Đất Phật
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
TL: Đất Phật
Mục Kiền Liên
Mục Kiền Liênxuất gia theo Phật chỉ trong vòng bảy hôm liền hết các lậu hoặc, chứng quả A-la-hán, hiện sức thần thông.
Ngài dáng người cao lớn, mặt vuông tai dài, biểu lộ tính cứng rắng. Tôn giả rất lạc quan, dũng cảm, thường vì chánh nghĩa đả phá việc bất bình.
Trong hàng Tỳ-kheo đệ tử của Phật, có nhiều vị thần thông phi thường, nhưng Mục Kiền Liên được danh hiệu đệ nhất là vì trong lúc hóa đạo, Ngài ưa hiện thần thông. Đức Phật tuy không cho phép các đệ tử hiển phép lạ mê hoặc người nhưng riêng đối với Mục Kiền Liên thì Ngài thường khen ngợi.
Mục Kiền Liênxuất gia theo Phật chỉ trong vòng bảy hôm liền hết các lậu hoặc, chứng quả A-la-hán, hiện sức thần thông.
Ngài dáng người cao lớn, mặt vuông tai dài, biểu lộ tính cứng rắng. Tôn giả rất lạc quan, dũng cảm, thường vì chánh nghĩa đả phá việc bất bình.
Trong hàng Tỳ-kheo đệ tử của Phật, có nhiều vị thần thông phi thường, nhưng Mục Kiền Liên được danh hiệu đệ nhất là vì trong lúc hóa đạo, Ngài ưa hiện thần thông. Đức Phật tuy không cho phép các đệ tử hiển phép lạ mê hoặc người nhưng riêng đối với Mục Kiền Liên thì Ngài thường khen ngợi.
- Tập tin đính kèm
-
- Mục Kiền Liên.jpg (15.28 KiB) Đã xem 1662 lần
Được cảm ơn bởi: cloudstrife, lasen, TiT_TinhKhong_TiT
TL: Đất Phật
Xá Lợi Phất
Trong hàng Thanh Văn đệ tử của đức Phật Thích Ca, Xá Lợi Phất được coi là người có trí tuệ bậc nhất. Ngài xuất thân trong một gia đình Bà-la-môn, thân phụ Đề xá là một luận sư nổi danh trong giáo đoàn Bà-la-môn.
Thân mẫu khi mang thai Ngài, trí tuệ vượt trội hơn mọi phụ nữ tầm thường (Theo truyền thuyết đó là do ảnh hưởng của thai nhi).
Đến tuổi trưởng thành Ngài từ giã quê hương phụ mẫu, lên đường tìm sư học đạo. Trên bước đường vân du, Ngài gặp vị Tỳ-kheo A Thị Thuyết, là một trong năm vị Tỳ-kheo đầu tiên quy y Phật, dạy cho bài kệ:
Các pháp do nhân duyên sanh. Các pháp do nhân duyên diệt.
Ngài ngộ được bài kệ và cùng người bạn chí thân đó là Mục Kiền Liên quy y theo Phật từ đó.
Trong hàng Thanh Văn đệ tử của đức Phật Thích Ca, Xá Lợi Phất được coi là người có trí tuệ bậc nhất. Ngài xuất thân trong một gia đình Bà-la-môn, thân phụ Đề xá là một luận sư nổi danh trong giáo đoàn Bà-la-môn.
Thân mẫu khi mang thai Ngài, trí tuệ vượt trội hơn mọi phụ nữ tầm thường (Theo truyền thuyết đó là do ảnh hưởng của thai nhi).
Đến tuổi trưởng thành Ngài từ giã quê hương phụ mẫu, lên đường tìm sư học đạo. Trên bước đường vân du, Ngài gặp vị Tỳ-kheo A Thị Thuyết, là một trong năm vị Tỳ-kheo đầu tiên quy y Phật, dạy cho bài kệ:
Các pháp do nhân duyên sanh. Các pháp do nhân duyên diệt.
Ngài ngộ được bài kệ và cùng người bạn chí thân đó là Mục Kiền Liên quy y theo Phật từ đó.
