Đất Phật
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
- cloudstrife
- Lục đẳng
- Bài viết: 4206
- Tham gia: 20:34, 24/11/10
TL: Đất Phật
Hỏi: Kính bạch thầy, trong thời khóa tụng kinh ở phần cuối đều có tụng Bát nhã Tâm Kinh, lý Bát nhã của đạo Phật chỉ có một chữ KHÔNG. Nhưng thực tế cuộc đời thì luôn luôn đối đãi, chẳng hạn con người làm việc mới có tiền để sống (chánh mạng). Có phương tiện mới di chuyển được ( xe cộ v.v… ) Ðiều nầy là rơi vào lý nhị nguyên. Kính xin thầy từ bi khai thị cho chúng con nắm vững trong việc học hỏi tránh sự hiểu sai không chính xác sẽ rơi vào tà kiến. Kính cám ơn thầy.
Ðáp:
Giáo lý của đạo Phật tùy theo căn cơ trình độ của chúng sanh mà có phân chia “Thừa”, “Giáo” và “Thời” khác nhau. Về thừa thì có năm thừa: Nhơn, Thiên, Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ tát. Về giáo thì có phân ra nhiều hệ tư tưởng cao thấp, sâu cạn, đốn tiệm khác nhau. Bát nhã thuộc về hệ tư tưởng Ðại thừa. Nếu luận về Thời, theo sự phán giáo của Ngài Thiên Thai Trí Giả Ðại Sư, thì Ngài chia trọn đời thuyết giáo của đức Phật ra làm 5 thời kỳ: Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Ðẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa và Niết Bàn. Trong 5 thời kể trên, thì Bát nhã thuộc về thời thứ tư. Sự phán giáo nầy được tóm tắt bằng một bài kệ cho dễ nhớ như sau:
Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhựt
A Hàm thập nhị Phương Ðẳng bát
Nhị thập nhị niên Bát nhã đàm
Pháp Hoa, Niết Bàn cộng bát niên.
Nghĩa là, hai mươi mốt ngày đầu Phật nói kinh Hoa Nghiêm. Mười hai năm, Phật nói kinh A Hàm và tám năm Phật nói kinh Phương Ðẳng. Hai mươi hai năm ròng rã Phật nói kinh Bát nhã và tám năm sau cùng Phật nói kinh Pháp Hoa và Niết Bàn. Riêng về kinh Bát nhã sau nầy chư Tổ kết tập lại thành một hệ thống gồm có 600 quyển. Tâm kinh Bát nhã mà Phật tử chúng ta thường trì tụng sau mỗi thời kinh, đó là tinh yếu của toàn bộ hệ thống kinh Bát nhã. Nói thế, để chúng ta thấy tầm mức quan trọng của bài Tâm Kinh Bát nhã thật là quan trọng đến ngần nào.
Tư tưởng bát nhã nhằm phá chấp, triệt tiêu hết mọi vọng chấp của chúng sanh. Vọng chấp của chúng sanh tuy nhiều, nhưng không ngoài tứ tướng: “Ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả”. Như trong kinh Kim Cang Bát Nhã đã nêu rõ. Nói gọn, là không ngoài hai lối chấp căn bản: “Ngã chấp và Pháp chấp”.
Cốt lõi của kinh Bát nhã là nói rõ về tánh không của vạn pháp. Bởi các pháp do nhân duyên giả hợp mà thành. Do đó, nên thể tánh của vạn pháp là không. Chữ không nầy, xin chớ vội hiểu lầm là không trơn như lông rùa sừng thỏ. Mà chữ không (sunyata) của Bát nhã nói, là “thật tánh” hay “tướng không” của các pháp. Hiểu được chữ “Không” nầy là hiểu được toàn bộ hệ thống kinh Bát nhã. Vì thể của các pháp là không, nên trong cái tánh không đó, không sanh, không diệt, không cấu, không tịnh v.v… Nghĩa là, nó vượt ngoài đối đãi nhị nguyên.
Nêu rõ triết lý “Tánh Không” của Bát nhã như thế, để Phật tử thấy rằng, đây là cả một bầu trời thênh thang tự do giải thoát. Vì nơi đó triệt tiêu mọi thứ vọng tình chấp trước của chúng sanh. Muốn áp dụng lý Bát nhã vào cuộc sống, đối với trình độ sơ cơ nông cạn như chúng ta hiện nay, thật không phải là chuyện dễ dàng. Vì chúng ta đang sống trong vòng vô minh nghiệp thức, chấp trước rất sâu nặng. Mọi hiện tượng có mặt đối với chúng ta, cái gì chúng ta cũng cho là thật cả. Bởi do thấy các pháp hữu vi là thật, nên chúng ta mới khởi sanh ra bao nhiêu thứ phiền não nhiễm ô: tham, sân, si … Từ đó, tạo nghiệp thọ khổ, nên mãi trôi lăn trong vòng tam đồ lục đạo.
Muốn thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử khổ đau nầy, đức Phật mới dùng nhiều phương tiện để chỉ bày nhiều pháp môn tu cho chúng ta. Pháp tu, Phật nói tuy nhiều, nhưng tóm lại, không ngoài hai pháp: “Ðốn và Tiệm”. Ðốn tu là thẳng đó mà trực nhận chứng ngộ, không có phương tiện vòng vo, quanh co, dài dòng, lòng thòng chi cả. Trái lại, pháp tiệm tu, thì Phật Tổ phương tiện bày ra có nhiều thứ lớp từ thô đến tế, từ cạn đến sâu và từ thấp lên cao.
Luận về pháp đốn tu, nếu không phải là hàng thượng căn thượng trí, thì khó có thể đạt thành sở nguyện. Về pháp tiệm tu, tức là dần dần tiến lên, thì rất thích hợp cho mọi căn cơ. Ai cũng có thể ứng dụng hành trì tu niệm được cả. Giống như người leo thang bước lên từng nấc, từ thấp lên cao.
Trường hợp như người Phật tử tại gia, bước đầu, Phật dạy nên hành trì tu tập tam quy và ngũ giới. Tiến lên là tu thập thiện để được sanh thiên hưởng phước báo. Ðây là hai pháp tu căn bản của người Phật tử tại gia. Tuy nhiên, nếu sự thật hành huân tu của Phật tử khá thuần thục rồi, thì Phật tử cũng có thể áp dụng những lối tu khác. Phật tử có quyền chọn lựa cho mình một pháp tu nào đó cảm thấy thích hợp. Nghĩa là phải thích hợp với khả năng, căn cơ trình độ và hoàn cảnh sống hiện thực của mình và gia đình.
Phật tử nên cẩn thận, đừng có ham trèo cao quá mà phải té nặng. Khi tu hành, người Phật tử phải nên khéo léo biết lượng sức mình. Phật tử không nên đua đòi những gì mà nó vượt ngoài khả năng tầm tay của mình. Không khéo sẽ trở thành họa hại. Phật tử phải biết vị trí của mình hiện đang ở đâu và làm gì.
Về hướng tu để đạt được giải thoát, đức Phật đã phân định ra hai đường lối tu rõ rệt. Một là hướng tu còn đi trong luân hồi để thọ hưởng phước báo. Hai là hướng tu giải thoát luân hồi sanh tử khổ đau. Hướng tu đi trong luân hồi để hưởng phước báo như đã nói ở trên. Nghĩa là người Phật tử chỉ thật hành tam quy và ngũ giới cũng như tu mười điều lành. Còn hướng tu siêu xuất luân hồi, thì Phật dạy có nhiều pháp tu. Như pháp Tứ Ðế, Thập nhị nhân duyên, Lục độ v.v… Nói chung, là các pháp tu cao vượt ngoài đối đãi nhị nguyên. Nghĩa là hành giả không còn bị vướng mắc nhị biên, rơi vào cái bẫy hai đầu, tức phải diệt trừ hết vô minh phiền não.
Những pháp tu nầy, khi ứng dụng hành trì, hành giả phải hoàn toàn tự lực. Ngoài ra, còn một pháp tu khác rất thích hợp với mọi căn cơ, gồm nhiếp tất cả, vừa tự lực mà cũng vừa có phần tha lực. Ðó là pháp môn Tịnh độ. Ðây là một pháp môn thẳng tắt rất thích hợp căn cơ thời nay. Pháp tu nầy lấy việc niệm Phật làm chánh yếu. Niệm Phật có sự niệm và lý niệm. Về sự niệm, thì hành giả phải chuyên tâm trì niệm sáu chữ Di Ðà một cách miên mật để cầu vãng sanh về Cực lạc. Về lý niệm, hành giả phải buông xả tất cả, chỉ còn có một tâm thể thanh tịnh sáng suốt hiện tiền. Như mặt gương chiếu sáng không dính một mảy may trần cảnh. Ðến đây, hành giả không niệm mà niệm. Kinh Duy Ma Cật gọi là: “ Tùy kỳ tâm tịnh tức Phật độ tịnh, hay duy tâm Tịnh độ”. Nghĩa là cõi Tịnh độ có mặt ngay trong giây phút hiện tiền, không cần phải tìm kiếm ở đâu xa, với điều kiện là tâm mình phải thanh tịnh.
Ðại khái, đó là những pháp tu Phật dạy, tôi xin nêu ra rồi tùy Phật tử chọn lựa lấy. Sau khi chọn lựa và ứng dụng tu, Phật tử cũng cần nên tham vấn học hỏi với những bậc chơn tu đức độ và có nhiều kinh nghiệm già dặn trong sự tu hành. Có thế, thì sự tu học của Phật tử mới mong tiến bộ và mới khỏi rơi vào con đường tà kiến vậy.
Kính chúc phật tử thành công trên bước đường tu học.
Ðáp:
Giáo lý của đạo Phật tùy theo căn cơ trình độ của chúng sanh mà có phân chia “Thừa”, “Giáo” và “Thời” khác nhau. Về thừa thì có năm thừa: Nhơn, Thiên, Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ tát. Về giáo thì có phân ra nhiều hệ tư tưởng cao thấp, sâu cạn, đốn tiệm khác nhau. Bát nhã thuộc về hệ tư tưởng Ðại thừa. Nếu luận về Thời, theo sự phán giáo của Ngài Thiên Thai Trí Giả Ðại Sư, thì Ngài chia trọn đời thuyết giáo của đức Phật ra làm 5 thời kỳ: Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Ðẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa và Niết Bàn. Trong 5 thời kể trên, thì Bát nhã thuộc về thời thứ tư. Sự phán giáo nầy được tóm tắt bằng một bài kệ cho dễ nhớ như sau:
Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhựt
A Hàm thập nhị Phương Ðẳng bát
Nhị thập nhị niên Bát nhã đàm
Pháp Hoa, Niết Bàn cộng bát niên.
Nghĩa là, hai mươi mốt ngày đầu Phật nói kinh Hoa Nghiêm. Mười hai năm, Phật nói kinh A Hàm và tám năm Phật nói kinh Phương Ðẳng. Hai mươi hai năm ròng rã Phật nói kinh Bát nhã và tám năm sau cùng Phật nói kinh Pháp Hoa và Niết Bàn. Riêng về kinh Bát nhã sau nầy chư Tổ kết tập lại thành một hệ thống gồm có 600 quyển. Tâm kinh Bát nhã mà Phật tử chúng ta thường trì tụng sau mỗi thời kinh, đó là tinh yếu của toàn bộ hệ thống kinh Bát nhã. Nói thế, để chúng ta thấy tầm mức quan trọng của bài Tâm Kinh Bát nhã thật là quan trọng đến ngần nào.
