nhưng nhổ không lên”.
Ở Phù Mỹ, đường đi Đề Gi có một cụm núi nhỏ, cách đó không xa, lại có một hòn đá lớn nổi lên rất ngộ nghĩnh. Theo truyền thuyết thì đó là nơi Cao Biền đã dụng phép trấn yểm thuở xưa.
Mả Cao Biền ở Phú Yên.
Đấy là một độn cát nơi chân núi gần biển. Độn cát không lớn lắm, nhưng không bao giờ san bằng được, bốn mùa gió cát lại vun lên. Vì có thuật địa lý giỏi, Cao Biền đã tìm một nơi bốn mùa cát vun thành gò lớn để “trấn yểm” nên dân trong vùng có câu:
Ngó lên núi cả thấy mả Cao Biền.
Thấy đôi chim nhạn đang chuyền nhành mai.
Xin lưu ý rằng khi Cao Biền làm thái thú ở Giao Châu, lãnh thổ thuộc nhà Đường chỉ đến Quảng Nam, chưa đến Quảng Ngãi chứ chưa nói đến tận Phú Yên, vì từ đó trở vào thuộc Vương quốc Chămpa. Vùng đất này từ năm 192 đến năm 605 được gọi là Lâm Ấp, khởi đầu cho giai đoạn lịch sử Chămpa độc lập, trong sử sách Trung Quốc trước năm 859 gọi vương quốc này là Hoàn Vương, sử ta gọi là Chiêm Thành.
Thơ của Cao Biền ở Bắc Ninh.
Bài thơ bằng chữ Hán, “tương truyền” là của Cao Biền viết về thế đất (theo thuyết phong thủy) của ngôi mộ tổ họ Đỗ tại xã An Bình huyện Thuận Thành như sau:
Phiên âm Hán Việt:
Gia Định, Bình Ngô, hình thế bất cô.
Thần Đồng tiền lập, quỷ sứ hậu phù,
Sĩ khôi thiên hạ, danh bá hoàng đô.
Đãn hiềm sơn xạ, khước kỵ thuỷ tù,
Khủng đa phi luỵ, chung hãm phi cô.
Dịch nghĩa:
Đất Gia Định, Bình Ngô, hình thế khéo điểm tô.
Thần đồng đứng trước trực, quỷ sứ đứng sau hầu.
Học đỗ đầu thiên hạ, tiếng lừng lẫy hoàng đô.
Nhưng hiềm có đường phạm, và sợ có nước tù.
Hay tai bay vạ gió, không lỗi mà phải lo
Không dám lạm bàn về lý thuyết phong thuỷ, cũng không có ý định mổ xẻ những luận đoán đúng sai của bài thơ về thế đất của mộ tổ họ Đỗ, càng không có ý định hướng theo câu ca xưa “hòn đất mà biết nói năng, thì thầy địa lý hàm răng chẳng còn”, chúng tôi chỉ muốn tìm lời giải cho câu hỏi: tác giả bài thơ này là Cao Biền hay của một kẻ mạo danh nào khác?
Xin hãy chú ý đến những địa danh “Gia Định, Bình Ngô” trong câu thứ nhất:
Gia Định, Bình Ngô, hình thế bất cô.
Tìm trong sử sách: Xã An Bình (nơi có mộ tổ họ Đỗ) nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, thời các vua Hùng vùng đất này nằm trong bộ lạc Dâu (gần thành Luy Dâu¬(1) xưa); đến thời Bắc thuộc lần thứ II (43-544 sau CN) có tên là Long Ngô Động thuộc đất Gia Định, nằm trong phủ Thuận An; mãi đến năm 1469 thời Lê Thánh Tông, niên hiệu Quang Thuận (1460-1469) mới có tên là “xã Bình Ngô, tổng Bình Ngô, huyện Gia Định, phủ Thuận Thành”. Như vậy những địa danh “Gia Định, Bình Ngô” chỉ có thể xuất hiện sau năm 1469.
Và đây, xóm Ngo Giữa của thôn Bình Ngô hiện cso đến Bình Ngô, một di tích lịch sử cấp quốc gia. Đền thờ Tổ nước (có Hồng Bàng phả), được xây dựng từ năm Vĩnh Tộ thứ 8 (Lê Thần Tông – 1627), qua nhiều lần trùng tu, hiện vật còn lại rất cổ kính, trong đền có hai bức hoành phi “Cổ Long Động” và “Ngô Động Hiển Linh”, ở cổng (tam quan) có 2 đôi câu đối, một câu ở hai bên cổng tả hữu ghi như sau:
Phiên âm Hán Việt:
Long Ngô Động thiên thu hiển hách.
Văn Miếu Bình vạn cổ anh linh.
Dịch nghĩa:
Long Ngô Động nghìn thu rạng rỡ.
Văn miếu An Bình muôn đời chói lọi khí thiêng.
Như ta đã biết, Cao Biền cai trị xứ này từ năm Hàm Thông thứ 7 (866) đến năm Càn Phù thứ 2 (875), tức là vào cuối thế kỷ thứ IX. Bài thơ trên nếu đúng là của Cao Biền thì lúc nhìn thấy mảnh đất Long Ngô Động ông chỉ có thể phán: “… nơi này 600 năm nữa sẽ có tên là Gia Định, Bình Ngô” khi đang “cưỡi trên diều giấy”!
Thật quá hoang đường! Vì tự nhiên luôn luôn biến đổi “bãi bể nương dâu”, “vật đổi sao dời”, “nước chảy đá mòn”… Các nhà phong thuỷ bao giờ cũng đi “thực địa”, có nhìn thấy hiện trạng của thế đất mới đánh giá “tốt”, “xấu”… Có lẽ nào thầy địa lý siêu hạng như Cao Biền lại ấu trĩ đến mức đánh giá một thế đất của 600 năm sau! Vả lại nếu Cao Biền luận đoán tương lai giỏi đến thế thì sao mới rời quận Giao Châu về nước “nhận nhiệm vụ khác” được 12 năm (875-887) đã “bị bộ tướng là Tất Sư Đạc giết”!
Rõ ràng bài thơ này không phải của Cao Biền và cũng chẳng có yếu tố gì mang bóng dáng Cao Biền. Không nghi ngờ gì nữa, bài thơ này chỉ có thể là sản phẩm sau năm 1469 (thế kỷ thứ XV) của các nhà phong thuỷ Việt Nam. Nhưng vì sao phải mạo danh Cao Biền. Phải chăng người ta muốn lợi dụng sự nhẹ dạ cả tin của dân chúng, mỗi khi nghe “các thầy Tàu đã phán” là nhất tề bái phục. Vả lại, một khi ông chúa trùm phong thuỷ của các thầy Tàu là “Cao Biền đã nói” thì … cứ gọi là “chắc như đinh đóng cột”!
Cao Biền, một quan “toàn quyền” năng nổ và thâm hiểm – vượt trên tất cả các Thái thú khác – của phương Bắc. Về cuối đời, Cao Biền càng tin vào phép thuật thần tiên, trọng dụng thuật sĩ là Lã Dụng Chi làm lòng quân ly tán. Năm Trung Hoà thứ 5 (885), Cao Biền tạo phản ở Dương Châu. Năm Quang Khải thứ 3 (887), Đường Hy Tông (Lý Hoàn) cử Tuyên Châu Quan Sát Sứ là Tần Ngạn, trợ chiến với Tất Sư Đạc phá Dương Châu, Cao Biền bị Tần Ngạn và bộ tướng là Tất Sư Đạc giết chết.
Dưới bàn tay một mãnh tướng, một nhà phong thuỷ, một tông đồ của Đạo Giáo, chính sách cai trị nước ta của ông rất hiểm độc: “Dùng sức mạnh, đồng thời lợi dụng thần quyền và tâm linh” hòng khuất phục dân ta. Đáng tiếc có người Việt vô tình đã là tòng phạm trong mưu đồ này.
Những công lao của ông trong việc thực hiện ý đồ bành trướng, bá quyền ở Giao Châu dám chắc được các sử gia phương Bắc đánh giá cao. Thời nay cũng không loại trừ người phương Bắc không lợi dụng tàn dư này để thực hiện mưu đồ vốn rất thâm hiểm của họ.
CHÚ THÍCH:
(1) Thành Luy Dâu xưa, nay là thôn Khương Tự, còn gọi là làng Dâu thuộc địa phận Thanh Khương, Thuận Thành, Bắc Ninh. Hiện còn một phần tường thành, hào nước bao quanh thành (cách tam quan chùa Dâu chừng 300m về phía bắc)
2/Bài tham khảo thứ hai :
Trích tứ bài : HIỆN TƯỢNG TRẤN YỂM TRÊN SÔNG TÔ LỊCH của dienbatn .
" ....Giáo sư Trần Quốc Vượng có kết luận như sau :" Trước đây,cổng Hoàng thành ngoài lính còn có Thần chấn giữ 4 cửa (Thăng long tứ trấn ) và có yểm bùa hay còn làm lễ Hiến sinh .Như vậy đây là cổng thành phía Tây của La thành.Thông qua tính tương đối thống nhất giữa niên đại của Tiền và đa số đồ Gốm: Bát,hòn kê.cho thấy niên đại của địa điểm này trong khoảng thế kỷ 11 cho đến 14,thuộc vào thời Lý -Trần Việt nam hay thời Tống của Trung quốc..
.Sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa hiện tượng sông Tô bị lở do đổi dòng và mắt nhà Vua bị đau ,đã tạo ra một lễ trấn yểm,trong đó có những bộ xương người cùng những hiện vật khác chăng.(Ở đây GS Trần Quốc Vượng muốn nhắc đến sự tích Ông Dầu bà Dầu trong chuyện cổ tích Việt nam -Người viết ).
Ðó là một phần của những gì đã đăng tải trên tờ báo.Gần đây,một người bạn của dienbatn có cho biết :Ðài truyền hình có phát tin người ta đã chuẩn bị khôi phục lại hiên trạng di vật như lúc ban đầu.
Người viết bài này lại có ý kiến khác hẳn,mong các Cao thủ trên Diễn đàn TUVILYSO cùng trao đổi :Theo thiển ý của người viết,đây là một hiện tượng chấn yểm nhằm cắt và bế Long mạch,chận đường của Khí (Khí đây là Khí trong bộ môn Phong thủy -Hoàn toàn không phải là Không khí ).Ai đã chấn yểm vị trí này và mục đích sự chấn yểm này để làm gì ?Theo thiển ý của người viết :Ðây là tác phẩm của Cao biền,Tiết độ sứ của TQ vào thế kỷ 8 -Tức là trước thời nhà Lý khoảng 200 năm.
Người viết xin được chứng minh như sau :Trước hết nói về ý kiến của GS Trần Quốc Vượng;người viết cũng đồng ý rằng đây là một sự chấn yểm sông Tô lịch,song không chỉ căn cứ vào niên đại của một số đồ Gốm nhặt được mà cho rằng sự việc xẩy ra vào thời Lý Trần.Nếu theo Truyền thuyết "Tại sao sông Tô lịch và sông Thiên phù hẹp lại " hay truyền thuyết " sự tích Ông Dầu bà Dầu ",tác giả của sự việc trên là các vị Vua nhà Lý,nhằm trấn yểm sự Báo thù của Ông bà Dầu,thì không có sự việc sông Tô lịch và Thiên phù cứ ngày càng hẹp lại,đến nay chỉ còn là một con sông nhỏ xíu,làm nhiệm vụ thải nước bẩn cho Hà nội.Ta nhớ rằng theo sử sách sông Tô lịch ngày xưa rất rộng,trên bến,dưới thuyền,là trục Giao thông chính thủa ấy.Mặt khác thời Lý Trần có rất nhiều nhà Phong thủy Việt nam tài giỏi như :Thiền sư Ðịnh không làng Cổ pháp (Sư thọ 79 tuổi -Năm Bính tý 808 ),Sư La chân Nhân (852 -936 ),Sư Vạn Hạnh..
Dĩ nhiên các vị sư đó không thể nào để cho các Vua Lý chấn yểm sông Tô lịch và Thiên phù,để đến nỗi sông Tô lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại và Ngôi báu Vua Lý chẳng bao lâu về tay nhà Trần.Dòng họ Lý bị tuyệt diệt đến nỗi chỉ có người nào đổi qua họ Nguyễn mới thoát khỏi.
Bây giờ ta xét sự việc dưới một góc độ khác qua các sự kiện Lịch sử và các Thuyền thuyết còn lưu lại trong dân gian.
Theo Việt sử lược :Thành Ðại la được xây dựng vào Thế kỷ 7 có tên là Tống bình .Năm thứ 2 niên hiệu Trường khánh (Nhâm Dần -822 ),Vua Mục Tông nhà Ðường dùng Nguyên Hỷ làm quan đô hộ.Nguyên Hỷ thấy cửa thành có dòng nước ngược sợ rằng dân ở thành có ý đồ phản nghịch,liền sai Thầy bói gieo 1 quẻ.Thầy bói nói rằng :Sức ông không đủ để bồi đắp thành lớn,50 năm sau,có một người họ Cao đóng đô tại đây mà xây dựng Vương phủ .
Tới đời vua Ðường Y Tôn (841 -873 ),Cao biên được cử sang đất Việt làm Tiết Ðộ sứ.Cao biền là một con người đa hiệu: Vừa là một vị Tướng,vừa là một nhà Phù thủy,một Ðạo sĩ,cũng là một nhà Phong thủy có tài.La thành được Cao biền sửa chữa,chỉnh đốn lại cho hợp Phong thủy vào các năm :866,867,868.Theo truyền thuyết,khi Cao biền xây dựng lại Thành Ðại la,thì khu vực thi công có hiện tượng sụp lở đất.Cao biền liền tiến hành chấn yểm Thần sông Tô lịch và một số điểm khác như đền thờ Thần Bạch mã,núi Tảng viên.Sau đó công viêc xây dựng mới có thể hoàn tất.
Tới đây ta nhớ lại một truyền thuyết khác của Dân tộc Việt nam.Ðó là " Truyền thuyết Thành Cổ loa ".Tương truyền rằng khi xây dựng thành Cổ loa,An Dương Vương cũng xây mãi mà thành vẫn bị đổ.Khi đó Rùa Thần hiện ra chỉ cách cho xây và cho một cái móng chân ,lúc đó thành Cổ loa mới có thể xây dựng xong.
Về mặt địa lý,La thành và Thành Cổ loa cách nhau không xa (Theo đường chim bay chỉ vài chục km ).
Tới đây, ta buộc phải tự đặt câu hỏi : Có gì trùng hợp giữa hiện? tượng sụp đất của Thành Cổ loa,sự sụp đất của thành Ðại la và sự sụp lở đất không thể khắc phục được trên công trìng nạo vét sông Tô lịch
Qua hai Truyền thuyết trên,bỏ qua các sự việc có tính chất dị đoan,chúng ta phải chấp nhận một sự thực là :Vùng đất từ đầu nguồn sông Tô lịch kéo dài đến Cổ loa -Đông anh HÀ NỘI là một vùng đất có địa tầng địa chất không ổn định.Ta cũng cần phải nhớ rằng :Núi Tản viên nằm ở hướng Tây Hà nội.Mặt khác phía Tây và Tây bắc của La thành là một vùng núi non trùng điệp của các tỉnh HÒA BÌNH,SƠN LA,LAI CHÂU...Theo định nghĩa của môn Phong thủy Long mạch xuất phát từ những dặng núi cao.Núi mà từ đó khởi nguồn Long mạch gọi là Tổ sơn.Ngoài ra Long mạch còn xuất phát từ những khu vực khác gọi là Thiếu sơn.Ta cũng biết rằng Thiên khí từ trên trời luôn có tính chất giáng xuống ,các đỉnh núi cao là những Antena tiếp thu sinh khí.Từ những sự việc trên,ta cảm nhận được rằng có một Long mạch rất lớn bắt nguồn từ núi Tản viên và các rặng núi phía Tây,Tây bắc của Thành Đại la kéo dài qua thành Đại la theo dọc sông Tô lịch (khí thường đi theo nước ),chạy qua khu vực Hồ Tây bây giờ (Hồ Tây trước kia là một khúc của dòng sông Hồng ),sau đó sang tới tận địa phận Cổ loa -Đông anh -HÀ NỘI và còn theo hướng Đông,Đông bắc đi tiếp ...
Chính vì có Long mạch này mà Cao biền phải vô cùng bận tâm,khổ trí nhằm tiêu diệt hoặc chấn yểm.Có rất nhiều Truyền thuyết về Cao biền liên quan đến các khu vực khác nhau của Long mạch này.Ta có thể kể ra đây những hoạt động của Cao biền liên quan đến các khu vực của Long mạch này :Đầu tiên là truyền thuyết Cao biền chấn yển núi Tản viên,hắn đã sử dụng đến 8 vạn cái tháp bằng đất nung để chấn yểm núi Tản viên.Tới gần đây người ta còn đào được những cái Tháp đất nung đó tại khu vực Hà nội.Tiếp theo là Truyền thuyết Cao biến dùng hơn 4 tấn sắt,đồng...chôn để chấn yểm đền Bạch mã là nơi vị thần sông Tô lịch trú ngụ.Cao bìền còn nhiều lần dựng đàn tràng,dùng 4 thứ kim loại :Sắt,đồng,vàng,bạc chấn yểm nhiều nơi trên bờ sông Tô lịch.Theo sử sách,Cao biền đã đặt Bùa chấn yểm tới 19 nơi dọc theo sông Tô lịch.
Thời bấy giờ nước Nam có nhiều vị Đại sư tài ba lỗi lạc,hiểu biết rất giỏi về Nho,Y,Lý số và thuật Phong thủy đã hóa giải sự chấn yềm của Cao biền bằng phép Huyền môn.Các đại sư thường tụ tập tại ngôi đền SƠN TINH THỦY TINH ở núi Ba vì,hay ở Đền BẠCH MÃ ,dùng nhửng hiểu biết về Phong thủy để chấn áp Bùa phép của Cao biền.
Trở lại,đạo Bùa tìm thấy trên lòng sông Tô lich,có rất nhiều lý do để có thể kết luận rằng :Đó là tác phẩm của Cao biền ,chứ không phải là của các nhà vua Lý.Tác phẩm đó là của Cao biền đời nhà Đường,thuộc về Cao biền thế kỷ 9,tức là trước thời các nhà Lý khoảng 200 năm (Lý thái Tổ -Năm 1010 ).Nếu xét về niên đại của cổ vât tìm thấy,thì trong khoảng 200 năm các cổ vật trên cũng không có sự thay đổi nhiều.Cũng không loại trừ trường hợp,các cổ vật trên rớt xuống lòng sông thời gian sau, khi Cao biền chấn yểm.
Bây giờ ta lại xét đến mục đích của Cao biên khi chấn yềm sông Tô lịch.Cho tới tận giờ phút này,khi các bạn và tôi đang ngồi bên máy Vi tính,người ta vẫn sử dụng các thủ thuật :Châm,cứu,diện chẩn,xoa bóp,bấm huyệt...để chữa bệnh.Tất cả các thủ thuật đó đều dựa trên lý thuyết về hệ thống Kinh mạch,huyệt,lạc trong cơ thể con người.Người ta xác định được hàng ngàn vị trí Huyệt đạo trong cơ thể con người.Tùy theo từng trường hợp khi châm cứu,người ta dùng kim tam lăng để châm vào các huyệt khác nhau,với thời gian và độ nông sâu khác nhau.Trong dân gian còn lưu truyền các biện pháp bấm,điểm huyệt có thể làm cho một bộ phận nào đó của cơ thể không còn khả năng cử động,hoặc nặng hơn là bộ phận đó không còn sử dụng được.Ta vẫn biết rằng :THIÊN -ĐỊA NHÂN là hợp nhất.Mọi vật thể từ Vi mô cho đến Vĩ mô đều phải tuân theo những quy luật chung của sự tương tác vũ trụ.Phải nói dài dòng như vậy để có thể tạm kết luận rằng,trên Trái đất này,cũng phải có những đường Kinh mạch,huyệt,lạc như trong cơ thể con người.Trái đất này là một cơ thể sống chứ không phải là một cục đất chết như nhiều người vẫn nghĩ.Ta cũng có thể suy ra một hệ quả rằng :Tại một điểm nào đó,người ta có thể dùng một thủ thủ thuật nào đó,có thể ngăn,bế hoặc chặn đường đi của một Long mạch như Cao biền đã làm.Thủ thuật này người xưa gọi là Chấn yểm.
Bây giờ ta tạm thời đưa ra các nhận định như sau :
1/Đạo Bùa chấn yểm trên dòng sông Tô lịch là của Cao biền -Tiết độ sứ của nhà Đường,dùng để chấn yểm Long mạch,khi tiến hành xây dựng thành Đại la vào thế kỷ 9.Đó là 1 trong 19 nơi mà Cao biền đã thực hiện chấn yểm.Đạo Bùa đó hoàn toàn không phải do các Vua thời nhà Lý chấn yểm trong Truyền thuyết Ông Dầu,bà Dầu khoảng 200 năm sau khi Cao biền thực hiện chấn yểm.
2/Chấp nhận có một Long mạch rất lớn xuất phát từ phía Tây của thành Đại la (Các dãy núi thuộc các tỉnh Hòa bình,Sơn la,Lai châu,và gần nhất là dãy núi Tản viên );Long mạch này đi qua thành Đại la,cụ thể theo dọc sông Tô lịch,qua khu vực Hồ Tây,kéo dài sang Cổ loa -Đông anh - HÀ NỘI;Long mạch này còn kéo dài tới dãy Yên tử và theo hướng Đông Bắc tới tận Quảng ninh.Đây chỉ là nhánh Thanh long của Đồng bằng Bắc bộ.Nhánh Bạch hổ khi có điều kiên tôi xin chứng minh tiếp.
3/Cao biền đã thực hiện biện pháp chấn yểm Long mạch,nhằm bế dòng khí của Long mạch này.Thủ thuật chấn yểm tương tự như thuật điểm huyệt trong đông y học.
( http://vn.myblog.yahoo.com/dienbatn/article?mid=184" target="_blank ) .
3/Bài tham khảo thứ ba :
Nghi án phong thủy: Trụ đồng Mã Viện
Thiên Ðức
Hằng nằm cứ vào ngày 6/2 âm lịch lể kỷ niệm hai bà Trưng được cử hành tại nhiều nơi có người Việt sinh sống. Ðây là một sinh hoạt có tính lịch sử truyền thống.
Vào năm 40 sau công nguyên (scn), Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị quê ở Mê Linh đã dựng cờ khởi nghĩa, trước là trả thù cho chồng sau là đánh đuổi quân xâm lược, Hai Bà đã lấy được 65 thành trì và sau đó là xưng vương họ Trưng.
Năm 42 scn Mã Viện theo đường biển xua quân đánh trở lại. Trước thế giặc mạnh, quân hai bà chống cự không nổi, rút lui về Cẩm Khê và tan hàng từ đó.
Sau khi xâm chiếm đất Giao Chỉ Mã Viện cho thực hiện hai công trình là: Dựng trụ đồng Mã Viện tại động Cổ Sâm, châu Khâm và xây thành Kiên Giang hình tổ kén ở Phong Khê.
Trang lịch sử này đã gây nhiều tranh cãi về nhiều vấn đề như là:
- Nguyên do khởi nghĩa của Hai Bà vì thù chồng hay vì nợ nước?
- Hai Bà lập nên chế độ mẫu hệ đầu tiên ở Việt Nam chăng?
- Ngày lễ kỷ niệm của Hai Bà cũng có sự khác biệt? Ngày 6/2 hay 6/3 Âm lịch?
- Nguyên do cái chết của Hai Bà là nhảy sông tự tử hay bị chém đem đầu về Trung Quốc?
Cho dù có đặt nghi vấn như thế nào chăng nữa chúng ta cũng phải thừa nhận một điều là Bà Trưng là vị nữ vua đầu tiên tại Việt Nam, một vị vua thành tựu do công sức và tài trí trực tiếp đánh quân xâm lược. Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa do lòng yêu nước chân chính của mình, xuất thân từ giai cấp quí tộc, chứ không phải từ quan niệm đấu tranh giai cấp như nhà sử học xã hội chủ nghĩa lý giải.
Hai bà Trưng đã tạo dựng nên truyền thống vẻ vang nữ anh hùng dân tộc trong lịch sử Việt Nam.
Ðền thờ Hai Bà Trưng tại xã Hát Môn, Sơn Tây đang trong giai đoạn trùng tu
Nguồn: Thiên Ðức 8/2005
Một câu hỏi đặt ra là: tại sao trong suốt gần 2.000 năm kế tiếp dân tộc ta vẫn không xuất hiện được một vị nữ anh hùng thứ hai có tầm cỡ Bà Trưng cho dù lịch sử Việt Nam là lịch sử của chiến tranh chống ngoại xâm từ đó cho đến nay? Phải chăng người phụ nữ Việt Nam yếu hèn? Hay là có sự cản trở bởi một huyền lực nào đó xuất phát từ thời gian sau khi Hai Bà Trưng thua trận, đất nước rơi vào sự đô hộ của người Hán, mà lịch sử chưa làm sáng tỏ chăng?
Thật vậy nghi vấn đó phát xuất từ hai hành vi cụ thể đầy bí ẩn của Mã Viện sau khi xâm chiếm đất nước ta chưa được lý giải rõ ràng.
Theo Khâm Ðịnh Việt Sử Thương Giám Cương Mục (KDVSTGCM), trang 24-25 ghi:
“Trưng vương cùng em gái là Nhị cự chiến với quân Hán, quân vỡ, thế cô, đều bị thất trận chết. Mã Viện đuổi đánh tàn quân của hai bà là bọn Ðô Dương đến huyện Cư Phong thì hàng phục được họ. Mã Viện lập cột đồng để ghi địa giới tận cùng của Nhà Hán…”.
Sách Thủy Kinh Chú của Lịch Ðạo Nguyên chép rằng: Mã Văn Uyên (tức Mã Viện) dựng cái mốc đồng để làm giới hạn cuối cùng của đất phía nam Trung Quốc...
Sách Nhất Thống Chí nhà Ðại Thanh có chép:
Tương truyền cột đồng ở về động Cổ Sâm châu Khâm, Mã viện có thề rằng: “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”, nghĩa là “Cột đồng ấy gãy thì Giao Chỉ bị diệt”, nên người Việt đi qua dưới chân cột đồng ấy cứ lấy đá bồi đắp lên mãi thành gò đống cao. Ðó vì sợ cột đồng ấy bị đổ gãy.
Mã Viện nhà Hán đắp thành Kiển Giang.
Vì thấy huyện Tây Vu có đến ba vạn ba nghìn hộ, Mã Viện xin chia ra làm hai huyện Phong Khê và Vọng Hải. Vua Hán y cho Mã Viện lại lập hành quách, đặt tỉnh ấp (xóm làng), đắp thành Kiển Giang ở Phong Khê. Thành này hình tròn như cái Tổ kén. Nên gọi là thành Kiển giang. Ba năm sau Mã Viện về nước. (viethoc.org)
A- Trụ Ðồng Mã Viện .
Trải qua một thời gian dài bị đô hộ dưới thời Hán thuộc, trụ đồng Mã Viện đã hoàn toàn mất hết dấu tích nhưng vẫn còn để lại nhiều nghi vấn lịch sử như sau:
I - Sự thật của trụ đồng .
Trụ đồng Mã Viện là một câu chuyện có thật, đã được ghi vào sử liệu của cả hai nước Trung Hoa và Việt Nam. Ðây không phải là một huyền thoại hay là hư cấu.
Vào đời vua Trần Thánh Tôn, Ngài đã cho người đi tìm lại dấu tích cột đồng nhưng không thấy.
“Tháng 4 mùa hạ (1272,) sai viên ngoại lang là Lê Kính Phu sang hội với người nhà Nguyên biện luận việc cương giới. Nhà Nguyên sai Ngột Lương sang hỏi giới mốc đồng trụ ngày trước, nhà vua phái Lê Kính Phu đi hội đồng khám xét. Kính Phu nói với Nhà Nguyên rằng: “Chỗ cột đồng do Mã Viện dựng lên lâu ngày bị chìm lấp, nay không thể biết ở chỗ nào được”. Việc đó sau cũng thôi... ( KDVSTGCM, Quyển VII tr. 219)
“Tháng 8 mùa thu (1345) Sai sứ sang nhà Nguyên. Nhà Nguyên sai Vương Sĩ Hành sang hỏi địa giới cột đồng ngày trước. Nhà vua sai Phạm Sư Mạnh sang Nguyên biện bạch sự việc này” (KDVSTGCM, Quyển IX Tr.279).
II - Vị trí của trụ đồng .
Ða số sử liệu đã thống nhất vị trí của trụ đồng như sau:
- Sách Nhất Thống Chí nhà Ðại Thanh chép: Cột đồng ở về động Cổ Sâm, châu Khâm.
- Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư Ngoại Ký của Lê Văn Hưu Quyển III Tr. 22 ghi: Mã Viện bèn dựng cột đồng làm giới hạn cuối cùng của nhà Hán. Cột đồng tương truyền ở trên động cổ Lâu, châu Khâm.
Tóm lại theo sử liệu trên có thể kết luận là trụ đồng nằm ở vùng Châu Khâm tại động Cổ Sâm hay Cổ Lâu thuộc vùng biên giới cực bắc Giao Chỉ cũng là cực nam nhà Hán.
Một vấn đề cần được sáng tỏ nữa là: châu Khâm là huyện biên giới giữa Giao Chỉ và Nam Hán hiện nay nằm ở đâu?
Theo tài liệu nghiên cứu mới nhất của bác sỹ Trần Ðại Sỹ, Giám đốc Trung Quốc sự vụ, viện Pháp Á “Thử tìm lại biên giới cổ của Việt Nam bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống DNA”(1) (vietnamsante.com), thì:
Sau khi dẫn chứng lịch sử thời hai bà Trưng, di tích, cổ vật, cùng kết quả thử nghiệm DNA đã kết luận rằng: Biên giới cổ của nước Việt Nam với các triều đại Hồng Bàng, Âu Lạc, Lĩnh Nam phía Bắc quả tới hồ Ðộng đình, phía Tây giáp Tứ Xuyên.