- Tập tin đính kèm
-
- Xá Lợi Phất.jpg (16.54 KiB) Đã xem 1662 lần
Được cảm ơn bởi: cloudstrife, lasen, TiT_TinhKhong_TiT
TL: Đất Phật
La Hầu La
Đức Phật khi còn là Thái tử của vương thành Ca Tỳ La, đã kết hôn với công chúa Da Du Đà La và sanh hạ La Hầu La. Khi La Hầu La được 7 ngày tuổi, Thái tử Sĩ Đạt Ta xuất thành tầm đạo và trong suốt mười năm theo đó, La Hầu La chưa một lần nhìn thấy mặt cha.
Khi Phật thành đạo, Ngài trở về thành Ca Tỳ La. Da Du Đà La bảo con rằng: " Con hãy theo phụ thân xin tài sản đi, cha con có những châu báu mà chúng ta chưa được thấy."
Không bao lầu sau, La Hầu La được xuất gia theo Phật và trở thành vị Sa Di đầu tiên trong Tăng đoàn, dưới sự dìu dắt trực tiếp của Tôn giả Xá Lợi Phất.
Từ khi được Phật chỉ dạy và lại thường được ở bên cạnh sư phụ Xá Lợi Phất, nhận được sự hướng dẫn của Thầy, La Hầu La tu tiến rất nhanh. Cuối cùng Tôn giả chứng được quả A La Hán và thường được Phật khen là người Mật Hạnh Đệ Nhất.
Đức Phật khi còn là Thái tử của vương thành Ca Tỳ La, đã kết hôn với công chúa Da Du Đà La và sanh hạ La Hầu La. Khi La Hầu La được 7 ngày tuổi, Thái tử Sĩ Đạt Ta xuất thành tầm đạo và trong suốt mười năm theo đó, La Hầu La chưa một lần nhìn thấy mặt cha.
Khi Phật thành đạo, Ngài trở về thành Ca Tỳ La. Da Du Đà La bảo con rằng: " Con hãy theo phụ thân xin tài sản đi, cha con có những châu báu mà chúng ta chưa được thấy."
Không bao lầu sau, La Hầu La được xuất gia theo Phật và trở thành vị Sa Di đầu tiên trong Tăng đoàn, dưới sự dìu dắt trực tiếp của Tôn giả Xá Lợi Phất.
Từ khi được Phật chỉ dạy và lại thường được ở bên cạnh sư phụ Xá Lợi Phất, nhận được sự hướng dẫn của Thầy, La Hầu La tu tiến rất nhanh. Cuối cùng Tôn giả chứng được quả A La Hán và thường được Phật khen là người Mật Hạnh Đệ Nhất.
- Tập tin đính kèm
-
- La Hầu La.jpg (12.4 KiB) Đã xem 1662 lần
Được cảm ơn bởi: cloudstrife, lasen, TiT_TinhKhong_TiT
TL: Đất Phật
Đại Ca Diếp
Tôn giả Đại Ca Diếp là con của nhà hào phú trưởng giả dòng Bà-la-môn tên Ni Câu Lư Đà Kiệt Ba. Tiếng đồn tài sản của phụ thân Ngài có thể sánh với vua Tần Bà Sa La đương thời.
Ngày mẫu thân Tôn giả lâm bồn, chính là lúc bà đang dạo chơi trong đình viện, bỗng cảm thấy mệt mỏi, bà đến ngồi dưới bóng cây đại thọ Tất-bát-la nghỉ ngơi. Lúc ấy chẳng biết thiên y từ đâu bay tới, và Đại Ca Diếp cất tiếng khóc chào đời.
Theo truyền thuyết, ngày Đại Ca Diếp rời nhà tìm đạo, lúc đó Ngài đã ba mươi tuổi, cũng chính là ngày đức Phật ngồi dưới cội cây Bồ-đề, trên tòa Kim Cang thấy sao mai mọc và thành Đẳng chánh giác.