Tư tưởng bát nhã nhằm phá chấp, triệt tiêu hết mọi vọng chấp của chúng sanh. Vọng chấp của chúng sanh tuy nhiều, nhưng không ngoài tứ tướng: “Ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả”. Như trong kinh Kim Cang Bát Nhã đã nêu rõ. Nói gọn, là không ngoài hai lối chấp căn bản: “Ngã chấp và Pháp chấp”.
Cốt lõi của kinh Bát nhã là nói rõ về tánh không của vạn pháp. Bởi các pháp do nhân duyên giả hợp mà thành. Do đó, nên thể tánh của vạn pháp là không. Chữ không nầy, xin chớ vội hiểu lầm là không trơn như lông rùa sừng thỏ. Mà chữ không (sunyata) của Bát nhã nói, là “thật tánh” hay “tướng không” của các pháp. Hiểu được chữ “Không” nầy là hiểu được toàn bộ hệ thống kinh Bát nhã. Vì thể của các pháp là không, nên trong cái tánh không đó, không sanh, không diệt, không cấu, không tịnh v.v… Nghĩa là, nó vượt ngoài đối đãi nhị nguyên.
Nêu rõ triết lý “Tánh Không” của Bát nhã như thế, để Phật tử thấy rằng, đây là cả một bầu trời thênh thang tự do giải thoát. Vì nơi đó triệt tiêu mọi thứ vọng tình chấp trước của chúng sanh. Muốn áp dụng lý Bát nhã vào cuộc sống, đối với trình độ sơ cơ nông cạn như chúng ta hiện nay, thật không phải là chuyện dễ dàng. Vì chúng ta đang sống trong vòng vô minh nghiệp thức, chấp trước rất sâu nặng. Mọi hiện tượng có mặt đối với chúng ta, cái gì chúng ta cũng cho là thật cả. Bởi do thấy các pháp hữu vi là thật, nên chúng ta mới khởi sanh ra bao nhiêu thứ phiền não nhiễm ô: tham, sân, si … Từ đó, tạo nghiệp thọ khổ, nên mãi trôi lăn trong vòng tam đồ lục đạo.
Muốn thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử khổ đau nầy, đức Phật mới dùng nhiều phương tiện để chỉ bày nhiều pháp môn tu cho chúng ta. Pháp tu, Phật nói tuy nhiều, nhưng tóm lại, không ngoài hai pháp: “Ðốn và Tiệm”. Ðốn tu là thẳng đó mà trực nhận chứng ngộ, không có phương tiện vòng vo, quanh co, dài dòng, lòng thòng chi cả. Trái lại, pháp tiệm tu, thì Phật Tổ phương tiện bày ra có nhiều thứ lớp từ thô đến tế, từ cạn đến sâu và từ thấp lên cao.
Luận về pháp đốn tu, nếu không phải là hàng thượng căn thượng trí, thì khó có thể đạt thành sở nguyện. Về pháp tiệm tu, tức là dần dần tiến lên, thì rất thích hợp cho mọi căn cơ. Ai cũng có thể ứng dụng hành trì tu niệm được cả. Giống như người leo thang bước lên từng nấc, từ thấp lên cao.
Trường hợp như người Phật tử tại gia, bước đầu, Phật dạy nên hành trì tu tập tam quy và ngũ giới. Tiến lên là tu thập thiện để được sanh thiên hưởng phước báo. Ðây là hai pháp tu căn bản của người Phật tử tại gia. Tuy nhiên, nếu sự thật hành huân tu của Phật tử khá thuần thục rồi, thì Phật tử cũng có thể áp dụng những lối tu khác. Phật tử có quyền chọn lựa cho mình một pháp tu nào đó cảm thấy thích hợp. Nghĩa là phải thích hợp với khả năng, căn cơ trình độ và hoàn cảnh sống hiện thực của mình và gia đình.
Phật tử nên cẩn thận, đừng có ham trèo cao quá mà phải té nặng. Khi tu hành, người Phật tử phải nên khéo léo biết lượng sức mình. Phật tử không nên đua đòi những gì mà nó vượt ngoài khả năng tầm tay của mình. Không khéo sẽ trở thành họa hại. Phật tử phải biết vị trí của mình hiện đang ở đâu và làm gì.
Về hướng tu để đạt được giải thoát, đức Phật đã phân định ra hai đường lối tu rõ rệt. Một là hướng tu còn đi trong luân hồi để thọ hưởng phước báo. Hai là hướng tu giải thoát luân hồi sanh tử khổ đau. Hướng tu đi trong luân hồi để hưởng phước báo như đã nói ở trên. Nghĩa là người Phật tử chỉ thật hành tam quy và ngũ giới cũng như tu mười điều lành. Còn hướng tu siêu xuất luân hồi, thì Phật dạy có nhiều pháp tu. Như pháp Tứ Ðế, Thập nhị nhân duyên, Lục độ v.v… Nói chung, là các pháp tu cao vượt ngoài đối đãi nhị nguyên. Nghĩa là hành giả không còn bị vướng mắc nhị biên, rơi vào cái bẫy hai đầu, tức phải diệt trừ hết vô minh phiền não.
Những pháp tu nầy, khi ứng dụng hành trì, hành giả phải hoàn toàn tự lực. Ngoài ra, còn một pháp tu khác rất thích hợp với mọi căn cơ, gồm nhiếp tất cả, vừa tự lực mà cũng vừa có phần tha lực. Ðó là pháp môn Tịnh độ. Ðây là một pháp môn thẳng tắt rất thích hợp căn cơ thời nay. Pháp tu nầy lấy việc niệm Phật làm chánh yếu. Niệm Phật có sự niệm và lý niệm. Về sự niệm, thì hành giả phải chuyên tâm trì niệm sáu chữ Di Ðà một cách miên mật để cầu vãng sanh về Cực lạc. Về lý niệm, hành giả phải buông xả tất cả, chỉ còn có một tâm thể thanh tịnh sáng suốt hiện tiền. Như mặt gương chiếu sáng không dính một mảy may trần cảnh. Ðến đây, hành giả không niệm mà niệm. Kinh Duy Ma Cật gọi là: “ Tùy kỳ tâm tịnh tức Phật độ tịnh, hay duy tâm Tịnh độ”. Nghĩa là cõi Tịnh độ có mặt ngay trong giây phút hiện tiền, không cần phải tìm kiếm ở đâu xa, với điều kiện là tâm mình phải thanh tịnh.
Ðại khái, đó là những pháp tu Phật dạy, tôi xin nêu ra rồi tùy Phật tử chọn lựa lấy. Sau khi chọn lựa và ứng dụng tu, Phật tử cũng cần nên tham vấn học hỏi với những bậc chơn tu đức độ và có nhiều kinh nghiệm già dặn trong sự tu hành. Có thế, thì sự tu học của Phật tử mới mong tiến bộ và mới khỏi rơi vào con đường tà kiến vậy.
Kính chúc phật tử thành công trên bước đường tu học.
Được cảm ơn bởi: hey
- cloudstrife
- Lục đẳng
- Bài viết: 4206
- Tham gia: 20:34, 24/11/10
TL: Đất Phật
Phật dạy về nhân quả
Có người nói với tôi: “Nhân quả chỉ là chiêu bài thánh nhân đặt ra để ngăn ngừa cái ác”. Đó là ý nghĩ rất sai lầm. Bởi không có gì ngăn ngừa được cái ác nếu cái ác ấy không bị chính nhân duyên của nó hủy hoại. Thánh nhân chỉ vì lòng từ mà nêu bày và nhắc nhở. Mình, nếu là ngựa khôn thấy bóng roi liền chạy. Còn ngựa ngu, roi xuống lưng rồi vẫn chưa hay. Khôn hay ngu, vì từng nếm roi nhiều hay ít. Đó cũng là một trong các nhân duyên khiến ngựa thành ngu hay khôn. Trong quá khứ đã từng nếm cái đau của roi vọt là sao, nên hiện tại thấy roi liền biết, không đợi roi phải xuống lưng. Cái kinh nghiệm ấy in hình trong tiềm thức như một lời nhắc nhở cho những kiếp về sau.
Trong kinh Phật nói: “Này các Tỉ kheo! Do duyên sinh, lão, tử có mặt. Dù chư Như Lai có xuất hiện ở đời hay không xuất hiện ở đời, bản chất các pháp vẫn là thế, vẫn quyết định tánh ấy, vẫn theo duyên như thế”.
Do duyên sinh, lão, tử có mặt, là muốn nói đến mặt nhân duyên nhân quả của vạn pháp. Có Phật hay không thì qui luật ấy vẫn tồn tại chi phối tất cả. Không phải chỉ ở mặt phước thiện trong đời sống con người mà ở tất cả những mặt khác, từ pháp luật cho đến khoa học, giáo dục v.v… Phật và các thánh nhân ra đời đều phải nương qui luật ấy mà hành xử.
Thử kiểm nghiệm xem, có gì ở cuộc đời này không rơi vào nhân quả? Khi ta đau và đến bệnh viện, bác sĩ cho thử máu, chụp hình v.v… để tìm cho ra nguyên nhân của căn bệnh. Khi một tai nạn xảy ra, công an phải tìm cho ra nguyên nhân do đâu có tai nạn... Đều là đi tìm cái nhân cho ra quả đó.
Bạn muốn trồng một cây mai, bạn phải cần giống của nó. Tức muốn có quả, bạn phải có nhân. Những việc như thế cho ta thấy Nhân quả đang chi phối thế giới này : Có một cái nhân, đủ duyên sẽ có quả. Có quả, vì đã có nhân và nhân ấy đã đủ duyên. Không gì qua khỏi nhân quả ở cuộc đời này. Nhưng đó chỉ mới là mặt nhân quả thô. Những thứ đó còn được chi phối bởi vòng nhân quả tế có liên quan đến suy nghĩ, lời nói và hành động của mỗi người, thuộc hai phương diện thiện và bất thiện.[1]
Sóng thần xảy đến với Nhật Bản. Sự cố này kéo đến việc nổ nhà máy hạt nhân. Tai họa đang xảy đến với bao người. “Thảm họa thiên nhiên vượt khỏi tính toán của con người, dù ở một đất nước có trình độ phát triển về điện hạt nhân và xã hội đã đạt đến văn minh cao”. Không phải không tiên liệu được sóng thần, nhưng tiêu liệu được thì sao? Có trở tay kịp với những tai họa khi nó xảy đến? Rõ ràng, dù văn minh cỡ nào thì thế giới luôn có một ‘lỗ hỏng ma quái’ mà tri thức con người không bao giờ soi thủng, chỉ biết chấp nhận và chấp nhận như một trò may rủi. Nhưng với cái nhìn của bậc đạo nhân, không có gì thoát khỏi nhân duyên nhân quả. Mọi thứ đều có nhân duyên. Muốn quả không xảy ra, phải trừ cho được cái nhân hoặc những duyên sinh ra quả ấy.
Trong kinh Thập Thiện, Phật nói: “Ông quán các đại Bồ-tát đây, diệu sắc nghiêm tịnh, tất cả đều do tu tập thiện nghiệp phước đức mà sinh. Nay các chúng sinh có trong biển cả, hình sắc thô xấu hoặc lớn hoặc nhỏ, là đều do các loại tượng niệm ở tự tâm làm thành thân ngữ ý và các bất thiện nghiệp rồi theo nghiệp đó mà tự nhận quả báo”. Với cái nhìn đó của đức Phật, ta có thể giải thích ‘lỗ hỏng ma quái’ mà tri thức con người không thể làm chủ. Nó thuộc về mặt phước nghiệp âm đức mà con người đã gây tạo trong quá khứ. Nếu sống thiện và hành thiện, thế giới của ta sẽ an bình. Nếu sống thiện và hành thiện, ta có thể chuyển những đi những nghiệp xấu đã lỡ gây tạo trong quá khứ. Đó cũng là cái nhân để tương lai thế giới của ta được bình an.
