Đất Phật

Trao đổi về y học, võ thuật, văn hóa, phong tục, tín ngưỡng
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

4. Diệt đế là sự diệt khổ. Về mặt ý nghĩa thì Diệt đế và Niết Bàn là giống nhau. Niết Bàn là Pháp (Dhamma) dập tắt mọi phiền não, và như vậy cũng diệt tận khổ đau. Ðiều này được thực hiện bằng sự dập tắt nhân sanh khổ, tức Tập Ðế hay ba Ái. Trong sát-na Niết Bàn, hoàn toàn không có khổ, bởi vì ở đó năm uẩn đã bị dập tắt. Sự kiện này xảy ra ngắn ngủi trong một sát-na tâm gọi là Maggacitta (tâm đạo). Khi hành giả nhận rõ khổ bằng trí tuệ, hành giả tuệ tri rằng Ái chính là nhân, đồng thời tuệ tri luôn cái cần phải diệt là Ái. Khi nhân diệt, thời quả diệt.

Khi Ái đã hoàn toàn tận diệt, Niết Bàn tối hậu được đạt đến. Nếu hành giả không nhận ra Ái là tai họa, hành giả không thể nào chứng Niết Bàn và diệt khổ. Niết Bàn là "sự dập tắt những ngọn lửa tham, sân, si; là vô vi pháp; là mục đích tối hậu, cứu cánh của Ðạo Phật; là sự giải thoát, sự tận diệt của mọi khổ đau và phiền não" [1].

Ðặc tính của Niết Bàn là sự an lạc, tịch tịnh và thoát khỏi mọi phiền não (kilesa). Người thấy được Niết Bàn là lợi ích và đáng tầm cầu, cũng là người sẽ nhận ra cái khổ trong thế gian (năm uẩn). Nếu ai nghĩ thế gian là lạc, Niết Bàn hoàn toàn vô nghĩa đối với người ấy.

Không có tái sanh trong Niết Bàn, do đó không có sự chết ở đó. Niết Bàn không có Danh-Sắc hay năm uẩn; Danh-Sắc cũng không còn là đối tượng của sự minh sát. Niết Bàn không phải là một trú xứ, nhưng vẫn hiện hữu. Niết Bàn tựa như gió, bạn không thấy mà chỉ cảm nhận được nó nhờ tác dụng mát mẻ mà nó mang lại. Niết Bàn là đối tượng của một tâm đặc biệt gọi là Tâm Ðạo. Phàm phu còn đắm trong phiền não, do đó Niết Bàn không thể khởi lên nơi người ấy -- trừ phi họ áp dụng pháp hành Vipassanā có kết quả. Do vậy khi hành Vipassanā, tâm của hành giả trở nên thanh tịnh, tâm đó được gọi là maggacitta, có Niết Bàn làm đối tượng. Niết Bàn không phải là tâm, mà là đối tượng của tâm đạo (maggacitta) trên.

Người chứng được Niết Bàn sẽ tự mình biết -- không cần một vị đạo sư nói cho họ biết. Không ai có thể đạt đến Niết Bàn mà không thực hành vipassanā cho đến khi tuệ vipassanā trở thành tâm đạo (maggacitta) cả.

Niết Bàn là sự chấm dứt khổ, bạn không thể chứng ngộ Niết Bàn nếu không đi theo Con Ðường Bát Chánh. Có hai loại Niết Bàn:

- Hữu Dư Y Niết Bàn - Saupadisesanibbāna -- Niết Bàn được chứng đắc với ngũ uẩn còn tồn tại.

- Vô Dư Y Niết Bàn -- Anupadisesanibbāna -- sự chứng đắc Niết Bàn không còn dư tàn của phiền não và ngũ uẩn. Ðây là sự chấm dứt cả thân lẫn tâm của bậc không còn phiền não, thường được gọi là Bát Niết Bàn - parinibbāna.


http://www.thegioivohinh.com/diendan/sh ... hp?t=33502" target="_blank
Được cảm ơn bởi: hey, lasen
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

Tam Giới: Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới

Tam giới gồm Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới .

- Dục giới: nơi Tham Ái cai trị danh sắc (thân tâm) chúng sinh .
- Sắc giới: nơi thiền sinh còn dính mắc vào tứ đại: đất, nước, gió, lửa (tức "sắc").
- Vô sắc giới: nơi thiền sinh đã thoát khỏi "sắc" (đất, nước, gió, lửa), nhưng còn dính mắc vào "danh" hay còn gọi là "tâm" (tức "vô sắc") .