Lúc Tôn giả gặp được Phật, đức Thế Tôn đã bảo: "Này Đại Ca Diếp! Ông chính thật là đệ tử của ta. Ta chính là lão sư của ông. Trên thế gian này, như người nào chưa chứng quả vị Chánh giác, không dám nhận ông làm đệ tử. Ông hãy theo ta."
Trong hàng đại đệ tử của Phật Thích Ca, Tôn giả Đại Ca Diếp được mệnh danh khổ hạnh đệ nhất.
Tôn giả Đại Ca Diếp là con của nhà hào phú trưởng giả dòng Bà-la-môn tên Ni Câu Lư Đà Kiệt Ba. Tiếng đồn tài sản của phụ thân Ngài có thể sánh với vua Tần Bà Sa La đương thời.
Ngày mẫu thân Tôn giả lâm bồn, chính là lúc bà đang dạo chơi trong đình viện, bỗng cảm thấy mệt mỏi, bà đến ngồi dưới bóng cây đại thọ Tất-bát-la nghỉ ngơi. Lúc ấy chẳng biết thiên y từ đâu bay tới, và Đại Ca Diếp cất tiếng khóc chào đời.
Theo truyền thuyết, ngày Đại Ca Diếp rời nhà tìm đạo, lúc đó Ngài đã ba mươi tuổi, cũng chính là ngày đức Phật ngồi dưới cội cây Bồ-đề, trên tòa Kim Cang thấy sao mai mọc và thành Đẳng chánh giác.
Lúc Tôn giả gặp được Phật, đức Thế Tôn đã bảo: "Này Đại Ca Diếp! Ông chính thật là đệ tử của ta. Ta chính là lão sư của ông. Trên thế gian này, như người nào chưa chứng quả vị Chánh giác, không dám nhận ông làm đệ tử. Ông hãy theo ta."
Trong hàng đại đệ tử của Phật Thích Ca, Tôn giả Đại Ca Diếp được mệnh danh khổ hạnh đệ nhất.
- Tập tin đính kèm
-
- Đại Ca Diếp.jpg (14.6 KiB) Đã xem 1662 lần
Được cảm ơn bởi: cloudstrife, lasen, TiT_TinhKhong_TiT
TL: Đất Phật
Tu Bồ Đề
Tu Bồ Đềlà vị đệ tử Giải Không Đệ Nhất của Phật Thích Ca. Ngay vừa chào đời, tất cả tài bảo, dụng cụ trong nhà Tôn giả bỗng nhiên biến mất, không thấy một cái nào. Người trong nhà đều lo sợ, vội mời thầy xem tướng đến bói một quẻ. Tướng sư gieo quẻ rồi nói:
Đây là một hỷ sự, trong nhà sanh quý tử. Tiền bạc, bảo vật trong nhà đều trống rỗng ngay khi cậu bé chào đời đó là người Giải không đệ nhất. Chúng ta nên đặt tên cho cậu bé là Không Sanh! Điều này rất đại cát lợi, tương lai chú bé sẽ không bị danh văn lợi dưỡng thế gian ràng buộc, gọi chú là Thiện Cát cũng tốt.
Khi đến tuổi trưởng thành Tôn giả xuất gia theo Phật và thể hội được chân lý vô ngã tối cao và đạt đến huệ KHÔNG sâu xa.
Tu Bồ Đềlà vị đệ tử Giải Không Đệ Nhất của Phật Thích Ca. Ngay vừa chào đời, tất cả tài bảo, dụng cụ trong nhà Tôn giả bỗng nhiên biến mất, không thấy một cái nào. Người trong nhà đều lo sợ, vội mời thầy xem tướng đến bói một quẻ. Tướng sư gieo quẻ rồi nói:
Đây là một hỷ sự, trong nhà sanh quý tử. Tiền bạc, bảo vật trong nhà đều trống rỗng ngay khi cậu bé chào đời đó là người Giải không đệ nhất. Chúng ta nên đặt tên cho cậu bé là Không Sanh! Điều này rất đại cát lợi, tương lai chú bé sẽ không bị danh văn lợi dưỡng thế gian ràng buộc, gọi chú là Thiện Cát cũng tốt.