Song sống thế nào mới gọi là sống thiện? Giữ gìn 5 giới v.v… chính là đang sống thiện. Giữ được càng nhiều, quả báo an bình càng lớn.
Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật nói: “Tập quán ngã mạn lấn lướt khinh dễ lẫn nhau là cái nhân chiêu cảm ra bôn ba, sóng nổi, sông máu, sông tro…” Ngài Hàm Thị bàn rằng: “Chính cái cao cử tự đắc bèn thành dòng nước đầy tràn cùng khắp”. Cũng nói: “Phóng tâm tạo những điều gian dối cho nên có đất bụi, đồ nhơ nhớp không sạch. Hai tập khí dìm hại lẫn nhau, nên có chìm đắm, nhảy ném, bay rơi, trôi lăn”. Thế giới hiện nay, song thần, tai họa chết chóc nhiều là do những cái nhân như thế.
Trong kinh Tăng Nhất A Hàm quyển 2, phẩm Đẳng Kiến, có câu chuyện nói về giòng họ Thích của đức Phật, bị tàn sát dưới tay của vua Lưu Ly. Nguyên do là dòng họ này, trong đời quá khứ đã từng sát hại nhiều cá, Trong đó có hai con cá mang tâm trạng phẫn uất: Một, là tiền thân của Lưu Ly, một là tiền thân của Háo Khổ, người cận vệ của vua Lưu Ly. Hai con cá đó đã nói với nhau: “Ta đối với các người đó không lỗi lầm, là vật thuộc thủy tánh không ở đất bằng, nhưng nhân dân này lại đến đây ăn nuốt ta. Từ trước cho đến sau nay, nếu có chút ít phước đức nào, nhất định sẽ báo oán”. Lúc đó, tiền thân của đức Phật là chú bé tám tuổi, tuy không đánh bắt cũng không hại mạng cá, nhưng thấy cá chết đầy trên bờ lại khởi tâm hoan hỉ.
Đến thời vua Lưu Ly, con của vua Ba Tư nặc và một nữ tỳ, có một giảng đường được xây dựng mới, những người họ Thích bàn nhau trang hoàng để thỉnh Như Lai và Tăng chúng vào cúng dường. Lúc đó, Lưu Ly cùng bạn chạy vào giảng đường và ngồi ngay lên tòa sư tử. Những người họ Thích thấy thế tức giận lôi vua Lưu Ly ra cửa, xúm nhau mắng nhiếc: “Là con của nô tì mà dám vào đây ngồi”, nói rồi xô thái tử té xuống đất. Lưu Ly uất hận, nhìn ra phía sau thấy con của một Phạm chí tên là Háo Khổ, mới bảo với Háo Khổ rằng: “Họ Thích hủy nhục ta, sau này nếu ta nối ngôi, ông nên nhắc ta chuyện này”. Háo Khổ, chính là con cá đồng nguyền trả thù với vua Lưu Ly ngày trước. Lời nhắc là cái duyên khơi dạy chủng tử trả thù đang ẩn tiềm trong tạng thức của Háo Khổ, nên khi vua Lưu Ly ở tại ngôi, ngày nào Háo Khổ cũng nhắc vua việc trả thù.
Mỗi lần vua Lưu Ly khởi tâm dấy binh đi tàn sát dòng họ Thích, Phật đều hiện thân ngồi ở vệ đường. Gặp Phật Vua Lưu Ly nguôi tâm quay về. Song về, lại gặp ngay Háo Khổ. Nghe Háo Khổ nói vài câu, lại hưng binh kéo đến thành Ca-tì-la-vệ … Cứ thế mà đến mấy lần.
Mục Kiền Liên thấy vậy mới bạch với Phật:
- Con đủ sức mang vua Lưu Ly cùng bốn bộ binh sang thế giới phương khác.
Phật hỏi:
- Vậy ông có thể mang túc duyên (là duyên đời trước giữa dòng họ thích và vua Lưu Ly) của họ sang thế giới phương khác chăng?
Mục Kiền Liên lắc đầu:
- Bạch đức Thế Tôn, thật là không thể. Nhưng con có thể lấy lồng sắt chụp lên thành Ca-tì-la-vệ để bảo vệ.
Phật lại hỏi:
- Vậy ông có thể mang lồng sắc chụp lên túc duyên của họ chăng?
Mục Kiền Liên thưa không. Thế Tôn bảo:
- Nay ông hãy trở về chỗ ngồi. Túc duyên của họ Thích đã chín mùi, sẽ phải thọ báo.
Sau đó dòng họ Thích bị quân của vua Lưu Ly tàn sát. Đức Phật do đời trước thấy cá phơi thây trên bờ mà hoan hỉ, nên hiện tại bị quả báo ‘đau đầu như đá đè, ví như lấy đầu đội núi Tu-di’. Đó là nhờ công đức tu hành mà chỉ bị như thế. Vua Lưu Ly cùng quân lính, sau trận tàn sát ấy bảy ngày, đã bị nước cuốn trôi mà chết, đọa vào địa ngục, như lời Phật đã huyền ký.
Kể xong túc duyên oan oan tương báo đó, Phật dạy: “Này các Tì kheo, nên giữ gìn tác hành của thân, khẩu và ý. Nên nhớ cung kính thờ sự người phạm hạnh”.
Dòng họ Thích trong kiếp hiện tại, tuy giữ giới không sát sinh dù là một con vật rất nhỏ, nhưng do khởi tâm kiêu mạn, khinh người, lại quá cố chấp vào việc cúng dường, nên đã để xảy ra việc xô sát. Cộng với nghiệp sát đã bị kết thành lời nguyền trong quá khứ, nên không tránh khỏi báo nghiệp trong hiện tại.
Vua Lưu Ly, nếu biết nhân quả, biết những gì khởi lên trong tâm đều là … vọng tưởng không theo, lại biết phân biệt quí kính kẻ giữ giới v.v… mà bỏ qua những xúc chạm nhỏ nhoi, có thể ông sẽ không để cho chủng từ trả thù kiếp xưa phát tán thành hành động. Ông sẽ không bị những quả báo đáng thương như thế.
Cho nên, trong đời sống đây, cố gắng tỉnh giác với những ý niệm không tốt của mình. Hãy dùng trí tuệ quán sát và vận dụng nhân quả để phá đi những niệm oán hận, trả thù … hầu tránh đi những cái quả không tốt về sau khi đủ duyên.
Tha thứ cho người, chính là giải thoát cho chính mình.
Quan trọng là nên ‘Cung kính và thờ sự người phạm hạnh’. Đừng bao giờ phỉ báng Phật, Pháp, Tăng cũng như các bậc thánh nhân khác. Đừng coi thường nhân quả. Chúng ta có thể phân tích để thấy những điều không phù hợp với giới luật hay thực tế của một đạo giáo, một con người, để qui hướng hay không qui hướng, nhưng tránh tâm phỉ báng. Bởi phỉ báng mang tính khinh miệt. Lỗi, chính ở chỗ khinh miệt này.
Như các người trong dòng họ Thích không để vua Lưu Ly ngồi vào tòa sư tử, điều đó không lỗi. Lỗi là ở phương cách thực hiện : Nói lời khinh miệt, xô đẩy v.v… tạo sự phẩn uất cho chàng trai. Thân, khẩu, ý nghiệp hiện đời đều lỗi như thế là duyên khiến chủng tử trả thù được huân sâu trong tiềm thức vua Lưu Ly có cơ bộc phát.
Pháp giới thuận nghịch khó phân, không thể nghĩ bàn. Khi chưa đủ trí tuệ, nên giữ tâm không rơi vào khinh chê v.v… để khỏi bị tổn đức.
[1] Nói đủ là thiện, ác và không thiện không ác.
danvac - thegioivohinh
Có người nói với tôi: “Nhân quả chỉ là chiêu bài thánh nhân đặt ra để ngăn ngừa cái ác”. Đó là ý nghĩ rất sai lầm. Bởi không có gì ngăn ngừa được cái ác nếu cái ác ấy không bị chính nhân duyên của nó hủy hoại. Thánh nhân chỉ vì lòng từ mà nêu bày và nhắc nhở. Mình, nếu là ngựa khôn thấy bóng roi liền chạy. Còn ngựa ngu, roi xuống lưng rồi vẫn chưa hay. Khôn hay ngu, vì từng nếm roi nhiều hay ít. Đó cũng là một trong các nhân duyên khiến ngựa thành ngu hay khôn. Trong quá khứ đã từng nếm cái đau của roi vọt là sao, nên hiện tại thấy roi liền biết, không đợi roi phải xuống lưng. Cái kinh nghiệm ấy in hình trong tiềm thức như một lời nhắc nhở cho những kiếp về sau.
Trong kinh Phật nói: “Này các Tỉ kheo! Do duyên sinh, lão, tử có mặt. Dù chư Như Lai có xuất hiện ở đời hay không xuất hiện ở đời, bản chất các pháp vẫn là thế, vẫn quyết định tánh ấy, vẫn theo duyên như thế”.
Do duyên sinh, lão, tử có mặt, là muốn nói đến mặt nhân duyên nhân quả của vạn pháp. Có Phật hay không thì qui luật ấy vẫn tồn tại chi phối tất cả. Không phải chỉ ở mặt phước thiện trong đời sống con người mà ở tất cả những mặt khác, từ pháp luật cho đến khoa học, giáo dục v.v… Phật và các thánh nhân ra đời đều phải nương qui luật ấy mà hành xử.
Thử kiểm nghiệm xem, có gì ở cuộc đời này không rơi vào nhân quả? Khi ta đau và đến bệnh viện, bác sĩ cho thử máu, chụp hình v.v… để tìm cho ra nguyên nhân của căn bệnh. Khi một tai nạn xảy ra, công an phải tìm cho ra nguyên nhân do đâu có tai nạn... Đều là đi tìm cái nhân cho ra quả đó.
Bạn muốn trồng một cây mai, bạn phải cần giống của nó. Tức muốn có quả, bạn phải có nhân. Những việc như thế cho ta thấy Nhân quả đang chi phối thế giới này : Có một cái nhân, đủ duyên sẽ có quả. Có quả, vì đã có nhân và nhân ấy đã đủ duyên. Không gì qua khỏi nhân quả ở cuộc đời này. Nhưng đó chỉ mới là mặt nhân quả thô. Những thứ đó còn được chi phối bởi vòng nhân quả tế có liên quan đến suy nghĩ, lời nói và hành động của mỗi người, thuộc hai phương diện thiện và bất thiện.[1]
Sóng thần xảy đến với Nhật Bản. Sự cố này kéo đến việc nổ nhà máy hạt nhân. Tai họa đang xảy đến với bao người. “Thảm họa thiên nhiên vượt khỏi tính toán của con người, dù ở một đất nước có trình độ phát triển về điện hạt nhân và xã hội đã đạt đến văn minh cao”. Không phải không tiên liệu được sóng thần, nhưng tiêu liệu được thì sao? Có trở tay kịp với những tai họa khi nó xảy đến? Rõ ràng, dù văn minh cỡ nào thì thế giới luôn có một ‘lỗ hỏng ma quái’ mà tri thức con người không bao giờ soi thủng, chỉ biết chấp nhận và chấp nhận như một trò may rủi. Nhưng với cái nhìn của bậc đạo nhân, không có gì thoát khỏi nhân duyên nhân quả. Mọi thứ đều có nhân duyên. Muốn quả không xảy ra, phải trừ cho được cái nhân hoặc những duyên sinh ra quả ấy.