Sự phát hiện này có thể xác quyết một điều là vị trí trụ đồng nằm ở biên giới phía Bắc Việt Nam qua thời gian đô hộ đã bị Trung Quốc lấn chiếm và vùng đất động Cổ Sâm (Cổ Lâu) hiện nằm sâu trong lãnh địa Trung Quốc hiện nay.
III - Ý nghĩa câu “Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt”
Trong hầu hết cổ sử Trung Quốc và sử Việt ghi chép lại, giải thích câu này chỉ là một lời thề. Ðiểm này có nhiều nghịch lý.
1. Ðây không thể là một lời thề. Thật vậy, Mã Viện là người đi chinh phục và vui mừng thắng trận, nên không có động cơ nào để tạo ra một lời thề ghi trên trụ đồng. Vì vậy sách sử gọi đây là lời thề là không đúng sự thật.
2. Ý nghĩa câu chữ “Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt” ngầm ý hăm dọa cũng như gây hận thù với dân tộc Giao Chỉ rất là phi chính trị. Theo sử sách cho biết Mã Viện là một danh tướng văn võ song toàn giỏi quân sự lẫn chính trị, có thể nào ngây ngô đưa ra một lời thề phi chính trị như trên hay không? Tất nhiên là không, vì thế Mã Viện cố tình ghi khắc câu này tất phải có mưu đồ sâu độc nào đó đối với đất nước Giao Chỉ vậy.
3. Ða số sách sử Trung Hoa cũng như Việt Nam đều giải thích câu: “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là trụ đồng gãy thì dân Giao chỉ bị giết. Chữ Chiết mà dịch là gãy đúng với ngôn ngữ, thế nhưng trong trường hợp này có điều không ổn. Vì rằng một cột trụ đồng kim loại, đặc ruột dựng giữa thiên nhiên thì làm sao có thể gãy được? nếu so với một cây cau, một cây dừa thân mộc, cao, tán cây rộng lung lay trước gió bão còn có thể đứng vững. Thì đây là một nghịch lý.
Do vậy sự dịch thuật câu chữ này hoàn toàn sai lầm một cách cố tình nhằm che dấu một bí mật lịch sử mà người viết sẽ phân tích ở phần sau.
IV- Công dụng của trụ đồng .
Hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi và cũng chưa có lời đáp thích hợp.
1) Theo sử gia Phạm Văn Sơn chuyện cột đồng Mã Viện thiết tưởng không đáng tin lắm chỉ nên coi là một giai thoại không hơn không kém... Nếu coi cột đồng Mã Viện là một mỹ đàm thì chép vào sử để làm một câu chuyện kể chơi cho có thú vị thiết tưởng không hại gì. (Việt sử Tân Biên, tr.199). Ðây chỉ là lối nói huề vốn khi không lý giải được những nghịch lý của câu chuyện trụ đồng, do vậy không đáng tin cậy. Viết lịch sử của một dân tộc cần sự nghiêm túc chứ không phải là chuyện mỹ đàm, kể chơi cho vui.
2) Theo tác giả Trương Thái Du trong bài “Một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử Việt Nam (Talawas - lịch sử).
Cột đồng Mã Viện dựng năm 43 ở quận Giao Chỉ và Tây Ðồ Di cũng chính là đài quan trắc thiên văn... Trong công tác thiên văn thời Mã Viện, để xác định những vùng đất mới, cần phải tiến hành quan trắc các chỉ số năm này qua năm khác. Cột thiên văn chuẩn phải vừa tránh được thời tiết xâm hại, vừa bền vững nên chất liệu đồng đã được chọn. Muốn đo đầy đủ thì phải cử người ở lại làm việc, ít nhất là hằng năm tập hợp số liệu đem về kinh đô. Chuyện dân gian Việt Nam kể rằng Mã Viện từng dựng cột đồng ở Bắc Việt lại càng khẳng định đây là cột thiên văn chứ không phải mốc giới. Chẳng ai đem mốc giới để giữa nơi đô hội, để mỗi người đi qua ném một hòn đá vào đấy mong cột đừng đổ. Câu “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” của Mã Viện ngầm bảo phải coi sóc “đài thiên văn” bỏ túi kia cẩn thận. Cơ sự là thế! Con toán thiên văn nhỏ của tôi ở tiểu mục 1 là minh họa suốt bài viết này.
Giả thiết này khó thuyết phục bởi những nghịch lý sau: Một cột đồng đặc ruột thuần túy trồng giữa trời mưa nắng không thể gọi là một đài (?) thiên văn được. Theo người viết hiểu ý của tác giả là trụ đồng Mã Viện được sử dụng như là một cái cột chuẩn để đo lường sự di chuyển của bóng mặt trời, mặt trăng... Nếu chỉ với công dụng như vậy thì chẳng cần phải dùng cột đồng làm gì cho năng nhọc, thực hiện khó khăn (từ việc gom đồng, đúc cột, điêu khắc, di chuyển, dựng cột...), rất tốn kém tiền bạc, công sức và thời gian. Ngoài ra còn viện lý do khỏi bị thời tiết xâm hại lại không chuẩn.
Vì rằng cột đồng to và cao đủ để đo bóng mặt trời thì rất nặng hàng tấn tạo sức ép trên một tiết diện nhỏ thì với thời tiết mưa lụt khí hậu ẩm thấp, đất ướt, mềm nở ra rất dễ bị lún, hay đổ ngã nguy hiểm. Với độ lún hằng năm của trụ đồng, thì độ đo đạc lại càng thiếu chính xác, sẽ làm giảm mất giá trị công dụng nói ở trên. Với trụ gỗ tốt vừa nhẹ, bền, dễ kiếm, dễ bảo quản, dễ thay thế, lại đạt yêu cầu trên có lẽ hợp lý hơn cột đồng.
Với uy danh của một tướng lãnh thống trị đương thời chắc chắn có rất nhiều cách để bảo quản trụ đồng cần gì phải ngầm bảo dân bị trị phải coi sóc “đài thiên văn” bỏ túi kia cẩn thận bằng câu “Ðồng trụ chiết, Giao chỉ diệt” vừa vô chính trị đối với một vị tướng văn võ toàn tài, vừa mất tư cách đạo đức của một kẻ đi thống trị. Với toán công tác thường trực ghi số liệu báo cáo hằng năm không đủ sức bảo quản trụ khí tượng hay sao, mà cần phải ngầm bảo dân bị trị coi sóc?
3) Theo cổ sử, cột đồng chỉ là cột mốc biên giới mà thôi. Lối giải thích này cũng không thỏa đáng. Nếu là cột mốc biên giới tại sao không ghi những thông tin cần có của vùng biên giới mà lại ghi câu: “Trụ đồng chiết , Giao Chỉ diệt” trên cột đồng?
Thứ nữa là cột mốc biên giới tại sao không đặt tại những con đường đi giữa ranh giới của hai nước, mà lại đặt tại một hang động trong vùng hẻo lánh?
B - KIỂN THÀNH.
Là công trình cụ thể thứ hai của Mã Viện đã hoàn thành trước khi về nước. Theo sách sử giải thích thành Kiển Giang có hình tổ kén của con tằm, như vậy nó có hình tròn và dài túm hai đầu, chứ không đơn giản là hình tròn ghi trong sử liệu, đã đem lại nhiều ngộ nhận cho người đọc sử.
Hình dáng của Kiển Thành cũng đem là nhiều nghi vấn. Thật vậy đây là loại thành quách quân sự rất hiếm thấy trong sử sách, là loại hình dài và gầy hẹp có rất nhiều nhược điểm như sau:
- Dễ bị tàn phá bởi thời tiết gió bão, thật vậy một trường thành dài và ốm sẽ hứng chịu nhiều sức tàn phá của gió bão hơn là một bức thành ngắn, tròn hay vuông và rộng.
- Mục đích xây thành cho dân ở vì dân số đông mà lại xây thành hình ốm và đài là không kinh tế và khó có thể thỏa mãn đầy đủ nhu cầu phát triển cư dân về lâu dài.
- Về mặt quân sự một trường thành dài rất khó trấn thủ vì tốn kém nhiều nhân lực canh gác, và khó tiếp ứng từ đầu này đến đầu khác.
Vì thế câu hỏi đặt ra là tại sao không xây thành hình vuông, đa giác lồi hay hình tròn bình thường như những thành quách khác mà lại xây thành hình cái kén? Ẩn ý của kiến trúc này là gì vẫn chưa được giải đáp trong sử sách.
Tóm lại, những nghịch lý trên của lịch sử đã trải qua gần 2.000 năm vẫn chưa được lý giải minh bạch dưới nhãn quang của các nhà sử học hay nhà khảo cổ. Thế nhưng, nếu nhìn sự việc trên đây bằng nhãn quang của một nhà phong thủy thì tất cả mọi nghi vấn trên đều được giải đáp thỏa đáng.
Thật vậy đây là một trận đồ phong thủy mà Mã Viện bày ra nhằm hãm hại đất nước Giao Chỉ. Hai Bà Trưng đối với Việt Nam là những anh hùng dân tộc, thế nhưng theo quan niệm của triều đình Hán hai bà Trưng chỉ là yêu tặc.
Theo An Nam Chí Lược (trang 40) do tác giả Lê Tắc là người Việt Nam, chạy qua sống ở Trung Hoa và viết sử theo quan niệm của Trung Hoa như sau:
Năm Kiến Võ thứ 16 của Hán Quang Vũ Ðế (sau công nguyên 40), người đàn bà Giao Chỉ là Trưng Trắc làm phản, quận Cửu Chân và quận Nhật Nam đều hưởng ứng theo. đành các quận ấp, cướp được 60 thành, rồi tự lập làm vua...
Ðến năm Kiến Võ thứ 19 Mã Viện chém yêu tặc là Trưng Nhị (Nhị là em gái của Trưng Trắc) và đánh luôn dư đảng, bọn Ðô Lương, đến huyện Cư Phong, bọn này chịu đầu hàng... (viethoc.org)
Vào thời đại nhà Hán, thuật phong thủy, địa lý rất thịnh hành, tất cả những công trình xây dựng mồ mả, lâu đài đều tuân hành nghiêm túc quy luật địa lý phong thủy.
Ảnh hưởng bởi quan niệm này, Mã Viện sau khi trừ diệt được hai Bà Trưng (?) đã bày một trận đồ phong thủy để diệt tận gốc yêu quái, trừ hậu hoạn, nhằm hãm hại đất nước ta không còn vua nữ giới nữa bằng những hành động như sau:
1- Mã Viện cho dựng một trụ đồng tại động Cổ Sâm hay Cổ Lâu, nghi vấn đặt ra là tại sao không đặt nơi đồng bằng trống trải dễ thấy hay tại những con đường đi lại giữa hai nước như là cột mốc bình thường mà lại đặt tại một hang động? Chỉ có thể trả lời là động Cổ Sâm chính là huyệt hàm rồng kết phát làm vua của đất Giao Chỉ nên Mã Viện muốn phá hủy để đất nước không còn vua nữa, dễ bề cai trị.
Nếu tự nhiên Mã Viện cho đào sâu xuống để chôn hoàn toàn một trụ đồng mà không có lý do chính đáng thì mọi người sẽ nghi ngờ, và gặp nhiều khó khăn trong thực hiện, vả lại cũng kém hiệu quả về mặt phong thủy. Vì thế mà Mã Viện đã thâm độc, cho dựng đứng trụ đồng không cần phải chôn sâu và ghi khắc câu chữ “Trụ Ðồng chiết, Giao Chỉ diệt” bề ngoài như là hăm dọa, nhưng thực chất là khiêu khích lòng tự ái dân tộc của dân Giao Chỉ, sau đó ngầm hỗ trợ cho người dân mỗi ngày ném gạch đá vào trụ đồng để chôn lấp. Sự việc này có hai tác dụng thứ nhất là giữ cho trụ đồng không bị nghiêng ngả với thời gian, thứ hai trụ đồng nặng hàng tấn tạo một sức ép mạnh trên một tiết diện nhỏ thì dễ dàng từ từ lún sâu vào lòng đất mỗi khi thời tiết mưa ẩm, đất nở và mềm ra. Có như vậy mới che dấu được quỷ kế thâm độc của mình và tác dụng phong thủy lại càng tăng cao.
2- Ý nghĩa thật sự của câu: “Ðồng trụ chiết... Giao Chỉ Diệt”, Ðây là một câu thần phù còn ẩn dấu một hai chữ để che đậy âm mưu phá huyệt phong thủy. Thật vậy chữ Chiết ở đây không có nghĩa là gãy mà có nghĩa là tách làm hai, ví dụ như chiết cành chẳng hạn. Do đó câu trên nên giải thích là “trụ đồng tách huyệt (đế vương) ra làm hai, vua Giao Chỉ bị giết”. Chứ không thể dịch là trụ đồng bị gãy, dân Giao Chỉ bị giết hoàn toàn phi lý. Như vậy câu trên có hai chữ bi ẩn dấu là chữ huyệt và chữ vương.
3- Kiển Thành hình cái kén, nếu chúng ta tách rời hai sự kiện này ra thì sẽ không thấy âm mưu sâu độc của Mã Viện, vì thế người viết, kết hợp cả hai sự kiện này bằng một hình vẽ tượng hình, bạn đọc sẽ thấy rõ ràng hơn:
Hình dáng Kiển Thành, tổ con tằm, Âm, Thủy, tượng hình của người đàn bà, kết hợp với hình dáng trụ đồng Mã Viện, Dương, Hỏa, tượng hình của người đàn ông.
Theo Kinh Dịch lý thuyết Vũ trụ: Thái Cực - Lưỡng Nghi - Tứ Tượng - Bát Quái.
Bùa lưỡng nghi (loại tượng hình)
Nguồn: Thiên Ðức 8/2005
Theo thuật phong thủy, nói về nhà cửa thường sử dụng bùa bát quái để trấn yểm hướng xấu. Trong phạm vi rộng lớn của một đất nước, bùa bát quái không có hiệu lực, vì thế Mã Viện đã sử dụng một loại bùa rất hiếm hoi đề cập trong sách vở đó là loại bùa Lưỡng Nghi tức là bùa Âm Dương có hiệu lực cao hơn bùa bát quái hai bậc theo Kinh Dịch.
Loại bùa này được thực hiện bởi hai công trình: Kiển Thành, Âm thủy và trụ Ðồng Mã Viện, Dương Hỏa.
Ngoài ra, nói theo kiểu dung tục thì Mã Viện đã chơi một trò rất thô bỉ là “Ðóng cọc người đàn bà Giao Chỉ” nhằm triệt tiêu con đường kết phát vương quyền cho nữ giới Việt Nam sau này. Với chứng cứ đê tiện này cũng có thể chứng minh truyền thuyết quân Mã Viện lúc giao chiến với đội quân nữ giới của Hai Bà đã chơi trò đồng loạt “Truồng cởi” làm hổ thẹn nữ binh không phải là không có lý.
Tóm lại câu chuyện trên có thể kết luận như sau:
- Cột đồng Mã Viện là một dụng cụ phong thủy chôn tại động Cổ Sâm nhằm mục đích phá vỡ huyệt kết phát vương quyền của đất Giao Chỉ.
- Câu “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là một câu thần phù hay nói đúng lời là một lời nguyền có hiệu lực cho đến khi được giải mã (?).
- Hình dáng Kiển Thành kết hợp với trụ đồng Mã Viện tạo nên một đạo bùa Lưỡng Nghi nhằm trấn yểm không cho người đàn bà Giao Chỉ (mà thời nhà Hán gọi là yêu nữ) tiếp nối truyền thống anh hùng dân tộc.
Sở dĩ loại bùa chú này có hiệu lực lâu dài bởi hội đủ những điều kiện sau đây:
- Ðặt đúng huyệt vị.
- Ðiều quan trọng nhất không ai có thể hại mình bằng chính mình hại mình. Dựa vào nguyên tắc này Mã Viện đã thâm hiểm khích tướng để cho dân Giao Chỉ ném đá vào trụ đồng để giữ vững cho chôn trụ đồng có thời gian tự lún sâu vào huyệt đạo tạo thêm hiệu lực cho bùa trấn yểm.
- Thời gian hiệu lực của bùa chú càng lâu dài nếu bí mật của nó chưa được tiết lậu, các sử gia Trung Quốc vì quyền lợi Trung Quốc đã che đậy sự việc này và dối trá cho đây chỉ là cột mốc biên giới đơn thuần mà không có giải thích toàn bộ sự kiện. Và theo truyền thuyết bùa ngải, phong thủy, nếu một người mà dùng bùa chú hại người khác nếu được cao nhân cứu giải thì loại bùa chú đó sẽ trở lại tác động với chủ nhân của nó. Vì thế người Trung Quốc rất sợ phản đòn và rất kín miệng về sự việc này.
Ngoài ra để cho đất Giao Chỉ không còn huyệt phát vua chúa nữa, Hán tộc đã âm thầm cướp trắng một phần đất của Giao Chi, trong đó có vùng châu Khâm động Cổ Sâm và xóa tan dấu tích để người dân Việt không còn phương cách truy cứu. Và sự việc này cũng không được ghi chép vào sử sách.
Trong thời đại không gian điện tử hiện nay, nhiều người sẽ đánh giá câu chuyện kể trên thuộc vào loại hoang đường nhảm nhí.
Tin hay không là tùy mỗi người, nhưng với chứng cứ và lý luận khó có thể phản biện như trên, trong tư cách là một người nghiên cứu phong thủy lâu năm, người viết trân trọng bố cáo:
Trước trời đất và mọi người chứng giám rằng:
Những âm mưu đê tiện của Mã Viện người Trung Quốc đã dùng thủ thuật phong thủy để ám hại dân tộc Giao Chỉ, nay đã được phơi bày ra ánh sáng.
Phải chấm dứt ngay mọi uy lực của lời nguyền và trao trả hiệu quả thảm hại lại cho cố chủ.
CÒN TIẾP...
TL: CUỘC CHIẾN TÂM LINH NGÀN NĂM CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
rất hay! Tôi không am hiểu lắm về phong thủy nên không dám lạm bàn đến khía cạnh này xin để chờ các cao nhân chỉ giáo. Bài viết mang đậm tinh thần dân tộc tôi đọc xong cũng cảm thấy hùng tâm vạn trượng, trong giai đoạn hiện nay khi mà quan hệ giữa nước ta và trung quốc có nhiều điểm nhạy cảm mong mọi người hãy hết sức bình tĩnh và sáng suốt trong việc thể hiện quan điểm.
-
- Tam đẳng
- Bài viết: 521
- Tham gia: 16:48, 30/01/10
TL: CUỘC CHIẾN TÂM LINH NGÀN NĂM CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Bổ xung thêm tư liệu :
" ĐỒNG TRỤ NẰM Ở ĐÂU?
Nước ta có ranh giới đầu tiên với nước Tàu là do Mã Viện ấn định. Lịch sử kể lại rằng dưới thời Đông Hán, năm 41 sau Tây lịch, vua Quang Vũ của Tàu sai Mã Viện làm Phục Ba Tướng Quân, sang đánh Trưng Vương, đem đất Giao Chỉ về lại cho nhà Hán (Thiền sư Lê Mạnh Thát nói chuyện này không có!). Mã Viện dời phủ trị về Mê Linh và dựng cây đồng trụ ở chỗ phân địa giới, khắc sáu chữ: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”. Nghĩa là cây đồng trụ gãy thì người Giao Chỉ mất. Người Giao Chỉ đi qua dưới chân cột đồng ấy cứ lấy đá bồi đắp lên mãi thành gò đống cao, vì sợ cột đồng ấy bị đổ gãy.
Nhưng cột đồng này đã được dựng ở đâu?
Theo “Lĩnh Ngoại Đại Đáp” của Tàu (đời Đường) và “An Nam Chí Lược” của Lê Tắc, cột này được dựng ở Khâm Châu, trong vùng hang động Cổ Sâm.
Khâm Châu là một châu của Tàu nằm sát biên giới với Giao Chỉ, còn Cổ Sâm là một động của ta nằm sát biên giới Tàu.
Sách “Vân Đài Loại Ngữ” của Lê Quế Đường (tức Lê Qúy Đôn) có ghi: “Giữa đỉnh núi Phân Mao ở Khâm Châu có cột đồng to độ hai thuớc. Có lẽ đây là Mã Tống dựng lên”.
Núi Phân Mao (Phân Mao lĩnh) ở đâu?
Sách “Dư Địa Chí” của Nguyễn Trãi viết:
“Vân Cừ, Kim Tiêu, Phân Mao ở về Yên Bang (sau tránh húy đổi làm Yên Quảng). Vân Cừ là tên sông, tên khác của sông Bạch Đằng, Tiền Ngô Vương bắt Hoằng Tháo, Hưng Đạo Vương bắt Ô Mã Nhi đều ở đây. Phân Mao là tên núi, Kim Tiêu là cột đồng. Ở phía Tây lộ Hải Đông 300 dặm có đèo Phân Mao, ở nửa đèo có cột đồng của Mã Viện dựng, lớn chừng ba thước”.
(Dư Địa Chí, Nguyễn Trãi toàn tập, bản dịch của NXB KHXH – Hà Nội, tr. 202)
Sách “Gia Khánh Trùng Tu Nhất Thống Chí” của Nhà Thanh cho biết: Núi Phân Mao ở phía Tây Khâm Châu (nay là đất tỉnh Quảng Đông). Năm Tuyên Đức thứ 2 (1427) thời Minh, núi ấy thuộc vào châu Tân An của Giao Chỉ. Đến năm Gia Tĩnh thứ 21 (1542) Mạc Đăng Dung hàng, mới thuộc về nước Tàu.
Đồng trụ nếu to 2 thước ta (theo Lê Qúy Đôn) hay 3 thước ta (theo Nguyễn Trãi) thì cũng rất lớn. Mỗi thước ta bằng 0,425 mét. Như vậy 2 thước là 0,850 mét và 3 thước là 1,275 mét.
Về sau, cả người Tàu lẫn người Việt đều không biết rõ đồng trụ nói trên nằm ở đâu. Sách “Khâm Định Việt Sử Thương Giám Cương Mục” có cho biết năm 1272, nhà Nguyên đã sai Ngột Lương sang Việt Nam hỏi giới mốc đồng trụ ngày trước ở đâu. Vua Trần Thánh Tôn đã sai viên phái Lê Kính Phu đi hội đồng khám xét. Lê Kính Phu tâu với Nhà Nguyên: “Chỗ cột đồng do Mã Viện dựng lên lâu ngày bị chìm lấp, nay không thể biết ở chỗ nào được”. Việc đó sau cũng thôi. (Quyển VII, tr. 219).
Thật ra, Mã Viện không phải chỉ dựng một đồng trụ ở Cổ Sơn. Ông đã mở mang bờ cõi của nhà Hán, dựng lên một đồng trụ ở Đèo Ngang (giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình) và hai đồng trụ ở Bình Định. “Phương Đình Dư Địa Chí” của Nguyễn Văn Siêu cho biết: Sách Tần Thư Điạ Lý Chí ghi: Ở quận Nhật Nam có cột đồng từ đời Hán dựng làm địa giới. Sách Lâm Ấp Ký chép: Phía tây quận Nhật Nam có nước Tây Đồ Di, Mã Viện qua đất này dựng hai cột đồng nêu bờ cõi nhà Hán.
Quận Nhật Nam lúc đó gồm các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định ngày nay (có tài liệu cho là đến tận cửa Đại Lãnh, Phú Yên). Vùng này là bắc Chiêm Thành.
Nhìn lại, nếu đồng trụ do Mã Viện dựng để phân ranh giới Việt – Trung mà còn thì nó cũng đã nằm trên đất Tàu, vì năm 1540 Mạc Đăng Dung đã giao vùng đất Cổ Sơn, nơi có đồng trụ, cho Trung Hoa rồi. "
Nguồn : TTNC Lý học Đông phương .
5/Bài tham khảo thứ năm :
Một tư liệu có chiều hướng trái ngược nữa , chúng ta cũng nên biết .
" Một tập sách được xuất bản gần đây với lời giới thiệu là chứa đựng những quan sát có thể làm thay đổi nhận thức về đời sống tôn giáo và xã hội tại miền Bắc Việt Nam thế kỷ 18.
Cuốn "Opusculum de Sectis apud Sinenses et Tunkinenses: A Small Treatise on the Sects among the Chinese and Tonkinese" do NXB Đại học Cornell ấn hành năm 2002.
Nhan đề tập sách có thể dịch ra tiếng Việt là: "Một luận thuyết nhỏ về những giáo phái của người Hoa và Đông Kinh", dày 359 trang.
Đây vốn là ghi chép của linh mục người Ý, Adriano di ST. Thecla (1667 - 1765), người sống gần 30 năm ở miền Bắc Việt Nam trong thế kỷ 18.
Năm 1738, ông đến Đông Kinh (Hà Nội) và qua đời tại đây năm 1765.
Cuốn ghi chép của ông viết bằng tiếng Latin, có xen lẫn chữ Hán, Nôm.
Khi đang là nghiên cứu sinh của ĐH Cornell với luận án về Liễu Hạnh, bà Olga Dror tình cờ tìm thấy cuốn sách trong một kho tư liệu tại Paris.
" Cha Adriano di St. Thecla nói rõ rằng đền Bạch Mã ở trung tâm 36 phố phường Hà Nội là dành để thờ Mã Viện, vị tướng Trung Hoa thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên. "
" Thậm chí còn gây chú ý hơn là sự thảo luận của cô Dror về tục thờ Bạch Mã. Trong bản thảo, cha Adriano di St. Thecla nói rõ rằng đền Bạch Mã ở trung tâm 36 phố phường Hà Nội là dành để thờ Mã Viện, vị tướng Trung Hoa thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên.
Nếu là một dịch giả khác thì có lẽ dễ dàng bác bỏ ghi chép này và nói cha Adriano đã sai lầm ở đây - rằng hai chữ 'Mã' chẳng liên quan đến nhau, vì họ 'Mã' trong tiếng Hoa cũng được viết bằng kí tự chỉ 'con ngựa' - và nói thế cũng có lý do thuyết phục. Đối với mọi bộ óc hiện đại, thật không thể tin rằng Mã Viện, người đè bẹp cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng và là biểu tượng cho sự xâm lăng và đô hộ của Trung Hoa, lại có thể được thờ ở bất kì đâu ở Việt Nam. Với một tinh thần tươi mới và đôi mắt sắc sảo, Dror đã thực hiện một nghiên cứu sâu sắc và cho ta thấy rằng nhà truyền giáo đã không sai, mà ông đã cho ta một cơ hội để xem lại việc thờ phụng của người Việt ở một thời gian và không gian khác.
Theo Dror, các đền thờ Mã Viện tồn tại không chỉ ở Hà Nội mà cả ở Cổ Loa, cũng như Thanh Hóa và Phúc Yên. Cô còn tìm thấy rằng ở Bắc Ninh nơi người dân thờ Hai Bà Trưng, họ cũng thờ Mã Viện ở trong cùng một ngôi đền. Tất cả những điều này tìm thấy ở miền Bắc, thật kinh ngạc.
Còn ở miền Nam Việt Nam, được đặt ở các hội quán người Hoa, tục thờ Mã Viện từng được người ta tin là đã do Hoa Kiều đem vào Việt Nam. Điều này là vì tước danh của Mã Viện là Phục Ba (chinh phục sóng dữ), nó đặc biệt đáp ứng nhu cầu của các lái buôn thường gặp nguy nan trên biển, và ông là một nhân vật Trung Hoa hùng mạnh được xem là có thể bảo vệ quyền lợi của người Hoa ở Việt Nam. Nhưng như Dror chỉ ra, còn nhiều khía cạnh khác của vấn đề này. Giờ đây tôi (tác giả Li Tana) thấy rất có thể câu chuyện lại diễn ra theo hướng ngược lại, tức là người Hoa đã lấy lại tục thờ Mã Viện từ người Việt Nam, bởi khi họ đến Việt Nam, việc thờ phụng Mã Viện như một thần bản địa đã diễn ra rộng khắp. Điều này cũng giải thích vì sao Mã Viện lại được gọi là bản thổ công. "
“Ở khu Hà Khẩu (phố Hàng Buồm hiện đại thuộc về khu này) của thủ đô, có một ngôi đền Bạch Mã, và người ta bảo rằng tại đó người dân tưởng nhớ cầu chuyện về vị tướng Phục Ba Mã Viện, thuộc thời nhà Hán. Tôi vừa đến Nam quốc và không biết gì hết, vì thế tôi cũng tin đó là thật. Và khi tôi đến đền để đọc các bia, tôi thấy viết ở đó rằng linh hồn của Phục Ba, người thuộc thời nhà Hán, được thời phụng để cầu an cho đất nước và bảo vệ người dân. Tuy nhiên, không rõ từ khi nào ông được thờ phụng ở đó, nó bắt đầu thế nào và từ triều đại nào.
Tôi đánh bạo mà nghi ngờ về việc rằng Phục Ba, họ là Mã, cũng được gọi là Bạch Mã. Đâu là lý do cho điều này?”
" ĐỒNG TRỤ NẰM Ở ĐÂU?
Nước ta có ranh giới đầu tiên với nước Tàu là do Mã Viện ấn định. Lịch sử kể lại rằng dưới thời Đông Hán, năm 41 sau Tây lịch, vua Quang Vũ của Tàu sai Mã Viện làm Phục Ba Tướng Quân, sang đánh Trưng Vương, đem đất Giao Chỉ về lại cho nhà Hán (Thiền sư Lê Mạnh Thát nói chuyện này không có!). Mã Viện dời phủ trị về Mê Linh và dựng cây đồng trụ ở chỗ phân địa giới, khắc sáu chữ: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”. Nghĩa là cây đồng trụ gãy thì người Giao Chỉ mất. Người Giao Chỉ đi qua dưới chân cột đồng ấy cứ lấy đá bồi đắp lên mãi thành gò đống cao, vì sợ cột đồng ấy bị đổ gãy.
Nhưng cột đồng này đã được dựng ở đâu?
Theo “Lĩnh Ngoại Đại Đáp” của Tàu (đời Đường) và “An Nam Chí Lược” của Lê Tắc, cột này được dựng ở Khâm Châu, trong vùng hang động Cổ Sâm.