Khi đến tuổi trưởng thành Tôn giả xuất gia theo Phật và thể hội được chân lý vô ngã tối cao và đạt đến huệ KHÔNG sâu xa.
- Tập tin đính kèm
-
- Tu Bồ Đề.jpg (9.11 KiB) Đã xem 1662 lần
Được cảm ơn bởi: cloudstrife, lasen, TiT_TinhKhong_TiT
TL: Đất Phật
Ở trên là 10 đại đệ tử của Đức Phật
- Phú Lâu Na: Thuyết pháp đệ nhất
- A Na Luật: Thiên nhẫn đệ nhất
- Ưu Ba Ly: Trì giới đệ nhất
- A Nan: Đa văn đệ nhất
- Ca Chiên Diên: Luận nghị đệ nhất
- Mục Kiền Liên: Thần thông đệ nhất
- Xá Lợi Phất: Trí tuệ đệ nhất
- La Hầu La: Mật hạnh đệ nhất
- Đại Ca Diếp: Khổ hạnh đệ nhất
- Tu Bồ Đề: Giải không đệ nhất
- Phú Lâu Na: Thuyết pháp đệ nhất
- A Na Luật: Thiên nhẫn đệ nhất
- Ưu Ba Ly: Trì giới đệ nhất
- A Nan: Đa văn đệ nhất
- Ca Chiên Diên: Luận nghị đệ nhất
- Mục Kiền Liên: Thần thông đệ nhất
- Xá Lợi Phất: Trí tuệ đệ nhất
- La Hầu La: Mật hạnh đệ nhất
- Đại Ca Diếp: Khổ hạnh đệ nhất
- Tu Bồ Đề: Giải không đệ nhất
Được cảm ơn bởi: cloudstrife, lasen, TiT_TinhKhong_TiT
TL: Đất Phật
Biết Đủ Thường Vui
Trên đời hiếm người không bệnh tật, tất cả đều do mình tạo lên. Xét nghĩ bệnh tật khổ mà không có bệnh tức là Phúc.
Đói rét khổ mà được no ấm tức là Phúc.
Cuộc sống khổ mà không bị hoàn cảnh làm ảnh hưởng tức là Phúc.
Trong đời loạn thế khổ, mà được bình an tức là Phúc.
Lao ngục khổ mà được an phận tức là Phúc.
Chớ nên thèm muốn cuộc sống tốt đẹp của người khác, vì có người còn khổ hơn mình. Không than phiền số phận bạc bẽo, bởi có người còn khốn khó hơn mình. Nhiều khi vì làm việc xấu ác nên trong tâm luôn bị sầu não dày vò, tật bệnh hành hạ.
Người làm thiện tích đức, âm phúc được dồi dào, tất sẽ có trời đất phù hộ. Vì vậy, sống trên thế gian mà không gặp phải tật bệnh, tai ương thì phải nên biết đủ (tri túc).
Sở dĩ có phiền não, sầu muộn chỉ vì tâm nghĩ không triệt để, nhìn nhận chưa thấu đáo. Do đó bản mệnh vốn trường thọ tự tại trở nên ngắn ngủi. Nay khuyên mọi người nên tri túc sẽ thường được an lạc.
Trên đời hiếm người không bệnh tật, tất cả đều do mình tạo lên. Xét nghĩ bệnh tật khổ mà không có bệnh tức là Phúc.
Đói rét khổ mà được no ấm tức là Phúc.
Cuộc sống khổ mà không bị hoàn cảnh làm ảnh hưởng tức là Phúc.
Trong đời loạn thế khổ, mà được bình an tức là Phúc.
Lao ngục khổ mà được an phận tức là Phúc.
Chớ nên thèm muốn cuộc sống tốt đẹp của người khác, vì có người còn khổ hơn mình. Không than phiền số phận bạc bẽo, bởi có người còn khốn khó hơn mình. Nhiều khi vì làm việc xấu ác nên trong tâm luôn bị sầu não dày vò, tật bệnh hành hạ.
Người làm thiện tích đức, âm phúc được dồi dào, tất sẽ có trời đất phù hộ. Vì vậy, sống trên thế gian mà không gặp phải tật bệnh, tai ương thì phải nên biết đủ (tri túc).