Trong kinh Thập Thiện, Phật nói: “Ông quán các đại Bồ-tát đây, diệu sắc nghiêm tịnh, tất cả đều do tu tập thiện nghiệp phước đức mà sinh. Nay các chúng sinh có trong biển cả, hình sắc thô xấu hoặc lớn hoặc nhỏ, là đều do các loại tượng niệm ở tự tâm làm thành thân ngữ ý và các bất thiện nghiệp rồi theo nghiệp đó mà tự nhận quả báo”. Với cái nhìn đó của đức Phật, ta có thể giải thích ‘lỗ hỏng ma quái’ mà tri thức con người không thể làm chủ. Nó thuộc về mặt phước nghiệp âm đức mà con người đã gây tạo trong quá khứ. Nếu sống thiện và hành thiện, thế giới của ta sẽ an bình. Nếu sống thiện và hành thiện, ta có thể chuyển những đi những nghiệp xấu đã lỡ gây tạo trong quá khứ. Đó cũng là cái nhân để tương lai thế giới của ta được bình an.
Song sống thế nào mới gọi là sống thiện? Giữ gìn 5 giới v.v… chính là đang sống thiện. Giữ được càng nhiều, quả báo an bình càng lớn.
Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật nói: “Tập quán ngã mạn lấn lướt khinh dễ lẫn nhau là cái nhân chiêu cảm ra bôn ba, sóng nổi, sông máu, sông tro…” Ngài Hàm Thị bàn rằng: “Chính cái cao cử tự đắc bèn thành dòng nước đầy tràn cùng khắp”. Cũng nói: “Phóng tâm tạo những điều gian dối cho nên có đất bụi, đồ nhơ nhớp không sạch. Hai tập khí dìm hại lẫn nhau, nên có chìm đắm, nhảy ném, bay rơi, trôi lăn”. Thế giới hiện nay, song thần, tai họa chết chóc nhiều là do những cái nhân như thế.
Trong kinh Tăng Nhất A Hàm quyển 2, phẩm Đẳng Kiến, có câu chuyện nói về giòng họ Thích của đức Phật, bị tàn sát dưới tay của vua Lưu Ly. Nguyên do là dòng họ này, trong đời quá khứ đã từng sát hại nhiều cá, Trong đó có hai con cá mang tâm trạng phẫn uất: Một, là tiền thân của Lưu Ly, một là tiền thân của Háo Khổ, người cận vệ của vua Lưu Ly. Hai con cá đó đã nói với nhau: “Ta đối với các người đó không lỗi lầm, là vật thuộc thủy tánh không ở đất bằng, nhưng nhân dân này lại đến đây ăn nuốt ta. Từ trước cho đến sau nay, nếu có chút ít phước đức nào, nhất định sẽ báo oán”. Lúc đó, tiền thân của đức Phật là chú bé tám tuổi, tuy không đánh bắt cũng không hại mạng cá, nhưng thấy cá chết đầy trên bờ lại khởi tâm hoan hỉ.
Đến thời vua Lưu Ly, con của vua Ba Tư nặc và một nữ tỳ, có một giảng đường được xây dựng mới, những người họ Thích bàn nhau trang hoàng để thỉnh Như Lai và Tăng chúng vào cúng dường. Lúc đó, Lưu Ly cùng bạn chạy vào giảng đường và ngồi ngay lên tòa sư tử. Những người họ Thích thấy thế tức giận lôi vua Lưu Ly ra cửa, xúm nhau mắng nhiếc: “Là con của nô tì mà dám vào đây ngồi”, nói rồi xô thái tử té xuống đất. Lưu Ly uất hận, nhìn ra phía sau thấy con của một Phạm chí tên là Háo Khổ, mới bảo với Háo Khổ rằng: “Họ Thích hủy nhục ta, sau này nếu ta nối ngôi, ông nên nhắc ta chuyện này”. Háo Khổ, chính là con cá đồng nguyền trả thù với vua Lưu Ly ngày trước. Lời nhắc là cái duyên khơi dạy chủng tử trả thù đang ẩn tiềm trong tạng thức của Háo Khổ, nên khi vua Lưu Ly ở tại ngôi, ngày nào Háo Khổ cũng nhắc vua việc trả thù.
Mỗi lần vua Lưu Ly khởi tâm dấy binh đi tàn sát dòng họ Thích, Phật đều hiện thân ngồi ở vệ đường. Gặp Phật Vua Lưu Ly nguôi tâm quay về. Song về, lại gặp ngay Háo Khổ. Nghe Háo Khổ nói vài câu, lại hưng binh kéo đến thành Ca-tì-la-vệ … Cứ thế mà đến mấy lần.
Mục Kiền Liên thấy vậy mới bạch với Phật:
- Con đủ sức mang vua Lưu Ly cùng bốn bộ binh sang thế giới phương khác.
Phật hỏi:
- Vậy ông có thể mang túc duyên (là duyên đời trước giữa dòng họ thích và vua Lưu Ly) của họ sang thế giới phương khác chăng?
Mục Kiền Liên lắc đầu:
- Bạch đức Thế Tôn, thật là không thể. Nhưng con có thể lấy lồng sắt chụp lên thành Ca-tì-la-vệ để bảo vệ.
Phật lại hỏi:
- Vậy ông có thể mang lồng sắc chụp lên túc duyên của họ chăng?
Mục Kiền Liên thưa không. Thế Tôn bảo:
- Nay ông hãy trở về chỗ ngồi. Túc duyên của họ Thích đã chín mùi, sẽ phải thọ báo.
Sau đó dòng họ Thích bị quân của vua Lưu Ly tàn sát. Đức Phật do đời trước thấy cá phơi thây trên bờ mà hoan hỉ, nên hiện tại bị quả báo ‘đau đầu như đá đè, ví như lấy đầu đội núi Tu-di’. Đó là nhờ công đức tu hành mà chỉ bị như thế. Vua Lưu Ly cùng quân lính, sau trận tàn sát ấy bảy ngày, đã bị nước cuốn trôi mà chết, đọa vào địa ngục, như lời Phật đã huyền ký.
Kể xong túc duyên oan oan tương báo đó, Phật dạy: “Này các Tì kheo, nên giữ gìn tác hành của thân, khẩu và ý. Nên nhớ cung kính thờ sự người phạm hạnh”.
Dòng họ Thích trong kiếp hiện tại, tuy giữ giới không sát sinh dù là một con vật rất nhỏ, nhưng do khởi tâm kiêu mạn, khinh người, lại quá cố chấp vào việc cúng dường, nên đã để xảy ra việc xô sát. Cộng với nghiệp sát đã bị kết thành lời nguyền trong quá khứ, nên không tránh khỏi báo nghiệp trong hiện tại.
Vua Lưu Ly, nếu biết nhân quả, biết những gì khởi lên trong tâm đều là … vọng tưởng không theo, lại biết phân biệt quí kính kẻ giữ giới v.v… mà bỏ qua những xúc chạm nhỏ nhoi, có thể ông sẽ không để cho chủng từ trả thù kiếp xưa phát tán thành hành động. Ông sẽ không bị những quả báo đáng thương như thế.
Cho nên, trong đời sống đây, cố gắng tỉnh giác với những ý niệm không tốt của mình. Hãy dùng trí tuệ quán sát và vận dụng nhân quả để phá đi những niệm oán hận, trả thù … hầu tránh đi những cái quả không tốt về sau khi đủ duyên.
Tha thứ cho người, chính là giải thoát cho chính mình.
Quan trọng là nên ‘Cung kính và thờ sự người phạm hạnh’. Đừng bao giờ phỉ báng Phật, Pháp, Tăng cũng như các bậc thánh nhân khác. Đừng coi thường nhân quả. Chúng ta có thể phân tích để thấy những điều không phù hợp với giới luật hay thực tế của một đạo giáo, một con người, để qui hướng hay không qui hướng, nhưng tránh tâm phỉ báng. Bởi phỉ báng mang tính khinh miệt. Lỗi, chính ở chỗ khinh miệt này.
Như các người trong dòng họ Thích không để vua Lưu Ly ngồi vào tòa sư tử, điều đó không lỗi. Lỗi là ở phương cách thực hiện : Nói lời khinh miệt, xô đẩy v.v… tạo sự phẩn uất cho chàng trai. Thân, khẩu, ý nghiệp hiện đời đều lỗi như thế là duyên khiến chủng tử trả thù được huân sâu trong tiềm thức vua Lưu Ly có cơ bộc phát.
Pháp giới thuận nghịch khó phân, không thể nghĩ bàn. Khi chưa đủ trí tuệ, nên giữ tâm không rơi vào khinh chê v.v… để khỏi bị tổn đức.
[1] Nói đủ là thiện, ác và không thiện không ác.
danvac - thegioivohinh
- cloudstrife
- Lục đẳng
- Bài viết: 4206
- Tham gia: 20:34, 24/11/10
TL: Đất Phật
Mười Hai Nhân Duyên
Một đoạn trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh "... vô vô minh diệc vô vô minh tận nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận." là nói đến Mười Hai Nhân Duyên. Mười Hai Nhân Duyên là lý do con người ờ trong chu kỳ sanh từ bất tận. Chuỗi Mười Hai Nhân Duyên bao gồm: Vô Minh là duyên (tạo điều kiện) cho Hành (hành động), Hành là duyên cho Thức, Thức là duyên cho Danh Sắc, Danh Sắc là duyên cho Lục Nhập (tức là sáu giác quan), Lục Nhập là duyên cho Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái (ưa thích, ham muốn), Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh duyên Lão Tử.
Trong Phật Giáo, con người của quý vị gồm có bốn chấc cơ bản: Đất, nước, gió và lửa. Thân, da thịt của quý vị được coi là đất. Máu chảy trong người là nước. Hơi thở và sức lực là Gió. Hơi ấm là lửa. Giai đoạn cuối cùng trong 12 nhân duyên là Lão Tử. Trong những ngày giờ cuối cùng trước khi qua đời, con người chúng bắt đầu sanh ra bệnh tật, đau nhức. Đó là giai đoạn đất bắt đầu bị tan rã. Tiếp đó là giai đoạn nước. Môi của quý vị bắt đầu khô. Những nướu răng sẽ thay đổi từ màu hồng qua tím đen. Đây là lúc quan trọng nhất trong giai đoạn của 12 nhân duyên. Quý vị nên nhớ niệm phật. Các gia quyến, bạn bè nên hộ niệm và cố gắng giữ bình tĩnh, đừng tiết lộ sự đau buồn, để cho linh hồn được hướng về cực lạc.
Giai đoạn kế tiếp là gió. Sức lực của người bệnh sẽ từ từ mất đi. Hơi thở từ từ yếu bớt, cho đến hơi thở cuối cùng. Miệng của bạn không còn hoạt động nữa, không còn tiếp tục niệm Phật. Đây là lúc các bạn cần ban hộ niệm nhiều nhất. Cuối cùng là giai đoạn Lửa. Hơi ấm trong cơ thể từ từ lạnh. Trong giai đoạn nầy, trái tim sẽ dừng đập. Lúc nầy linh hồn hay trong phật giáo còn gọi là cái thức thứ 8 là tàng thức a lại gia. Linh hồn của người nầy vẫn còn trong sát thịt, chưa hẳn xuất ra, cho nên gia quyến đừng có vội đụng vào cơ thể.