Khâm Châu là một châu của Tàu nằm sát biên giới với Giao Chỉ, còn Cổ Sâm là một động của ta nằm sát biên giới Tàu.
Sách “Vân Đài Loại Ngữ” của Lê Quế Đường (tức Lê Qúy Đôn) có ghi: “Giữa đỉnh núi Phân Mao ở Khâm Châu có cột đồng to độ hai thuớc. Có lẽ đây là Mã Tống dựng lên”.
Núi Phân Mao (Phân Mao lĩnh) ở đâu?
Sách “Dư Địa Chí” của Nguyễn Trãi viết:
“Vân Cừ, Kim Tiêu, Phân Mao ở về Yên Bang (sau tránh húy đổi làm Yên Quảng). Vân Cừ là tên sông, tên khác của sông Bạch Đằng, Tiền Ngô Vương bắt Hoằng Tháo, Hưng Đạo Vương bắt Ô Mã Nhi đều ở đây. Phân Mao là tên núi, Kim Tiêu là cột đồng. Ở phía Tây lộ Hải Đông 300 dặm có đèo Phân Mao, ở nửa đèo có cột đồng của Mã Viện dựng, lớn chừng ba thước”.
(Dư Địa Chí, Nguyễn Trãi toàn tập, bản dịch của NXB KHXH – Hà Nội, tr. 202)
Sách “Gia Khánh Trùng Tu Nhất Thống Chí” của Nhà Thanh cho biết: Núi Phân Mao ở phía Tây Khâm Châu (nay là đất tỉnh Quảng Đông). Năm Tuyên Đức thứ 2 (1427) thời Minh, núi ấy thuộc vào châu Tân An của Giao Chỉ. Đến năm Gia Tĩnh thứ 21 (1542) Mạc Đăng Dung hàng, mới thuộc về nước Tàu.
Đồng trụ nếu to 2 thước ta (theo Lê Qúy Đôn) hay 3 thước ta (theo Nguyễn Trãi) thì cũng rất lớn. Mỗi thước ta bằng 0,425 mét. Như vậy 2 thước là 0,850 mét và 3 thước là 1,275 mét.
Về sau, cả người Tàu lẫn người Việt đều không biết rõ đồng trụ nói trên nằm ở đâu. Sách “Khâm Định Việt Sử Thương Giám Cương Mục” có cho biết năm 1272, nhà Nguyên đã sai Ngột Lương sang Việt Nam hỏi giới mốc đồng trụ ngày trước ở đâu. Vua Trần Thánh Tôn đã sai viên phái Lê Kính Phu đi hội đồng khám xét. Lê Kính Phu tâu với Nhà Nguyên: “Chỗ cột đồng do Mã Viện dựng lên lâu ngày bị chìm lấp, nay không thể biết ở chỗ nào được”. Việc đó sau cũng thôi. (Quyển VII, tr. 219).
Thật ra, Mã Viện không phải chỉ dựng một đồng trụ ở Cổ Sơn. Ông đã mở mang bờ cõi của nhà Hán, dựng lên một đồng trụ ở Đèo Ngang (giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình) và hai đồng trụ ở Bình Định. “Phương Đình Dư Địa Chí” của Nguyễn Văn Siêu cho biết: Sách Tần Thư Điạ Lý Chí ghi: Ở quận Nhật Nam có cột đồng từ đời Hán dựng làm địa giới. Sách Lâm Ấp Ký chép: Phía tây quận Nhật Nam có nước Tây Đồ Di, Mã Viện qua đất này dựng hai cột đồng nêu bờ cõi nhà Hán.
Quận Nhật Nam lúc đó gồm các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định ngày nay (có tài liệu cho là đến tận cửa Đại Lãnh, Phú Yên). Vùng này là bắc Chiêm Thành.
Nhìn lại, nếu đồng trụ do Mã Viện dựng để phân ranh giới Việt – Trung mà còn thì nó cũng đã nằm trên đất Tàu, vì năm 1540 Mạc Đăng Dung đã giao vùng đất Cổ Sơn, nơi có đồng trụ, cho Trung Hoa rồi. "
Nguồn : TTNC Lý học Đông phương .
5/Bài tham khảo thứ năm :
Một tư liệu có chiều hướng trái ngược nữa , chúng ta cũng nên biết .
" Một tập sách được xuất bản gần đây với lời giới thiệu là chứa đựng những quan sát có thể làm thay đổi nhận thức về đời sống tôn giáo và xã hội tại miền Bắc Việt Nam thế kỷ 18.
Cuốn "Opusculum de Sectis apud Sinenses et Tunkinenses: A Small Treatise on the Sects among the Chinese and Tonkinese" do NXB Đại học Cornell ấn hành năm 2002.
Nhan đề tập sách có thể dịch ra tiếng Việt là: "Một luận thuyết nhỏ về những giáo phái của người Hoa và Đông Kinh", dày 359 trang.
Đây vốn là ghi chép của linh mục người Ý, Adriano di ST. Thecla (1667 - 1765), người sống gần 30 năm ở miền Bắc Việt Nam trong thế kỷ 18.
Năm 1738, ông đến Đông Kinh (Hà Nội) và qua đời tại đây năm 1765.
Cuốn ghi chép của ông viết bằng tiếng Latin, có xen lẫn chữ Hán, Nôm.
Khi đang là nghiên cứu sinh của ĐH Cornell với luận án về Liễu Hạnh, bà Olga Dror tình cờ tìm thấy cuốn sách trong một kho tư liệu tại Paris.
" Cha Adriano di St. Thecla nói rõ rằng đền Bạch Mã ở trung tâm 36 phố phường Hà Nội là dành để thờ Mã Viện, vị tướng Trung Hoa thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên. "
" Thậm chí còn gây chú ý hơn là sự thảo luận của cô Dror về tục thờ Bạch Mã. Trong bản thảo, cha Adriano di St. Thecla nói rõ rằng đền Bạch Mã ở trung tâm 36 phố phường Hà Nội là dành để thờ Mã Viện, vị tướng Trung Hoa thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên.
Nếu là một dịch giả khác thì có lẽ dễ dàng bác bỏ ghi chép này và nói cha Adriano đã sai lầm ở đây - rằng hai chữ 'Mã' chẳng liên quan đến nhau, vì họ 'Mã' trong tiếng Hoa cũng được viết bằng kí tự chỉ 'con ngựa' - và nói thế cũng có lý do thuyết phục. Đối với mọi bộ óc hiện đại, thật không thể tin rằng Mã Viện, người đè bẹp cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng và là biểu tượng cho sự xâm lăng và đô hộ của Trung Hoa, lại có thể được thờ ở bất kì đâu ở Việt Nam. Với một tinh thần tươi mới và đôi mắt sắc sảo, Dror đã thực hiện một nghiên cứu sâu sắc và cho ta thấy rằng nhà truyền giáo đã không sai, mà ông đã cho ta một cơ hội để xem lại việc thờ phụng của người Việt ở một thời gian và không gian khác.
Theo Dror, các đền thờ Mã Viện tồn tại không chỉ ở Hà Nội mà cả ở Cổ Loa, cũng như Thanh Hóa và Phúc Yên. Cô còn tìm thấy rằng ở Bắc Ninh nơi người dân thờ Hai Bà Trưng, họ cũng thờ Mã Viện ở trong cùng một ngôi đền. Tất cả những điều này tìm thấy ở miền Bắc, thật kinh ngạc.
Còn ở miền Nam Việt Nam, được đặt ở các hội quán người Hoa, tục thờ Mã Viện từng được người ta tin là đã do Hoa Kiều đem vào Việt Nam. Điều này là vì tước danh của Mã Viện là Phục Ba (chinh phục sóng dữ), nó đặc biệt đáp ứng nhu cầu của các lái buôn thường gặp nguy nan trên biển, và ông là một nhân vật Trung Hoa hùng mạnh được xem là có thể bảo vệ quyền lợi của người Hoa ở Việt Nam. Nhưng như Dror chỉ ra, còn nhiều khía cạnh khác của vấn đề này. Giờ đây tôi (tác giả Li Tana) thấy rất có thể câu chuyện lại diễn ra theo hướng ngược lại, tức là người Hoa đã lấy lại tục thờ Mã Viện từ người Việt Nam, bởi khi họ đến Việt Nam, việc thờ phụng Mã Viện như một thần bản địa đã diễn ra rộng khắp. Điều này cũng giải thích vì sao Mã Viện lại được gọi là bản thổ công. "
“Ở khu Hà Khẩu (phố Hàng Buồm hiện đại thuộc về khu này) của thủ đô, có một ngôi đền Bạch Mã, và người ta bảo rằng tại đó người dân tưởng nhớ cầu chuyện về vị tướng Phục Ba Mã Viện, thuộc thời nhà Hán. Tôi vừa đến Nam quốc và không biết gì hết, vì thế tôi cũng tin đó là thật. Và khi tôi đến đền để đọc các bia, tôi thấy viết ở đó rằng linh hồn của Phục Ba, người thuộc thời nhà Hán, được thời phụng để cầu an cho đất nước và bảo vệ người dân. Tuy nhiên, không rõ từ khi nào ông được thờ phụng ở đó, nó bắt đầu thế nào và từ triều đại nào.
Tôi đánh bạo mà nghi ngờ về việc rằng Phục Ba, họ là Mã, cũng được gọi là Bạch Mã. Đâu là lý do cho điều này?”
-
- Tam đẳng
- Bài viết: 521
- Tham gia: 16:48, 30/01/10
TL: CUỘC CHIẾN TÂM LINH NGÀN NĂM CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
6/ Bài tham khảo thứ 6 .
" CAO BIỀN TẤU THƯ ĐỊA LÝ KIỂU TỰ .
Về khoa địa lý có những tài liệu quí giá cho việc khảo cứu, nhưng không thực dông nên chưa in thành sách. Lần này chúng tôi khởi giới thiệu tài liệu “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự” là tập tài liệu nói về các kiểu đất kết bên Việt nam mà Cao Biền trình về vua Đường Trung Tông. Những đất nói trong tập này có ngàn kiểu mà Cao Biền mới yểm được một số ít đất Đế vương quí địa còn cả ngàn đất Công hầu, Khanh tướng vẫn còn nguyên vẹn. Các cụ xưa giữ sách này làm gia bảo và theo nó tìm cho ra đất kết dành cho họ hàng mình dùng khi cần đến.
Xuất xứ sách
Xưa kia về đời Vua Đường Trung Tông bên Tàu có Cao Biền được phong là “An nam tiết độ sứ” sang đô hộ nước ta, là người rất giỏi địa lý được vua Tàu uỷ cho sứ mạng trình về vua biết các kiểu đất bên Việt nam và yểm phá các đất kết lớn nào khả dĩ có ảnh hưởng cho Trung Quốc.
Sau khi nhận chức và khảo sát địa lý bên Việt nam, Cao Biền thấy nước ta có nhiều đất phát rất lớn có thể tạo nên những bậc tài giái mà sự nghiệp khả dị ảnh hưởng cho Trung Quốc trong vấn đề Nam tiến biên soạn tập “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự” này trình về vua Đường đồng thời dùng phép yểm phá một số Long mạch có đất kết lớn. Truyền thuyết có nói trước khi yểm một kiểu đất nào Cao Biền thường phô đồng để kều các vị thần cai quản khu vực đó nhập vào đồng Nam, đồng Nữ rồi trừ đi sau đó mới ra yểm đất. Cũng theo truyền thuyết Cao Biền có yểm được một số ít đất lớn song cũng bị thất bại trước nhiều vị thần linh trong đó đáng kể nhất là “Tản viên sơn Thần” và “Tô lịch giang Thần” (núi Tản viên thuộc huyện Bất Bạt tỉnh Sơn tây và sông Tô lịch chảy qua Hà nội ở Ô Cầu Giấy (gần làng Láng). Đền Bạch Mã ở Hàng Lược Hà Nội là đền thờ thần Tô Lịch.
Trải qua Đường Tống đến đời nhà Minh có Trương Phô, Mộc Thạch và Hoàng Phúc là ba danh tướng Trung Hoa được Minh đế cho kéo quân sang Việt nam bề ngoài với danh nghĩa phò hậu Trần diệt Hồ nhưng bên trong có mang một kế hoạch diệt chủng người Việt và đổi nước ta thành quận huyện của Trung Quốc. Kế hoạch này tỉ mỉ và thâm độc hơn những kế hoạch tương tự mà người Hán đã làm từ xưa đến giờ.Trong số 3 danh tướng Trung Hoa này thì Hoàng Phúc là người rất giỏi địa lý có mang theo “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự” sang duyệt xét lại và yểm nốt những đất kết lớn nào còn sót lại cho Việt nam không thể còn có những thế hệ thịnh trị sản sinh ra được những nhân tài xuất chúng như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo đã làm khó khăn cho Trung Quốc như trong thời đại Lý và Trần vừa qua. May thay Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã khôn khéo và kiên trì lãnh đạo cuộc kháng Minh đến thành công sau 10 năm gian khổ. Khi bắt sống được Hoàng Phúc ta thu được toàn bộ tài liệu của kế hoạch nêu trên trong đó có cả tập “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự”.
Bây giờ tập sách này trở nên một tài liệu vô cùng quý giá cho ta trên nhiều phương diện: Sử liệu, chính trị, địa lý.
1. Trên phương diện sử liệu nó là một sử liệu cổ xưa có giá trị. Tài liệu này soạn thảo từ ngàn năm trước.
2. Trên phương diện chính trị: Nó là tài liệu chứng minh một cách cụ thể chính sách người Hán và tham vọng của họ với dân tộc Việt nam.
3. Trên phương diện địa lý: Nó là một áng văn tuyệt tác về phép mô tả các kiểu đất kết mà các cụ xưa kia thường dùng để soi sáng cho việc học “Tầm Long”. Chúng tôi đã thấy và có nghe nói nhiều đến các cụ địa lý, hơn nữa cả bọn thanh niên để cả chôc năm liên tiếp với chiếc ô (dù) và tay nải đi hết làng nọ sang làng kia, tỉnh này sang tỉnh khác nghiên cứu thực hành “Tầm Long mạch” qua sự chỉ dẫn địa danh và thế đất mô tả trong “Cao Biền địa lý tấu thư kiều tự”. Quyển địa đạo diễn ca của cụ TẢ AO mà chúng tôi biên nơi đây chú trọng đến việc tầm Long tróc mạch nên chúng tôi xin cống hiến quý bạn một phần đầu quyển “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự”.
Cao Biền đề cập đến 632 huyệt chính và 1517 huyệt bàng của các tỉnh.
Hà Đông
81 chính
246 bàng
Sơn Tây
36 chính
85 bàng
Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ
65 chính
155 bàng
Hải Dương, Hưng Yên, Kiến An
183 chính
483 bàng
Gia Lâm, Bắc Ninh, Đáp Cầu, Bắc Giang, Lạng Sơn
134 chính
223 bàng
Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình
133 chính
325 bàng
Cộng
632 chính
1517 bàng
Sách này có ghi chép tuần tự các huyệt của từng tỉnh, ghi râ nó tọa lạc tại huyện xã, ấp nào nêu các cụ ngày xưa theo đó học “Tầm Long” tróc mạch dễ dàng.
Phần đầu đề cập đến tỉnh Hà Đông trong đó có 81 huyệt chính và 246 huyệt bàng.
- Huyện Thanh Oai
9 chính
26 bàng
- Chương Đức (Chương Mỹ và Mỹ Đức)
11 chính
34 bàng
- Sơn Minh (ứng Hoà)
9 chính
26 bàng
- Hoài An
6 chính
19 bàng
- Thanh Trì
11 chính
41 bàng
- Thường Tín
11 chính
41 bàng
- Phú Xuyên
7 chính
20 bàng
- Từ Liêm
11 chính
34 bàng
- Đan Phượng
5 chính
13 bàng
Cộng
81 chính
246 bàng
ở những tay Long Hổ án sa.v..v.. của những huyệt chính thường có những huyệt kết khác nữa gọi là kết bàng. Nơi nào có ghi thêm C/B2 hay C/B3 hoặc C/B4.. ở cạnh địa danh có nghĩa là đây là huyện chính và kiểu đất này còn có 2 hay 3 hay 4 huyệt kết bàng nữa (sách chỉ nói đến huyện chính).ở đây chúng tôi chỉ giới thiệu kiểu đất ở hai huyện Thanh Trì và Chương Đức để làm tài liệu phô khảo. Chúng tôi sẽ in toàn bộ thành sách sau khi được bàn luận với các vị đã khảo sát thực tế các đất ghi trong sách “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự”
Cao biền tấu thư địa lý kiều tự
Việt tự tích Đường Trung Tông thời, Cao Biền vi Thái- sử chỉ ý tôn thời tình hữu Giao Châu chi Quận Huyện, đế tư cập úy Đà, xưng thần cự Hán chi cố sự, Cao Biền vi An Nam Đô hộ sứ. Biền tương vãng, chi thời, đế triệu nhập ngự điện vị viết. Công học địa lý tới vi linh diệu, trẫm văn: An - Nam đa hữu thiên tử quý địa, công dương dông lực ngô môc, hoặc hữu áp chi triễn binh sinh chi kinh luân thuật thánh hiền chi qui củ, đoạt thần công nhi cải thiên mệnh, nhiên vi tiễu thảo trừ căn, chi đồ thứ cơ vô hậu tệ, tường suy phong thuỷ, biến lãm sơn xuyên, nhất nhất diễn ca lập kiều, Trẫm đắc tiễn văn giả. Cao Biền thô mệnh nhi khứ, trực đế An Nam kế giữ mộc chi vi phi diện chi pháp, tự thừa kú thượng, án muông trung nhi du quan, tầm Long nhận mạch sở kiến nam quốc hình thế đại cán hành Long lưìng chi thiền chiều tịnh tiến. Nhất hữu chi Long, khởi tự ải quan, phân mao Sơn Hựu biệt sinh: tả, hữu, trung, nam nhi chi giáng, Long mạch phân chi, chi các hữu phái, tĩnh âm, tĩnh dương, Long Hổ khí chung, càn khôn đạo hợp nãi thị địa linh nhân kiệt, nguy nhiên thánh hiền, thần võ chi hồng lượng mỹ kỷ Biền tự trầm ngâm khẩu quyết, mặc thức tâm cơ, huyết mạch u huyền, cường lực dũ ra áp chi bất đắc, cố bất cảm động. Đông Tự nam hải đằng giang, Tây tự. -Tiểu khê lão cực Nam Việt Quảng Hà, Nam Xiêm Thành, Bắc Tự Quảng Hà, Đồng Xá, hệ đại huyết mạch các cụ c vi ngũ ngôn ca, kú thứ huyết mạch các cụ c, vi thứ ngôn ca, tha thư tiểu mạch giả bất túc lập luận cố sĩ hậu lai sảo tâm minh môc, quảng thị trí lực, vi khởi dô chi diệu doan túc kú.
Giao Châu Đô Hộ sứ, thần Cao Biền cẩn tấu vi bản châu địa mạch thế hình thế sự, thần hạnh phát dư sinh thao ty hà nhưìng, thượng tự thám sơn, hạ chí đại hải, ngưìng quan phủ sát, phát tận chân cá, kú tự thiên hữu, cảm bất khánh kiệt sở kiến văn, thượng tự đế vương, vương công - công hầu, vương phi, thứ thần đồng, tú tài, khoa đệ, phú quý phát vinh các cụ c trạch ca trần tấu, vi chi thị phủ, phôc khất phủ lãm giao quan chi khí, kiến văn cụ lôc.
Hà Đông
Thanh oai: 9 chính, 26 bàng
1. Đệ nhất: Thanh Oai Phong (C/A4) ấp Trung Thanh Uy hình thế tối kú thuỷ lưu tư vương, án khởi tam quy, mạch tồng hữu kết, khí địng tả y, thần đồng tiến lập, quỷ sứ, hậu, tú khôi khoa tảo chiếm, phúc lợi vinh tuy, tu phòng mạch tận, thừa sự vô nhi.
2. Đệ nhị: Cao Xá Phong (C/B2) Thanh Oai Cao Xá, chân vi qui Long, thuỷ khê tuú mạch, bình dương lái tung, hoa khai hữu Hổ, tinh hiện tả Long, sơn thuỷ trù mật khí thế sung giong, hà tu hộp hải, ngưu giác loan cung, chủ khách hoàn mỹ, tả hữu hộ tòng, hoa tâm khả hạ, thế xuất anh hùng, Vô Lăng văn khôi khoa giáp. võ tổng binh nhung, phú qíu thọ khảo, kiêm hữu kú công.
3. Đệ tam: Vô Lăng phong (C/B2) Thanh Oai bình thế khả sung, tả sơn Thuận Giang, hữu thuỷ nghịch thăng, đường tám tích ngọc, án diện phó tầng, cân thuỷ chức kết, viễn sơn từng lăng, tHổ tinh lạc sử, cát huyết thi bằng, nhược năng hiện nhận, khoa đệ diệp đăng.
4. Đệ tứ : Cổ Hoạch phong (C/B2) Thanh Oai Cổ Hoạch, đoản hình tràng nhạo, thế giắng hữu cung, mạch sinh tả giúc, bút giả sâm van đốn sang sáp ngọc, hữu thuỷ tám hoành, tả sơn hồi thác, phân minh ký cổ, la hệt thành quách, văn chủng khôi khoa, võ chuyên tướng trách, nội thế tuy giai, ngoại hình cân bách, nọa khởi nhân chiếu, nghiệt do kỷ tác.
5. Đệ ngũ: Đại Định Phong (C/B6) Thanh Oai Đại Dịnh di tích kú tung, Long hoả Hổ hoả, chủ tòng khách tòng, tiểu giang dẫn mạch, Bình địa sinh phong, sơn thuận sơn nghịch, thuỷ chủ thuỷ sung, quần sơn điệp điệp, chủng thuỷ trùng trùng, trầm hết khúc thời, tái bút giả giong, thừa dư thủ túc, huyệt tại Viên trung, văn chiếm khoa giáp, võ tổng binh nhung bằng hữu huyệt quái, âm mạch khí chung nữ phát phi hậu, phú quý xương Long.
6. Đệ lôc: Kim Bài phong (C/B4) Thanh Oai Kim Bài, lưìng phương phi lai, song đồng hoàn trì, lúc tử nhập hoại, nội hình tương ứng, nội thế tương lai, thiềm tâm khí kết, Long não tinh ta, chủ minh khách mỹ, sơn tĩnh thuỷ giai, huyệt cư trung cấp, táng pháp vô sai, võ xuất khanh tương, văn trạc khoa đài.
7. Đệ thất: Bối Khê phong (C/B2) Bối Khê chi địa hình như thào xà, sơn thuỷ chức kết, Long Hổ bài nha, văn bút đảo địa, bình dương khai da, viên phô giáng thế, giang thuỷ giao la, hà tu giới thuỷ, thiên dực loan xa, thế xuất khanh tướng, đại đại vinh hoa.
8. Đệ bát: Sinh Quả phong (C/B4) Thanh Oai Sinh Quả cát địa diệc khả, Hổ sơn Long hồi, Long sơn Hổ hoá, đại phô khí tàng, tiểu khê quan toà, bác hoàn vi ký tiễn tài lương bạ, đảo trạc khôi khoa, viên đằng thanh giá, hiềm thuỷ phân lưu, dông chung hữu xả.
9. Đệ cửu: Bảo- Đà phong (C/B4) Bảo Đà Thanh Uy thuỷ thế my thi, đại giang loan quả, tiêu thuỷ chứng quy, lôc năng chiều hội lương phương giao phi, văn tinh tiền án, viên phủ hậu thuỷ, huyệt tại chung cấp, thừa dư khả y công hầu thế xuất, hào kiệt tế thi, danh cao Hổ tưởng, vi chốn hoa dị, nhược tàng Long dịch, nữ vương phi, nam chủng khoa giáp, phát đạt vô nghi.
Chương Đức (Chương Đức và Mỹ Đức) 11 chính 34 bàng.
1. Đệ nhất: Vĩnh - Lữ phong (C/B6) Chương Đức Vĩnh Lữ ký mạch cân tự, tư thế cao sơn, chung thuỷ đệ trư huynh đệ tương đăng, quần thần tương giữ, huyệt thử túc dư, danh khôi khoa cử, thừa hưởng thiên nhiên, vô yêu trát sự.
2. Đệ nhị: Cống - Khê phong (?) Cống - Khê Chương Đức - hình thế khả kú, tứ sơn giai củng, chúng thuỷ hàm quy, Long trùng hồ điệp, chủ nghinh khách tuú, xa sinh trầm hốt, thuỷ hội nghiên trì, cao sơn thủ túc, phú quý vô nghi, nam phát võ tướng, nữ phát cung phi, nam nữ giai quý, phúc lộc vĩnh tuy.
3. Đệ tam: Thanh - Động phong (?) Chương - Đức Thanh - áng (nay thuộc ứng Hoà), canh lưìng Long lai, đại hà vệ khí, ngọc nữ hoài thai, Long Hổ Chiều Củng, hình thế phô bài, la liệt thành quách, hiệu khiết lâu đài, chử minh khách mỹ, thuỷ tĩnh sơn giai, đường thiên thuỷ đề, án cao sơn nhai, thuỷ Long dư nhũ, cát huyệt khả tài, võ sinh tướng suý, văn chiếm khoa đài đại địa cực quý đoán dịch vô sai.
4. Đệ tứ: Chi - Nê Phong (C/B2) (Nay cải tổ sơn xã Chương Đức) Chương Đức - Chi - Nê, sơn hình võ trô, Long hồi Hổ hoàn, mạch tàng khi tô, hạ hợp thương phân, tả giao hữu cố, án đới Hổ yêu phong sinh Long thử, khí kết hoa tâm, huyệt tòng Long nhũ thế xuất Công Khanh, sĩ lăng tề phô.
5. Đệ ngũ: Lai -Tảo Phong (C/B3) Chương Đức Lai Tảo địa hình diệc hảo khí như tuyến hồi, mạch như sà thảo, bình dương sơn loan, đại hà thuỷ đáo, chủ khách chuy tuú, Long Hồ hoàn bão, huyệt tại hoa tâm, Mạc tài Long não, thế xuất Công khanh phú quý (xuất) cảo.
6. Đệ lôc: Tiểu ứng Phong (C/b3). Tiểu - ứng Chương Đức, Phượng tường lưìng dực thuỷ tô trùng trùng, sơn sai sực sực, vạn thuỷ thiên sơn, tam hoành tứ trực, thảo vị khí tài, hoa tâm khả thực, văn võ phát vinh, tam công vi cực, phú quý thời ưu, đại đại phó tức.
7. Đệ thất: Liễu - Nội phong (C/B5). Liễu Nội chí địa, thị diệc quý Long, âm sơn bái tướng, dương sơn phú trung, Long hoá Hổ hoá, Long trùng Hổ trùng, chúng thuỷ lưu trữ, quần sơn la tung, huyệt tại thượng phúc, võ chí hậu phong, nữ phát hậu phi, phú quý xương Long, trung hữu cát huyệt, án đới thanh Long, tam thai chu tước, văn sĩ tam công.
8. Đệ bát: Tràng - Cốc phong (C/B6) Địa danh tràng - cốc, hình như phượng hoàng, nội kú, ngoại cổ, tiền cương, hậu giang, Long Hổ hoàn não, chủ khách huy hoàng, bình nguyên thuỷ diệu, viên phô khí tàng, thế xuất võ tướng, vị chí hầu vương.
9. Đệ cửu: Yên - Ninh phong (C/B2) Chương Đức yên Ninh, khí tô Long đình, tả toàn hữu cố, Hổ ẩn Long sinh, sơn họp thuỷ chỉ, khách tựa chủ nghinh, huyền quy ứng hậu, chu tước bái đình, huyệt tại chung cấp, Công hầu phát sinh kế thế võ tướng, kiêm vương nhân đinh.
10. Đệ thập: Do - Lễ phong (C/B2) Chương Đức Do - Lề, chân Long sở sỹ chi đại lâm loan sơn, thâm dầm chú thuỷ, tiểu giang tế Long, đại hà dưìng khí, Long Hổ bài nha, quân thần giao hỷ, huyệt tại Viện trung, Công hầu đăng đối, phú quý kiêm ưu, khả vi toàn mỹ
11. Đệ thập nhất: Chúc - Sơn phong (C/B1) Chương Đức Chúc - Sơn (nay thuộc Chương Mỹ) Hổ Long hồi hoàn, tiền hữu thuỷ chữ hậu hữ sơn loan, đại hà dẫn mạch, hồng kú chấn quan, hình thế tương hợp, chủ khách tương hoàn, huyệt tai chung phúc, thế xuất cao quan, võ đa văn thiểu, văn toán chiêu ban.
Sơn Minh (ứng Hoà) 9 chính 26 bàng
1. Đệ nhất: Xà - Kiều phong (C/B4) Sơn Minh Xà Kiều hình như phượng vũ, giang lưu thoát tung, tinh phong nhạc nhũ, thiên thể dung tâm, địa khí danh ngũ, Hổ báo Loan đầu, Long đoàn cung thủ, khanh tướng thời sinh, khả văn, khả vũ, vị liệt thai đặc danh cao suý phú.
2. Đệ nhị: Lưu - Khê phong.(C/B2) Sơn Minh Lưu Khê, án chính sơn tề, quy tàn bích động, hoa thì kim chỉ, sơn thuỷ loan cung Long Hổ giao thi, âm lai dương thô, huyệt tòng tả y: thế xuất Khanh tướng, phát lộc trùng lai.
3. Đệ tam: Đông - Phỉ phong (C/B2 Sơn Minh Đông Phi Long Hổ giao tý, tứ thuỷ nhập hoài, bát thần vệ khí tam cấp mạch sinh, ngũ thốn sơn trỉ huyệt tại thừa dư, chủ đăng khoa sỹ, vị liệt Công khanh, phúc lộc phú quý.
4. Đệ tứ: Tảo- Khê phong (C/B4) Tảo - Khê chân Long hình thể sung giong, Long bàn Hổ hoá, thuỷ tam sơn cùng đại khê dẫn mạch, bình địa sinh phong, tam thai hoãn trí, chúng thuỷ chiều, cung thiên chung viên tọa, thế thượng bầu công, đại đại phú quý, phúc lộc xương Long.