Con đường đi của Phật pháp là không còn luẩn quẩn trong Tam giới . Phật Pháp dạy chúng ta giải thoát khỏi Tam Giới, chứng ngộ Niết bàn .

- 5 tầng thiền Sắc giới còn nằm trong tứ đại .
- 4 tầng thiền Vô Sắc giới đã thoát khỏi tứ đại . Vì thế, khi các thiền sinh chứng các tầng thiền Vô Sắc không còn "thân" .
Được cảm ơn bởi: hey, lasen
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

Dục Giới

Cõi (Bhùmi) (*)

Tài liệu của Pháp Sư Giác Chánh

Giảng Sư: Tỳ Kheo Tuệ Siêu

Thế nào là Cõi ?

Cõi là nơi chúng sanh nương . Loài hữu tình ở Cõi có 3: 1) Cõi Dục Giới. 2) Cõi Sắc Giới. 3) Cõi Vô Sắc Giới.

(*) Chổ nương để sinh và trú gọi là Cõi (Bhavanti sattā cithāti: Bhūmi).

Cõi Dục Giới (Kàmàvacabhùmi) (*).

Thế nào là Cõi Dục Giới ?

Cõi Dục Giới là nơi chúng sanh phần lớn là hưởng cảnh ngũ dục (Sắc dục, Thinh dục, Hương dục, Vị dục và Xúc dục).

Cõi Dục Giới chia ra có 11:

1) Cõi Ðịa Ngục là cảnh giới bất hạnh, những chúng sanh ở trong cõi này hoàn toàn không có hạnh phúc.

2) Cõi Ngạ Quỷ là cảnh giới của những chúng sanh hằng chịu sự đói khát.

3) Cõi A Tu La là cảnh giới của những người Tâm tánh hung dữ.

4) Cõi Bàng Sanh là cảnh giới của những chúng sanh có thân hình đầu đuôi ngang nhau.

5) Cõi Nhân Loại là cảnh giới của loài người có trí tuệ thông minh được gọi bằng danh từ Manussàna.m có nghĩa:
- Giòng dõi hay những người phát xuất từ nhóm người Ðạo sĩ Manussàna.m tức theo truyền thuyết của Ấn Ðộ thời xa xưa xem vị Ðạo Sĩ Manussàna.m như là Thủy Tổ của loài người.

- Manussàna.m có nghĩa là loài chúng sanh thông minh có sự tiến hóa.

6) Cõi Tứ Thiên Vương là cảnh giới của Chủ Thiên dưới quyền chủ trị của 4 vị Thiên Vương.

7) Cõi Ðạo Lợi là cảnh giới của Chư Thiên có 33 vị Trời làm chủ nên cõi này còn được gọi là cõi Tam Thập tam Thiên; theo tục truyền thì thờiquá khứ có chàng thanh niên Magha hướng dẫn 32 vị thanh niên khác làm những công tác từ thiện, phục vụ cho người nên sau khi chết được sanh về cõi này.

8) Cõi Dạ Ma là cảnh giới của Chư Thiên được nhiều sự an vui tiêu diệt những sự khổ (thông thường).

9) Cõi Ðâu Suất là cảnh giới của các vị Trời thọ hưởng Quả phước nhất là Quả phước của Ba La Mật, các vị Bồ Tát trước khi thành Phật sanh lên đây để chờ cơ hội đầy đủ căn duyên liền tái sanh lần chót chứng Quả Phật Toàn Giác.

10) Cõi Hóa Lạc Thiên là cảnh giới của các vị Trời khi nào muốn hưởng Dục lạc thì tự hóa hiện ra mà dùng.

11) Cõi Tha Hóa Tự tại là cảnh giới của các vị Trời khi nào muốn hưởng năm món Dục Lạc thì có kẻ khác đem đến dâng. Cõi này là trú xứ của Ma Vương.
Được cảm ơn bởi: hey, lasen
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

Phước Bố Thí - Tỳ Khưu Hộ Pháp

"Phước thiện bố thí" chỉ có con người trong cõi Nam thiện bộ châu (trái đất chúng ta đang sống) có nhiều cơ hội thuận lợi để tạo nên phước thiện bố thí. Ngoài ra, còn các châu khác [Tây ngưu hoá châu, Bắc câu lưu châu, Ðông thắng thần châu] và 30 cõi khác [10 cõi dục giới, 16 cõi trời sắc giới, 4 cõi trời vô sắc giới] không có cơ hội thuận lợi tạo nên phước thiện bố thí như:

- Con người trong 3 châu khác [Tây ngưu hoá châu, Bắc câu lưu châu, Ðông thắng thần châu] đang hưởng quả báu an lạc phước thiện của mình, nên không có cơ hội thuận lợi tạo phước thiện bố thí.