Có vài người chết đi sống lại thì có thấy mọi thứ trên thế gian đều màu trắng. Màu trắng đó được gọi là tinh cha, huyết trắng nằm trên đỉnh đầu. Phần phía dưới bụng, hay đan điền có một luồng âm khí gọi là huyết mẹ hay huyết đỏ. Tinh cha trên đầu từ từ chảy xuống trái tim, còn huyết mẹ thì bắt đầu chảy từ dưới bụng chạy lên trái tim. Khi tinh cha và huyết mẹ chảy tới tim và đụng nhau tại trái tim, thì trái tim sẽ quay lộn lại 180 độ. Tùy căn tu hành, tinh cha mạnh thì kiếp sau làm đàn ông. Huyết mẹ mạnh thì làm đàn bà. Đây là lúc thức thứ 8, a lại gia (linh hồn) sẽ kết tụ lại nhau và bắt đầu biết được là ngũ uẫn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) không còn nữa. Lúc nầy thì tùy theo con người ăn ở những năm vừa qua. Nếu có nhiều công đức và phước đức, thì sẽ có các bồ tát đến vuốt đầu. Thức thứ 8, a lại gia, sẽ theo luồng hòa quang đó xuất ra trên đỉnh đầu và đi về cõi cực lạc. Đến lúc nầy thì quý vị cũng không nên lấy đèn bin rọi vào mắt, coi thử người chết qua đời chưa. Hãy tắt bớt đèn, kẻo linh hồn tưởng hòa quang từ cõi cực lạc chiếu đến, rồi xuất hồn bay đập vào bóng đèn.
Phần đông các phật tử đầu thai làm người để tiếp tục tu học, cho nên linh hồn sẽ xuất ra từ trái tim. Một số người thì linh hồn xuất ra tại hậu môn (sẽ thấy một cục phân đen lồi ra từ hậu môn) và đầu thai làm súc vật. Nếu con người ăn ở gian ác thì linh hồn xuất ra tại chân, và làm ma đói hay xuống điạ ngục. Cho nên các gia quyến và bạn hữu chớ đụng vào bàn chân trong lúc nầy. Nếu có đụng vào xát chết thì trước tiên niệm phật rồi vuốt đầu, để cho linh hồn xuất ra ở trên đỉnh đầu.
Khi linh hồn xuất ra khỏi sát, thì giai đoạn đó được gọi là thân trung ấm. Linh hồn lúc nầy sẽ được tự do du ngạo trong cõi ta bà. Không có nơi nào mà không tới được. Linh hồn có thể đi xuyên tường, bay lơ lững trên mây. Nếu số mệnh đầu thai làm người, thì linh hồn cũng có thể đi vào chùa. Chỉ có một chổ có thể trói lại linh hồn đó là bầu thai. Khi linh hồn bay ngang và thấy một người đàn ông và đàn bà quan hệ tình dục, nếu thân trung ấm này có những nhân duyên liên hệ gia đình với hai người này, thì thân trung ấm này sẽ tìm cách sanh trở lại làm con của họ. Mối duyên ràng buộc giữa ý thức của thân trung ấm và hai người đang quan hệ tinh dục đó mạnh đến nỗi dù xa cả hàng ngàn hay hàng vạn dậm, và dù chỉ có một đốm sáng nhỏ nhoi phát ra bởi hai người lúc quan hệ tình dục, thân trung ấm sẽ thấy ánh sáng đó và sẽ đến chỗ hai người đó để trở thành bào thai trong lòng mẹ. Do đó thập nhị nhân duyên mới nói rằng "Hành duyên Thức".
Nếu số mệnh được đầu thai làm người, thì trong vòng 49 ngày thì sẽ có cơ hội tìm kiếm bào thai. Phần đông, linh hồn đã kiếm được bào thai trong vòng 2 tuần lễ đầu. Trong Phật Giáo, quý vị chỉ cần cầu siêu cho người chết trong vòng 49 ngày. Ngọai trừ quý vị biết người chết đã làm quá nhiều tội lỗi và đã phạm hết 5 ngũ giới (giết người, tà dâm, trộm cắp, nói dối, uống rượu), quý vị mới tụng kinh hồi hướng công đức trên 49 ngày.
Sau khi linh hồn đã kiếm được bào thai hay "Hành duyên Thức, thì “Thức duyên Danh Sắc ". Câu này có nghĩa khi bào thai trở nên hiện hữu thì có "danh xưng và hình tướng". "Danh" chỉ bốn uẩn thọ, tưởng, hành, thức, trong khi sắc là nói đến sắc uẩn. Bốn trong năm uẩn (tức là thọ, tưởng, hành, thức) hiện hữu từ lúc trong lòng mẹ nhưng chỉ là những danh xưng; chưa thành hình. Nếu trong lúc nầy, mà người mẹ lại đi phá thai, thì linh hồn vừa mới có được bốn uẩn (thọ, tưởng, hành, thức), rất là giận hờn oán trách, vì linh hồn không có cơ hội để có đầy đủ ngũ uẩn. Linh Hồn thường oán trách rồi trở thành những con ma đói.
Khi hài nhi được sinh ra, tất cả năm uẩn (tức là danh và sắc) đều đầy đủ, sáu giác quan hay nơi để cảm nhận (mắt, tai, mũi, lưỡi, xúc giác và ý) cũng vậy. Đây gọi là “Danh Sắc duyên Lục Nhập". Sáu cơ quan cảm nhận nầy cùng với sáu đối tượng của cảm nhận (hình sắc, âm thanh, mùi vị, cảm giác xúc chạm, và đối tượng tâm thức) là khởi sanh ý thức về cái thấy, cái nghe, mùi, vị, xúc chạm và ý nghĩ. Khi tất cả sáu cơ quan cảm nhận hiện hữu đầy đủ, đứa bé bắt đầu biết liên hệ tiếp xúc với ngọai cảnh Vì thế, nên mới nói: "Lục Nhập duyên Xúc".
Sau khi có sự tiếp xúc, đứa bé bắt đầu có cảm giác thọ nhân tiếp xúc; ví thế "Xúc duyên Thọ".
Khi có cảm thọ, lòng yêu thích phát khởi (như là ưa thích hoàn cảnh vui sướng dễ chịu, và ghét hoàn cảnh không vừa ý). Vì thế, "Thọ duyên Ái (ưa thích)”.
Sau khi sự ưa thích khởi sanh, đứa bé mong muốn để tìm kiếm và nắm bắt những gì nó thích. Vì thế " Ái duyên Thủ (nắm bắt)".
Sau khi đã sở hữu cái mình ham muốn, việc nắm bắt sở hữu nầy đưa đến sự hình thành (trong dục giới, sắc giới hay vô sắc giới). Vì thế gọi là "Thủ duyên Hữu".
Bước kế tiếp là " Hữu duyên Sanh "; nghĩa là do sự nắm bắt và bám chấp, lại có sự tiếp tục tái sinh.
Sau cùng " Sanh duyên Lão Tử (già và chết)". Sau khi Sanh thì sẽ đến Già và Chết . Toàn bộ diễn trình này là vòng quay "Mười Hai Nhân Duyên”.
Muốn chấm dứt luân hồi, thì chúng ta phải làm như thế nào ? Chúng ta phải tu hành để diệt cái vô minh của chúng ta.
"Vô Minh" là gì? "Vô Mình" là sự thiếu hiểu biết . Trong ngôn ngữ hàng ngày thi gọi là " bị lẫn lộn". Nghĩa là quý vị không hiểu rõ cái thật. Vì quý vị bị lẫn lộn và không hiểu rõ nên mới có những sinh hoạt mê lầm sai trái. "Sinh hoạt sai lầm" trong ý nghĩa này là quý vị làm những điều mà đáng lý không nên làm. Những sinh hoạt sai lầm này đưa đến nhận thức giả tạo hay là ý thức. Ý thức dẫn đến lầm lẫn danh và sắc. Lầm lẫn danh sắc đưa đến lầm lẫn lục nhập. Bởi con người có sáu giác quan, dữ kiện bên ngoài đưa vào cơ thể và trí óc qua sáu giác quan này. Từ lầm lẫn thâu nhận của giác quan, khởi sanh lầm lẫn tiếp xúc. Khi có lầm lẫn tiếp xúc thì người ta muốn lầm lẫn cảm thọ. Từ lầm lẫn cảm thọ sanh ra lầm lẫn yêu thương hay ham muốn. Từ lầm lẫn ham muốn, nảy sanh lầm lẫn nắm bắt. Một khi có lầm lẫn nằm bất, thì có lầm lẫn thành. Từ lầm lẫn thành, người ta lại sanh. Từ sanh mà có già và chết.
Nếu không có Vô Minh thì sẽ như thế nào? Thì sẽ không có Hành sinh hoạt. Nói một cách khác, khi Vô Minh bị tiêu diệt, thi Hành bị tiêu diệt. Khi Hành bị tiêu diệt thì Thức bị tiêu diệt. Khi Thức bị tiêu diệt thi Danh Sắc bị tiêu diệt. Khi Danh Sắc bị tiêu diệt thì Lục Nhập bị tiêu diệt. Khi Lục Nhập bị tiêu diệt thi Xúc bị tiêu diệt. Khi Xúc bị tiêu diệt thi thì Thọ bị tiêu diệt. Khi Thọ bị tiêu diệt thì Ải bị tiêu diệt. Khi Ải bị tiêu diệt thị Thủ bị tiêu diệt. Khi Thủ bị tiêu diệt thì Hữu bị tiêu diệt. Khi Hữu bị tiêu diệt thì Sanh, Lão và Tử đều bị tiêu diệt.
Đó là cách để chấm dứt chu kỳ Mười Hai Nhân Duyên.
DeNhatXiXon - thegioivohinh
Một đoạn trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh "... vô vô minh diệc vô vô minh tận nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận." là nói đến Mười Hai Nhân Duyên. Mười Hai Nhân Duyên là lý do con người ờ trong chu kỳ sanh từ bất tận. Chuỗi Mười Hai Nhân Duyên bao gồm: Vô Minh là duyên (tạo điều kiện) cho Hành (hành động), Hành là duyên cho Thức, Thức là duyên cho Danh Sắc, Danh Sắc là duyên cho Lục Nhập (tức là sáu giác quan), Lục Nhập là duyên cho Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái (ưa thích, ham muốn), Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh duyên Lão Tử.
Trong Phật Giáo, con người của quý vị gồm có bốn chấc cơ bản: Đất, nước, gió và lửa. Thân, da thịt của quý vị được coi là đất. Máu chảy trong người là nước. Hơi thở và sức lực là Gió. Hơi ấm là lửa. Giai đoạn cuối cùng trong 12 nhân duyên là Lão Tử. Trong những ngày giờ cuối cùng trước khi qua đời, con người chúng bắt đầu sanh ra bệnh tật, đau nhức. Đó là giai đoạn đất bắt đầu bị tan rã. Tiếp đó là giai đoạn nước. Môi của quý vị bắt đầu khô. Những nướu răng sẽ thay đổi từ màu hồng qua tím đen. Đây là lúc quan trọng nhất trong giai đoạn của 12 nhân duyên. Quý vị nên nhớ niệm phật. Các gia quyến, bạn bè nên hộ niệm và cố gắng giữ bình tĩnh, đừng tiết lộ sự đau buồn, để cho linh hồn được hướng về cực lạc.