5. Đệ ngũ: Dương - Khê phong (C/B7) Dương khê chí địa, hình thế khả quan, sơn chỉ thuỷ tô, Hổ cứ Long bàn, tiền phân tam thuỷ, hậu ứng quần sơn, tả hữu đang đối, chủ khách tương hoan, hoa tâm khả hạ, thảo vi khá an, thế xuất khanh tướng, phú quý bình an.
6. Đệ lục: Đông - Dương phong (C/B1) Sơn Minh Đông Dương. Thế giáng bình dương, Long vệ tống mạch, Hổ báo chiều tương, kú cổ bài liệt, hình thế la chương, sơn tòng hữu đáo, dứt giá Long bàng, huyệt tại chung cấp, thừa khí khả tàng, thế xuất khoa, giáp vi cận quân vương.
7. Đệ thất: Tử Dương phong (C/B3) Sơn Minh Tử Dương, thế chính hình ngang, thuỷ đàm Long khẩu, sơn dôc Hổ giáng, thuỷ chiều sơn bão, thai án châu trang, tả hữu trù mật, chủ khách huy hoàng khí thuú dư tức huyệt tại cung tràng, thế xuất Khanh tướng, cần hậu quận vương, nhược thuỷ viên nhũ, khi phát phi hoàng, nam nữ toàn mỹ, phú quý vinh xương hiện như bất thực, khủng sinh bất tường (có giả huyệt) tất thô tai ương.
8. Đệ bát: Đạo Tú phong (C/B4) Sơn Minh Đao Tú, Long hoàn Hổ cố, hình thế bài nha, khí mạch ngưng chủ hữu sơn bái chiều, tả giang chiều hộ, thuỷ nội ấn phù, đường tâm khí huyệt tại Tốn sơn, thời sinh tể phô, thuận nghịch lượng thủ, nam nữ cẩn ưu, tùy thích an.
9. Đệ cửu: Sơn Minh phong (C/B3) Sơn Minh khí chuẩn Long Hổ phù cung đại giáng chiết thuỷ, bình dương lại tung, hoa khai đoá đoá, tinh hiện trùng trùng, khi trông thảo vĩ, huyệt tại viên chung, chử phát Khanh tướng đại đại vô cùng.
“....Những ngôi đất kết có ngôi chỉ phát âm phần (mả) lại có ngôi chỉ phát về dương cơ (làm nhà) Đất phát âm dùng lợi cho sự chôn xương xuống đất và đất phát dương cơ lợi cho sự làm nhà lên trên, đất dương cơ nhá dùng làm nhà còn to rộng lợi làm doanh trại, rộng hơn nữa lợi cho sự làm thị trấn đô thị hoặc kinh đô”.
Cao Trung " .
7/ Bài tham khảo thứ 7 .
Trích từ http://vi.wikipedia" target="_blank
" Cao Biền (tiếng Trung: 高駢; tự Thiên Lý (千裏); 821–887) là một viên tướng của nhà Đường, ông là người thay mặt cho nhà Đường cai quản Giao Châu (tên gọi khi đó của Việt Nam) từ năm 866 đến năm 875 với chức vụ tiết độ sứ. Sau lại làm phản nhà Đường và bị giết năm 887. Tổ tiên là người Bột Hải (Mãn Châu), sau di cư đến U Châu.
Cuộc đời
Cao Biền người gốc Bột Hải (Mãn Châu), sau ngụ U Châu. Cha là Cao Thừa Minh , ông nội là Nam Bình quận vương Cao Sùng Văn, thời Đường Hiến Tông Lý Thuần (806-820) là một danh tướng, chỉ huy cấm quân. Từ khi còn nhỏ, Cao Biền đã là người rất chịu khó trau dồi về văn học. Giao du với các nho sĩ, ông thường bàn luận đường lối chính trị một cách rắn rỏi. Cao Biền theo Chu Thúc Minh, làm tư mã. Cao Biền làm quan, được thăng dần đến hữu thần sách đô ngu hậu, sau vì có công, lại được thăng làm phòng ngự sứ Tần Châu. Những năm đầu thời Đường Ý Tông (859–873), Cao Biền chỉ huy quân tại biên cương phòng chống người Đảng Hạng và Thổ Phồn, kiêm Tần Châu thứ sử.
Năm Hàm Thông thứ bảy (866), Cao Biền sang trấn thủ Giao Châu, làm Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, cai quản cả Giao Châu và Quảng Châu. Năm Càn Phù thứ hai (875) đời Đường Hi Tông (873–888), nhà Đường chuyển ông đến cai quản Tây Xuyên. Cao Biền là người nghiêm khắc nhưng lạm dụng hình phạt, lạm sát cả người vô tội. Tuy vậy, trong thời gian cai quản Tây Xuyên ông đã có công lui quân Nam Chiếu.
Năm Càn Phù thứ sáu (879) quân đội của Hoàng Sào từ bờ nam sông Hoàng Hà tiến về phía tây, triều đình nhà Đường điều Cao Biền đến làm Trấn Hải Quân tiết độ sứ (ngày nay là Trấn Giang, Giang Tô). Quân của Hoàng Sào chuyển hướng tiến về hướng nam tới Chiết Giang. Tháng 5 năm Quảng Minh thứ nhất (880) tại Tín Châu (ngày nay là Thượng Nhiêu, Giang Tây) quân Hoàng Sào giết chết Hoài Nam tiết độ sứ (ngày nay là bắc Dương Châu, Giang Tô). Tháng bảy, quân Hoàng Sào vượt qua Trường Giang. Cùng năm, quân Hoàng Sào từ Quảng Châu (ngày nay thuộc Quảng Đông) tiến lên phía bắc tới khu vực Giang-Hoài, Cao Biền khiếp sợ uy thế Hoàng Sào, chỉ cố thủ Dương Châu, dù binh lực có trên 100.000 để bảo tồn lực lượng. Quân Hoàng Sào tiến vào Trường An, Đường Hi Tông khẩn cấp điều Cao Biền đem quân cứu giá, nhưng Cao Biền không tuân lệnh của nhà Đường mà lại cát cứ một phương. Năm Trung Hòa thứ hai (882), nhà Đường bãi miễn Cao Biền.
Về già, Cao Biền trở nên tin vào phép thuật thần tiên, trọng dụng thuật sĩ làm lòng người ly tán, tướng cai quản Hoài-Nam là Tất Sư Đạc rất lo sợ, năm Trung Hòa thứ năm (885) Cao Biền tạo phản, nhà Đường cử Tuyên Châu quan sát sứ là Tần Ngạn trợ chiến với Tất Sư Đạc. Năm Quang Khải thứ ba (887), Tất Sư Đạc xuất quân từ Cao Bưu, hợp cùng các tướng khác tấn công Dương Châu. Cao Biền phái người đi cầu cứu Dương Hành Mật, nhưng người của Cao Biền chưa tới nơi thì thành Dương Châu đã bị phá, Cao Biền bị bắt làm tù nhân, một thời gian sau bị Tần Ngạn, Tất Sư Đạc giết chết.
Tại Giao Châu
Năm Ất Dậu (865) Cao Biền được nhà Đường cử là đại tướng họp cùng giám quận là Lý Duy Chu đem quân sang đóng ở Hải Môn để giải quyết vấn đề Nam Chiếu. Cao Biền sinh ở cửa tướng lại là tay văn học uyên thâm dẫn 5000 quân làm tiền đạo và ước cùng Lý Duy Chu điều động quân hậu viện tiến sau. Lý Duy Chu không muốn Cao Biền thành công, và biết rằng Cao Biền giàu mưu lược, có tài quân sự ắt sẽ thắng trận. Nam Chiếu tuy đông nhưng man mọi và ô hợp, chiến đấu lại không có phương pháp. Y chỉ còn cách không đem quân tiếp viện để Cao Biền hao mòn dần thực lực mà thất bại. Cao Biền cất quân đi rồi, Lý Duy Chu vẫn cứ đóng binh nguyên vẹn tại chỗ.
Giám quận nhà Đường là Trần Sắc lại phái thêm 7.000 quân do tướng Vi Trọng Tể điều khiển sang tăng cường cho đoàn quân viễn chinh của Cao Biền. Bấy giờ Cao Biền mới xuất trận đã thắng được Nam Chiếu mấy kỳ, và tháng 6 năm 866 cho báo về Trung Quốc. Tháng 9 năm thứ 6 niên hiệu Hàm Thông (865), Cao Biền đánh úp quân Nam Chiếu đang gặt hái ở Phong Châu (Vĩnh Yên) và cướp thóc lúa đem về nuôi quân.
Biết tình thế khó khăn, vua Nam Chiếu phái Đoàn Tú Thiên làm tiết độ sứ đất Thiện Xiển (kinh đô riêng của Nam Chiếu ở tây bắc Giao Châu), phái Dương Tư Tấn đến giúp Đoàn Tú Thiên giữ Giao Châu, và cho Phạm Nê Ta làm đô thống phủ đô hộ.
Tin báo thắng trận của Cao Biền đến Hải Môn thì bị Lý Duy Chu chặn lại. Triều đình Trung Quốc lâu không thấy tăm hơi của Cao Biền liền cho hỏi Lý, Lý nói dối rằng Cao Biền vẫn không chịu xuất quân và án binh bất động ở Phong Châu. Thực ra lúc đó Cao Biền đã phá được quân Nam Chiếu, hàng được hơn 1 vạn quân, và đang vây hãm quân Nam Chiếu ở La Thành quá 10 ngày. Trong lúc đó Đường Ý Tông phái Vương Án Quyền và Lý Duy Chu tới thay họ Cao, và trước khi về kinh, Cao Biền đã phái Tăng Cổn về Trung Quốc trình bày tin tức thắng trận và mọi sự hãm hại của họ Lý. Sau khi giao binh quyền, Cao Biền cùng 100 thủ túc lên đường. Khi vua Đường hiểu rõ manh mối, Cao Biền được thăng chức kiểm hiệu công bộ thượng thư và được quay gót về Giao Châu tiếp tục việc đánh dẹp. Trong lúc này Vương Án Quyền và Lý Duy Chu mới đánh thành. Vương Án Quyền thì nhút nhát còn Lý Duy Chu lại tham lam tàn ác nên tướng tá không phục, nhờ vậy quân Nam Chiếu giải được vòng vây 2 lần trốn thoát quá nửa.
Đến khi Cao Biền trở lại, tháng 4 năm Hàm Thông thứ 7 (866) thì hạ được thành, đánh bại được Dương Tư Tấn, chém được Đoàn Tú Thiên, Phạm Nê Ta, Nạc Mi và Chu Cổ Đạo là thổ mán đã làm hướng đạo cho Nam Chiếu cùng sát hại hơn một nửa quân Nam Chiếu. Cao Biền lại đánh phá 2 động thổ mán đã theo Nam Chiếu và giết tù trưởng. Tháng 11 cùng năm, nhà Đường đặt Tĩnh Hải quân, dùng Cao Biền làm tiết độ sứ kiêm hành doanh chiêu thảo sứ các đạo. Bắt đầu từ đấy, Giao Châu đổi tên thành Tĩnh Hải quân tiết trấn.
Xét ra Giao Châu bị nạn Nam Chiếu ròng rã 10 năm vô cùng tai hại. Từ đó Cao Biền ở lại Giao Châu làm tiết độ sứ. Sau khi Nam Chiếu bại trận được vài năm, Trung Quốc bị loạn. Nam Chiếu lại lợi dụng cơ dấy quân. Vua Đường muốn phương nam được ổn định nên điều đình gả công chúa cho vua Nam Chiếu. Nam Chiếu liền cử một phái bộ đặc biệt sang đón công chúa trong đó có mấy thượng tướng. Cao Biền gửi mật thư cho vua Đường bảo trong phái bộ có 3 nhân vật cao cấp nhất là linh hồn của Nam Chiếu nên đầu độc họ để trừ hậu họa, sau này Nam Chiếu có phục hồi được ắt cũng còn lâu. Vua Đường y lời cho đánh thuốc độc vào rượu, các sứ giả Nam Chiếu bỏ mạng nhờ vậy nhà Đường giữ Giao Châu thêm một giai đoạn .
Cao Biền khởi việc xây thành đắp lũy ở các nơi biên cảnh để đề phòng giặc giã. Một kỳ công của ông là việc dựng lên thành Đại La bên bờ sông Tô Lịch. Thành này bốn mặt dài hơn 1.982 trượng, cao 2 trượng 6 thước. Bên ngoài thành có một con đê chạy theo để bao bọc lấy thành. Đê dài hơn 2.125 trượng 8 thước, cao 1 trượng rưỡi, dầy 2 trượng. Trong thành có tới 20 vạn nóc nhà. Sự sống của nhân dân rất là sầm uất. Ông lại khai phá các ghềnh thác để mở rộng đường thủy cho các thuyền bè buôn bán đi lại.
Về mặt cai trị, ông cũng có một chính sách rõ rệt tránh được mọi điều nhũng lạm của bọn thừa hành. Ông đã gây được thiện cảm giữa ông và dân chúng cho nên được tôn là Cao Vương. Ông lập các sở thuế để có tiền chi dụng.
Năm Ất Tỵ (875) vua Đường đổi Cao Biền đi làm tiết độ sứ tại Tây Xuyên (tỉnh Tứ Xuyên) và ưng thuận lời đề nghị của Cao Biền cho Cao Tầm (cháu Cao Biền) thay thế ở phương nam.
Thành Đại La
Thành Đại La ban đầu do Trương Bá Nghi cho đắp từ năm Đại Lịch thứ 2 đời Đường Đại Tông (767), năm Trinh Nguyên thứ 7 đời Đường Đức Tông (791), Triệu Xương đắp thêm. Đến năm Nguyên Hòa thứ 3 đời Đường Hiến Tông (808), Trương Chu lại sửa đắp lại, năm Trường Khánh thứ 4 đời Đường Mục Tông (824), Lý Nguyên Gia dời phủ trị tới bên sông Tô Lịch, đắp một cái thành nhỏ, gọi là La Thành, sau đó Cao Biền cho đắp lại to lớn hơn. Theo sử cũ thì La Thành do Cao Biền cho đắp có chu vi 1.982,5 trượng (≈6,6 km); thành cao 2,6 trượng (≈8,67 m), chân thành rộng 2,5 trượng (≈8,33 m), nữ tường[5] bốn mặt cao 5,5 thước (≈1,83 m), với 55 lầu vọng địch, 6 nơi úng môn[6], 3 hào nước, 34 đường đi. Ông còn cho đắp đê vòng quanh ngoài thành dài 2.125,8 trượng (≈7,09 km), đê cao 1,5 trượng (≈5,00 m), chân đê rộng 2 trượng (≈6,66 m) và làm hơn 400.000 gian nhà. Theo truyền thuyết, do thành xây đi xây lại vẫn bị sụt ở vùng sông Tô Lịch, Cao Biền đã cho trấn yểm tại đây để làm cho đất vững và chặn dòng long mạch của vùng đất này. Các di chỉ tìm được trong lòng sông tháng 9 năm 2001 được một số nhà nghiên cứu cho là di tích của bùa yểm này (xem Thánh vật ở sông Tô Lịch).
Người vợ
Theo thần phả ở Hà Đông, Cao Biền có một người vợ là Lã Thị Nga (Lã Đê nương) , theo ông từ phương bắc sang Việt Nam. Bà không ở cùng Cao Biền trong thành mà ra ở bên ngoài, khu vực ngày nay là thị xã Hà Đông. Bà đã truyền nghề dệt lụa cho dân ở đây và trở thành bà tổ nghề dệt lụa Hà Đông. Sau khi Cao Biền về bắc, bà ở lại Tĩnh Hải quân. Sau nghe tin Cao Biền mất ở Trung Quốc, bà gieo mình xuống sông tự vẫn. Dân lập đền thờ bà ở bờ sông.
Đền thờ
Bản sách TT-TS FQ 40 18/X11, 11, Viện Thông tin Khoa học Xã hội - Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam - Ngọc phả Thần tích do Hàn lâm Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn năm Nhâm Thân – 1572 và Sách Thành Hoàng Việt Nam của Phạm Minh Thảo, Trần Thi An, Bùi Xuân Mỹ - NXB Văn hóa Thông tin 1997 viết: Năm ấy, Vương dẫn quân từ biển Đông Hải vào Giao Châu đánh giặc Nam Chiếu. Khi hành quân qua Nam Trì thấy bản doanh xưa kia của hai vị Lang Công, Bảo Công và đền thờ hai ông, lại thấy đất đai có hình thế quý, nhà cửa ở đây huy hoàng. Đền thờ ở thế đất rất quí Phượng Hoàng Hàm thư biết chắc là thần linh đền thiêng bèn cho dừng xe, đóng đồn ở đây và trú đêm ở đền. Đêm đến Vương vào trong điện khấn: “Nay thần tiến binh đánh giặc Nam Chiếu, hai vị linh Thần có anh linh thì xin phù hộ giúp quốc gia, tiễu trừ quân giặc. Sau này thành công hẳn được bao khen, sắc phong cúng tế, xin quân thần sau này một chốn, cùng phối hưởng lâu dài, há phải dài dòng, khấn cầu từ hay ý đẹp”. Nửa đêm, Vương chiêm bao thấy hai vị tướng đường đường, đầu đội mũ trăm sao mặc sán lạn, long bào giáp ngọc huy hoàng. Một vị cưỡi ngưạ trắng, cao hơn bảy thước tay cầm siêu đao vàng, một vị cưỡi hổ vàng tay cầm búa việt. Vương bèn hỏi: “Ngài là danh tướng nào vậy” Một vị xưng: “Thần gốc là Trung Thiên Bảo Quốc”, vị kia xưng: “Thần gốc là Trung lang Tế thế, đều là đại thần, tướng nhà Triệu thời xưa, nay thấy vương đem quân đi đánh giặc, chúng ta tình nguyện theo vương đánh giặc, âm phù tả hữu giúp cho vương thắng giặc, xin vương chấp thuận”. Thần vừa dứt lời thì Vương tỉnh giấc, biết là kỳ mộng báo trước sẽ thỏa nguyện công thành. Hôm sau, ngày 10/3 nhân dân Nam Trì hành lễ chúc mừng. Vương bèn truyền cho phụ lão Nam Trì: “Ta phụng mệnh Đường vương nhậm chức Đô hộ nước Nam. Nay giặc Nam Chiếu xuất sư dấy binh xâm phạm, vì thế ta tiến quân qua đây. Ngắm nơi đây thấy địa thế quan kỳ, có thế đất rất quí. Đền thờ được dựng chính giữa khu có thế Phượng Hoàng hàm thư nên nhân dân nhất định giàu có, phát nhiều công hầu”. Rồi cho dựng hành cung ở khu Ngọc Khê.
Tại trang Nam Trì có gia đình Phạm tên húy của ông là Tố, lấy vợ người gốc Nam Trì là Trần Thị Phương ở Ngọc Khê. Năm bà Trần Thị 21 tuổi nằm mộng vào chùa Hương Tích gặp Phật Bà Quan Âm hiện lên cho một cặp nhẫn vàng. Rồi bà có mang. Đến rằm tháng hai (15/2) năm Bính Thìn đẻ sinh đôi hai cô con gái. Khi đẻ hai nàng tố nữ, có con công ngũ sắc múa lượn trước sân nhà, hương thơm toả ra thơm nức. Lớn lên hai cô xinh đẹp tựa Hằng Nga, thể diện bồng đảo , nét mặt vui tươi như trăm hoa đua nở, mắt sáng long lanh tựa ngọc. Đến khi được hai tuổi cha mẹ đặt tên cô thứ nhất là A Lữ và cô thứ hai là Lự nương. Hai chị em trưởng thành thì tam tòng tứ đức nữ công bách hạnh, tam tòng tứ đức đủ đầy, công dung ngôn hạnh, tài giỏi hơn người. Ca kịch, thư họa, múa hát thanh sắc đều tuyệt vời. Năm 21 tuổi, khi Vương đang đang dựng hành cung, hai cô đến xem. Nhác trông thấy hai chị em có vẻ mặt yêu kiều lộng lẫy hơn người, Vương nghĩ đây là người thỏa nguyện toại lòng đây. Rồi Vương cho triệu vợ chồng họ Phạm đến bàn chuyện cưới hỏi. Ông bà đồng ý gả hai cô cho Vương. Vương cho mang bốn trăm thoi vàng dẫn cưới, cho dựng cung nương lưu tồn tồn đến đời sau gọi là hành cung Ngọc Khê. Năm ấy là năm Ất Dậu (865), Giám quận Lý Duy Chu ghanh ghét, không hiệp đồng, lại có âm mưu hãm hại Vương. Với năm nghìn quân tiên phong và bảy nghìn quân tăng cường của tướng Vi Trọng Tể, Vương vẫn tiến quân thẳng đánh Nam Chiếu. Khi giao chiến, trời đột nhiên tối sầm, sấm sét nổi lên dữ dội, hai vị thần Bảo Công, Lang Công hiện về, hỗ trợ hai bên tả hữu làm cho quân giặc chạy toán loạn, Chỉ một trận lớn, Cao Vương đã dẹp tan quân Nam Chiếu, lấy lại được Giao Châu. Dẹp yên được giặc, ngày 10/7 Vương trở lại hành cung Ngọc Khê. Dân làng hành lễ chào mừng tại trụ sở hội đồng nơi thờ phụng hai vị thần Lang Công, Bảo Công. Vương lại truyền rằng: “Cùng tại nơi phát lộ đền chính thờ hai vị Thần này, ta cũng hai vị quân thần mở hội lễ mừng vạn năm không thay đổi. Một lần nữa ta xin nói, ta phụng mệnh vua Đường làm Đô hộ nước Nam. Vừa qua giặc Nam Chiếu xâm phạm, làm cho nhân dân lầm than khổ cực. Ta mang quân đi tiễu trừ quân giặc qua nơi đây thấy thế đất cực quý, Thần thờ trong đền rất linh thiêng. Quả nhiên đêm về, hai vị linh Thần hiện lên xin tòng chinh hộ quốc. Ta có một nguyện ước cùng duyên phối hưởng như anh em chí tình. Tuy âm dương hai ngả nhưng chung một nguyên khí; tuy Nam Bắc hai phương nhưng đều chung một Trời nghĩa khí. Nên nay ta có ước nguyện làm anh em với hai vị quân thần, cùng xứng đáng hương hỏa vạn năm. Vì vậy, ta tuyên bố nước Nam sẽ lưu danh thơm bất hủ vạn năm”. Nói xong Vương ban vàng ngọc cho dân làng làm công quĩ. Sau cho tu sửa đền thờ và xây thêm Vọng cung làm chỗ tế lễ hai vị Thần. Tế lễ xong, Vương rước hai phu nhân về Tĩnh Hải vương phủ.
Sau Vương cho xây đồn ải ở biên thuỳ, chỉnh đốn việc công, đặt sổ sưu thuế thu cho việc công đầu tiên ở Giao Châu, đặt ra phép tắc; trị thủy sông ngòi xây dựng hải cảng để thông thương các nước, thương mại giao lưu… Thời kỳ Cao Vương trị nhậm, thiên hạ thái bình, nhân dân an cư, lạc nghiệp, phú túc; mọi người kính phục nên gọi Cao Vương. Làm Tiết độ sứ Giao Châu 9 năm, Hoàng đế nhà Đường triệu Cao vương về Bắc quốc cử làm quan Thái thú kinh Bình Châu quốc được 10 năm. Vương hoá ngày 10/8 năm Quý Tỵ (năm 887?). Tại nước Nam, nhớ ơn công lao to lớn của Vương, nhiều nơi đã lập đền thờ Vương.
Sau triều đại sau đều phong Cao Vương là Quốc vương Thiên tử, Bảo Công (Tể tướng Lữ Gia) là Trung Thiên Bảo quốc, Lang Công (Tướng Nguyễn Danh Lang) là Trung lang Tế thế. Các triều đại ba vị Thần đều giúp dân giúp nước hiển linh ứng báo nên đều được sắc phong mỹ tự, duệ hiệu Thượng đẳng Phúc thần. Nhà Lê sắc phong ba vị là Tá trị Hựu Thánh, Cương trực hiển Thánh và Dũng lược Quả đoán; chuẩn cho Nam Trì lập đền chính phụng thờ ba vị, định kỳ cúng tế bốn vị Thần vào các ngày sinh, ngày hóa và các ngày Khánh hạ gồm chữ húy, quần áo, thờ phụng.
Còn về hai vị phu nhân, sau khi Vương về Bắc quốc thì về quê dựng chùa nhỏ xuất gia, đi tu và bỏ tiền ra mua ruộng đất làm tự điền để sống. Đến ngày 15/11 hai bà làm lễ Phật rồi hoá. Dân làng an táng hai bà tại phía tây hành cung và lập miếu thờ tại khu Bảo Tàng (nay là đất Nam Trì).
Các truyền thuyết
Với Cao Biền, ngày nay ở dân gian Việt Nam vẫn còn những truyền thuyết hoang đường, như cho rằng Cao Biền thấy ở đất Giao Châu có nhiều kiểu đất đế vương, nên thường cưỡi diều giấy bay đi xem xét, rồi dùng phép thuật phá những nơi có hình thế sơn thuỷ đẹp, và chặn những đất có long mạch bằng cách đào những giếng khơi rất sâu.
Mỗi khi thấy người nào sức yếu, tay chân cử động run rẩy, người ta hay sử dụng câu gần như đã là thành ngữ: Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non. Người ta giải thích là Cao Biền có phép thuật "tản đậu thành binh", nghĩa là mỗi khi cần có quân lính đi đánh dẹp, không cần mộ người chỉ cần rắc đậu vào một bãi đất, rồi ủ kín, đọc thần chú rồi mở ra, mỗi hạt đậu hóa thành một người lính. Có lần Cao Biền đọc thần chú còn thiếu, khi mở ra những hạt đậu đã thành lính nhưng đều còn non chưa đủ sức, đứng lên không vững.
Một thuyết khác giải thích về Cao Biền dậy non là khi Cao Biền sang nước Nam với mục đích yểm bùa và triệt hạ long mạch thì ông có nuôi 100 âm binh để phục vụ mục đích này. Để nuôi đủ 100 âm binh Cao Biền nhờ một bà hàng nước mỗi ngày thắp một nén hương để gọi dậy một âm binh. Khi thắp đủ 100 nén hương trong vòng 100 ngày sẽ gọi dậy được đủ 100 âm binh. Nhưng bà lão nước Nam đã phá âm mưu của Cao Biền bằng cách thắp cả một lượt 100 nén hương trong vòng 1 ngày. Kết quả là âm binh của Cao Biền đã dậy đủ 100. Nhưng vì không đủ ngày, dậy non nên không có tác dụng.
Truyền thuyết dân gian kể rằng khi sang Giao Châu, Cao Biền thấy long mạch rất vượng, nên muốn phá đi, thường mặc áo phù thủy, cưỡi diều giấy đi khắp nơi để xem địa thế, hoặc giả tảng lập đàn cúng tế để lừa thần bản địa đến rồi dùng kiếm báu chém đầu, xong đào hào, chôn kim khí để triệt long mạch. Cao Biền có lần đến núi Tản, định dùng chước này, nhưng Tản Viên sơn thánh biết được, liền mắng Cao Biền rồi đi.Truyền thuyết núi Cánh Diều ở thành phố Ninh Bình kể rằng Cao Biền thường cưỡi diều giấy đi dò phá long mạch nước Nam, khi bay đến đất Hoa Lư đã bị một đạo sĩ cùng nhân dân ở đây dùng tên bắn, Cao Biền bị trọng thương, diều gãy cánh rơi xuống một hòn núi, từ đó hòn núi mang tên là núi Cánh Diều.
Xét ra, theo sử Trung Quốc, chính Cao Biền khi về bắc bị cấp dưới là Lã Dụng Chi cuốn vào những trò ma thuật phong thủy và trở thành nạn nhân của những trò pháp thuật đó. Nếu là thày phong thủy cao tay, ông phải là người đi mê hoặc người khác, không thể bị mê hoặc và bị chết bởi thuật này.
Sự tích đền Bạch Mã
Chuyện kể rằng Cao Biền đắp La Thành, mấy lần bắt đầu đều bị sụt lở. Một đêm, Cao Biền đứng trên vọng lâu nhìn ra, thấy một vị thần cưỡi ngựa trắng chạy đi, chạy lại như bay, rồi bảo Cao Biền cứ theo vết chân ngựa chạy mà đắp thành. Vì vậy, sau khi đắp thành xong, Cao Biền cho lập đền thờ vị thần ấy ở ngay nơi hiển hiện, gọi là đền Bạch Mã. Đền thờ này ngày nay vẫn còn ở phố Hàng Buồm, Hà Nội. Chuyện này còn có dị bản khác nói rằng Cao Biền đã cho đắp thành Đại La. Một hôm, Cao Biền ra chơi ngoài cửa đông của thành, chợt thấy trong chỗ mây mù tối tăm, có bóng người kì dị, mặc áo hoa, cưỡi rồng đỏ, tay cầm thẻ bài màu vàng, bay lượn mãi theo mây. Cao Biền kinh sợ, định lấy bùa để trấn yểm. Bỗng đêm hôm ấy thấy thần báo mộng rằng:Ta là tinh anh ở Long Đỗ, nghe tin ông đắp thành nên đến để hội ngộ, việc gì mà phải trấn yểm?
Cao Biền lấy làm kỳ lạ, bèn lấy vàng, đồng và bùa chôn xuống để trấn yểm. Chẳng dè, ngay đêm đó mưa gió sấm sét nổi lên dữ dội, sáng ra xem, thấy vàng, đồng và bùa trấn yểm đều đã tan thành cát bụi. Cao Biền sợ hãi, bèn lập đền thờ ở ngay chỗ ấy và phong cho thần là thần Long Đỗ.