- Chúng sinh trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh) đang chịu quả khổ do ác nghiệp của mình, nên cũng không có cơ hội thuận lợi tạo phước thiện bố thí.

- Chư thiên trong 6 cõi trời dục giới đang hưởng quả báu an lạc cõi trời do thiện nghiệp của mình đã tạo, nên cũng không có cơ hội thuận lợi tạo phước thiện bố thí. Chư thiên nào muốn tạo phước thiện bố thí, chư thiên ấy phải hiện xuống cõi người mới có cơ hội tạo phước thiện bố thí.

- Phạm thiên trong 16 cõi trời sắc giới và 4 cõi trời vô sắc giới đang hưởng quả báu an lạc trong bậc thiền sở đắc của mình, nên cũng không có cơ hội thuận lợi tạo phước thiện bố thí.
Được cảm ơn bởi: hey, lasen
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

* Cõi dục giới: có đủ sắc pháp (28 sắc) hay sắc pháp đều sinh đặng theo cõi dục giới dù là tứ sanh hay tam sanh tất cả hội đủ các sắc (sắc pháp).

Một vấn đề cần lưu ý là: nam giới không có sắc nữ tính, còn nữ tính thì không có sắc nam tính (bao gồm luôn các loài giống đực và giống cái,chỉ rõ ở đây là sắc tính tức giới tính từng loại chúng sanh). Điều lưu ý này là muốn nói về 28 sắc, tách ra ở phần sắc nam tính và sắc nữ tính, coi như hiểu xác vấn đề là mỗi chúng sanh thuộc về tính giới nào thì sử dụng sắc tính đó. Như vậy sẽ được hiểu mỗi nam hay nữ, giống đực hay giống cái có riêng 27 sắc (tạm nhận định).

* Cõi sắc giới:

- Cõi sắc giới hữu tưởng: có 23 sắc (đã trừ: tỷ, thiệt, thân, sắc tính (trạng thái nam nữ). Vì ở cõi này không còn phân biệt nam nữ, tức không có trạng thái nam hay trạng thái nữ (nên trừ sắc tính 2), và cũng không cần ngửi, nếm, xúc chạm chi (đụng)........Do nhân trước, khi đắc thiền không thích cách ngửi mùi, vị đụng chạm. Vì vậy cõi này chỉ sử dụng 23 sắc mà thôi.

- Cõi sắc giới vô tưởng: Sắc tái tục cõi vô tưởng, tức sự tái sinh ở cõi vô tưởng sắc giới toàn là hoá sinh (Opapatika). Do năng lực thiền (ngũ thiền) và lời nguyện "không tâm", nên không có sắc thanh triệt (sắc thần kinh). Vì thế vị này như búp bê.
Được cảm ơn bởi: hey, lasen
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

Ba giới, sáu đường

Trong đạo Phật, chúng ta thường nghe câu "Ba giới, sáu đường luân hồi" (tam giới, lục đạo luân hồi). Ðây là một cách diễn tả quan niệm về các hình thái hiện sinh của mọi loài luân hồi trong cõi Ta-bà (Samsāra, Sa-bà). Ba giới là Dục giới, Sắc giới, và Vô sắc giới. Sáu đường luân hồi là sáu loài chúng sinh:

1) chư thiên,
2) loài người,
3) loài a-tu-la,
4) loài ngạ quỷ,
5) loài thú vật,
6) loài đọa địa ngục.

Hai loài đầu tiên - chư thiên và loài người, được xem như là loài có nhiều phước báu, còn bốn loài kia chịu những cảnh đọa đày, đau đớn.

Riêng chư thiên gồm 26 loài (có sách liệt kê 27 hoặc 28 loài), ở trong ba cõi giới khác nhau: Dục giới, Sắc giới, và Vô sắc giới. Loài người và bốn loài đau khổ thì ở trong cõi Dục giới. Như vậy, tổng cộng là 31 loài, theo quan niệm của đạo Phật.