Giai đoạn kế tiếp là gió. Sức lực của người bệnh sẽ từ từ mất đi. Hơi thở từ từ yếu bớt, cho đến hơi thở cuối cùng. Miệng của bạn không còn hoạt động nữa, không còn tiếp tục niệm Phật. Đây là lúc các bạn cần ban hộ niệm nhiều nhất. Cuối cùng là giai đoạn Lửa. Hơi ấm trong cơ thể từ từ lạnh. Trong giai đoạn nầy, trái tim sẽ dừng đập. Lúc nầy linh hồn hay trong phật giáo còn gọi là cái thức thứ 8 là tàng thức a lại gia. Linh hồn của người nầy vẫn còn trong sát thịt, chưa hẳn xuất ra, cho nên gia quyến đừng có vội đụng vào cơ thể.
Có vài người chết đi sống lại thì có thấy mọi thứ trên thế gian đều màu trắng. Màu trắng đó được gọi là tinh cha, huyết trắng nằm trên đỉnh đầu. Phần phía dưới bụng, hay đan điền có một luồng âm khí gọi là huyết mẹ hay huyết đỏ. Tinh cha trên đầu từ từ chảy xuống trái tim, còn huyết mẹ thì bắt đầu chảy từ dưới bụng chạy lên trái tim. Khi tinh cha và huyết mẹ chảy tới tim và đụng nhau tại trái tim, thì trái tim sẽ quay lộn lại 180 độ. Tùy căn tu hành, tinh cha mạnh thì kiếp sau làm đàn ông. Huyết mẹ mạnh thì làm đàn bà. Đây là lúc thức thứ 8, a lại gia (linh hồn) sẽ kết tụ lại nhau và bắt đầu biết được là ngũ uẫn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) không còn nữa. Lúc nầy thì tùy theo con người ăn ở những năm vừa qua. Nếu có nhiều công đức và phước đức, thì sẽ có các bồ tát đến vuốt đầu. Thức thứ 8, a lại gia, sẽ theo luồng hòa quang đó xuất ra trên đỉnh đầu và đi về cõi cực lạc. Đến lúc nầy thì quý vị cũng không nên lấy đèn bin rọi vào mắt, coi thử người chết qua đời chưa. Hãy tắt bớt đèn, kẻo linh hồn tưởng hòa quang từ cõi cực lạc chiếu đến, rồi xuất hồn bay đập vào bóng đèn.
Phần đông các phật tử đầu thai làm người để tiếp tục tu học, cho nên linh hồn sẽ xuất ra từ trái tim. Một số người thì linh hồn xuất ra tại hậu môn (sẽ thấy một cục phân đen lồi ra từ hậu môn) và đầu thai làm súc vật. Nếu con người ăn ở gian ác thì linh hồn xuất ra tại chân, và làm ma đói hay xuống điạ ngục. Cho nên các gia quyến và bạn hữu chớ đụng vào bàn chân trong lúc nầy. Nếu có đụng vào xát chết thì trước tiên niệm phật rồi vuốt đầu, để cho linh hồn xuất ra ở trên đỉnh đầu.
Khi linh hồn xuất ra khỏi sát, thì giai đoạn đó được gọi là thân trung ấm. Linh hồn lúc nầy sẽ được tự do du ngạo trong cõi ta bà. Không có nơi nào mà không tới được. Linh hồn có thể đi xuyên tường, bay lơ lững trên mây. Nếu số mệnh đầu thai làm người, thì linh hồn cũng có thể đi vào chùa. Chỉ có một chổ có thể trói lại linh hồn đó là bầu thai. Khi linh hồn bay ngang và thấy một người đàn ông và đàn bà quan hệ tình dục, nếu thân trung ấm này có những nhân duyên liên hệ gia đình với hai người này, thì thân trung ấm này sẽ tìm cách sanh trở lại làm con của họ. Mối duyên ràng buộc giữa ý thức của thân trung ấm và hai người đang quan hệ tinh dục đó mạnh đến nỗi dù xa cả hàng ngàn hay hàng vạn dậm, và dù chỉ có một đốm sáng nhỏ nhoi phát ra bởi hai người lúc quan hệ tình dục, thân trung ấm sẽ thấy ánh sáng đó và sẽ đến chỗ hai người đó để trở thành bào thai trong lòng mẹ. Do đó thập nhị nhân duyên mới nói rằng "Hành duyên Thức".
Nếu số mệnh được đầu thai làm người, thì trong vòng 49 ngày thì sẽ có cơ hội tìm kiếm bào thai. Phần đông, linh hồn đã kiếm được bào thai trong vòng 2 tuần lễ đầu. Trong Phật Giáo, quý vị chỉ cần cầu siêu cho người chết trong vòng 49 ngày. Ngọai trừ quý vị biết người chết đã làm quá nhiều tội lỗi và đã phạm hết 5 ngũ giới (giết người, tà dâm, trộm cắp, nói dối, uống rượu), quý vị mới tụng kinh hồi hướng công đức trên 49 ngày.
Sau khi linh hồn đã kiếm được bào thai hay "Hành duyên Thức, thì “Thức duyên Danh Sắc ". Câu này có nghĩa khi bào thai trở nên hiện hữu thì có "danh xưng và hình tướng". "Danh" chỉ bốn uẩn thọ, tưởng, hành, thức, trong khi sắc là nói đến sắc uẩn. Bốn trong năm uẩn (tức là thọ, tưởng, hành, thức) hiện hữu từ lúc trong lòng mẹ nhưng chỉ là những danh xưng; chưa thành hình. Nếu trong lúc nầy, mà người mẹ lại đi phá thai, thì linh hồn vừa mới có được bốn uẩn (thọ, tưởng, hành, thức), rất là giận hờn oán trách, vì linh hồn không có cơ hội để có đầy đủ ngũ uẩn. Linh Hồn thường oán trách rồi trở thành những con ma đói.
Khi hài nhi được sinh ra, tất cả năm uẩn (tức là danh và sắc) đều đầy đủ, sáu giác quan hay nơi để cảm nhận (mắt, tai, mũi, lưỡi, xúc giác và ý) cũng vậy. Đây gọi là “Danh Sắc duyên Lục Nhập". Sáu cơ quan cảm nhận nầy cùng với sáu đối tượng của cảm nhận (hình sắc, âm thanh, mùi vị, cảm giác xúc chạm, và đối tượng tâm thức) là khởi sanh ý thức về cái thấy, cái nghe, mùi, vị, xúc chạm và ý nghĩ. Khi tất cả sáu cơ quan cảm nhận hiện hữu đầy đủ, đứa bé bắt đầu biết liên hệ tiếp xúc với ngọai cảnh Vì thế, nên mới nói: "Lục Nhập duyên Xúc".
Sau khi có sự tiếp xúc, đứa bé bắt đầu có cảm giác thọ nhân tiếp xúc; ví thế "Xúc duyên Thọ".
Khi có cảm thọ, lòng yêu thích phát khởi (như là ưa thích hoàn cảnh vui sướng dễ chịu, và ghét hoàn cảnh không vừa ý). Vì thế, "Thọ duyên Ái (ưa thích)”.
Sau khi sự ưa thích khởi sanh, đứa bé mong muốn để tìm kiếm và nắm bắt những gì nó thích. Vì thế " Ái duyên Thủ (nắm bắt)".
Sau khi đã sở hữu cái mình ham muốn, việc nắm bắt sở hữu nầy đưa đến sự hình thành (trong dục giới, sắc giới hay vô sắc giới). Vì thế gọi là "Thủ duyên Hữu".
Bước kế tiếp là " Hữu duyên Sanh "; nghĩa là do sự nắm bắt và bám chấp, lại có sự tiếp tục tái sinh.
Sau cùng " Sanh duyên Lão Tử (già và chết)". Sau khi Sanh thì sẽ đến Già và Chết . Toàn bộ diễn trình này là vòng quay "Mười Hai Nhân Duyên”.
Muốn chấm dứt luân hồi, thì chúng ta phải làm như thế nào ? Chúng ta phải tu hành để diệt cái vô minh của chúng ta.
"Vô Minh" là gì? "Vô Mình" là sự thiếu hiểu biết . Trong ngôn ngữ hàng ngày thi gọi là " bị lẫn lộn". Nghĩa là quý vị không hiểu rõ cái thật. Vì quý vị bị lẫn lộn và không hiểu rõ nên mới có những sinh hoạt mê lầm sai trái. "Sinh hoạt sai lầm" trong ý nghĩa này là quý vị làm những điều mà đáng lý không nên làm. Những sinh hoạt sai lầm này đưa đến nhận thức giả tạo hay là ý thức. Ý thức dẫn đến lầm lẫn danh và sắc. Lầm lẫn danh sắc đưa đến lầm lẫn lục nhập. Bởi con người có sáu giác quan, dữ kiện bên ngoài đưa vào cơ thể và trí óc qua sáu giác quan này. Từ lầm lẫn thâu nhận của giác quan, khởi sanh lầm lẫn tiếp xúc. Khi có lầm lẫn tiếp xúc thì người ta muốn lầm lẫn cảm thọ. Từ lầm lẫn cảm thọ sanh ra lầm lẫn yêu thương hay ham muốn. Từ lầm lẫn ham muốn, nảy sanh lầm lẫn nắm bắt. Một khi có lầm lẫn nằm bất, thì có lầm lẫn thành. Từ lầm lẫn thành, người ta lại sanh. Từ sanh mà có già và chết.
Nếu không có Vô Minh thì sẽ như thế nào? Thì sẽ không có Hành sinh hoạt. Nói một cách khác, khi Vô Minh bị tiêu diệt, thi Hành bị tiêu diệt. Khi Hành bị tiêu diệt thì Thức bị tiêu diệt. Khi Thức bị tiêu diệt thi Danh Sắc bị tiêu diệt. Khi Danh Sắc bị tiêu diệt thì Lục Nhập bị tiêu diệt. Khi Lục Nhập bị tiêu diệt thi Xúc bị tiêu diệt. Khi Xúc bị tiêu diệt thi thì Thọ bị tiêu diệt. Khi Thọ bị tiêu diệt thì Ải bị tiêu diệt. Khi Ải bị tiêu diệt thị Thủ bị tiêu diệt. Khi Thủ bị tiêu diệt thì Hữu bị tiêu diệt. Khi Hữu bị tiêu diệt thì Sanh, Lão và Tử đều bị tiêu diệt.
Đó là cách để chấm dứt chu kỳ Mười Hai Nhân Duyên.
DeNhatXiXon - thegioivohinh
Được cảm ơn bởi: hey
- cloudstrife
- Lục đẳng
- Bài viết: 4206
- Tham gia: 20:34, 24/11/10
TL: Đất Phật
Trái với lối nghĩ và chủ trương của phần đông Tứ-Chúng (Tỳ Kheo, Tỳ-Kheo Ni, Cận Sự Nam, Cận Sự Nữ) hiện nay, thời Mạt Pháp không phải là thời không còn có kinh điển được lưu truyền trên nhân-thế như nhiều kẻ ngu si tà kiến thường lầm tưởng!
Kỳ thật, vào thời Mạt Pháp, kinh điển được truyền bá rất rộng rãi và có tính cách phổ thông, nhưng ít ai chịu bỏ thời gian ra từ ba đến mười hai năm để tìm hiểu lý thâm sâu vi diệu mà phần đông là đọc tụng để tán tỉnh Thần linh, mong cầu phước báu Nhân-Thiên, giống y như tín đồ của ngoại Đạo.