Sau này Lý Thái Tổ dời kinh đô đến đất này, đổi gọi Đại La là Thăng Long. Nhà vua sai đắp lại thành, nhưng hễ thành đắp xong lại lở, bèn sai người đến cầu đảo thần Long Đỗ. Chợt người cầu đảo thấy có con ngựa trắng từ trong đền đi ra, dạo quanh thành một vòng, đi tới đâu, để vết chân rõ ràng tại đó và cuối cùng vào đền rồi biến mất. Sau nhà vua cứ theo vết chân ngựa mà đắp thành thì thành không lở nữa, bèn nhân đó, phong làm thành hoàng của Thăng Long. Các vua đời sau cũng theo đó mà phong tới Bạch Mã Quảng Lợi Tối Linh Thượng Đẳng Thần
Ghi chú
^ a b Cựu Đường thư, quyển 182 Cao Biền liệt truyện
^ Đại Việt Sử ký Toàn thư, Ngoại kỷ, Quyển V, Kỷ thuộc Tùy-Đường
^ a b c d Cao Biền (高骈) trên Bách độ Bách khoa
^ Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, quan chế đời Đường, các tiết độ sứ đều có hành quân tư mã, và ở mỗi châu lại có đặt một tư mã, cấp bậc bằng chức đồng tri phủ đời sau. Vậy chức tư mã Cao Biền làm đây là hành quân tư mã, chứ không phải là tư mã trong tam công
^ Bức tường nhỏ đắp trên tường thành lớn hay đê con chạch đắp trên mặt đê chính
^ Thứ thành đắp vòng ngoài cửa thành .
8/ Bài tham khảo thứ 8 .
Chùa Thiên Mụ và Cao Biền
Chuông Thiên Mụ nổi tiếng cả nước với tiếng ngân vang xa rộng của nó. Quả chuông này do chúa Hiến Tông (Nguyễn Phúc Chu) cấp tiền đúc vào năm Canh dần (1750). Tiếng chuông chùa Thiên Mụ biểu trưng cho sự hiện diện của Phật giáo hằng ngày, sớm và chiều tại cố đô Huế, trong lòng mỗi người dân tại cố đô Huế. Thiên Mụ là bà lão nhà Trời. Theo truyền thuyết, Cao Biền khi làm An Nam đô hộ phủ ở nước ta, dưới đời nhà Đường, theo lệnh vua Đường là Đường ý Tôn (860-873), đã đi khắp nơi ở nước ta, tìm những nơi đất tốt có vượng khí, đều lập phép trấn yểm. Cao Biền đã đến Thuận Hóa, xã Hà Khê, huyện Hương Trà, thấy giữa đồng bằng đột khởi một cái đồi hình đầu rồng, biết là nơi linh địa, bèn cho đào hào cắt ngang dưới chân đồi. Đêm đến, Biền mộng thấy một bà lão tóc bạc phơ, ngồi dưới chân đồi than vãn và nói to: "Đời sau, nếu có bậc minh chủ, muốn bồi đắp mạch núi lại, đem lại linh khí cho đồi núi này, thì hãy lập chùa thờ Phật ở đây..."
Nguyễn Hoàng khi vào Thuận Hóa, tìm cách gây dựng thế lực, để biệt lập và chống đối với họ Trịnh, đã đến nơi này, nghe các bô lão kể lại câu chuyện bà lão Trời và Cao Biền, thì rất mừng, lập tức cho xây chùa trên núi, và tự tay viết biển chùa là "Thiên Mụ tự" (chùa Thiên Mụ - chùa bà lão nhà Trời).
Người Việt Nam bình thường tin ở thuật phong thủy, nhưng đồng thời cũng tin ở Phật, Bồ-tát, và đạo Phật. Cao Biền có tài trấn yểm, nhưng dân Việt Nam có xây chùa thờ Phật là mọi phép yểm của Cao Biền đều bị phá hết. Ảnh hưởng của chùa Phật là ảnh hưởng của Tam Bảo, của đức Phật thường trú, của Chánh pháp mà bánh xe luôn luôn chuyển động, của Tăng là những người có trách nhiệm duy trì và hoằng dương Chánh pháp tại thế gian này. ( http://www.quangduc.com" target="_blank)
9/ Bài tham khảo thứ 9 .
Hàm Rồng mất tích .
Sự biến mất của kỳ quan này – theo cách lý giải của Hoàng Tuấn Phổ - là do sự chuyển dòng của sông Mã.
Theo nhận định của Đào Duy Anh trong cuốn Nước Việt Nam Qua Các Triều Đại (Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin - 2005) dòng chính của sông Mã trước đây vốn chảy thẳng ra lửa Lạch Trường, theo lối sông Lèn ngày nay.
Khi ấy ngã ba sông Mã, sông Ngu (sông Lèn) có tên là Tuần Ngu – nay là ngã ba Bông – nơi thu thuế đường thủy của nhà Lê.
Một cơn lũ lớn vào đầu triều Nguyễn đánh chìm một bè gỗ lim lớn, dần dần phù sa bồi đắp làm hẹp cửa vào dòng sông Ngu Lại, khiến sông Mã phải trổ một nhánh phụ ra lối qua cầu Hàm Rồng và đổ ra cửa biển Hội Trào như hiện nay.
Sự chuyển dòng một cách bất đắc dĩ của sông Mã khiến lạch sông nhỏ ngay qua Hàm Rồng trở thành một con sông lớn, nhấn Hàm Rồng vào sâu trong dòng nước.
Một Hàm Rồng phong thủy
Tôi trở lại Hàm Rồng, ngắm nhìn phong cảnh. Vẫn núi Rồng, núi Ngọc, sông Mã, động Tiên Sơn, động Long Quang. Vẫn người Bắc kẻ Nam tập nập lại qua trên hai chiếc cầu bắc ngang dòng sông Mã. Vẫn non xanh nước biếc hùng vĩ. Vẫn mây trắng ngàn năm bay.
Những ai từng đi ngang qua xứ Thanh, tỉnh Thanh Hóa ngày nay, nơi dòng sông Mã cắt ngang đường Quốc lộ 1A, hẳn đều biết đến địa danh Hàm Rồng (phường Hàm Rồng, TP Thanh Hóa).
Từ ngàn năm trước, nơi đây vẫn được ngợi ca là một danh sơn thắng địa, nguồn thi hứng bất tận cho các tao nhân mặc khách danh tiếng như Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Ngô Thì Sĩ Phan Huy Ích, Nguyễn Siêu, Cao Bá Quát, Tản Đà, v.v… Núi non vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt.
Gọi điện trách, anh bạn tôi không có vẻ giận, chỉ hỏi: “Đang đứng ở đâu?”. “Trên núi Đầu Rồng, trong động Long Quang”.
“Đó là hai mắt của Rồng. Anh đi theo cửa hang nào cũng được, bám vách đá hướng về phía núi Ngọc, thấy phiến đá cao, là đến mỏm đá mũi rồng.
Phía dưới mũi Rồng có một hang động hình cáo hàm còn rồng gọi là Hàm Rồng. Nhưng tôi cũng khuyên anh đừng cố tìm. Hàm Rồng đã mất tích lâu rồi” – Dứt câu anh cúp máy.
Ngọn núi đá vôi mà tôi đang đứng khá nổi danh trong sử sách. Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí, núi Hàm Rồng ngày nay vốn là núi Long Hạm, tên cũ là Đông Sơn, mạch núi từ Ngũ Hoa (xã Dương Xá, huyện Thiệu Hóa ngày nay) theo bên sông dẫn đến, uyển chuyển liên tiếp như hình con rồng chín khúc, cuối dãy nổi lên ngọn núi cao, đá chất chồng.
Trên núi có động Long Quang. Dưới núi có tảng đá lởm chởm trông như hàm rồng đang hút nước sông Mã.
Trong cuốn Lý Thường Kiệt (Nhà Xuất bản Sông Nhị, Hà Nội - 1949), học giả Hoàng Xuân Hãn cũng có cùng nhận định: “Núi Long Hàm hay Hàm Rồng là nhỏn cuối của một dãy núi, chạy dài trên hữu ngạn sông Mã từ làng Dương Xá đến cầu Hàm Rồng, dài trên khoảng năm cây số. Núi là núi đất lẫn đá nhưng nhỏn Hàm Rồng thì toàn đá.
Trên cao có động tên là Long Quang. Động có hai cửa hai bên, hình như hai mắt rồng, thường gọi là Long Nhãn. Núi sát bờ sông, trên bờ có mỏm đá dô ra như hình mũi rồng, cho nên gọi là Long Tị. Gần mặt nước có hai lớp đá chồng nhau như hàm rồng. Đó là Long Hàm.
Toàn hình – trông từ phương phương Bắc – giống như đầu rồng đang uống nước. Bên kia sông có nhỏn đá tròn, người ta gọi là núi Hỏa Châu. Cảnh chung gọi là Long Hí Châu (Rồng vờn hạt ngọc)”.
Một nhà nghiên cứu người xứ Thanh là Hoàng Tuấn Phổ gần đây có đưa ra một cứ liệu khi viết về cuốn Núi Rồng –Sông Mã (Nhà Xuất bản Văn hóa - 1993).
Tác giả dựa vào lời dẫn bài Long Hạm Nham Tức Hứng của Phan Huy Ích viết năm 1782: “Sau khi đến nơi nhậm trị, tôi qua thăm lại cảnh cũ núi Da Sơn (tên cũ là núi Rồng) ở bên cạnh bến sông.
Chỗ vách đá trống có một phiến đá cao hơn năm thước ta (hơn hai mét), bề rộng có thể trải được chiếu. Hình thù đá như cổ cái môi, trơn tru giống như đầu rồng mở miệng vậy. Vì thế mới gọi là động Hàm Rồng.
Trước động có một hòn đá rất lớn nhòm xuống dòng sông đột khởi lên như hình hàm rồng ngậm ngọc, cho nên đặt tên là hòn Đá Ngọc. Trong khoảng giữa chân núi và hòn Đá Ngọc của Hàm Rồng đã được san lấp thành nền đất bằng phẳng, rộng hai trải chiếu, trên đó dựng một am nhỏ, đặt tên Song Lạc Quán.
Khoảng trống vách bên phải tạm chứa được bốn, năm người ngồi, tôi thường bao con hát vào đó đàn hát gọi là Nhạc Phòng.
Vách đá trái - tùy theo hình thể của đá – sắp đặt bàn trà, chỗ bếp rượu, tôi lại khắc chữ vào ria núi đá và xây dựng công đường, nhà cao cửa rộng, có hành lang, trồng cây, trồng hoa thành hàng lối, phong cảnh rất đẹp…”.
Nếu những cứ liệu trên đủ sức thuyết phục, có thể khẳng định, sở dĩ ngọn núi này nổi tiếng vì nó có một điểm sất đặc biệt. Núi có dáng hình một con rồng đang há miệng.
Nhưng tôi xuống sát mép nước, đi ra xa theo phía bờ bắc, rồi đứng cao trên đỉnh núi Ngọc đối diện, thấy rất rõ dáng núi như đầu rồng nhưng hàm rồng thì thú thực không thấy đâu.
Có lẽ nào hình tượng Hàm Rồng đẹp như cảnh tiên ấy – như cách anh bạn mọt sách của tôi nói – từng hiện diện nhưng nay mất tích.
Khi tôi đem sự băn khoăn đến hỏi một người từng nghiên cứu khá kỹ về Hàm Rồng, lại nhận thêm một ý kiến khác.
Phải chăng hàm rồng chỉ là một thuật ngữ của khoa học phong thủy. Đó là ý kiến của ông T – một trong số ít người của xứ Thanh còn xác định được 28 huyệt mà Thánh địa lý Tả Ao phát hiện ở Thanh Hóa.
Ông T cho rằng, các nhà phong thủy có câu: “Tiên tích đức, hậu tầm long” (tức là chứa tức trước, tìm đất sau).
Trong phép tầm long của các nhà phong thủy, trước hết phải tìm tổ núi, rồi dò theo long mạch mà tìm đến huyệt.
Huyệt là thế đất có án che phía trước, chẩm làm chỗ dựa phía sau, bên trái là tay long, bên phải là tay hổ.
Long mạch có thể lớn hoặc nhỏ, có nhiều điểm kết mà điểm kết tốt nhất gọi là hàm rồng. Người ta thường nói những gia tộc được đại phú đại quý là nhờ có “mả táng hàm rồng” là vì vậy.
Hàm Rồng nay ở đâu
Trước anh bạn tôi có nhiều người quan tâm đến một vách đá hình miệng rộng đang há ngay mép nước, bên trong có chứa long mạch hàm rồng. Người coi lời dẫn tựa của bài Long Hạm Nham Tức Hứng như lời chú của vị quan châu đi tìm bí mật hang Thần trong truyện Vàng Và Máu của Thế Lữ.
Người đi tìm long mạch, người đến chỉ vì tò mò nhưng nhìn chung, ai cũng cố vén bức màn huyền bí để mục sở thị cái hình tượng khởi khát cho cái tên Hàm Rồng hiện nay.
Trong cuốn sách đã dẫn, tác giả Hoàng Tuấn Phổ còn dựa vào bài thơ Long Đại Nham của Nguyễn Trãi để khẳng định có một hang đá tự nhiên mang hình tượng con rồng há miệng.
Có vẻ hơi khiên cưỡng khi cho rằng Long Đại Nham là động lớn núi Rồng (Đại nham: động lớn) và câu: “Lê Phạm phong lưu ta tiệm viễn/Thanh đài bán thực bích gian thi” .
(Lê, Phạm văn phong dần vắng thấy/Rêu tường xóa lấp nửa vần thi – Lê Cao Phan dịch) chứng tỏ bản khắc thơ trong động của hai danh sĩ đời Trần là Lê Quát và Phạm Sư Mạnh bị rêu phong vì hang động thấp, gần nước sông.
Năm 1949, nhà sử học Hoàng Nguyên Hãn chứng minh cuốn An Nam Chí Lược (Lê Tắc soạn - 1335), bộ sách được coi là Hàm Rồng ngày nay còn họi là Long Đại Nham, Bảo Đài Sơn hay Hang Dơi là sai.
Một số sách đời sau như An Nam Chí (Cao Hùng Trưng) hay Việt Kiều Thư, Minh Chí đều chịu ảnh hưởng của sách này, nên có chung lỗi đó.
Theo ông, đó là ngọn núi Linh Trường, Lê Thánh Tông viết: “Núi xanh cao vót, dáng dị kỳ, đứng sững ở cửa biển. Chân núi có động, sâu thẳm khôn cùng, tương truyền đấy là miệng rồng. Ngoài cửa động có viên đá hình cái mũi, tương truyền đấy là mũi rồng.
Dưới mũi lại mọc ra một viên đá tròn nhẵn nhụi đáng yêu, tương truyền đấy là hạt ngọc. Đá lớn đá nhỏ lô nhô rất nhiều hình thái, chỗ thưa chỗ dày, không thể đếm được, tương truyền là râu rồng…”.
Núi đó từng có thơ của Lê, Phạm đề, nên nếu tìm theo hướng đó, chúng ta sẽ phải xa nơi cần tìm hàng chục km.
Vị trí Hàm Rồng lâu nay vẫn được phỏng đoán là nơi cuối cùng của núi Đầu Rồng, dưới đôi mắt và mũi rồng, hướng về phía núi Ngọc (Hỏa Châu Phong).
Nhưng nó là những phần đất còn lại, hay chìm sâu giữa dòng sông Mã như bây giờ thì chưa ai khẳng định được. Nếu là phần trên bờ, chỉ cần khai quật đi lớp cát bồi chừng dăm ba mét, hy vọng sẽ thấy.
Nhưng nếu chân núi Rồng vốn vươn xa ra giữa sông , hy vọng tìm thấy là rất mong manh, vì nước nơi này cực xiết. Trước đây người ta không dễ hạ được một móng cầu thì ai có thể xuống đó mà thám hiểm.
Hơn nữa, trải qua mấy trăm năm dưới dòng sông Mã với lượng nước trung bình năm 52,6 m3/s, modul dòng chảy năm 221/s.km2, tổng lượng cát bùn khoảng 3,027.106 tấn, liệu Hàm Rồng có còn dấu tích.
Chúng tôi đem những băn khoăn ấy định trao đổi với ông Ngô Hoàng Chung, Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin Thanh Hóa. Ông Chùng từ chối vì Hàm Rồng không thuộc quản lý của Sở và chỉ sang Phòng Văn hóa Thành phố.
Theo ông Hà Huy Tâm, Trưởng phòng Văn hóa Thành phố, thắng cảnh Hàm Rồng là quần thể di tích với 16 hạng mục cấp tỉnh. Về hang động thì có hai hạng mục chính là động Tiên Sơn và động Long Quang.
Từ trước tới nay, địa phương chưa từng tổ chức một đợt khảo sát nào để tìm lại thắng tích. Xét thấy việc tìm lại thắng tích Hàm Rồng, ngoài yếu tố tâm linh còn là sự giáo dục truyền thống.
Ông Tâm khẳng định, nếu hội tụ đủ một số điều kiện cần, sẽ có tờ trình UBND TP Thanh Hóa để làm.
Liên quan đến núi Hàm Rồng và huyệt hàm rồng trong phong thủy, có một truyền thuyết kể rằng vào khoảng năm 866 – 875, tiết độ sứ đất Giao Châu (tên nước ta thời thuộc Đường) là Cao Biền, rất giỏi về phong thủy, am hiểu việc làm bùa chú, lại biết nuôi âm binh, có thể ném hạt đậu hóa thành binh lính.
Biền thấy đấy Giao Châu có nhiều kiểu đất đế vương, sợ dân nơi đây bất khuất, khó lòng cai trị, nên thường cưỡi diều giấy bay đi xem xét và tìm cách trấn yểm các long mạch để phá vượng khí của người Nam.
Bay qua vùng núi Hàm Rồng, nhìn thấy huyệt Hàm Rồng, Biền nói rằng địa thế này tuy không phải là hung địa “xương long vô túc” (rồng không chân) nhưng cũng là hình con rồng què chân, không phải đất cực quý, nên bỏ đi.
Miệng nói vậy nhưng chính y lại âm thầm trở lại, mang theo hài cốt cha để táng vào mong sau này có thể phát đế vương. Sau nhiều lần táng mả cha vào, xương cốt cứ bị huyệt núi đùn ra, không kết phát.
Cao Biền biết rằng đây là long mạch cực mạnh, cực quý. Thì lại càng ham thích. Rắp tâm làm đến cùng, Biền bèn tán nhỏ xương vừa tung lên thì có muôn con chim nhỏ cùng bay đến, vô cánh quạt vù vù làm xương cốt bám trên vách đá bay tứ tan.
Biền than rằng linh khí nước Nam quá mạnh, không thể cưỡng cầu. Quả nhiên không lâu sau, Biền bị triệu về nước rồi bị giết. Và sau này, đất Thanh là nơi phát khởi của nhiều vua chúa.
Nhiều người cho rằng, những chim nhỏ phá phép trấn yểm của Cao Biền là thần linh của sông núi nước Nam. Có người lại cho rằng đó là do Thánh Tả Ao hóa phép.
Theo truyền thuyết, cụ Tả Ao là vua phong thủy của nước ta, chuyên phá những long mạch bị Cao Biền trấn yểm.
Không ai rõ tên và năm sinh, năm mất của Tả Ao nên chỉ gọi theo tên làng. Nhiều tài liệu phỏng đoán cụ tên thật là Vũ Đức Huyền hay Hoàng Chiêm hoặc Hoàng Chỉ, Nguyễn Đức Huyên, v.v…, sống ở làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh vào thời Lê.
Cũng có người nói ông sống trước thời Tùy Đường. Nhờ chữa cho một thầy phong thủy người Tàu khỏi mù mắt, cụ được thầy này truyền nghề lại. Tả Ao học một biết mười, chẳng bao lâu biết hết các tuyệt kỹ của thuật phong thủy, bèn xin về nước.
Thầy Tàu sau khi thử tài cụ, than rằng: “Tất cả tinh hoa môn phong thủy đã truyền về phương Nam rồi!”. Sợ Tả Ao biết hết các huyệt đế vương ở nước Nam mà khởi phát, thầy dặn khi đi trên đường về quê, qua nơi nào có sông núi phải nhắm mắt lại kẻo bị mù mắt.
Nhưng khi đi qua Hàm Rồng, do tính tò mò, Tả Ao hé một mắt nhìn, một mắt nhắm và phát hiện đây có một huyệt là hàm rồng sắp mở miệng. Cụ bèn đem hài cốt cha đến đợi.
Nhưng người nhà thấy Ao đào hài cốt cha đem đi thì hoảng hốt, chạy theo khóc lóc không cho làm thế.
Giằng co mãi đến lúc hàm rồng khép miệng lại mà không táng được. Lại có khảo dị rằng, Tả Ao muốn cho con cháu phát khởi nên, trước khi chết, dặn con cháu đem chôn mình vào đấy lúc rồng há miệng.
Các con người nghe, người cản nên đành hỏng việc. Vì vậy có người nói, tài giỏi như Tả Ao nhưng không đủ phúc phận cũng đành chịu.
Theo Gia Đình&Xã Hội
CÒN TIẾP...
" CAO BIỀN TẤU THƯ ĐỊA LÝ KIỂU TỰ .
Về khoa địa lý có những tài liệu quí giá cho việc khảo cứu, nhưng không thực dông nên chưa in thành sách. Lần này chúng tôi khởi giới thiệu tài liệu “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự” là tập tài liệu nói về các kiểu đất kết bên Việt nam mà Cao Biền trình về vua Đường Trung Tông. Những đất nói trong tập này có ngàn kiểu mà Cao Biền mới yểm được một số ít đất Đế vương quí địa còn cả ngàn đất Công hầu, Khanh tướng vẫn còn nguyên vẹn. Các cụ xưa giữ sách này làm gia bảo và theo nó tìm cho ra đất kết dành cho họ hàng mình dùng khi cần đến.
Xuất xứ sách
Xưa kia về đời Vua Đường Trung Tông bên Tàu có Cao Biền được phong là “An nam tiết độ sứ” sang đô hộ nước ta, là người rất giỏi địa lý được vua Tàu uỷ cho sứ mạng trình về vua biết các kiểu đất bên Việt nam và yểm phá các đất kết lớn nào khả dĩ có ảnh hưởng cho Trung Quốc.
Sau khi nhận chức và khảo sát địa lý bên Việt nam, Cao Biền thấy nước ta có nhiều đất phát rất lớn có thể tạo nên những bậc tài giái mà sự nghiệp khả dị ảnh hưởng cho Trung Quốc trong vấn đề Nam tiến biên soạn tập “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự” này trình về vua Đường đồng thời dùng phép yểm phá một số Long mạch có đất kết lớn. Truyền thuyết có nói trước khi yểm một kiểu đất nào Cao Biền thường phô đồng để kều các vị thần cai quản khu vực đó nhập vào đồng Nam, đồng Nữ rồi trừ đi sau đó mới ra yểm đất. Cũng theo truyền thuyết Cao Biền có yểm được một số ít đất lớn song cũng bị thất bại trước nhiều vị thần linh trong đó đáng kể nhất là “Tản viên sơn Thần” và “Tô lịch giang Thần” (núi Tản viên thuộc huyện Bất Bạt tỉnh Sơn tây và sông Tô lịch chảy qua Hà nội ở Ô Cầu Giấy (gần làng Láng). Đền Bạch Mã ở Hàng Lược Hà Nội là đền thờ thần Tô Lịch.
Trải qua Đường Tống đến đời nhà Minh có Trương Phô, Mộc Thạch và Hoàng Phúc là ba danh tướng Trung Hoa được Minh đế cho kéo quân sang Việt nam bề ngoài với danh nghĩa phò hậu Trần diệt Hồ nhưng bên trong có mang một kế hoạch diệt chủng người Việt và đổi nước ta thành quận huyện của Trung Quốc. Kế hoạch này tỉ mỉ và thâm độc hơn những kế hoạch tương tự mà người Hán đã làm từ xưa đến giờ.Trong số 3 danh tướng Trung Hoa này thì Hoàng Phúc là người rất giỏi địa lý có mang theo “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự” sang duyệt xét lại và yểm nốt những đất kết lớn nào còn sót lại cho Việt nam không thể còn có những thế hệ thịnh trị sản sinh ra được những nhân tài xuất chúng như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo đã làm khó khăn cho Trung Quốc như trong thời đại Lý và Trần vừa qua. May thay Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã khôn khéo và kiên trì lãnh đạo cuộc kháng Minh đến thành công sau 10 năm gian khổ. Khi bắt sống được Hoàng Phúc ta thu được toàn bộ tài liệu của kế hoạch nêu trên trong đó có cả tập “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự”.
Bây giờ tập sách này trở nên một tài liệu vô cùng quý giá cho ta trên nhiều phương diện: Sử liệu, chính trị, địa lý.
1. Trên phương diện sử liệu nó là một sử liệu cổ xưa có giá trị. Tài liệu này soạn thảo từ ngàn năm trước.
2. Trên phương diện chính trị: Nó là tài liệu chứng minh một cách cụ thể chính sách người Hán và tham vọng của họ với dân tộc Việt nam.
3. Trên phương diện địa lý: Nó là một áng văn tuyệt tác về phép mô tả các kiểu đất kết mà các cụ xưa kia thường dùng để soi sáng cho việc học “Tầm Long”. Chúng tôi đã thấy và có nghe nói nhiều đến các cụ địa lý, hơn nữa cả bọn thanh niên để cả chôc năm liên tiếp với chiếc ô (dù) và tay nải đi hết làng nọ sang làng kia, tỉnh này sang tỉnh khác nghiên cứu thực hành “Tầm Long mạch” qua sự chỉ dẫn địa danh và thế đất mô tả trong “Cao Biền địa lý tấu thư kiều tự”. Quyển địa đạo diễn ca của cụ TẢ AO mà chúng tôi biên nơi đây chú trọng đến việc tầm Long tróc mạch nên chúng tôi xin cống hiến quý bạn một phần đầu quyển “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự”.
Cao Biền đề cập đến 632 huyệt chính và 1517 huyệt bàng của các tỉnh.
Hà Đông
81 chính
246 bàng
Sơn Tây
36 chính
85 bàng
Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ
65 chính
155 bàng
Hải Dương, Hưng Yên, Kiến An
183 chính
483 bàng
Gia Lâm, Bắc Ninh, Đáp Cầu, Bắc Giang, Lạng Sơn
134 chính
223 bàng
Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình
133 chính
325 bàng
Cộng
632 chính
1517 bàng
Sách này có ghi chép tuần tự các huyệt của từng tỉnh, ghi râ nó tọa lạc tại huyện xã, ấp nào nêu các cụ ngày xưa theo đó học “Tầm Long” tróc mạch dễ dàng.
Phần đầu đề cập đến tỉnh Hà Đông trong đó có 81 huyệt chính và 246 huyệt bàng.
- Huyện Thanh Oai
9 chính
26 bàng
- Chương Đức (Chương Mỹ và Mỹ Đức)
11 chính
34 bàng
- Sơn Minh (ứng Hoà)
9 chính
26 bàng
- Hoài An
6 chính
19 bàng
- Thanh Trì
11 chính
41 bàng
- Thường Tín
11 chính
41 bàng
- Phú Xuyên
7 chính
20 bàng
- Từ Liêm
11 chính
34 bàng
- Đan Phượng
5 chính
13 bàng
Cộng
81 chính
246 bàng
ở những tay Long Hổ án sa.v..v.. của những huyệt chính thường có những huyệt kết khác nữa gọi là kết bàng. Nơi nào có ghi thêm C/B2 hay C/B3 hoặc C/B4.. ở cạnh địa danh có nghĩa là đây là huyện chính và kiểu đất này còn có 2 hay 3 hay 4 huyệt kết bàng nữa (sách chỉ nói đến huyện chính).ở đây chúng tôi chỉ giới thiệu kiểu đất ở hai huyện Thanh Trì và Chương Đức để làm tài liệu phô khảo. Chúng tôi sẽ in toàn bộ thành sách sau khi được bàn luận với các vị đã khảo sát thực tế các đất ghi trong sách “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự”
Cao biền tấu thư địa lý kiều tự
Việt tự tích Đường Trung Tông thời, Cao Biền vi Thái- sử chỉ ý tôn thời tình hữu Giao Châu chi Quận Huyện, đế tư cập úy Đà, xưng thần cự Hán chi cố sự, Cao Biền vi An Nam Đô hộ sứ. Biền tương vãng, chi thời, đế triệu nhập ngự điện vị viết. Công học địa lý tới vi linh diệu, trẫm văn: An - Nam đa hữu thiên tử quý địa, công dương dông lực ngô môc, hoặc hữu áp chi triễn binh sinh chi kinh luân thuật thánh hiền chi qui củ, đoạt thần công nhi cải thiên mệnh, nhiên vi tiễu thảo trừ căn, chi đồ thứ cơ vô hậu tệ, tường suy phong thuỷ, biến lãm sơn xuyên, nhất nhất diễn ca lập kiều, Trẫm đắc tiễn văn giả. Cao Biền thô mệnh nhi khứ, trực đế An Nam kế giữ mộc chi vi phi diện chi pháp, tự thừa kú thượng, án muông trung nhi du quan, tầm Long nhận mạch sở kiến nam quốc hình thế đại cán hành Long lưìng chi thiền chiều tịnh tiến. Nhất hữu chi Long, khởi tự ải quan, phân mao Sơn Hựu biệt sinh: tả, hữu, trung, nam nhi chi giáng, Long mạch phân chi, chi các hữu phái, tĩnh âm, tĩnh dương, Long Hổ khí chung, càn khôn đạo hợp nãi thị địa linh nhân kiệt, nguy nhiên thánh hiền, thần võ chi hồng lượng mỹ kỷ Biền tự trầm ngâm khẩu quyết, mặc thức tâm cơ, huyết mạch u huyền, cường lực dũ ra áp chi bất đắc, cố bất cảm động. Đông Tự nam hải đằng giang, Tây tự. -Tiểu khê lão cực Nam Việt Quảng Hà, Nam Xiêm Thành, Bắc Tự Quảng Hà, Đồng Xá, hệ đại huyết mạch các cụ c vi ngũ ngôn ca, kú thứ huyết mạch các cụ c, vi thứ ngôn ca, tha thư tiểu mạch giả bất túc lập luận cố sĩ hậu lai sảo tâm minh môc, quảng thị trí lực, vi khởi dô chi diệu doan túc kú.