Nếu phân loại theo nguồn gốc phát sinh, cõi Ta bà chia làm chín địa giới (Cửu địa): Dục địa, bốn Sắc địa do đắc bốn tầng thiền-na hữu sắc (rūpa jhāna), và bốn Vô sắc địa do đắc bốn tầng thiền-na vô sắc (arūpa jhāna) .

Tất cả các loài trong cõi Ta-bà này, kể cả chư thiên, đều phải qua cảnh sinh, trụ, hoại, diệt, và cùng chịu tám loại khổ (bát khổ), dù rằng có thể có những cường độ và thời gian khác nhau. Đôi khi chúng ta thấy có cụm từ "tam đồ, bát khổ" dùng trong các kinh sách, trong đó, "tam đồ" đồng nghĩa với "tam giới" (dục giới, sắc giới, vô sắc giới). Tám loại khổ đó là:

1) Sinh khổ: khổ do sinh,
2) Lão khổ: khổ do già,
3) Bệnh khổ: khổ do bệnh,
4) Tử khổ: khổ do chết,
5) Ái biệt ly khổ: khổ do xa lìa những gì ta thích,
6) Oán tăng hội khổ: khổ do nối kết với gì ta không ưa thích,
7) Cầu bất đắc khổ: khổ do không được điều ta mong cầu,
8) Ngũ ấm xí thạnh khổ: khổ do hiện hữu năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức).

Sau đây là bảng liệt kê 31 loài trong cõi Ta-bà, từ cao xuống thấp:


--------------------------------------------------------------------------------

A. Vô sắc giới
(Formless World, Arūpa Loka)

31. Phi tưởng, phi phi tưởng thiên (Devas of Sphere of Neither-perception nor non-perception; Nevasaññā-nasaññā-yatanūpagā devā)
30. Vô sở hữu thiên (Devas of Sphere of No-thingness; Ākiñcañña-yatanūpagā devā)
29. Thức vô biên thiên (Devas of Sphere of Infinite Concsiousness; Viññānañca-yatanūpagā devā)
28. Không vô biên thiên (Devas of Sphere of Infinite Space; Ākāsānañca-yatanūpā devā)

B. Sắc giới
(World of Form, Rūpa Loka)

B1. Tứ thiền

27. Vô song thiên (Peerless devas; Akanitthā devā)
26. Thiện kiến thiên (Clear-sighted devas; Sudassī devā)
25. Thiện hiện thiên (Beautiful or Clearly Visible devas); Sudassā devā)
24. Thanh tịnh thiên (Untroubled devas; Atappā devā)
23. Vô đọa thiên (Devas not Falling Away; Avihā devā)
22. Vô tưởng thiên (Unconscious beings; Asaññā sattā)
21. Quảng quả thiên (Very Fruitful devas; Vehapphalā devā)

B2. Tam thiền

20. Biến tịnh thiên (Devas of Refulgent Glory; Subhakinnā devā)
19. Vô lượng tịnh thiên (Devas of Unbounded Glory; Appamānasubhā devā)
18. Thiểu tịnh thiên (Devas of Limited Glory; Parittasubhā devā)

B3. Nhị thiền

17. Quang minh thiên (Devas of Streaming Radiance; Ābhassarā devā)
16. Vô lượng quang thiên (Devas of Unbounded Radiance; Appamānabhā devā)
15. Thiểu quang thiên (Devas of Limited Radiance; Parittabhā devā)

B4. Sơ thiền

14. Ðại phạm thiên (Great Brahmas; Mahā Brahmā)
13. Phạm phụ thiên (Ministers of Brahmas; Brahma-Purohitā devā)
12. Phạm chúng thiên (Retinue of Brahma; Brahma-Parisajjā devā)

C. Dục giới
(World of Sense-Desires, Kama Loka)

11. Tha hóa tự tại thiên (Devas Wielding Power over Others' Creations; Paranimmita-vasavattī devā)
10. Hóa lạc thiên (Devas Delighting in Creation; Nimmānaratī devā)
09. Ðâu-suất thiên (Contented devas; Tusitā devā)
08. Dạ-ma thiên (Yama devas; Yāmā devā)
07. Ðao-lợi thiên (The Thirty-Three Gods; Tāvatiṁsa devā)
06. Tứ thiên vương thiên (Devas of the Four Great Kings; Catumahārājikā devā)
05. Loài người (Human beings; Manussā)
04. Loài a-tu-la (Titans; Asurā)
03. Loài ngạ quỷ (Hungry ghosts; Petā)
02. Loài thú vật (Animals; Tiracchānā)
01. Loài đọa địa ngục (Hells; Nirayā)