Đọc tụng kinh điển Đại Thừa và Bí Mật Chân Ngôn Thừa như đem hang rao bán giữa chợ, như “Thầy/Cô tôi tụng Kinh/chì Trú rất hay”, “Thầy tôi rất đẹp trai, ăn mặc thanh lịch, thơm tho, tiếng nói ấm-áp, nhỏ nhẹ…”, “Sư Cô của tôi người rất xinh lịch, tụng Kinh/trì Chú rất hay, giọng ngọt ngào, thân hình hết xảy, thơm tho”, “chùa của tôi đi rất rộng rãi, tụng Kinh rất thoải mái”… phải đến tu học với Thầy/Cô tôi, phải năng đến cúng dường chùa tôi để ủng hộ Phật Pháp, làm sứ giả của Như Lai!
Tuy nhiên, việc truyền bá kinh điển một cách rộng rãi là điều rất nguy hiểm, vì sao?
Vì không được sự cho phép hay chấp thuận của bậc Đạo Sư mà đọc tụng kinh Điển Đại Thừa Phương Quảng…, kinh điển của Bí Mật Chân Ngôn, nhất là các Mật Luận, lại không đủ căn cơ, trình độ để lãnh hội, không có thiện căn vững chắc, không được chư Phật gia hộ (tức không có trí tuệ, “trí độ gia trì”) lại bị Ma nhiếp trì, nên khi đọc thì sanh long nghi Phật, nghi Pháp, nghi Đạo sư…
Lại nữa, những người đọc tụng không có Đạo sư truyền dạy này thường hay tích lũy mớ kiến văn trong kinh điển, rồi vội vàng đem tri kiến vụng về của mình ra mà luận bàn, tư duy cùng những người không thích hợp để rồi cùng nhau khởi lên các thứ vọng chấp, điên đảo…
Nói kinh Thủ Lăng Nghiêm diệt trước bởi vì người học kinh chỉ biết nghĩa (Martha) văn tự một cách cạn cợt, không biết lý (naya) mầu nhiệm thậm thâm vi diệu, chỉ biết chạy theo danh tướng phù tưởng hư vọng.
Tôn Kinh Thủ Lăng Nghiêm là kinh căn bản của hai phái Hiển và Mật, nhưng tiếc thay, ngày nay rất ít ai học theo, chư tăng ni chân chánh tu hành ở các chùa chiền mỗi buổi sang chỉ đọc ngũ đệ Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm hoặc chỉ đọc tâm chú Thủ Lăng Nghiêm mà thôi, còn phần giáo lý thậm thâm vi diệu thì hầu như không ai chú tâm đến! Nội phần Ngài A-Nan đại diện cho chúng sanh bảy lần hỏi Phật về Tâm đều bị Phật nói là sai lầm cũng đủ khiến cho người đời nay choáng váng mặt mày rồi, hoặc có đọc tụng mà làm ăn thất bại thì đổ thừa là tụng kinh đổ nghiệp!!!
Còn tiếp…
Trích trong: “Mạt Pháp Ý Nghĩa Ra Sao Và Hiểu Như Thế Nào Sẽ Phù Hợp Với Chánh Pháp” - Tác giả Pram Nguyễn (http://www.pramnguyen.com" target="_blank)
Kỳ thật, vào thời Mạt Pháp, kinh điển được truyền bá rất rộng rãi và có tính cách phổ thông, nhưng ít ai chịu bỏ thời gian ra từ ba đến mười hai năm để tìm hiểu lý thâm sâu vi diệu mà phần đông là đọc tụng để tán tỉnh Thần linh, mong cầu phước báu Nhân-Thiên, giống y như tín đồ của ngoại Đạo.
Đọc tụng kinh điển Đại Thừa và Bí Mật Chân Ngôn Thừa như đem hang rao bán giữa chợ, như “Thầy/Cô tôi tụng Kinh/chì Trú rất hay”, “Thầy tôi rất đẹp trai, ăn mặc thanh lịch, thơm tho, tiếng nói ấm-áp, nhỏ nhẹ…”, “Sư Cô của tôi người rất xinh lịch, tụng Kinh/trì Chú rất hay, giọng ngọt ngào, thân hình hết xảy, thơm tho”, “chùa của tôi đi rất rộng rãi, tụng Kinh rất thoải mái”… phải đến tu học với Thầy/Cô tôi, phải năng đến cúng dường chùa tôi để ủng hộ Phật Pháp, làm sứ giả của Như Lai!
Tuy nhiên, việc truyền bá kinh điển một cách rộng rãi là điều rất nguy hiểm, vì sao?
Vì không được sự cho phép hay chấp thuận của bậc Đạo Sư mà đọc tụng kinh Điển Đại Thừa Phương Quảng…, kinh điển của Bí Mật Chân Ngôn, nhất là các Mật Luận, lại không đủ căn cơ, trình độ để lãnh hội, không có thiện căn vững chắc, không được chư Phật gia hộ (tức không có trí tuệ, “trí độ gia trì”) lại bị Ma nhiếp trì, nên khi đọc thì sanh long nghi Phật, nghi Pháp, nghi Đạo sư…
Lại nữa, những người đọc tụng không có Đạo sư truyền dạy này thường hay tích lũy mớ kiến văn trong kinh điển, rồi vội vàng đem tri kiến vụng về của mình ra mà luận bàn, tư duy cùng những người không thích hợp để rồi cùng nhau khởi lên các thứ vọng chấp, điên đảo…
Nói kinh Thủ Lăng Nghiêm diệt trước bởi vì người học kinh chỉ biết nghĩa (Martha) văn tự một cách cạn cợt, không biết lý (naya) mầu nhiệm thậm thâm vi diệu, chỉ biết chạy theo danh tướng phù tưởng hư vọng.
Tôn Kinh Thủ Lăng Nghiêm là kinh căn bản của hai phái Hiển và Mật, nhưng tiếc thay, ngày nay rất ít ai học theo, chư tăng ni chân chánh tu hành ở các chùa chiền mỗi buổi sang chỉ đọc ngũ đệ Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm hoặc chỉ đọc tâm chú Thủ Lăng Nghiêm mà thôi, còn phần giáo lý thậm thâm vi diệu thì hầu như không ai chú tâm đến! Nội phần Ngài A-Nan đại diện cho chúng sanh bảy lần hỏi Phật về Tâm đều bị Phật nói là sai lầm cũng đủ khiến cho người đời nay choáng váng mặt mày rồi, hoặc có đọc tụng mà làm ăn thất bại thì đổ thừa là tụng kinh đổ nghiệp!!!
Còn tiếp…
Trích trong: “Mạt Pháp Ý Nghĩa Ra Sao Và Hiểu Như Thế Nào Sẽ Phù Hợp Với Chánh Pháp” - Tác giả Pram Nguyễn (http://www.pramnguyen.com" target="_blank)
Được cảm ơn bởi: hey
- cloudstrife
- Lục đẳng
- Bài viết: 4206
- Tham gia: 20:34, 24/11/10
TL: Đất Phật
Thiện nam tử! Bậc xuất gia chỉ có thể tu trọn vẹn năm pháp Ba la mật, không thể tu trọn vẹn Bố thí Ba la mật. Người tại gia thì có thể tu tròn cả sáu pháp. Vì sao? Vì họ trong tất cả thời gian, có thể tu tập bố thí tất cả. Vì thế, người tại gia trước tiên phải tu tâm Đại bi. Nếu đã tu tập tâm Đại bi, người đó sẽ được đầy đủ trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định và trí tuệ. Nếu tu tâm Đại bi, vật khó bố thí có thể bố thí, điều khó nhẫn nhịn có thể nhẫn nhịn, những việc khó làm đều có thể làm. Do đây biết rằng, tất cả các pháp lành, đều lấy tâm Đại bi làm gốc.
Thiện nam tử! Nếu có người tu tập tâm Đại bi như vậy, phải biết người ấy có thể phá tan nghiệp ác to như núi Tu di, không bao lâu sẽ chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Người ấy dù tu chút thiện, sẽ được quả lành như núi Tu di. Kinh Tại Gia Bồ Tát Giới, phẩm thứ ba.
bodetam.org
Thiện nam tử! Nếu có người tu tập tâm Đại bi như vậy, phải biết người ấy có thể phá tan nghiệp ác to như núi Tu di, không bao lâu sẽ chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Người ấy dù tu chút thiện, sẽ được quả lành như núi Tu di. Kinh Tại Gia Bồ Tát Giới, phẩm thứ ba.
bodetam.org
Được cảm ơn bởi: hey
- cloudstrife
- Lục đẳng
- Bài viết: 4206
- Tham gia: 20:34, 24/11/10
TL: Đất Phật
Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn! Bồ tát sau khi thọ giới Ưu bà tắc, làm thế nào để cúng dường Tam Bảo?”
- Thiện nam tử! Ruộng phước trên thế gian có ba loại: một là ruộng báo ân, hai là ruộng công đức, ba là ruộng bần cùng. Ruộng báo ân, tức là cha mẹ, sư trưởng, hòa thượng; ruộng công đức, tức là tất cả những bậc tu hành, từ bậc chứng noãn pháp, cho đến bậc chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; ruộng bần cùng, tức là tất cả những người bần cùng, khốn khổ. Đức Như Lai Thế Tôn là hai loại ruộng phước: một là ruộng báo ân, hai là ruộng công đức. Pháp cũng như vậy, là hai loại ruộng phước giống trên. Chúng tăng lại là ba loại ruộng phước: một là ruộng báo ân, hai là ruộng công đức, ba là ruộng bần cùng. Do nhân duyên này, mà các Bồ tát sau khi thọ giới Ưu bà tắc, phải nên chí tâm siêng cần cúng dường Tam Bảo. Kinh Tại Gia Bồ Tát Giới .
bodetam.org
- Thiện nam tử! Ruộng phước trên thế gian có ba loại: một là ruộng báo ân, hai là ruộng công đức, ba là ruộng bần cùng. Ruộng báo ân, tức là cha mẹ, sư trưởng, hòa thượng; ruộng công đức, tức là tất cả những bậc tu hành, từ bậc chứng noãn pháp, cho đến bậc chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; ruộng bần cùng, tức là tất cả những người bần cùng, khốn khổ. Đức Như Lai Thế Tôn là hai loại ruộng phước: một là ruộng báo ân, hai là ruộng công đức. Pháp cũng như vậy, là hai loại ruộng phước giống trên. Chúng tăng lại là ba loại ruộng phước: một là ruộng báo ân, hai là ruộng công đức, ba là ruộng bần cùng. Do nhân duyên này, mà các Bồ tát sau khi thọ giới Ưu bà tắc, phải nên chí tâm siêng cần cúng dường Tam Bảo. Kinh Tại Gia Bồ Tát Giới .
bodetam.org
Được cảm ơn bởi: hey
- cloudstrife
- Lục đẳng
- Bài viết: 4206
- Tham gia: 20:34, 24/11/10
TL: Đất Phật
Thiện nam tử! Bồ Tát còn có tên là "Bố Thí Tất Cả". Người nào thường bố thí với tâm thanh tịnh thì gọi là Bố thí tất cả; tuy ít của cải mà vẫn có thể bố thí thì gọi là Bố thí tất cả; đối với vật mình ưa thích mà có thể phá trừ tâm bỏn sẻn để bố thí thì gọi là Bố thí tất cả; bố thí mà không cầu quả báo thì gọi là Bố thí tất cả; lúc bố thí, không phân biệt là phước điền hay không phước điền thì gọi là Bố thí tất cả; bố thí bình đẳng cho người thân kẻ thù thì gọi là Bố thí tất cả.