Giao Châu Đô Hộ sứ, thần Cao Biền cẩn tấu vi bản châu địa mạch thế hình thế sự, thần hạnh phát dư sinh thao ty hà nhưìng, thượng tự thám sơn, hạ chí đại hải, ngưìng quan phủ sát, phát tận chân cá, kú tự thiên hữu, cảm bất khánh kiệt sở kiến văn, thượng tự đế vương, vương công - công hầu, vương phi, thứ thần đồng, tú tài, khoa đệ, phú quý phát vinh các cụ c trạch ca trần tấu, vi chi thị phủ, phôc khất phủ lãm giao quan chi khí, kiến văn cụ lôc.
Hà Đông
Thanh oai: 9 chính, 26 bàng
1. Đệ nhất: Thanh Oai Phong (C/A4) ấp Trung Thanh Uy hình thế tối kú thuỷ lưu tư vương, án khởi tam quy, mạch tồng hữu kết, khí địng tả y, thần đồng tiến lập, quỷ sứ, hậu, tú khôi khoa tảo chiếm, phúc lợi vinh tuy, tu phòng mạch tận, thừa sự vô nhi.
2. Đệ nhị: Cao Xá Phong (C/B2) Thanh Oai Cao Xá, chân vi qui Long, thuỷ khê tuú mạch, bình dương lái tung, hoa khai hữu Hổ, tinh hiện tả Long, sơn thuỷ trù mật khí thế sung giong, hà tu hộp hải, ngưu giác loan cung, chủ khách hoàn mỹ, tả hữu hộ tòng, hoa tâm khả hạ, thế xuất anh hùng, Vô Lăng văn khôi khoa giáp. võ tổng binh nhung, phú qíu thọ khảo, kiêm hữu kú công.
3. Đệ tam: Vô Lăng phong (C/B2) Thanh Oai bình thế khả sung, tả sơn Thuận Giang, hữu thuỷ nghịch thăng, đường tám tích ngọc, án diện phó tầng, cân thuỷ chức kết, viễn sơn từng lăng, tHổ tinh lạc sử, cát huyết thi bằng, nhược năng hiện nhận, khoa đệ diệp đăng.
4. Đệ tứ : Cổ Hoạch phong (C/B2) Thanh Oai Cổ Hoạch, đoản hình tràng nhạo, thế giắng hữu cung, mạch sinh tả giúc, bút giả sâm van đốn sang sáp ngọc, hữu thuỷ tám hoành, tả sơn hồi thác, phân minh ký cổ, la hệt thành quách, văn chủng khôi khoa, võ chuyên tướng trách, nội thế tuy giai, ngoại hình cân bách, nọa khởi nhân chiếu, nghiệt do kỷ tác.
5. Đệ ngũ: Đại Định Phong (C/B6) Thanh Oai Đại Dịnh di tích kú tung, Long hoả Hổ hoả, chủ tòng khách tòng, tiểu giang dẫn mạch, Bình địa sinh phong, sơn thuận sơn nghịch, thuỷ chủ thuỷ sung, quần sơn điệp điệp, chủng thuỷ trùng trùng, trầm hết khúc thời, tái bút giả giong, thừa dư thủ túc, huyệt tại Viên trung, văn chiếm khoa giáp, võ tổng binh nhung bằng hữu huyệt quái, âm mạch khí chung nữ phát phi hậu, phú quý xương Long.
6. Đệ lôc: Kim Bài phong (C/B4) Thanh Oai Kim Bài, lưìng phương phi lai, song đồng hoàn trì, lúc tử nhập hoại, nội hình tương ứng, nội thế tương lai, thiềm tâm khí kết, Long não tinh ta, chủ minh khách mỹ, sơn tĩnh thuỷ giai, huyệt cư trung cấp, táng pháp vô sai, võ xuất khanh tương, văn trạc khoa đài.
7. Đệ thất: Bối Khê phong (C/B2) Bối Khê chi địa hình như thào xà, sơn thuỷ chức kết, Long Hổ bài nha, văn bút đảo địa, bình dương khai da, viên phô giáng thế, giang thuỷ giao la, hà tu giới thuỷ, thiên dực loan xa, thế xuất khanh tướng, đại đại vinh hoa.
8. Đệ bát: Sinh Quả phong (C/B4) Thanh Oai Sinh Quả cát địa diệc khả, Hổ sơn Long hồi, Long sơn Hổ hoá, đại phô khí tàng, tiểu khê quan toà, bác hoàn vi ký tiễn tài lương bạ, đảo trạc khôi khoa, viên đằng thanh giá, hiềm thuỷ phân lưu, dông chung hữu xả.
9. Đệ cửu: Bảo- Đà phong (C/B4) Bảo Đà Thanh Uy thuỷ thế my thi, đại giang loan quả, tiêu thuỷ chứng quy, lôc năng chiều hội lương phương giao phi, văn tinh tiền án, viên phủ hậu thuỷ, huyệt tại chung cấp, thừa dư khả y công hầu thế xuất, hào kiệt tế thi, danh cao Hổ tưởng, vi chốn hoa dị, nhược tàng Long dịch, nữ vương phi, nam chủng khoa giáp, phát đạt vô nghi.
Chương Đức (Chương Đức và Mỹ Đức) 11 chính 34 bàng.
1. Đệ nhất: Vĩnh - Lữ phong (C/B6) Chương Đức Vĩnh Lữ ký mạch cân tự, tư thế cao sơn, chung thuỷ đệ trư huynh đệ tương đăng, quần thần tương giữ, huyệt thử túc dư, danh khôi khoa cử, thừa hưởng thiên nhiên, vô yêu trát sự.
2. Đệ nhị: Cống - Khê phong (?) Cống - Khê Chương Đức - hình thế khả kú, tứ sơn giai củng, chúng thuỷ hàm quy, Long trùng hồ điệp, chủ nghinh khách tuú, xa sinh trầm hốt, thuỷ hội nghiên trì, cao sơn thủ túc, phú quý vô nghi, nam phát võ tướng, nữ phát cung phi, nam nữ giai quý, phúc lộc vĩnh tuy.
3. Đệ tam: Thanh - Động phong (?) Chương - Đức Thanh - áng (nay thuộc ứng Hoà), canh lưìng Long lai, đại hà vệ khí, ngọc nữ hoài thai, Long Hổ Chiều Củng, hình thế phô bài, la liệt thành quách, hiệu khiết lâu đài, chử minh khách mỹ, thuỷ tĩnh sơn giai, đường thiên thuỷ đề, án cao sơn nhai, thuỷ Long dư nhũ, cát huyệt khả tài, võ sinh tướng suý, văn chiếm khoa đài đại địa cực quý đoán dịch vô sai.
4. Đệ tứ: Chi - Nê Phong (C/B2) (Nay cải tổ sơn xã Chương Đức) Chương Đức - Chi - Nê, sơn hình võ trô, Long hồi Hổ hoàn, mạch tàng khi tô, hạ hợp thương phân, tả giao hữu cố, án đới Hổ yêu phong sinh Long thử, khí kết hoa tâm, huyệt tòng Long nhũ thế xuất Công Khanh, sĩ lăng tề phô.
5. Đệ ngũ: Lai -Tảo Phong (C/B3) Chương Đức Lai Tảo địa hình diệc hảo khí như tuyến hồi, mạch như sà thảo, bình dương sơn loan, đại hà thuỷ đáo, chủ khách chuy tuú, Long Hồ hoàn bão, huyệt tại hoa tâm, Mạc tài Long não, thế xuất Công khanh phú quý (xuất) cảo.
6. Đệ lôc: Tiểu ứng Phong (C/b3). Tiểu - ứng Chương Đức, Phượng tường lưìng dực thuỷ tô trùng trùng, sơn sai sực sực, vạn thuỷ thiên sơn, tam hoành tứ trực, thảo vị khí tài, hoa tâm khả thực, văn võ phát vinh, tam công vi cực, phú quý thời ưu, đại đại phó tức.
7. Đệ thất: Liễu - Nội phong (C/B5). Liễu Nội chí địa, thị diệc quý Long, âm sơn bái tướng, dương sơn phú trung, Long hoá Hổ hoá, Long trùng Hổ trùng, chúng thuỷ lưu trữ, quần sơn la tung, huyệt tại thượng phúc, võ chí hậu phong, nữ phát hậu phi, phú quý xương Long, trung hữu cát huyệt, án đới thanh Long, tam thai chu tước, văn sĩ tam công.
8. Đệ bát: Tràng - Cốc phong (C/B6) Địa danh tràng - cốc, hình như phượng hoàng, nội kú, ngoại cổ, tiền cương, hậu giang, Long Hổ hoàn não, chủ khách huy hoàng, bình nguyên thuỷ diệu, viên phô khí tàng, thế xuất võ tướng, vị chí hầu vương.
9. Đệ cửu: Yên - Ninh phong (C/B2) Chương Đức yên Ninh, khí tô Long đình, tả toàn hữu cố, Hổ ẩn Long sinh, sơn họp thuỷ chỉ, khách tựa chủ nghinh, huyền quy ứng hậu, chu tước bái đình, huyệt tại chung cấp, Công hầu phát sinh kế thế võ tướng, kiêm vương nhân đinh.
10. Đệ thập: Do - Lễ phong (C/B2) Chương Đức Do - Lề, chân Long sở sỹ chi đại lâm loan sơn, thâm dầm chú thuỷ, tiểu giang tế Long, đại hà dưìng khí, Long Hổ bài nha, quân thần giao hỷ, huyệt tại Viện trung, Công hầu đăng đối, phú quý kiêm ưu, khả vi toàn mỹ
11. Đệ thập nhất: Chúc - Sơn phong (C/B1) Chương Đức Chúc - Sơn (nay thuộc Chương Mỹ) Hổ Long hồi hoàn, tiền hữu thuỷ chữ hậu hữ sơn loan, đại hà dẫn mạch, hồng kú chấn quan, hình thế tương hợp, chủ khách tương hoàn, huyệt tai chung phúc, thế xuất cao quan, võ đa văn thiểu, văn toán chiêu ban.
Sơn Minh (ứng Hoà) 9 chính 26 bàng
1. Đệ nhất: Xà - Kiều phong (C/B4) Sơn Minh Xà Kiều hình như phượng vũ, giang lưu thoát tung, tinh phong nhạc nhũ, thiên thể dung tâm, địa khí danh ngũ, Hổ báo Loan đầu, Long đoàn cung thủ, khanh tướng thời sinh, khả văn, khả vũ, vị liệt thai đặc danh cao suý phú.
2. Đệ nhị: Lưu - Khê phong.(C/B2) Sơn Minh Lưu Khê, án chính sơn tề, quy tàn bích động, hoa thì kim chỉ, sơn thuỷ loan cung Long Hổ giao thi, âm lai dương thô, huyệt tòng tả y: thế xuất Khanh tướng, phát lộc trùng lai.
3. Đệ tam: Đông - Phỉ phong (C/B2 Sơn Minh Đông Phi Long Hổ giao tý, tứ thuỷ nhập hoài, bát thần vệ khí tam cấp mạch sinh, ngũ thốn sơn trỉ huyệt tại thừa dư, chủ đăng khoa sỹ, vị liệt Công khanh, phúc lộc phú quý.
4. Đệ tứ: Tảo- Khê phong (C/B4) Tảo - Khê chân Long hình thể sung giong, Long bàn Hổ hoá, thuỷ tam sơn cùng đại khê dẫn mạch, bình địa sinh phong, tam thai hoãn trí, chúng thuỷ chiều, cung thiên chung viên tọa, thế thượng bầu công, đại đại phú quý, phúc lộc xương Long.
5. Đệ ngũ: Dương - Khê phong (C/B7) Dương khê chí địa, hình thế khả quan, sơn chỉ thuỷ tô, Hổ cứ Long bàn, tiền phân tam thuỷ, hậu ứng quần sơn, tả hữu đang đối, chủ khách tương hoan, hoa tâm khả hạ, thảo vi khá an, thế xuất khanh tướng, phú quý bình an.
6. Đệ lục: Đông - Dương phong (C/B1) Sơn Minh Đông Dương. Thế giáng bình dương, Long vệ tống mạch, Hổ báo chiều tương, kú cổ bài liệt, hình thế la chương, sơn tòng hữu đáo, dứt giá Long bàng, huyệt tại chung cấp, thừa khí khả tàng, thế xuất khoa, giáp vi cận quân vương.
7. Đệ thất: Tử Dương phong (C/B3) Sơn Minh Tử Dương, thế chính hình ngang, thuỷ đàm Long khẩu, sơn dôc Hổ giáng, thuỷ chiều sơn bão, thai án châu trang, tả hữu trù mật, chủ khách huy hoàng khí thuú dư tức huyệt tại cung tràng, thế xuất Khanh tướng, cần hậu quận vương, nhược thuỷ viên nhũ, khi phát phi hoàng, nam nữ toàn mỹ, phú quý vinh xương hiện như bất thực, khủng sinh bất tường (có giả huyệt) tất thô tai ương.
8. Đệ bát: Đạo Tú phong (C/B4) Sơn Minh Đao Tú, Long hoàn Hổ cố, hình thế bài nha, khí mạch ngưng chủ hữu sơn bái chiều, tả giang chiều hộ, thuỷ nội ấn phù, đường tâm khí huyệt tại Tốn sơn, thời sinh tể phô, thuận nghịch lượng thủ, nam nữ cẩn ưu, tùy thích an.
9. Đệ cửu: Sơn Minh phong (C/B3) Sơn Minh khí chuẩn Long Hổ phù cung đại giáng chiết thuỷ, bình dương lại tung, hoa khai đoá đoá, tinh hiện trùng trùng, khi trông thảo vĩ, huyệt tại viên chung, chử phát Khanh tướng đại đại vô cùng.
“....Những ngôi đất kết có ngôi chỉ phát âm phần (mả) lại có ngôi chỉ phát về dương cơ (làm nhà) Đất phát âm dùng lợi cho sự chôn xương xuống đất và đất phát dương cơ lợi cho sự làm nhà lên trên, đất dương cơ nhá dùng làm nhà còn to rộng lợi làm doanh trại, rộng hơn nữa lợi cho sự làm thị trấn đô thị hoặc kinh đô”.
Cao Trung " .
7/ Bài tham khảo thứ 7 .
Trích từ http://vi.wikipedia" target="_blank
" Cao Biền (tiếng Trung: 高駢; tự Thiên Lý (千裏); 821–887) là một viên tướng của nhà Đường, ông là người thay mặt cho nhà Đường cai quản Giao Châu (tên gọi khi đó của Việt Nam) từ năm 866 đến năm 875 với chức vụ tiết độ sứ. Sau lại làm phản nhà Đường và bị giết năm 887. Tổ tiên là người Bột Hải (Mãn Châu), sau di cư đến U Châu.
Cuộc đời
Cao Biền người gốc Bột Hải (Mãn Châu), sau ngụ U Châu. Cha là Cao Thừa Minh , ông nội là Nam Bình quận vương Cao Sùng Văn, thời Đường Hiến Tông Lý Thuần (806-820) là một danh tướng, chỉ huy cấm quân. Từ khi còn nhỏ, Cao Biền đã là người rất chịu khó trau dồi về văn học. Giao du với các nho sĩ, ông thường bàn luận đường lối chính trị một cách rắn rỏi. Cao Biền theo Chu Thúc Minh, làm tư mã. Cao Biền làm quan, được thăng dần đến hữu thần sách đô ngu hậu, sau vì có công, lại được thăng làm phòng ngự sứ Tần Châu. Những năm đầu thời Đường Ý Tông (859–873), Cao Biền chỉ huy quân tại biên cương phòng chống người Đảng Hạng và Thổ Phồn, kiêm Tần Châu thứ sử.
Năm Hàm Thông thứ bảy (866), Cao Biền sang trấn thủ Giao Châu, làm Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, cai quản cả Giao Châu và Quảng Châu. Năm Càn Phù thứ hai (875) đời Đường Hi Tông (873–888), nhà Đường chuyển ông đến cai quản Tây Xuyên. Cao Biền là người nghiêm khắc nhưng lạm dụng hình phạt, lạm sát cả người vô tội. Tuy vậy, trong thời gian cai quản Tây Xuyên ông đã có công lui quân Nam Chiếu.
Năm Càn Phù thứ sáu (879) quân đội của Hoàng Sào từ bờ nam sông Hoàng Hà tiến về phía tây, triều đình nhà Đường điều Cao Biền đến làm Trấn Hải Quân tiết độ sứ (ngày nay là Trấn Giang, Giang Tô). Quân của Hoàng Sào chuyển hướng tiến về hướng nam tới Chiết Giang. Tháng 5 năm Quảng Minh thứ nhất (880) tại Tín Châu (ngày nay là Thượng Nhiêu, Giang Tây) quân Hoàng Sào giết chết Hoài Nam tiết độ sứ (ngày nay là bắc Dương Châu, Giang Tô). Tháng bảy, quân Hoàng Sào vượt qua Trường Giang. Cùng năm, quân Hoàng Sào từ Quảng Châu (ngày nay thuộc Quảng Đông) tiến lên phía bắc tới khu vực Giang-Hoài, Cao Biền khiếp sợ uy thế Hoàng Sào, chỉ cố thủ Dương Châu, dù binh lực có trên 100.000 để bảo tồn lực lượng. Quân Hoàng Sào tiến vào Trường An, Đường Hi Tông khẩn cấp điều Cao Biền đem quân cứu giá, nhưng Cao Biền không tuân lệnh của nhà Đường mà lại cát cứ một phương. Năm Trung Hòa thứ hai (882), nhà Đường bãi miễn Cao Biền.
Về già, Cao Biền trở nên tin vào phép thuật thần tiên, trọng dụng thuật sĩ làm lòng người ly tán, tướng cai quản Hoài-Nam là Tất Sư Đạc rất lo sợ, năm Trung Hòa thứ năm (885) Cao Biền tạo phản, nhà Đường cử Tuyên Châu quan sát sứ là Tần Ngạn trợ chiến với Tất Sư Đạc. Năm Quang Khải thứ ba (887), Tất Sư Đạc xuất quân từ Cao Bưu, hợp cùng các tướng khác tấn công Dương Châu. Cao Biền phái người đi cầu cứu Dương Hành Mật, nhưng người của Cao Biền chưa tới nơi thì thành Dương Châu đã bị phá, Cao Biền bị bắt làm tù nhân, một thời gian sau bị Tần Ngạn, Tất Sư Đạc giết chết.
Tại Giao Châu
Năm Ất Dậu (865) Cao Biền được nhà Đường cử là đại tướng họp cùng giám quận là Lý Duy Chu đem quân sang đóng ở Hải Môn để giải quyết vấn đề Nam Chiếu. Cao Biền sinh ở cửa tướng lại là tay văn học uyên thâm dẫn 5000 quân làm tiền đạo và ước cùng Lý Duy Chu điều động quân hậu viện tiến sau. Lý Duy Chu không muốn Cao Biền thành công, và biết rằng Cao Biền giàu mưu lược, có tài quân sự ắt sẽ thắng trận. Nam Chiếu tuy đông nhưng man mọi và ô hợp, chiến đấu lại không có phương pháp. Y chỉ còn cách không đem quân tiếp viện để Cao Biền hao mòn dần thực lực mà thất bại. Cao Biền cất quân đi rồi, Lý Duy Chu vẫn cứ đóng binh nguyên vẹn tại chỗ.
Giám quận nhà Đường là Trần Sắc lại phái thêm 7.000 quân do tướng Vi Trọng Tể điều khiển sang tăng cường cho đoàn quân viễn chinh của Cao Biền. Bấy giờ Cao Biền mới xuất trận đã thắng được Nam Chiếu mấy kỳ, và tháng 6 năm 866 cho báo về Trung Quốc. Tháng 9 năm thứ 6 niên hiệu Hàm Thông (865), Cao Biền đánh úp quân Nam Chiếu đang gặt hái ở Phong Châu (Vĩnh Yên) và cướp thóc lúa đem về nuôi quân.
Biết tình thế khó khăn, vua Nam Chiếu phái Đoàn Tú Thiên làm tiết độ sứ đất Thiện Xiển (kinh đô riêng của Nam Chiếu ở tây bắc Giao Châu), phái Dương Tư Tấn đến giúp Đoàn Tú Thiên giữ Giao Châu, và cho Phạm Nê Ta làm đô thống phủ đô hộ.
Tin báo thắng trận của Cao Biền đến Hải Môn thì bị Lý Duy Chu chặn lại. Triều đình Trung Quốc lâu không thấy tăm hơi của Cao Biền liền cho hỏi Lý, Lý nói dối rằng Cao Biền vẫn không chịu xuất quân và án binh bất động ở Phong Châu. Thực ra lúc đó Cao Biền đã phá được quân Nam Chiếu, hàng được hơn 1 vạn quân, và đang vây hãm quân Nam Chiếu ở La Thành quá 10 ngày. Trong lúc đó Đường Ý Tông phái Vương Án Quyền và Lý Duy Chu tới thay họ Cao, và trước khi về kinh, Cao Biền đã phái Tăng Cổn về Trung Quốc trình bày tin tức thắng trận và mọi sự hãm hại của họ Lý. Sau khi giao binh quyền, Cao Biền cùng 100 thủ túc lên đường. Khi vua Đường hiểu rõ manh mối, Cao Biền được thăng chức kiểm hiệu công bộ thượng thư và được quay gót về Giao Châu tiếp tục việc đánh dẹp. Trong lúc này Vương Án Quyền và Lý Duy Chu mới đánh thành. Vương Án Quyền thì nhút nhát còn Lý Duy Chu lại tham lam tàn ác nên tướng tá không phục, nhờ vậy quân Nam Chiếu giải được vòng vây 2 lần trốn thoát quá nửa.
Đến khi Cao Biền trở lại, tháng 4 năm Hàm Thông thứ 7 (866) thì hạ được thành, đánh bại được Dương Tư Tấn, chém được Đoàn Tú Thiên, Phạm Nê Ta, Nạc Mi và Chu Cổ Đạo là thổ mán đã làm hướng đạo cho Nam Chiếu cùng sát hại hơn một nửa quân Nam Chiếu. Cao Biền lại đánh phá 2 động thổ mán đã theo Nam Chiếu và giết tù trưởng. Tháng 11 cùng năm, nhà Đường đặt Tĩnh Hải quân, dùng Cao Biền làm tiết độ sứ kiêm hành doanh chiêu thảo sứ các đạo. Bắt đầu từ đấy, Giao Châu đổi tên thành Tĩnh Hải quân tiết trấn.
Xét ra Giao Châu bị nạn Nam Chiếu ròng rã 10 năm vô cùng tai hại. Từ đó Cao Biền ở lại Giao Châu làm tiết độ sứ. Sau khi Nam Chiếu bại trận được vài năm, Trung Quốc bị loạn. Nam Chiếu lại lợi dụng cơ dấy quân. Vua Đường muốn phương nam được ổn định nên điều đình gả công chúa cho vua Nam Chiếu. Nam Chiếu liền cử một phái bộ đặc biệt sang đón công chúa trong đó có mấy thượng tướng. Cao Biền gửi mật thư cho vua Đường bảo trong phái bộ có 3 nhân vật cao cấp nhất là linh hồn của Nam Chiếu nên đầu độc họ để trừ hậu họa, sau này Nam Chiếu có phục hồi được ắt cũng còn lâu. Vua Đường y lời cho đánh thuốc độc vào rượu, các sứ giả Nam Chiếu bỏ mạng nhờ vậy nhà Đường giữ Giao Châu thêm một giai đoạn .
Cao Biền khởi việc xây thành đắp lũy ở các nơi biên cảnh để đề phòng giặc giã. Một kỳ công của ông là việc dựng lên thành Đại La bên bờ sông Tô Lịch. Thành này bốn mặt dài hơn 1.982 trượng, cao 2 trượng 6 thước. Bên ngoài thành có một con đê chạy theo để bao bọc lấy thành. Đê dài hơn 2.125 trượng 8 thước, cao 1 trượng rưỡi, dầy 2 trượng. Trong thành có tới 20 vạn nóc nhà. Sự sống của nhân dân rất là sầm uất. Ông lại khai phá các ghềnh thác để mở rộng đường thủy cho các thuyền bè buôn bán đi lại.
Về mặt cai trị, ông cũng có một chính sách rõ rệt tránh được mọi điều nhũng lạm của bọn thừa hành. Ông đã gây được thiện cảm giữa ông và dân chúng cho nên được tôn là Cao Vương. Ông lập các sở thuế để có tiền chi dụng.
Năm Ất Tỵ (875) vua Đường đổi Cao Biền đi làm tiết độ sứ tại Tây Xuyên (tỉnh Tứ Xuyên) và ưng thuận lời đề nghị của Cao Biền cho Cao Tầm (cháu Cao Biền) thay thế ở phương nam.
Thành Đại La
Thành Đại La ban đầu do Trương Bá Nghi cho đắp từ năm Đại Lịch thứ 2 đời Đường Đại Tông (767), năm Trinh Nguyên thứ 7 đời Đường Đức Tông (791), Triệu Xương đắp thêm. Đến năm Nguyên Hòa thứ 3 đời Đường Hiến Tông (808), Trương Chu lại sửa đắp lại, năm Trường Khánh thứ 4 đời Đường Mục Tông (824), Lý Nguyên Gia dời phủ trị tới bên sông Tô Lịch, đắp một cái thành nhỏ, gọi là La Thành, sau đó Cao Biền cho đắp lại to lớn hơn. Theo sử cũ thì La Thành do Cao Biền cho đắp có chu vi 1.982,5 trượng (≈6,6 km); thành cao 2,6 trượng (≈8,67 m), chân thành rộng 2,5 trượng (≈8,33 m), nữ tường[5] bốn mặt cao 5,5 thước (≈1,83 m), với 55 lầu vọng địch, 6 nơi úng môn[6], 3 hào nước, 34 đường đi. Ông còn cho đắp đê vòng quanh ngoài thành dài 2.125,8 trượng (≈7,09 km), đê cao 1,5 trượng (≈5,00 m), chân đê rộng 2 trượng (≈6,66 m) và làm hơn 400.000 gian nhà. Theo truyền thuyết, do thành xây đi xây lại vẫn bị sụt ở vùng sông Tô Lịch, Cao Biền đã cho trấn yểm tại đây để làm cho đất vững và chặn dòng long mạch của vùng đất này. Các di chỉ tìm được trong lòng sông tháng 9 năm 2001 được một số nhà nghiên cứu cho là di tích của bùa yểm này (xem Thánh vật ở sông Tô Lịch).
Người vợ
Theo thần phả ở Hà Đông, Cao Biền có một người vợ là Lã Thị Nga (Lã Đê nương) , theo ông từ phương bắc sang Việt Nam. Bà không ở cùng Cao Biền trong thành mà ra ở bên ngoài, khu vực ngày nay là thị xã Hà Đông. Bà đã truyền nghề dệt lụa cho dân ở đây và trở thành bà tổ nghề dệt lụa Hà Đông. Sau khi Cao Biền về bắc, bà ở lại Tĩnh Hải quân. Sau nghe tin Cao Biền mất ở Trung Quốc, bà gieo mình xuống sông tự vẫn. Dân lập đền thờ bà ở bờ sông.
Đền thờ
Bản sách TT-TS FQ 40 18/X11, 11, Viện Thông tin Khoa học Xã hội - Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam - Ngọc phả Thần tích do Hàn lâm Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn năm Nhâm Thân – 1572 và Sách Thành Hoàng Việt Nam của Phạm Minh Thảo, Trần Thi An, Bùi Xuân Mỹ - NXB Văn hóa Thông tin 1997 viết: Năm ấy, Vương dẫn quân từ biển Đông Hải vào Giao Châu đánh giặc Nam Chiếu. Khi hành quân qua Nam Trì thấy bản doanh xưa kia của hai vị Lang Công, Bảo Công và đền thờ hai ông, lại thấy đất đai có hình thế quý, nhà cửa ở đây huy hoàng. Đền thờ ở thế đất rất quí Phượng Hoàng Hàm thư biết chắc là thần linh đền thiêng bèn cho dừng xe, đóng đồn ở đây và trú đêm ở đền. Đêm đến Vương vào trong điện khấn: “Nay thần tiến binh đánh giặc Nam Chiếu, hai vị linh Thần có anh linh thì xin phù hộ giúp quốc gia, tiễu trừ quân giặc. Sau này thành công hẳn được bao khen, sắc phong cúng tế, xin quân thần sau này một chốn, cùng phối hưởng lâu dài, há phải dài dòng, khấn cầu từ hay ý đẹp”. Nửa đêm, Vương chiêm bao thấy hai vị tướng đường đường, đầu đội mũ trăm sao mặc sán lạn, long bào giáp ngọc huy hoàng. Một vị cưỡi ngưạ trắng, cao hơn bảy thước tay cầm siêu đao vàng, một vị cưỡi hổ vàng tay cầm búa việt. Vương bèn hỏi: “Ngài là danh tướng nào vậy” Một vị xưng: “Thần gốc là Trung Thiên Bảo Quốc”, vị kia xưng: “Thần gốc là Trung lang Tế thế, đều là đại thần, tướng nhà Triệu thời xưa, nay thấy vương đem quân đi đánh giặc, chúng ta tình nguyện theo vương đánh giặc, âm phù tả hữu giúp cho vương thắng giặc, xin vương chấp thuận”. Thần vừa dứt lời thì Vương tỉnh giấc, biết là kỳ mộng báo trước sẽ thỏa nguyện công thành. Hôm sau, ngày 10/3 nhân dân Nam Trì hành lễ chúc mừng. Vương bèn truyền cho phụ lão Nam Trì: “Ta phụng mệnh Đường vương nhậm chức Đô hộ nước Nam. Nay giặc Nam Chiếu xuất sư dấy binh xâm phạm, vì thế ta tiến quân qua đây. Ngắm nơi đây thấy địa thế quan kỳ, có thế đất rất quí. Đền thờ được dựng chính giữa khu có thế Phượng Hoàng hàm thư nên nhân dân nhất định giàu có, phát nhiều công hầu”. Rồi cho dựng hành cung ở khu Ngọc Khê.