Sở dĩ có phiền não, sầu muộn chỉ vì tâm nghĩ không triệt để, nhìn nhận chưa thấu đáo. Do đó bản mệnh vốn trường thọ tự tại trở nên ngắn ngủi. Nay khuyên mọi người nên tri túc sẽ thường được an lạc.
- Tập tin đính kèm
-
- $C4$90$E1$BB$A9c+PH$E1$BA$ACT+Th$C3$ADch-Ca+M$C3$A2u-Ni+$C4$91$E1$BA$A3n+sinh.gif (151.11 KiB) Đã xem 1643 lần
Được cảm ơn bởi: cloudstrife, lasen, TiT_TinhKhong_TiT
TL: Đất Phật
Đại Nguyện Của Bồ Tát Địa Tạng
Nếu chưa độ hết chúng sanh,nguyện không chứng quả Bồ đề,
và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn ,
thì thề không thành Phật
- Tập tin đính kèm
-
- Địa Tạng Vương Bồ Tát.jpg (37.69 KiB) Đã xem 1642 lần
Được cảm ơn bởi: cloudstrife, lasen, klausan, TiT_TinhKhong_TiT
TL: Đất Phật
Quan điểm của Đức Phật về cải thiện nghèo khó
Ðức Phật rất quan tâm đến hạnh phúc của con người.
Ðức Phật không xét đời sống tách biệt với bối cảnh kinh tế và xã hội. Ngài nhìn đời toàn diện, trong tất cả mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị của nó. Đức Phật đề nghị muốn diệt tận gốc tội lỗi, cần phải cải thiện điều kiện kinh tế của con người. Bởi vậy Đức Phật thường dạy những cư sĩ tại gia tầm quan trọng của sự cải thiện hoàn cảnh kinh tế. Ðiều này không có nghĩa Ngài tán đồng sự tích trữ tài sản với sự tham lam ràng buộc, vì nó trái ngược với giáo lý Ngài, cũng không phải Ngài tán đồng bất cứ phương tiện sinh nhai nào.
Phật giảng bốn đức hạnh giúp cho một người thế tục được hạnh phúc đời sau:
1. Tín : phải tin tưởng vào những giá trị đạo đức, tinh thần, và tâm linh.
2. Giới : phải chừa bỏ sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối và uống rượu.
3. Thí : phải thực hành lòng trắc ẩn, bố thí, không bám víu, ôm giữ tài sản mình.
4. Tuệ: phải mở mang trí tuệ dẫn đến sự diệt khổ, chứng Niết-bàn.
Ðôi khi Phật còn đi vào những chi tiết về cách để dành tiền bạc và tiêu dùng, chẳng hạn như khi Ngài bảo thanh niên Sigàla rằng anh ta nên dùng 1/4 lợi tức vào sự tiêu pha hàng ngày, 1/2 lợi tức để đầu tư vào việc kinh doanh và để riêng 1/4 phòng khi nguy cấp.
Một hôm Phật bảo Cấp Cô độc, một thương gia danh tiếng, một trong những đệ tử tại gia thuần thành nhất của Ngài, rằng một cư sĩ sống đời thường nhật, có bốn thứ hạnh phúc:
1. Thụ hưởng sự bảo đảm về kinh tế hay tài sản đầy đủ, kiếm được bằng những phương tiện chính đáng
2. Tiêu dùng tài sản ấy một cách rộng rãi cho chính mình, cho gia đình, bà con, bè bạn và trong những việc công đức.
3. Không có nợ nần
4. Sống một đời trong sạch, không phạm những điều ác trong ý nghĩ, lời nói hay hành vi
Ở đây ta phải chú ý rằng trong bốn yếu tố đem lại hạnh phúc, có đến ba thuộc về kinh tế, và cuối cùng Phật còn nhắc cho thương gia ấy biết rằng hạnh phúc về kinh tế và vật chất thì "không đáng một phần mười sáu" của hạnh phúc tâm hồn phát sinh từ một đời sống không lỗi lầm và lương thiện.