--------------------------------------------------------------------------------

Bảng liệt kê trên được dựa theo hai tài liệu: quyển "Đức Phật và Phật Pháp" của ngài Hòa thượng Narada (ông Phạm Kim Khánh dịch) và phần giới thiệu trong bản dịch Anh ngữ Trường Bộ Kinh của ông Maurice Walshe (The Long Discourses of the Buddha: A Translation of the Digha Nikaya). Theo đó, loài người chúng ta chỉ đứng hàng thứ 5, trên 4 loài khác là địa ngục, thú vật (súc sinh), ngạ quỷ và a-tu-la. Bốn loài sau cùng này thường được gọi là những chúng sinh trong đọa xứ hay khổ cảnh. A-tu-la là loài có nhiều quyền lực nhưng không hạnh phúc vì có tánh sân hận, thường hay gây chiến với các loài khác. Đôi khi có sách không đề cập đến loài a-tu-la, và như thế cõi Ta-bà chỉ có 5 đường thôi (ngũ đạo luân hồi).

Loài người ở trong một cảnh giới có hạnh phúc và đau khổ lẫn lộn. Chư vị Bồ Tát thường chọn tái sinh vào cảnh nầy, vì ở đây có nhiều hoàn cảnh thuận lợi để phục vụ và thực hành những Pháp cần thiết nhằm thành tựu Đạo Quả Phật. Kiếp cuối cùng của Bồ Tát luôn luôn ở cảnh người.

Chư thiên có mặt trong cả ba cõi giới. Có 6 loại chư thiên trong Dục giới (hạng số 6 đến 11 trong biểu đồ), trong đó kinh điển thường đề cập đến cõi trời Đao-lợi và Đâu-suất. Cõi trời Đao-lợi còn gọi là cõi trời Ba Mươi Ba vì ở đó có 33 vị trời mà ngài Đế-thích (Sakka) là thiên chủ. Chính ở nơi đây, theo truyền thuyết, Đức Phật giảng Vi Diệu Pháp trong 3 tháng hạ. Cõi trời Đâu-suất là nơi lưu ngụ của những vị Bồ Tát đã thực hành tròn đủ các Pháp cần thiết để đắc Quả Phật, chờ cơ hội thích nghi để tái sinh vào cảnh người lần cuối cùng. Ngài Bồ Tát Mettaya (Di Lạc), vị Phật tương lai, hiện đang ở cảnh trời nầy, chờ ngày tái sinh vào cảnh người để thành tựu Đạo Quả Phật. Theo truyền thuyết, hoàng hậu Maya (Ma-da, Tịnh Diệu), mẹ của ngài Bồ Tát Siddhattha (Sĩ-đạt-ta), sau khi chết, tái sinh vào cảnh trời Đâu-suất, và từ đó sang cung trời Đao-lợi nghe Đức Phật giảng Vi Diệu Pháp.

Trên Dục giới có Sắc giới (rūpa loka), cảnh giới các vị Phạm Thiên, những vị Trời đã từ bỏ tham dục và đang thọ hưởng hạnh phúc của thiền-na (jhāna). Có tất cả 16 cảnh (số 12 đến 27 trong biểu đồ), tương ứng với bốn tầng thiền-na hữu sắc (rūpa jhāna). Trong đó, 5 cảnh giới cao nhất (số 23 đến 27) thường được gọi chung là Vô Phiền Thiên (suddavasa) hay Tịnh Cư Thiên, cảnh giới hoàn toàn tinh khiết. Đây là cảnh giới tuyệt đối riêng biệt của các vị Bất lai (A-na-hàm, Anāgāmi). Chúng sinh ở trong một cảnh khác mà đắc quả Bất Lai thì tái sinh vào cảnh nầy. Tiếp tục tu tập, các vị ấy đắc quả A-la-hán và sống ở đó cho đến lúc hết tuổi thọ, nhập Đại Niết Bàn.

Cao nhất là Cõi Vô sắc giới (arūpa loka) gồm có 4 hạng chư thiên tương ứng với bốn tầng thiền-na vô sắc (arūpa jhāna).