Tại trang Nam Trì có gia đình Phạm tên húy của ông là Tố, lấy vợ người gốc Nam Trì là Trần Thị Phương ở Ngọc Khê. Năm bà Trần Thị 21 tuổi nằm mộng vào chùa Hương Tích gặp Phật Bà Quan Âm hiện lên cho một cặp nhẫn vàng. Rồi bà có mang. Đến rằm tháng hai (15/2) năm Bính Thìn đẻ sinh đôi hai cô con gái. Khi đẻ hai nàng tố nữ, có con công ngũ sắc múa lượn trước sân nhà, hương thơm toả ra thơm nức. Lớn lên hai cô xinh đẹp tựa Hằng Nga, thể diện bồng đảo , nét mặt vui tươi như trăm hoa đua nở, mắt sáng long lanh tựa ngọc. Đến khi được hai tuổi cha mẹ đặt tên cô thứ nhất là A Lữ và cô thứ hai là Lự nương. Hai chị em trưởng thành thì tam tòng tứ đức nữ công bách hạnh, tam tòng tứ đức đủ đầy, công dung ngôn hạnh, tài giỏi hơn người. Ca kịch, thư họa, múa hát thanh sắc đều tuyệt vời. Năm 21 tuổi, khi Vương đang đang dựng hành cung, hai cô đến xem. Nhác trông thấy hai chị em có vẻ mặt yêu kiều lộng lẫy hơn người, Vương nghĩ đây là người thỏa nguyện toại lòng đây. Rồi Vương cho triệu vợ chồng họ Phạm đến bàn chuyện cưới hỏi. Ông bà đồng ý gả hai cô cho Vương. Vương cho mang bốn trăm thoi vàng dẫn cưới, cho dựng cung nương lưu tồn tồn đến đời sau gọi là hành cung Ngọc Khê. Năm ấy là năm Ất Dậu (865), Giám quận Lý Duy Chu ghanh ghét, không hiệp đồng, lại có âm mưu hãm hại Vương. Với năm nghìn quân tiên phong và bảy nghìn quân tăng cường của tướng Vi Trọng Tể, Vương vẫn tiến quân thẳng đánh Nam Chiếu. Khi giao chiến, trời đột nhiên tối sầm, sấm sét nổi lên dữ dội, hai vị thần Bảo Công, Lang Công hiện về, hỗ trợ hai bên tả hữu làm cho quân giặc chạy toán loạn, Chỉ một trận lớn, Cao Vương đã dẹp tan quân Nam Chiếu, lấy lại được Giao Châu. Dẹp yên được giặc, ngày 10/7 Vương trở lại hành cung Ngọc Khê. Dân làng hành lễ chào mừng tại trụ sở hội đồng nơi thờ phụng hai vị thần Lang Công, Bảo Công. Vương lại truyền rằng: “Cùng tại nơi phát lộ đền chính thờ hai vị Thần này, ta cũng hai vị quân thần mở hội lễ mừng vạn năm không thay đổi. Một lần nữa ta xin nói, ta phụng mệnh vua Đường làm Đô hộ nước Nam. Vừa qua giặc Nam Chiếu xâm phạm, làm cho nhân dân lầm than khổ cực. Ta mang quân đi tiễu trừ quân giặc qua nơi đây thấy thế đất cực quý, Thần thờ trong đền rất linh thiêng. Quả nhiên đêm về, hai vị linh Thần hiện lên xin tòng chinh hộ quốc. Ta có một nguyện ước cùng duyên phối hưởng như anh em chí tình. Tuy âm dương hai ngả nhưng chung một nguyên khí; tuy Nam Bắc hai phương nhưng đều chung một Trời nghĩa khí. Nên nay ta có ước nguyện làm anh em với hai vị quân thần, cùng xứng đáng hương hỏa vạn năm. Vì vậy, ta tuyên bố nước Nam sẽ lưu danh thơm bất hủ vạn năm”. Nói xong Vương ban vàng ngọc cho dân làng làm công quĩ. Sau cho tu sửa đền thờ và xây thêm Vọng cung làm chỗ tế lễ hai vị Thần. Tế lễ xong, Vương rước hai phu nhân về Tĩnh Hải vương phủ.
Sau Vương cho xây đồn ải ở biên thuỳ, chỉnh đốn việc công, đặt sổ sưu thuế thu cho việc công đầu tiên ở Giao Châu, đặt ra phép tắc; trị thủy sông ngòi xây dựng hải cảng để thông thương các nước, thương mại giao lưu… Thời kỳ Cao Vương trị nhậm, thiên hạ thái bình, nhân dân an cư, lạc nghiệp, phú túc; mọi người kính phục nên gọi Cao Vương. Làm Tiết độ sứ Giao Châu 9 năm, Hoàng đế nhà Đường triệu Cao vương về Bắc quốc cử làm quan Thái thú kinh Bình Châu quốc được 10 năm. Vương hoá ngày 10/8 năm Quý Tỵ (năm 887?). Tại nước Nam, nhớ ơn công lao to lớn của Vương, nhiều nơi đã lập đền thờ Vương.
Sau triều đại sau đều phong Cao Vương là Quốc vương Thiên tử, Bảo Công (Tể tướng Lữ Gia) là Trung Thiên Bảo quốc, Lang Công (Tướng Nguyễn Danh Lang) là Trung lang Tế thế. Các triều đại ba vị Thần đều giúp dân giúp nước hiển linh ứng báo nên đều được sắc phong mỹ tự, duệ hiệu Thượng đẳng Phúc thần. Nhà Lê sắc phong ba vị là Tá trị Hựu Thánh, Cương trực hiển Thánh và Dũng lược Quả đoán; chuẩn cho Nam Trì lập đền chính phụng thờ ba vị, định kỳ cúng tế bốn vị Thần vào các ngày sinh, ngày hóa và các ngày Khánh hạ gồm chữ húy, quần áo, thờ phụng.
Còn về hai vị phu nhân, sau khi Vương về Bắc quốc thì về quê dựng chùa nhỏ xuất gia, đi tu và bỏ tiền ra mua ruộng đất làm tự điền để sống. Đến ngày 15/11 hai bà làm lễ Phật rồi hoá. Dân làng an táng hai bà tại phía tây hành cung và lập miếu thờ tại khu Bảo Tàng (nay là đất Nam Trì).
Các truyền thuyết
Với Cao Biền, ngày nay ở dân gian Việt Nam vẫn còn những truyền thuyết hoang đường, như cho rằng Cao Biền thấy ở đất Giao Châu có nhiều kiểu đất đế vương, nên thường cưỡi diều giấy bay đi xem xét, rồi dùng phép thuật phá những nơi có hình thế sơn thuỷ đẹp, và chặn những đất có long mạch bằng cách đào những giếng khơi rất sâu.
Mỗi khi thấy người nào sức yếu, tay chân cử động run rẩy, người ta hay sử dụng câu gần như đã là thành ngữ: Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non. Người ta giải thích là Cao Biền có phép thuật "tản đậu thành binh", nghĩa là mỗi khi cần có quân lính đi đánh dẹp, không cần mộ người chỉ cần rắc đậu vào một bãi đất, rồi ủ kín, đọc thần chú rồi mở ra, mỗi hạt đậu hóa thành một người lính. Có lần Cao Biền đọc thần chú còn thiếu, khi mở ra những hạt đậu đã thành lính nhưng đều còn non chưa đủ sức, đứng lên không vững.
Một thuyết khác giải thích về Cao Biền dậy non là khi Cao Biền sang nước Nam với mục đích yểm bùa và triệt hạ long mạch thì ông có nuôi 100 âm binh để phục vụ mục đích này. Để nuôi đủ 100 âm binh Cao Biền nhờ một bà hàng nước mỗi ngày thắp một nén hương để gọi dậy một âm binh. Khi thắp đủ 100 nén hương trong vòng 100 ngày sẽ gọi dậy được đủ 100 âm binh. Nhưng bà lão nước Nam đã phá âm mưu của Cao Biền bằng cách thắp cả một lượt 100 nén hương trong vòng 1 ngày. Kết quả là âm binh của Cao Biền đã dậy đủ 100. Nhưng vì không đủ ngày, dậy non nên không có tác dụng.
Truyền thuyết dân gian kể rằng khi sang Giao Châu, Cao Biền thấy long mạch rất vượng, nên muốn phá đi, thường mặc áo phù thủy, cưỡi diều giấy đi khắp nơi để xem địa thế, hoặc giả tảng lập đàn cúng tế để lừa thần bản địa đến rồi dùng kiếm báu chém đầu, xong đào hào, chôn kim khí để triệt long mạch. Cao Biền có lần đến núi Tản, định dùng chước này, nhưng Tản Viên sơn thánh biết được, liền mắng Cao Biền rồi đi.Truyền thuyết núi Cánh Diều ở thành phố Ninh Bình kể rằng Cao Biền thường cưỡi diều giấy đi dò phá long mạch nước Nam, khi bay đến đất Hoa Lư đã bị một đạo sĩ cùng nhân dân ở đây dùng tên bắn, Cao Biền bị trọng thương, diều gãy cánh rơi xuống một hòn núi, từ đó hòn núi mang tên là núi Cánh Diều.
Xét ra, theo sử Trung Quốc, chính Cao Biền khi về bắc bị cấp dưới là Lã Dụng Chi cuốn vào những trò ma thuật phong thủy và trở thành nạn nhân của những trò pháp thuật đó. Nếu là thày phong thủy cao tay, ông phải là người đi mê hoặc người khác, không thể bị mê hoặc và bị chết bởi thuật này.
Sự tích đền Bạch Mã
Chuyện kể rằng Cao Biền đắp La Thành, mấy lần bắt đầu đều bị sụt lở. Một đêm, Cao Biền đứng trên vọng lâu nhìn ra, thấy một vị thần cưỡi ngựa trắng chạy đi, chạy lại như bay, rồi bảo Cao Biền cứ theo vết chân ngựa chạy mà đắp thành. Vì vậy, sau khi đắp thành xong, Cao Biền cho lập đền thờ vị thần ấy ở ngay nơi hiển hiện, gọi là đền Bạch Mã. Đền thờ này ngày nay vẫn còn ở phố Hàng Buồm, Hà Nội. Chuyện này còn có dị bản khác nói rằng Cao Biền đã cho đắp thành Đại La. Một hôm, Cao Biền ra chơi ngoài cửa đông của thành, chợt thấy trong chỗ mây mù tối tăm, có bóng người kì dị, mặc áo hoa, cưỡi rồng đỏ, tay cầm thẻ bài màu vàng, bay lượn mãi theo mây. Cao Biền kinh sợ, định lấy bùa để trấn yểm. Bỗng đêm hôm ấy thấy thần báo mộng rằng:Ta là tinh anh ở Long Đỗ, nghe tin ông đắp thành nên đến để hội ngộ, việc gì mà phải trấn yểm?
Cao Biền lấy làm kỳ lạ, bèn lấy vàng, đồng và bùa chôn xuống để trấn yểm. Chẳng dè, ngay đêm đó mưa gió sấm sét nổi lên dữ dội, sáng ra xem, thấy vàng, đồng và bùa trấn yểm đều đã tan thành cát bụi. Cao Biền sợ hãi, bèn lập đền thờ ở ngay chỗ ấy và phong cho thần là thần Long Đỗ.
Sau này Lý Thái Tổ dời kinh đô đến đất này, đổi gọi Đại La là Thăng Long. Nhà vua sai đắp lại thành, nhưng hễ thành đắp xong lại lở, bèn sai người đến cầu đảo thần Long Đỗ. Chợt người cầu đảo thấy có con ngựa trắng từ trong đền đi ra, dạo quanh thành một vòng, đi tới đâu, để vết chân rõ ràng tại đó và cuối cùng vào đền rồi biến mất. Sau nhà vua cứ theo vết chân ngựa mà đắp thành thì thành không lở nữa, bèn nhân đó, phong làm thành hoàng của Thăng Long. Các vua đời sau cũng theo đó mà phong tới Bạch Mã Quảng Lợi Tối Linh Thượng Đẳng Thần
Ghi chú
^ a b Cựu Đường thư, quyển 182 Cao Biền liệt truyện
^ Đại Việt Sử ký Toàn thư, Ngoại kỷ, Quyển V, Kỷ thuộc Tùy-Đường
^ a b c d Cao Biền (高骈) trên Bách độ Bách khoa
^ Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, quan chế đời Đường, các tiết độ sứ đều có hành quân tư mã, và ở mỗi châu lại có đặt một tư mã, cấp bậc bằng chức đồng tri phủ đời sau. Vậy chức tư mã Cao Biền làm đây là hành quân tư mã, chứ không phải là tư mã trong tam công
^ Bức tường nhỏ đắp trên tường thành lớn hay đê con chạch đắp trên mặt đê chính
^ Thứ thành đắp vòng ngoài cửa thành .
8/ Bài tham khảo thứ 8 .
Chùa Thiên Mụ và Cao Biền
Chuông Thiên Mụ nổi tiếng cả nước với tiếng ngân vang xa rộng của nó. Quả chuông này do chúa Hiến Tông (Nguyễn Phúc Chu) cấp tiền đúc vào năm Canh dần (1750). Tiếng chuông chùa Thiên Mụ biểu trưng cho sự hiện diện của Phật giáo hằng ngày, sớm và chiều tại cố đô Huế, trong lòng mỗi người dân tại cố đô Huế. Thiên Mụ là bà lão nhà Trời. Theo truyền thuyết, Cao Biền khi làm An Nam đô hộ phủ ở nước ta, dưới đời nhà Đường, theo lệnh vua Đường là Đường ý Tôn (860-873), đã đi khắp nơi ở nước ta, tìm những nơi đất tốt có vượng khí, đều lập phép trấn yểm. Cao Biền đã đến Thuận Hóa, xã Hà Khê, huyện Hương Trà, thấy giữa đồng bằng đột khởi một cái đồi hình đầu rồng, biết là nơi linh địa, bèn cho đào hào cắt ngang dưới chân đồi. Đêm đến, Biền mộng thấy một bà lão tóc bạc phơ, ngồi dưới chân đồi than vãn và nói to: "Đời sau, nếu có bậc minh chủ, muốn bồi đắp mạch núi lại, đem lại linh khí cho đồi núi này, thì hãy lập chùa thờ Phật ở đây..."
Nguyễn Hoàng khi vào Thuận Hóa, tìm cách gây dựng thế lực, để biệt lập và chống đối với họ Trịnh, đã đến nơi này, nghe các bô lão kể lại câu chuyện bà lão Trời và Cao Biền, thì rất mừng, lập tức cho xây chùa trên núi, và tự tay viết biển chùa là "Thiên Mụ tự" (chùa Thiên Mụ - chùa bà lão nhà Trời).
Người Việt Nam bình thường tin ở thuật phong thủy, nhưng đồng thời cũng tin ở Phật, Bồ-tát, và đạo Phật. Cao Biền có tài trấn yểm, nhưng dân Việt Nam có xây chùa thờ Phật là mọi phép yểm của Cao Biền đều bị phá hết. Ảnh hưởng của chùa Phật là ảnh hưởng của Tam Bảo, của đức Phật thường trú, của Chánh pháp mà bánh xe luôn luôn chuyển động, của Tăng là những người có trách nhiệm duy trì và hoằng dương Chánh pháp tại thế gian này. ( http://www.quangduc.com" target="_blank)
9/ Bài tham khảo thứ 9 .
Hàm Rồng mất tích .
Sự biến mất của kỳ quan này – theo cách lý giải của Hoàng Tuấn Phổ - là do sự chuyển dòng của sông Mã.
Theo nhận định của Đào Duy Anh trong cuốn Nước Việt Nam Qua Các Triều Đại (Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin - 2005) dòng chính của sông Mã trước đây vốn chảy thẳng ra lửa Lạch Trường, theo lối sông Lèn ngày nay.
Khi ấy ngã ba sông Mã, sông Ngu (sông Lèn) có tên là Tuần Ngu – nay là ngã ba Bông – nơi thu thuế đường thủy của nhà Lê.
Một cơn lũ lớn vào đầu triều Nguyễn đánh chìm một bè gỗ lim lớn, dần dần phù sa bồi đắp làm hẹp cửa vào dòng sông Ngu Lại, khiến sông Mã phải trổ một nhánh phụ ra lối qua cầu Hàm Rồng và đổ ra cửa biển Hội Trào như hiện nay.
Sự chuyển dòng một cách bất đắc dĩ của sông Mã khiến lạch sông nhỏ ngay qua Hàm Rồng trở thành một con sông lớn, nhấn Hàm Rồng vào sâu trong dòng nước.
Một Hàm Rồng phong thủy
Tôi trở lại Hàm Rồng, ngắm nhìn phong cảnh. Vẫn núi Rồng, núi Ngọc, sông Mã, động Tiên Sơn, động Long Quang. Vẫn người Bắc kẻ Nam tập nập lại qua trên hai chiếc cầu bắc ngang dòng sông Mã. Vẫn non xanh nước biếc hùng vĩ. Vẫn mây trắng ngàn năm bay.
Những ai từng đi ngang qua xứ Thanh, tỉnh Thanh Hóa ngày nay, nơi dòng sông Mã cắt ngang đường Quốc lộ 1A, hẳn đều biết đến địa danh Hàm Rồng (phường Hàm Rồng, TP Thanh Hóa).
Từ ngàn năm trước, nơi đây vẫn được ngợi ca là một danh sơn thắng địa, nguồn thi hứng bất tận cho các tao nhân mặc khách danh tiếng như Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Ngô Thì Sĩ Phan Huy Ích, Nguyễn Siêu, Cao Bá Quát, Tản Đà, v.v… Núi non vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt.
Gọi điện trách, anh bạn tôi không có vẻ giận, chỉ hỏi: “Đang đứng ở đâu?”. “Trên núi Đầu Rồng, trong động Long Quang”.
“Đó là hai mắt của Rồng. Anh đi theo cửa hang nào cũng được, bám vách đá hướng về phía núi Ngọc, thấy phiến đá cao, là đến mỏm đá mũi rồng.
Phía dưới mũi Rồng có một hang động hình cáo hàm còn rồng gọi là Hàm Rồng. Nhưng tôi cũng khuyên anh đừng cố tìm. Hàm Rồng đã mất tích lâu rồi” – Dứt câu anh cúp máy.
Ngọn núi đá vôi mà tôi đang đứng khá nổi danh trong sử sách. Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí, núi Hàm Rồng ngày nay vốn là núi Long Hạm, tên cũ là Đông Sơn, mạch núi từ Ngũ Hoa (xã Dương Xá, huyện Thiệu Hóa ngày nay) theo bên sông dẫn đến, uyển chuyển liên tiếp như hình con rồng chín khúc, cuối dãy nổi lên ngọn núi cao, đá chất chồng.
Trên núi có động Long Quang. Dưới núi có tảng đá lởm chởm trông như hàm rồng đang hút nước sông Mã.
Trong cuốn Lý Thường Kiệt (Nhà Xuất bản Sông Nhị, Hà Nội - 1949), học giả Hoàng Xuân Hãn cũng có cùng nhận định: “Núi Long Hàm hay Hàm Rồng là nhỏn cuối của một dãy núi, chạy dài trên hữu ngạn sông Mã từ làng Dương Xá đến cầu Hàm Rồng, dài trên khoảng năm cây số. Núi là núi đất lẫn đá nhưng nhỏn Hàm Rồng thì toàn đá.
Trên cao có động tên là Long Quang. Động có hai cửa hai bên, hình như hai mắt rồng, thường gọi là Long Nhãn. Núi sát bờ sông, trên bờ có mỏm đá dô ra như hình mũi rồng, cho nên gọi là Long Tị. Gần mặt nước có hai lớp đá chồng nhau như hàm rồng. Đó là Long Hàm.
Toàn hình – trông từ phương phương Bắc – giống như đầu rồng đang uống nước. Bên kia sông có nhỏn đá tròn, người ta gọi là núi Hỏa Châu. Cảnh chung gọi là Long Hí Châu (Rồng vờn hạt ngọc)”.
Một nhà nghiên cứu người xứ Thanh là Hoàng Tuấn Phổ gần đây có đưa ra một cứ liệu khi viết về cuốn Núi Rồng –Sông Mã (Nhà Xuất bản Văn hóa - 1993).
Tác giả dựa vào lời dẫn bài Long Hạm Nham Tức Hứng của Phan Huy Ích viết năm 1782: “Sau khi đến nơi nhậm trị, tôi qua thăm lại cảnh cũ núi Da Sơn (tên cũ là núi Rồng) ở bên cạnh bến sông.
Chỗ vách đá trống có một phiến đá cao hơn năm thước ta (hơn hai mét), bề rộng có thể trải được chiếu. Hình thù đá như cổ cái môi, trơn tru giống như đầu rồng mở miệng vậy. Vì thế mới gọi là động Hàm Rồng.
Trước động có một hòn đá rất lớn nhòm xuống dòng sông đột khởi lên như hình hàm rồng ngậm ngọc, cho nên đặt tên là hòn Đá Ngọc. Trong khoảng giữa chân núi và hòn Đá Ngọc của Hàm Rồng đã được san lấp thành nền đất bằng phẳng, rộng hai trải chiếu, trên đó dựng một am nhỏ, đặt tên Song Lạc Quán.
Khoảng trống vách bên phải tạm chứa được bốn, năm người ngồi, tôi thường bao con hát vào đó đàn hát gọi là Nhạc Phòng.
Vách đá trái - tùy theo hình thể của đá – sắp đặt bàn trà, chỗ bếp rượu, tôi lại khắc chữ vào ria núi đá và xây dựng công đường, nhà cao cửa rộng, có hành lang, trồng cây, trồng hoa thành hàng lối, phong cảnh rất đẹp…”.
Nếu những cứ liệu trên đủ sức thuyết phục, có thể khẳng định, sở dĩ ngọn núi này nổi tiếng vì nó có một điểm sất đặc biệt. Núi có dáng hình một con rồng đang há miệng.
Nhưng tôi xuống sát mép nước, đi ra xa theo phía bờ bắc, rồi đứng cao trên đỉnh núi Ngọc đối diện, thấy rất rõ dáng núi như đầu rồng nhưng hàm rồng thì thú thực không thấy đâu.
Có lẽ nào hình tượng Hàm Rồng đẹp như cảnh tiên ấy – như cách anh bạn mọt sách của tôi nói – từng hiện diện nhưng nay mất tích.
Khi tôi đem sự băn khoăn đến hỏi một người từng nghiên cứu khá kỹ về Hàm Rồng, lại nhận thêm một ý kiến khác.
Phải chăng hàm rồng chỉ là một thuật ngữ của khoa học phong thủy. Đó là ý kiến của ông T – một trong số ít người của xứ Thanh còn xác định được 28 huyệt mà Thánh địa lý Tả Ao phát hiện ở Thanh Hóa.
Ông T cho rằng, các nhà phong thủy có câu: “Tiên tích đức, hậu tầm long” (tức là chứa tức trước, tìm đất sau).
Trong phép tầm long của các nhà phong thủy, trước hết phải tìm tổ núi, rồi dò theo long mạch mà tìm đến huyệt.
Huyệt là thế đất có án che phía trước, chẩm làm chỗ dựa phía sau, bên trái là tay long, bên phải là tay hổ.
Long mạch có thể lớn hoặc nhỏ, có nhiều điểm kết mà điểm kết tốt nhất gọi là hàm rồng. Người ta thường nói những gia tộc được đại phú đại quý là nhờ có “mả táng hàm rồng” là vì vậy.
Hàm Rồng nay ở đâu
Trước anh bạn tôi có nhiều người quan tâm đến một vách đá hình miệng rộng đang há ngay mép nước, bên trong có chứa long mạch hàm rồng. Người coi lời dẫn tựa của bài Long Hạm Nham Tức Hứng như lời chú của vị quan châu đi tìm bí mật hang Thần trong truyện Vàng Và Máu của Thế Lữ.
Người đi tìm long mạch, người đến chỉ vì tò mò nhưng nhìn chung, ai cũng cố vén bức màn huyền bí để mục sở thị cái hình tượng khởi khát cho cái tên Hàm Rồng hiện nay.
Trong cuốn sách đã dẫn, tác giả Hoàng Tuấn Phổ còn dựa vào bài thơ Long Đại Nham của Nguyễn Trãi để khẳng định có một hang đá tự nhiên mang hình tượng con rồng há miệng.
Có vẻ hơi khiên cưỡng khi cho rằng Long Đại Nham là động lớn núi Rồng (Đại nham: động lớn) và câu: “Lê Phạm phong lưu ta tiệm viễn/Thanh đài bán thực bích gian thi” .
(Lê, Phạm văn phong dần vắng thấy/Rêu tường xóa lấp nửa vần thi – Lê Cao Phan dịch) chứng tỏ bản khắc thơ trong động của hai danh sĩ đời Trần là Lê Quát và Phạm Sư Mạnh bị rêu phong vì hang động thấp, gần nước sông.
Năm 1949, nhà sử học Hoàng Nguyên Hãn chứng minh cuốn An Nam Chí Lược (Lê Tắc soạn - 1335), bộ sách được coi là Hàm Rồng ngày nay còn họi là Long Đại Nham, Bảo Đài Sơn hay Hang Dơi là sai.
Một số sách đời sau như An Nam Chí (Cao Hùng Trưng) hay Việt Kiều Thư, Minh Chí đều chịu ảnh hưởng của sách này, nên có chung lỗi đó.
Theo ông, đó là ngọn núi Linh Trường, Lê Thánh Tông viết: “Núi xanh cao vót, dáng dị kỳ, đứng sững ở cửa biển. Chân núi có động, sâu thẳm khôn cùng, tương truyền đấy là miệng rồng. Ngoài cửa động có viên đá hình cái mũi, tương truyền đấy là mũi rồng.
Dưới mũi lại mọc ra một viên đá tròn nhẵn nhụi đáng yêu, tương truyền đấy là hạt ngọc. Đá lớn đá nhỏ lô nhô rất nhiều hình thái, chỗ thưa chỗ dày, không thể đếm được, tương truyền là râu rồng…”.
Núi đó từng có thơ của Lê, Phạm đề, nên nếu tìm theo hướng đó, chúng ta sẽ phải xa nơi cần tìm hàng chục km.
Vị trí Hàm Rồng lâu nay vẫn được phỏng đoán là nơi cuối cùng của núi Đầu Rồng, dưới đôi mắt và mũi rồng, hướng về phía núi Ngọc (Hỏa Châu Phong).
Nhưng nó là những phần đất còn lại, hay chìm sâu giữa dòng sông Mã như bây giờ thì chưa ai khẳng định được. Nếu là phần trên bờ, chỉ cần khai quật đi lớp cát bồi chừng dăm ba mét, hy vọng sẽ thấy.
Nhưng nếu chân núi Rồng vốn vươn xa ra giữa sông , hy vọng tìm thấy là rất mong manh, vì nước nơi này cực xiết. Trước đây người ta không dễ hạ được một móng cầu thì ai có thể xuống đó mà thám hiểm.
Hơn nữa, trải qua mấy trăm năm dưới dòng sông Mã với lượng nước trung bình năm 52,6 m3/s, modul dòng chảy năm 221/s.km2, tổng lượng cát bùn khoảng 3,027.106 tấn, liệu Hàm Rồng có còn dấu tích.
Chúng tôi đem những băn khoăn ấy định trao đổi với ông Ngô Hoàng Chung, Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin Thanh Hóa. Ông Chùng từ chối vì Hàm Rồng không thuộc quản lý của Sở và chỉ sang Phòng Văn hóa Thành phố.
Theo ông Hà Huy Tâm, Trưởng phòng Văn hóa Thành phố, thắng cảnh Hàm Rồng là quần thể di tích với 16 hạng mục cấp tỉnh. Về hang động thì có hai hạng mục chính là động Tiên Sơn và động Long Quang.
Từ trước tới nay, địa phương chưa từng tổ chức một đợt khảo sát nào để tìm lại thắng tích. Xét thấy việc tìm lại thắng tích Hàm Rồng, ngoài yếu tố tâm linh còn là sự giáo dục truyền thống.
Ông Tâm khẳng định, nếu hội tụ đủ một số điều kiện cần, sẽ có tờ trình UBND TP Thanh Hóa để làm.
Liên quan đến núi Hàm Rồng và huyệt hàm rồng trong phong thủy, có một truyền thuyết kể rằng vào khoảng năm 866 – 875, tiết độ sứ đất Giao Châu (tên nước ta thời thuộc Đường) là Cao Biền, rất giỏi về phong thủy, am hiểu việc làm bùa chú, lại biết nuôi âm binh, có thể ném hạt đậu hóa thành binh lính.
Biền thấy đấy Giao Châu có nhiều kiểu đất đế vương, sợ dân nơi đây bất khuất, khó lòng cai trị, nên thường cưỡi diều giấy bay đi xem xét và tìm cách trấn yểm các long mạch để phá vượng khí của người Nam.
Bay qua vùng núi Hàm Rồng, nhìn thấy huyệt Hàm Rồng, Biền nói rằng địa thế này tuy không phải là hung địa “xương long vô túc” (rồng không chân) nhưng cũng là hình con rồng què chân, không phải đất cực quý, nên bỏ đi.
Miệng nói vậy nhưng chính y lại âm thầm trở lại, mang theo hài cốt cha để táng vào mong sau này có thể phát đế vương. Sau nhiều lần táng mả cha vào, xương cốt cứ bị huyệt núi đùn ra, không kết phát.
Cao Biền biết rằng đây là long mạch cực mạnh, cực quý. Thì lại càng ham thích. Rắp tâm làm đến cùng, Biền bèn tán nhỏ xương vừa tung lên thì có muôn con chim nhỏ cùng bay đến, vô cánh quạt vù vù làm xương cốt bám trên vách đá bay tứ tan.
Biền than rằng linh khí nước Nam quá mạnh, không thể cưỡng cầu. Quả nhiên không lâu sau, Biền bị triệu về nước rồi bị giết. Và sau này, đất Thanh là nơi phát khởi của nhiều vua chúa.
Nhiều người cho rằng, những chim nhỏ phá phép trấn yểm của Cao Biền là thần linh của sông núi nước Nam. Có người lại cho rằng đó là do Thánh Tả Ao hóa phép.
Theo truyền thuyết, cụ Tả Ao là vua phong thủy của nước ta, chuyên phá những long mạch bị Cao Biền trấn yểm.