Kinh Tại Gia Bồ Tát Giới, phẩm mười chín.
bodetam.org
Kinh Tại Gia Bồ Tát Giới, phẩm mười chín.
bodetam.org
Được cảm ơn bởi: hey
- cloudstrife
- Lục đẳng
- Bài viết: 4206
- Tham gia: 20:34, 24/11/10
TL: Đất Phật
Thiện nam tử! Người trí nên quán sát của cải là vô thường, vì là vô thường cho nên trong vô lượng đời, tuy đã từng hư hao mất mát bao nhiêu tài sản, mà vẫn không được lợi ích. Ngược lại, tuy của cải là vô thường, thế nhưng, nếu có thể bố thí, thì sẽ được vô lượng lợi ích. Nếu vậy, tại sao vẫn còn bỏn sẻn, không chịu bố thí? Người trí lại quán sát trên thế gian có những người trì giới, học rộng, đa văn, do lực lượng của nhân duyên trì giới, đa văn này mà được quả vị A la hán, tuy được quả vị như thế, vẫn không ngăn chận, đoạn trừ được quả báo khổ não của sự đói khát. Nếu như các vị A la hán bị thiếu thốn những phương tiện như phòng nhà, quần áo, thức ăn uống, giường chiếu, thuốc men, đây là đều do nhân duyên đời trước không chịu bố thí. Còn những người phá giới, nếu ưa làm việc bố thí, người đó tuy đọa vào ngạ quỷ, hoặc súc sinh, vẫn thường được ăn uống no đủ, không bị thiếu thốn.
Kinh Tại Gia Bồ Tát Giới, phẩm mười chín.
bodetam.org
Kinh Tại Gia Bồ Tát Giới, phẩm mười chín.
bodetam.org
Được cảm ơn bởi: hey
- cloudstrife
- Lục đẳng
- Bài viết: 4206
- Tham gia: 20:34, 24/11/10
TL: Đất Phật
Ðức Phật dạy: “Người thuận theo lòng dục để mong được danh tiếng, khi danh tiếng vừa nổi, thì thân đã mất rồi. Ham muốn cái danh tiếng thường tình mà không lo học đạo chỉ uổng công mệt sức mà thôi. Giống như đốt hương, khi người ta ngửi được mùi thơm, thì cây hương đã tàn rồi. Lửa (tham danh tiếng) tác hại thân còn di lụy về sau”.
Kinh tứ thập nhị chương
Kinh tứ thập nhị chương
Được cảm ơn bởi: hey
- cloudstrife
- Lục đẳng
- Bài viết: 4206
- Tham gia: 20:34, 24/11/10
TL: Đất Phật
Đức Phật dạy các vị khất sĩ:
- Này các vị, sống ở trên đời ai mà không ít nhiều phải gánh chịu khổ đau. Tuy nhiên, những ai có tu, có học, có đạt được trí tuệ thì khổ đau rất ít so sánh với khổ đau của người không tu, không học, không có trí tuệ.
Lúc ấy trời còn nắng lớn nhưng Đức Phật đang ngồi với các thầy trong bóng mát những cây sala. Đức Phật nhặt lên một hòn đất nhỏ, cầm nó giữa ngón tay cái và ngón tay trỏ, đưa lên cao và hỏi:
- Này các vị khất sĩ, hòn đất trong tay tôi so với núi Tượng Đầu cái nào lớn hơn?
- Bạch đức Thế Tôn, cố nhiên so với núi Tượng Đầu, hòn đất trong tay Thế Tôn không có nghĩa gì.
- Cũng như thế đó các vị, đối với người có tu, có học, có đạt đến trí tuệ thì tuy có đau khổ mà đau khổ ấy sánh với đau khổ của người không tu, không học, không có trí tuệ thì không có nghĩa gì. Si vọng làm cho đau khổ to lớn gấp bội.
Này các vị, ví dụ có người bị trúng một mũi tên, người ấy cảm thấy đau nhức, nhưng nếu một mũi tên thứ hai tới cắm đúng vào chỗ vết thương thì cái đau nhức ấy chắc chắn lớn hơn bội phần, và nếu một mũi tên thứ ba bay tới bắn trúng ngày vào cùng chỗ đó thì sự đau nhức lại còn lớn lao gấp trăm ngàn lần. Si vọng cũng như mũi tên thứ hai, mũi tên thứ ba và những mũi tên khác. Nó làm cho cái khổ tăng gia gấp bội.
Nhờ trí tuệ, nhờ hiểu biết, con người có học, có tu và có giác ngộ không làm cho cái khổ gia tăng nơi mình và nơi người khác. Khi có một khổ thọ, dù là khổ thọ về thân xác hay là khổ thọ về tâm ý, người có trí không sầu muộn, không than van khóc lóc, không đập ngực bứt tóc, không đày đọa thân thể và tâm hồn, không ngã lăn ra bất tỉnh. Người ấy bình tĩnh quán chiếu và biết khổ thọ chỉ là một cảm thọ, người ấy biết người ấy không phải là cảm thọ, không kẹt vào cảm thọ. Cảm thọ không còn trói buộc được người ấy. Khổ đau không trói buộc được người ấy.
Khi có một khổ thọ về thân thể, người ấy biết có một khổ thọ về thân thể. Người ấy không hoảng hốt, không lo sợ, không trách cứ, không u sầu, vì vậy khổ thọ ấy vẫn chỉ là một khổ thọ về thân thể, mà không trở nên một khổ thọ lớn lao có thể làm chìm đắm tự thân.
Cũng vì thế. này quý vị khất sĩ, quý vị nên tu tập, nên quán chiếu để đạt tới trí tuệ và để không bị khổ đau ràng buộc. Sinh, lão, bệnh, tử sẽ không còn khống chế được quý vị.
Này các vị khất sĩ, khi sắp mệnh chung, việc người khất sĩ nên làm là quán chiếu thân thể, cảm thọ, tâm ý và đối tượng tâm ý. Mỗi tư thế, mỗi động tác cần được đặt trong chánh niệm. Mỗi cảm thọ đều được soi sáng bởi chánh niệm. Người sắp mệnh chung quán chiếu tự tánh vô thường và duyên sinh của thân thể và của cảm thọ, để không còn bị vướng mắc vào thân thể và cảm thọ, dù là lạc thọ, khổ thọ, hay xả thọ. Nếu có cơn đau phải đem hết toàn thân ra chịu đựng, thì người ấy quán chiếu: đây là một cơn đau phải đem hết toàn thân ra chịu đựng. Cơn đau này không phải là ta, ta không phải là cơn đau này, ta không kẹt vào cơn đau này. Thân thể và cảm thọ như là một ngọn đèn đang cạn dầu và hết bấc. Ánh sáng do nhân duyên làm tỏ lộ mà cũng do nhân duyên làm tiềm phục. Ta không bị ràng buộc bởi nhân duyên, và như thế sẽ có lắng dịu, sẽ có giải thoát.
Trích Từ Đường Xưa Mây Trắng.
TS Thích Nhất Hạnh
http://www.thuvienhoasen.org" target="_blank
- Này các vị, sống ở trên đời ai mà không ít nhiều phải gánh chịu khổ đau. Tuy nhiên, những ai có tu, có học, có đạt được trí tuệ thì khổ đau rất ít so sánh với khổ đau của người không tu, không học, không có trí tuệ.
Lúc ấy trời còn nắng lớn nhưng Đức Phật đang ngồi với các thầy trong bóng mát những cây sala. Đức Phật nhặt lên một hòn đất nhỏ, cầm nó giữa ngón tay cái và ngón tay trỏ, đưa lên cao và hỏi:
- Này các vị khất sĩ, hòn đất trong tay tôi so với núi Tượng Đầu cái nào lớn hơn?
- Bạch đức Thế Tôn, cố nhiên so với núi Tượng Đầu, hòn đất trong tay Thế Tôn không có nghĩa gì.
- Cũng như thế đó các vị, đối với người có tu, có học, có đạt đến trí tuệ thì tuy có đau khổ mà đau khổ ấy sánh với đau khổ của người không tu, không học, không có trí tuệ thì không có nghĩa gì. Si vọng làm cho đau khổ to lớn gấp bội.
Này các vị, ví dụ có người bị trúng một mũi tên, người ấy cảm thấy đau nhức, nhưng nếu một mũi tên thứ hai tới cắm đúng vào chỗ vết thương thì cái đau nhức ấy chắc chắn lớn hơn bội phần, và nếu một mũi tên thứ ba bay tới bắn trúng ngày vào cùng chỗ đó thì sự đau nhức lại còn lớn lao gấp trăm ngàn lần. Si vọng cũng như mũi tên thứ hai, mũi tên thứ ba và những mũi tên khác. Nó làm cho cái khổ tăng gia gấp bội.
Nhờ trí tuệ, nhờ hiểu biết, con người có học, có tu và có giác ngộ không làm cho cái khổ gia tăng nơi mình và nơi người khác. Khi có một khổ thọ, dù là khổ thọ về thân xác hay là khổ thọ về tâm ý, người có trí không sầu muộn, không than van khóc lóc, không đập ngực bứt tóc, không đày đọa thân thể và tâm hồn, không ngã lăn ra bất tỉnh. Người ấy bình tĩnh quán chiếu và biết khổ thọ chỉ là một cảm thọ, người ấy biết người ấy không phải là cảm thọ, không kẹt vào cảm thọ. Cảm thọ không còn trói buộc được người ấy. Khổ đau không trói buộc được người ấy.
Khi có một khổ thọ về thân thể, người ấy biết có một khổ thọ về thân thể. Người ấy không hoảng hốt, không lo sợ, không trách cứ, không u sầu, vì vậy khổ thọ ấy vẫn chỉ là một khổ thọ về thân thể, mà không trở nên một khổ thọ lớn lao có thể làm chìm đắm tự thân.
Cũng vì thế. này quý vị khất sĩ, quý vị nên tu tập, nên quán chiếu để đạt tới trí tuệ và để không bị khổ đau ràng buộc. Sinh, lão, bệnh, tử sẽ không còn khống chế được quý vị.
Này các vị khất sĩ, khi sắp mệnh chung, việc người khất sĩ nên làm là quán chiếu thân thể, cảm thọ, tâm ý và đối tượng tâm ý. Mỗi tư thế, mỗi động tác cần được đặt trong chánh niệm. Mỗi cảm thọ đều được soi sáng bởi chánh niệm. Người sắp mệnh chung quán chiếu tự tánh vô thường và duyên sinh của thân thể và của cảm thọ, để không còn bị vướng mắc vào thân thể và cảm thọ, dù là lạc thọ, khổ thọ, hay xả thọ. Nếu có cơn đau phải đem hết toàn thân ra chịu đựng, thì người ấy quán chiếu: đây là một cơn đau phải đem hết toàn thân ra chịu đựng. Cơn đau này không phải là ta, ta không phải là cơn đau này, ta không kẹt vào cơn đau này. Thân thể và cảm thọ như là một ngọn đèn đang cạn dầu và hết bấc. Ánh sáng do nhân duyên làm tỏ lộ mà cũng do nhân duyên làm tiềm phục. Ta không bị ràng buộc bởi nhân duyên, và như thế sẽ có lắng dịu, sẽ có giải thoát.
Trích Từ Đường Xưa Mây Trắng.
TS Thích Nhất Hạnh
http://www.thuvienhoasen.org" target="_blank
Được cảm ơn bởi: hey