Qua ví dụ kể trên, ta có thể thấy rằng đức Phật xem sự thoải mái về kinh tế là cần thiết cho hạnh phúc con người, nhưng Ngài không công nhận sự tiến bộ là chân thật nếu nó chỉ thuần vật chất, không có một nền tảng đạo đức và tâm linh. Trong khi khuyến khích sự tiến bộ vật chất, Phật giáo luôn luôn nhấn mạnh sự phát triển đạo đức và tâm linh để kiến tạo một xã hội hòa bình an lạc.
Ðức Phật rất quan tâm đến hạnh phúc của con người.
Ðức Phật không xét đời sống tách biệt với bối cảnh kinh tế và xã hội. Ngài nhìn đời toàn diện, trong tất cả mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị của nó. Đức Phật đề nghị muốn diệt tận gốc tội lỗi, cần phải cải thiện điều kiện kinh tế của con người. Bởi vậy Đức Phật thường dạy những cư sĩ tại gia tầm quan trọng của sự cải thiện hoàn cảnh kinh tế. Ðiều này không có nghĩa Ngài tán đồng sự tích trữ tài sản với sự tham lam ràng buộc, vì nó trái ngược với giáo lý Ngài, cũng không phải Ngài tán đồng bất cứ phương tiện sinh nhai nào.
Phật giảng bốn đức hạnh giúp cho một người thế tục được hạnh phúc đời sau:
1. Tín : phải tin tưởng vào những giá trị đạo đức, tinh thần, và tâm linh.
2. Giới : phải chừa bỏ sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối và uống rượu.
3. Thí : phải thực hành lòng trắc ẩn, bố thí, không bám víu, ôm giữ tài sản mình.
4. Tuệ: phải mở mang trí tuệ dẫn đến sự diệt khổ, chứng Niết-bàn.
Ðôi khi Phật còn đi vào những chi tiết về cách để dành tiền bạc và tiêu dùng, chẳng hạn như khi Ngài bảo thanh niên Sigàla rằng anh ta nên dùng 1/4 lợi tức vào sự tiêu pha hàng ngày, 1/2 lợi tức để đầu tư vào việc kinh doanh và để riêng 1/4 phòng khi nguy cấp.
Một hôm Phật bảo Cấp Cô độc, một thương gia danh tiếng, một trong những đệ tử tại gia thuần thành nhất của Ngài, rằng một cư sĩ sống đời thường nhật, có bốn thứ hạnh phúc:
1. Thụ hưởng sự bảo đảm về kinh tế hay tài sản đầy đủ, kiếm được bằng những phương tiện chính đáng
2. Tiêu dùng tài sản ấy một cách rộng rãi cho chính mình, cho gia đình, bà con, bè bạn và trong những việc công đức.
3. Không có nợ nần
4. Sống một đời trong sạch, không phạm những điều ác trong ý nghĩ, lời nói hay hành vi
Ở đây ta phải chú ý rằng trong bốn yếu tố đem lại hạnh phúc, có đến ba thuộc về kinh tế, và cuối cùng Phật còn nhắc cho thương gia ấy biết rằng hạnh phúc về kinh tế và vật chất thì "không đáng một phần mười sáu" của hạnh phúc tâm hồn phát sinh từ một đời sống không lỗi lầm và lương thiện.
Qua ví dụ kể trên, ta có thể thấy rằng đức Phật xem sự thoải mái về kinh tế là cần thiết cho hạnh phúc con người, nhưng Ngài không công nhận sự tiến bộ là chân thật nếu nó chỉ thuần vật chất, không có một nền tảng đạo đức và tâm linh. Trong khi khuyến khích sự tiến bộ vật chất, Phật giáo luôn luôn nhấn mạnh sự phát triển đạo đức và tâm linh để kiến tạo một xã hội hòa bình an lạc.
- Tập tin đính kèm
-
- 171_300_325_90.jpg (35.16 KiB) Đã xem 1664 lần
Được cảm ơn bởi: cloudstrife, lasen, TiT_TinhKhong_TiT