Không ai rõ tên và năm sinh, năm mất của Tả Ao nên chỉ gọi theo tên làng. Nhiều tài liệu phỏng đoán cụ tên thật là Vũ Đức Huyền hay Hoàng Chiêm hoặc Hoàng Chỉ, Nguyễn Đức Huyên, v.v…, sống ở làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh vào thời Lê.
Cũng có người nói ông sống trước thời Tùy Đường. Nhờ chữa cho một thầy phong thủy người Tàu khỏi mù mắt, cụ được thầy này truyền nghề lại. Tả Ao học một biết mười, chẳng bao lâu biết hết các tuyệt kỹ của thuật phong thủy, bèn xin về nước.
Thầy Tàu sau khi thử tài cụ, than rằng: “Tất cả tinh hoa môn phong thủy đã truyền về phương Nam rồi!”. Sợ Tả Ao biết hết các huyệt đế vương ở nước Nam mà khởi phát, thầy dặn khi đi trên đường về quê, qua nơi nào có sông núi phải nhắm mắt lại kẻo bị mù mắt.
Nhưng khi đi qua Hàm Rồng, do tính tò mò, Tả Ao hé một mắt nhìn, một mắt nhắm và phát hiện đây có một huyệt là hàm rồng sắp mở miệng. Cụ bèn đem hài cốt cha đến đợi.
Nhưng người nhà thấy Ao đào hài cốt cha đem đi thì hoảng hốt, chạy theo khóc lóc không cho làm thế.
Giằng co mãi đến lúc hàm rồng khép miệng lại mà không táng được. Lại có khảo dị rằng, Tả Ao muốn cho con cháu phát khởi nên, trước khi chết, dặn con cháu đem chôn mình vào đấy lúc rồng há miệng.
Các con người nghe, người cản nên đành hỏng việc. Vì vậy có người nói, tài giỏi như Tả Ao nhưng không đủ phúc phận cũng đành chịu.
Theo Gia Đình&Xã Hội
CÒN TIẾP...
Được cảm ơn bởi: volam078, socola_tn12777
-
- Tam đẳng
- Bài viết: 521
- Tham gia: 16:48, 30/01/10
TL: CUỘC CHIẾN TÂM LINH NGÀN NĂM CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Mời mọi người tiếp tục theo dõi chuyên đề này tại đường dẫn sau: http://vn.360plus.yahoo.com/dienbatn" target="_blank
Được cảm ơn bởi: volam078
TL: CUỘC CHIẾN TÂM LINH NGÀN NĂM CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Bài dài kỳ về vụ trấn yểm bùa trên sông Tô Lịch:
Chuyện của đội trưởng thi công kè sông Tô Lịch - Phần 1Nguyễn Hùng Cường (Theo Bảo vệ Pháp luật)
Cty liên doanh XD VIC trúng thầu gói thầu 07 dự án cải tạo hệ thống thoát nước HN. Công việc cụ thể là nạo vét và kè đá dọc bờ sông Tô Lịch. Tác giả bài viết này là ông Nguyễn Hùng Cường đội trưởng đội XD số 12 trực tiếp chỉ huy thi công đoạn sông qua làng An Phú, P Nghĩa Đô, Q Cầu Giấy. Và mọi việc kỳ bí và đáng sợ bắt đầu từ đây. Có thể là sự trùng hợp ngẫu nhiên nhưng cũng có thể là chuyện tâm linh chúng ta chưa giải thích được.
Trước khi thi công, với tư cách chỉ huy công trường tôi có mời ông Phạm Ngọc Anh kỹ sư thủy lợi làm chuyên viên kỹ thuật. Ngay ngày đầu tiên khi khảo sát thực địa, ông Anh phát hiện một ngôi Đền rất lớn ở bờ sông phía An Phú. Đó là ngôi Đền Quán Đời có từ thời Lý. Ông Anh nói luôn: "cậu không nên nhận thi công đoạn sông này. Nguy hiểm lắm". Rất ân hận, tôi đã không nghe theo lời khuyên này.
Ngày 15/8/2001 tôi vừa làm lễ trong đền Quán Đôi, vừa cho máy xúc, máy ủi xuống bờ sông khơi công. Vừa thắp được mấy nén hương thì tự nhiên lửa trong nắm hương cứ bùng bùng cháy rực, đồng thời ngực tôi đau buốt. Mãi mới dập được lửa, cắm lên bát hương thì công trường báo có sự cố. Vái vội mấy vái, tôi chạy ra ngoài. Thì ra ngoài công trường sau khi đắp đê bơm nước ra, anh em phát hiện rất nhiều cọc gỗ lim đóng theo những hàng ngắn, bố trí rất lạ. Cũng là vô sự, vô sách, tôi chỉ huy cho máy nhổ cọc lên. Máy vừa nhổ được 2 chiếc cọc, thì tự nhiên như có một lực gì đẩy, chiếc máy xúc tự trôi xuống sông, không có cách gì giữ được. Đồng thời đê ngăn nước vỡ, nước tràn vào ngập kín chiếc máy xúc. Cũng gần như cùng lúc ấy có tiếng người hét lên. Trong đống bùn mà máy xúc đã xúc lên bờ có lẫn rất nhiều sương người, xương thú vật, rất nhiều đồ gốm, đồ sắt, đồ dùng như bát đĩa, dao, liềm, kim khâu, tiền đồng, tiền cổ. Biết là gặp chuyện lớn, tôi cho dừng thi công, yêu cầu công nhân gom tất cả đồ cổ, xương người lại và báo với Bảo tàng HN. Ông Phạm Kim Ngọc GĐ Bảo tàng HN và nhiều nhà khoa học đã đến hiện trường thu nhặt cổ vật màng về bảo tàng. Tối hôm đó, anh Hùng, người lái máy xúc nhổ cọc, đang khoẻ mạnh vừa về đến nhà chợt lên cơn động kinh, mắt trợn, miệng sủi bọt mép, người cứ quay tròn như gà bị cắt tiết. Cả nhà anh Hùng biết có sự lạ, sắm lễ ra bờ sông vừa khóc vừa lễ. Thật sợ, vừa lễ xong, đót vàng mã được một nửa thì điện thoại ở nhà báo tin anh Hùng đã tỉnh lại.
Không biết làm cách nào, nghe bạn bè mách, tôi phóng xe đi Hải Phòng mời 1 thầy pháp nổi tiếng về trừ tà. Vừa nói chuyện với thầy, tự nhiên thầy trừng mắt: "Này, chỗ ấy âm khí nặng nề, sức tôi không trừ được". Năn nỉ mãi thầy mới đi về HN mà cũng chỉ dám làm lễ cầu an ở bờ sông và ngay đêm đó về HP.
Mấy ngày sau, Bảo tàng HN tổ chức 1 hội thảo khoa học, hội tụ rất nhiều các nhà khoa học cả về sử học, bảo tàng, tâm linh... Kết luận của giáo sư Trần Quốc Vượng được chất nhận: đây là trận đồ bát quái yểm trấn giữ cửa thành Đại La từ thế kỷ IX. GS cũng đề cập đến lực lượng âm binh tại đây và dặn tôi phảỉ cẩn thận kẻo ảnh hướng đến sức khoẻ và tính mạng công nhân.
Tôi cùng anh em công nhân thu nhặt hết tất cả xương người liệm vào tiểu và chôn ở bờ sông, hàng ngày cắt cử người hương khói. Nhưng công việc không tiến triển được. Cứ đắp đê lên, lại vỡ. Anh em công nhân ở công trường thì luôn luôn mơ thấy ma quỷ và thường gặp tai nạn lao động. Vét được chút bùn nào lên thì cũng thấy xương người, có khi cả đầu lâu. Chúng tôi liệm hết vào tiểu đem chôn gần đó.
Một mặt tích cực đổi mới kỹ thuật thi công, mặt khác tôi vẫn tiếp tục mời thầy cúng trừ tà giải hạn. Nhưng tất cả các thầy bắc, nam đều bất lực. Công nhân toàn nằm mơ thấy những người mặc áo the, khăn xếp đánh đuổi không cho nằm. Nhiều người đã bỏ việc không dám ở lại. Anh Thương quê ở Nghệ An là công nhân xây lắp ngủ ở lán công trường, đêm nào cũng mơ thấy 1 bà cụ hiện lên nắm tóc đuổi đi và nói "Đây không phải chỗ kiếm ăn của ***, về quê mà sống". Anh Thưởng không chịu bỏ đi, còn khuyên nhiều công nhân ở lại làm. Được 3 hôm vợ anh làm cấp dưỡng cho công nhân bị bỏng độ 3 toàn thân. Sợ quá anh đưa vợ đi bệnh viện và bỏ việc luôn.
Đến tháng 11/2001 nhờ tích cực vận động tôi đã mời được thượng toạ Thích Viên Thành ở chùa Hương về làm lễ cúng cho tôi ở hiện trường. Vừa đến hiện trường thầy đã ngồi xuống nhắm mắt niệm Phật. Niệm 1 lúc thầy đứng lên nói. Đây là trận đồ trấn yểm rất nguy hiểm. Vì vậy các đệ tử thầy sẽ lập đàn tràng hoá giải. Sau đó thầy lập đàn tràng ở bờ sông hoá giải trấn yểm. Lễ xong thầy Thích Viên Thành nói với mọi người, "mặc dù thầy đã cố hoá giải nhưng anh em phải cẩn thận, còn anh Cường thì phải chịu nhiều hậu quả, gia đình, anh em con cháu cũng gặp hoạ. Rồi buồn buồn thầy nói: "vì cái đàn tràng này tính mạng thầy cũng khó giữ", Ba tháng sau thầy Thích Viên Thành hoá. Các đệ tử nói trước khi mất thầy còn nói thầy mất vì trận đồ yểm ở sông Tô Lịch.
Nhưng công việc cũng không tiến triển được. Đê đắp lên là vỡ, kè thép không vỡ thì nước sói từ dưới lên. Đặt đá xuống thì đá chìm ngỉm. Để kiểm tra địa tầng tìm kiếm biện pháp thi công mới tôi thuê 1 dàn khoan thăm dò đến khoan mấy mũi. Dàn khoan dựng ở giữa sông, đội khoan hạ mũi khoan. Lạ thay cứ hạ mũi khoan xuống 1 đoạn là mũi khoan gãy. Ba lần như vậy họ lẳng lặng tháo dàn khoan đi mất, không cần đòi tiền. Công nhân thì vẫn hoang mang vô cùng. Anh Hoàn quê ở Ninh Bình làm đốc công, có hôm vừa dẫm chân lên đầu cột gỗ thì ở quê nhắn lên bố anh ốm thập tử nhất sinh phải cấp cứu. Anh Nguyễn Văn Nông, thủ kho là người tích cực trong việc thu lượm các hài cốt và di vật thì mẹ bị tai biến mạch mãu não. Sau khi thày Thích Viên Thành làm lễ hoá giải yểm trừ, anh Trần Văn Lợi người Bắc Giang xông sáo nhất nhẩy xuống lòng sông vét bùn. Vừa lên bờ tắm rửa xong thì nghe tin nhà ở quê bị cháy rụi, một đứa cháu rất thân với anh đột nhiên chết.
Các công nhân sợ hãi nghỉ việc cả. Chiều chiều đứng bên bờ sông hoang vắng lòng tôi bỗng chua xót. Tôi có tội gì đâu mà thánh thần hại tôi đến nỗi này....
Chuyện của đội trưởng thi công kè sông Tô Lịch - Phần 2
Thấm thoát đã cuối năm, trời trở rét, chỉ còn anh em thân thiết với tôi là ở lại làm. Tôi cho đóng cọc thép sâu tới 4m rồi làm cữ thép chấm nước. Lạ thay cứ bơm sạch thì nước lại cữ lại vỡ. Lúc này một số báo chí đã nói tới những sự kỳ lạ xung quanh công trình trên sông Tô Lịch đoạn qua làng An Phú này.
Bảo tàng Hà nội, rồi Viện tâm lý, các nhà ngoại cảm cận tâm lý đều đã tổ chức các cuộc họp tại công trình. Kết luận cuối cùng là… không giải thích được. Phía các nhà sử học, khảo cổ học giải thích rằng nằm trong quần thể của Tây thành Đại La (có thể là Ngọ Môn), nhiều người còn yêu cầu khôi phục di tích này, phía các nhà tâm linh, dịch học thì nói đây là trận đồ yểm tà ma, không cho xâm phâm kinh thành, vì là trận đồ nên đã giam giữ rất nhiều ma mãnh, những bộ xương người mà tôi đào được rất có thể là xương người bị tế sống chôn lúc làm lễ trấn yểm. Cũng theo họ tôi đã động đến trận đồ đó, phá hủy nó, giải thoát cho bao nhiêu tà ma nên nó ám vào làm hại những người có mặt lúc đó, mặt khác thánh thần cũng căm giận việc làm của tôi nên ra tay trừng phạt. Chuyện thánh thần ma quỷ thì không ai nhìn thấy, nhưng những rủi ro mà chúng tôi phải chịu thì quá đáng sợ.
Có một hôm đóng cữ mới, bơm nước cạn chuẩn bị đào để kè bờ thì phát hiện có thêm một cọc gỗ. Dùng máy xúc nhổ mãi không được, tôi giao nhiệm vụ cho anh Thùy (người Ninh Bình) xuống chặt cụt đi để lấy chỗ làm. Ngay đêm hôm đó anh bị cảm nặng sốt cao, phải đưa vào bệnh viện. Nhưng kinh khủng hơn sáng hôm sau điện thoại từ gia đình anh điện lên mẹ anh bị tai nạn giao thông chấn thương sọ não. Đến chiều thì tin lên đứa con anh đang học lớp 7 bước từ trên hè xuống sân ngã gãy xương đùi, mặc dù từ hè và sân chỉ cách nhau 30cm. Đến sáng hôm sau thì mẹ anh bị đứt mạch máu não. Đang sốt anh Thùy cũng phải vùng dậy chạy vào đền làm lễ mới bỏ về. Sau này tôi mới biết nhà anh còn gặp nhiều chuyện không may nữa, phải cúng lễ rất nhiều anh mới sống sót được.
Nhưng bỏ không làm nữa cũng không được. Đã đổ dồn hết vốn vào đây mà bỏ đi thì không chỉ chết một mình tôi mà chết cả nhà, cả họ. Xin nhắc lại là công ty VIC trúng thầu nhưng làm từng đoạn, các đội nhận khoán lại, phải tự bỏ tiền ra làm rồi thanh toán sau. Mặc dù tôi đã báo cáo lãnh đạo công ty nhiều lần, báo chí cũng đã nói đến chuyện này nhưng ông Nguyễn Quang Hưng – Giám đốc công ty tư vấn không quan tâm giúp đỡ. Ngược lại ông còn nhạo báng chê trách chúng tôi không biết làm việc.Vì vốn liếng, vì sĩ diện của một kỹ sư xây dựng, tôi bàn với anh em thân tín quyết tâm làm đến cùng. May thay ông Nguyễn Trường Tiểu – Chủ tịch Hội đồng quản trị công ty VIC ủng hộ tôi rất nhiều trong công việc này (hiện nay ông Tiểu đang làm Phó Tổng giám đốc Tổng công ty xây dựng Hà nội). Được sự giúp đỡ của ông, tôi đã mời được thầy Mão, một thầy từ phủ nổi tiếng, nhà ở Vĩnh Tuy- Hà nội, đến làm lễ tế tại công trường. Nhiều lần tôi và ông Tiểu đến mời ông Mão và cuối cùng đến tháng 8/2002 ông Mão nhận lời lập đàn tràng giải trận đồ bát quái cho tôi. Đàn lớn lắm, có đủ cờ phướn, hương án, lê mận, hoa quả… Trong danh sách chủ lễ có đủ ban giám đốc công ty VIC, nhưng ông Hưng không đến dự, cúng lễ hai ngày hai đêm, hàng trăm người đến xem ầm ĩ một khúc sông. Cúng xong ông Mão nói với tôi: “Cậu đào khúc sông này là cậu khổ rồi. Bây giờ cậu có thể làm xong việc nhưng nhà cậu sẽ gặp nhiều tai vạ lớn. Tôi làm lễ cho cậu cũng sẽ bị trả giá. Mặc dù tôi không chết nhưng e rằng sẽ khó được như trước”.
Ngay sau khi cúng sau, chúng tôi cùng về nhà thì ông Mão ngất đi. Từ lúc đó, trong gần nửa tháng, người nhà ông Mão đưa ông đi khắp các bệnh viện, không bác sĩ nào biết ông bị bệnh gì, còn ông Mão thì lúc mơ, lúc tỉnh, lúc thì kêu đau đầu… Cứ vậy mãi sau ông mới khỏi, nhưng từ đó sức khỏe yếu hắn đi. Trước đây tôi không tin là thầy Thích Viên Thành chết vì tai họa sông Tô Lịch nhưng từ khi chứng kiến ông Mão ốm thì tôi tin rằng thầy Thích Viên Thành chết vì tà ma sông Tô Lịch thật. Nhưng là nhất là từ lúc lập đàn tràng lần thứ 2 do ông Mão chủ lễ công việc có vẻ suôn sẻ hơn. Cữ dựng lên không bị phá vỡ nữa, kè đập cũng không bị sạt lở, chúng tôi làm được gần 150m dài, quá 1/3 đoạn sông tôi nhận. Tôi quyết định dừng công việc tại đây.
Nhưng tai họa thì không dừng lại, vào ngày tôi hết sạch tiền, định cho anh em công nhân nghỉ việc thì tự nhiên một anh công nhân lên cơn động kinh ngay tại công trường, miệng sùi bọt mép, mất hoàn toàn ý thức. Lúc tan cơn co giật anh vẫn mê sảng mồm lảm nhảm: “Trả *** đây, trả *** đây”. Ngay hôm sau tôi được tiếp một người quen mới từ Lào về. Đó là anh Tuấn, một cán bộ Ủy ban Dân tộc Trung ương. Năm trước, trong lúc chúng tôi đào trận bát quái anh có đến thăm và chọn trong các đồ cổ xúc ở dưới sông lên, xin một cái bát hoa cúc đời Lý, anh mang về bày ở trong nhà. Từ ngày ấy gia đình lục đục, làm ăn thất bại. Vừa rồi anh có đi công tác sang Lào có ông một thầy cúng vừa nhìn thấy anh đã hốt hoảng: “Anh có cầm vật gì của người âm không?”, anh trả lời “Không có ạ”, ông thầy cúng lắc đầu: “Anh phải nhớ thật kỹ đi, tôi thấy sau lưng anh có rất nhiều người âm đang đòi anh cái gì đấy, hình như là bát ăn cơm thì phải. Anh lấy của họ dưới sông làm họ không có bát ăn cơm. Anh phải trả họ ngay không thì gay go đấy”.
Anh Tuấn nhớ lại chuyện cái bát sợ quá phải bỏ dở chuyến công tác, quay về Hà nội sắm lễ vật làm lễ tạ tội và trả cái bát vào lòng sông đúng chỗ chúng tôi múc lên hôm đó là ngày 24/7/2002.
Chuyện còn rất dài, tai họa còn rất nhiều, ba ngày sau đó, bố đẻ tôi đột ngột ra đi và nhiều chuyện nữa đã xảy ra mà tôi sẽ kể chi tiết sau. Bởi ngay đến hôm nay gia đình tôi vẫn còn phải chịu nhiều oan khuất. Em gái tôi là Nguyễn Thị Bích Hợp bán bảo hiểm cho PJICO, chỉ bán bảo hiểm cho công ty Thái Phong, không tham ô tham nhũng đồng nào, chỉ vì các ông giám đốc, phó tổng giám đốc tham ô tiền tỷ mà phải ra tòa. Ai biết chuyện cũng thương mà không giúp gì được. Dự kiến phiên tòa sẽ bắt đầu vào ngày 10/4/2007. Tôi lo em tôi sẽ bị tù oan. Thế là em tôi đi tù tại tôi, tại tôi *** ngốc đã nhận thi công đoạn sông ấy, đã đụng vào trận đồ bát quái ghê gớm ấy. Đã có quá nhiều người chết, đã có quá nhiều người bị nạn, bị thương tật. Tôi cầu mong thần thánh mười phương, cầu mong các vị quan tòa anh minh cứu giúp em tôi, cứu giúp gia đình nhà tôi.
Chuyện của đội trưởng thi công kè sông Tô Lịch - Phần cuối
Như số báo trước đã kể, thầy từ phủ Phạm Văn Mão sau khi lập đàn tràng đã hóa giải được trận đồ bát quái công trình kè sông Tô Lịch, đoạn qua đền Quán Đôi, nhưng đổi lại gia đình tôi và cả anh em tôi sẽ bị trận đại nạn mất tất cả. Đúng như vậy, ngay sau đó công việc trên đoạn sông này bỗng nhiên thuận lợi, chẳng mấy chốc tôi đã làm xong khoảng 150m chiều dài kè sông.
Đến lúc xảy ra sự kiện anh Tuấn bị người âm đuổi theo, trả lại cái bát hoa cúc xuống lòng sông. Bố để tôi ở quê là một người đàn ông trẻ khỏe hơn tuổi 70 của mình, ông vẫn làm việc và lao động như mọi tráng niên. Sau khi anh Tuấn trả cái bát về lòng sông đúng 3 hôm, ngày 27/7/2002, bố tôi đi chơi về đang ngồi uống nước ở nhà đột nhiên đứt mạch máu não và chết ngay sau 6 tiếng đồng hồ cấp cứu. Đây là mất mát lớn nhất của cuộc đời tôi. Biết là mọi sự nguy hiểm đang rình rập, ngay sau khi đám hiếu bố tôi kết thúc, tôi ra ngay công trình, đào toàn bộ 8 hài cốt moi từ dưới sông đang chôn tạm dọc bờ sông lên, rửa ráy sạch sẽ, xếp vào tiểu đẹp và làm lễ trọng, đưa toàn bộ lên nghĩa trang Bát Bạt an táng, cho mát mẻ vong linh người chết. Trong đau khổ và mất mát cha, trước đàn lễ tôi vừa khóc vừa khấn rất to nhiều người nghe thấy: “Tín chủ xin các vong hồn tha thứ cho sự xúc phạm vào nơi yên nghỉ của các vong, nhưng tín chủ cũng chỉ là người làm thuê, thừa lệnh cấp trên mà làm, nay con đã sức cùng, lực kiệt, người thì chết, người thì ốm, tiền thì hết, nếu các vong có bắt tội thì bắt tội ông Nguyễn Quang Hưng, Giám đốc công ty VIC và ông Nguyễn Trọng Doanh, Giám đốc dự án. Xin các vong nhẹ đỡ trừng phạt con”. Tôi cũng nói thêm, trong suốt thời gian xảy ra chuyện ở đoạn sông Tô Lịch này, hai ông Hưng và Doanh lúc nào cũng tỏ vẻ không tin và không hề có sự hỗ trợ nào, thậm chí còn nhạo báng và gây thêm khó khăn cho công việc thi công của tôi.
Và cũng thật đáng sợ, chỉ 2 ngày sau khi tôi an táng toàn bộ 8 bộ hài cốt ở nghĩa trang Bát Bạt, trong chuyến công tác ở Quảng Binh xe ô tô chở ông Nguyễn Quang Hưng cùng một số cán bộ công ty đã bị tai nạ. Chiếc xe Toyota bị phá hủy hoàn toàn, Ông Nguyễn Quang Hưng bị chấn thương nặng, gãy 3 chiếc xương sườn nhiều cán bộ cũng bị vạ lây. Vẫn chưa hết sau đó khoảng 1 tháng, văn phòng ban quản lý do ông Nguyễn Trọng Doanh trực tiếp phụ trách đặt tại Yên Sở, Hà nội bỗng bốc cháy dữ dội. Ngôi nhà 2 tầng đặt văn phòng dự án và văn phòng một số công ty tham gia thi công dự án bị thiêu rụi hoàn toàn.
Sau khi làm xong 150m trên chiều dài360m tôi nhận thi công, do các sự việc nghê gớm xảy ra và cũng do sức cùng lực kiệt, tiền vốn không còn, tôi xin thanh lý hợp đồng. Lạnh lùng không có chút nhân đạo, không thương xót, Công ty VIC thanh lý hợp đồng mà không hỗ trợ lấy một xu nhỏ. Tôi bị lỗ 500 triệu đồng vì công trình này. Quay trở về Nghệ An tôi đi cầu khấn ở mọi nơi, nơi nào cũng báo cho tôi biết tôi đang bị nạn.
Cũng nói thêm, khi thi công công trình ngoài số cổ vật moi ở trong trận đồ bát quái tôi đã nộp cho Bảo tàng Hà nội, các công nhân có moi được lên nhiều bát đĩa, cốc chén cổ. Tôi có giữ lại mấy cái lành lặn. Trong đó có một chiếc tước màu đen mà nói như GS Trần Quốc Vượng, đó là một đồ cổ rất quý hiếm. Khi về đến Nghệ An, do hết tiền, tôi định bán chiếc tước đó. Khách mua từ Hà nội vào, sau một ngày trả giá đã thỏa thuận mua chiếc tước ấy với giá 10.000USD. Thỏa thuận xong, khách quay lai khách san lấy tiền để trả tôi, trong lúc đó chiếc tước vẫn để trên mặt bàn. Khách mang tiền đến, chưa kịp đếm tiền thì thật là kinh hãi, chiếc tước không ai đụng tay vào tự nhiên vỡ đôi, rồi vỡ vụn. Khách co giò bỏ chạy. Ngay sau đó tôi cũng sợ hãi quá, mang nốt mấy cái đồ cổ còn lại ra Hà nội gặp GS Trần Quốc Vượng và cho hết ông. GS Trần Quốc Vượng lúc đó vừa mới lấy vợ mới, đang rất vui vẻ, ông cứ cười tôi về sự yếu bóng vía. Ông giải thích cho tôi là đồ ngâm lâu dưới nước khi đưa ra ngoài không khí nước bốc hơi làm cho gốm bở ra rất dễ vỡ, nhấc lên nhấc xuống nhiều nó sẽ tự nứt vỡ. Chuyện cái tước không có gì liên quan đến tâm linh. Tôi thì quá sợ nên không giám giữ một món đồ nào nữa. Tôi không ngờ đó là lần gặp gỡ cuối cùng của tôi với GS Trần Quốc Vượng, vì chỉ ít lâu sau ông mất đột ngột. Trong thâm tâm tôi có cảm giác mấy món đồ cổ từ trận đồ trấn yểm đã làm hại ông. Tôi cũng nhớ ông xó xin mấy món đồ.
Từ đó đã 4 năm qua. Tôi từ một tỷ phú trước khi làm công trình kè sông đã trở nên một kẻ tay trắng, phải phiêu dạt lên biên cương, sang cả Lào để kiếm ăn. Có lúc tưởng như không còn mái nhà, không còn gia đình để về. Ông anh trai thứ hai của tôi, người tham gia công trình cùng tôi, gặp những sự trớ trêu, cay đắng trong hạnh phúc gia đình đến mức đôi lúc ông đã có những ý định tiêu cực. Đến năm 2006 vừa qua, ông ấy gây tai nạn giao thông làm chết người và vướng vào vòng lao lý. Ông anh thứ ba, người đã cho tôi vay tiền để làm kè sông Tô Lịch cũng là người làm ăn phát tài, sau đó gặp nhiều sự rủi ro, phá sản toàn bộ. Cô em gái út của tôi là Nguyễn Thị Bích Hợp công tác tại Sài Gòn thì đang vướng phải một sự oan khuất. Chỉ vì lòng tận tâm tận lực với công ty PJICO mà đang phải ra tòa và lúc tôi viết những dòng này, tòa đã tuyên tạm hoãn xử lần thứ 2. Lạ nhất cô em gái tôi đi xem lễ nhiều nơi, các thầy đều nói hạn của em tôi bẵt đầu từ đại hạn của gia đình tôi từ năm Tân Tỵ 2001 là năm tôi phạm phải trận đồ trấn yểm Đại La trên sông Tô Lịch.
Còn nhiều chuyện nhỏ nữa cũng đều đáng sợ, nhưng nếu kể nữa e rằng chỉ làm bạn đọc bận tâm. Tôi xin dừng bài viết ở đây. Cũng có thể toàn bộ chuyện này chỉ là ngẫu nhiên mà rơi xuống số phận tôi, hoàn toàn không có yếu tố tâm linh, chỉ biết rằng theo GS Trần Quốc Vượng địa điểm mà tôi thi công là điểm giao hòa của 3 con sông cổ: Sông Tô Lịch, sông Thiên Phú và sông Nhuệ. Do vậy, cấu tạo địa chất rất phức tạp và hình thành những vực sâu và rồi những vực sâu cũng được bồi lấp bởi mọi thứ đã từng trôi nổi trên ba dòng chảy của con sông chính, vì vậy việc thi công rất khó khăn. Nhưng cũng có thầy địa lý đã nói: đây là điểm giao và là một huyệt phong thủy rất quan trọng. Vì vậy, một thế lực nào đó đã lập trận đồ trấn yểm để huyệt này không phát được. Mọi việc tôi không biết rõ, nhưng chuyện của và gia đình thì quá đau khổ. Tôi cầu mong mọi sự chia sẻ của bạn đọc.
Được cảm ơn bởi: tree.pham
TL: CUỘC CHIẾN TÂM LINH NGÀN NĂM CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Sau ông Cường đã có người khác tiếp quản và thi công. Họ đã phát hiện ra tầng cát trôi tại điểm thi công mà trước đó ông Cường không phát hiện được. Và họ khắc phục, xử lý tầng cát trôi đó rồi cứ thế thi công bình thường được, giờ thi đã thi công xong lầu rồi.
TL: CUỘC CHIẾN TÂM LINH NGÀN NĂM CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Huyệt Hàm Rồng được trấn yểm rồi, sau đợt trấn yểm cụ bí thư họ Hà mất chức hay sao đó tôi không nhớ lắm.
TL: CUỘC CHIẾN TÂM LINH NGÀN NĂM CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Tất cả mọi thứ bọn Tung Của đều tính toán hết rồi, và giờ là lúc chúng dò xét chùng ta để hành động...!!!!
TL: CUỘC CHIẾN TÂM LINH NGÀN NĂM CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Huyệt này người Việt Nam yểm bạn ah, cụ là người đức cao vọng trọng, việc trấn yểm là cầu phúc cho dân chứ không phải họa.