*

Theo ngài Hòa thượng Narada trong quyển "Đức Phật và Phật Pháp", giáo pháp của Đức Phật không nhằm mục đích truyền bá một lý thuyết về vũ trụ. Dù những cảnh giới trên có thật hay không, điều ấy không ảnh hưởng gì đến giáo lý của Ngài. Không ai bị bắt buộc phải tin điều nào, nếu điều ấy không thích hợp với suy luận của mình. Nhưng chúng ta cũng không nên bác bỏ tất cả những gì mà lý trí hữu hạn của con người không thể thấu hiểu tường tận.
Được cảm ơn bởi: hey, lasen
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

Tam giới

Tam giới (zh. 三界, sa. triloka, traidhātuka, trayo dhātavaḥ, pi. tisso dhātuyo, bo. khams gsum ཁམས་གསུམ་), cũng được gọi là Tam hữu (zh. 三有), là ba cõi của Vòng sinh tử, là nơi mà loài Hữu tình tái sinh trong theo hướng Lục đạo (sa. gati). Khái niệm Tam giới này có thể hiểu là Vũ trụ quan của đạo Phật. Tam giới bao gồm:

1. Dục giới (欲 界; s, p: kāmaloka, kāmadhātu, bo. `dod khams འདོད་ཁམས་, `dod pa`i khams འདོད་པའི་ཁམས་), có Ái dục về giới tính và những ái dục khác.

Trong dục giới có những loại hữu tình sau:

Ngạ quỷ (zh. 餓鬼, sa. preta)
Địa ngục (zh. 地獄; naraka);
Loài người (人世, sa. nāra)
Súc sinh (畜生, sa. paśu)
A-tu-la (阿修羅; asura)
Sáu cõi Thiên ở cõi dục (lục dục thiên 六欲天):

Tứ thiên vương (zh. 四天王, sa. cāturmahārājika);
Đao lợi (忉利) hay Tam thập tam thiên (三十三天, sa. trayastriṃśa);
Dạ-ma (夜摩, sa. yāmadeva) hoặc Tu-dạ-ma thiên (須夜摩天, sa. suyāma);
Đâu-suất thiên (兜率天, sa. tuṣita);
Hoá lạc thiên (化樂天, sa. nirmāṇarati);
Tha hoá tự tại thiên (他化自在天, sa. paranirmitavaśavarti);

2. Sắc giới (zh. 色界, sa. rūpaloka, rūpadhātu, bo. gzugs khams གཟུགས་ཁམས་): các vị ở đây thuộc nam tính nhưng đã chấm dứt mọi dục tính, ăn uống, nhưng còn có khoái lạc. Đây là thế giới của các thiên nhân trong cõi Thiền (sa. dhyāna). Hành giả tu tập thiền định có thể tái sinh trong cõi sắc. Sắc giới gồm bốn cõi, mỗi cõi lại được chia làm nhiều cõi thiên khác nhau:

Sơ thiền thiên (zh. 初禪天) với ba cõi thiên sau:

Phạm thân thiên (zh. 梵身天, sa. brahmakāyika);
Phạm phụ thiên (zh. 梵輔天, sa. brahmapurohita);
Đại phạm thiên (大梵天, sa. mahābrahmā).
Có hệ thống ghi thêm cõi thiên thứ tư của Sơ thiền thiên là Phạm chúng thiên (zh. 梵眾天, sa. brahmaparśadya).

Nhị thiền thiên (二禪天) với ba cõi sau:

Thiểu quang thiên (少光天, sa. parīttābha);
Vô lượng quang thiên (無量光天, sa. apramāṇābha);
Cực quang tịnh thiên (極光淨天, sa. abhāsvara, cựu dịch là Quang âm thiên 光音天).

Tam thiền thiên (三禪天) bao gồm:

Thiểu tịnh thiên (少淨天, sa. parīttaśubha);
Vô lượng tịnh thiên (無量淨天, sa. apramāṇaśubha);
Biến tịnh thiên (遍淨天, sa. śubhakṛtsna).

Tứ thiền thiên (四禪天) gồm có:

Vô vân thiên (無雲天, sa. anabhraka);
Phúc sinh thiên (福生天, sa. puṇyaprasava);
Quảng quả thiên (廣果天, sa. bṛhatphala);
Vô tưởng thiên (無想天, sa. asāṃjñika);
Vô phiền thiên (無煩 天, sa. avṛha);
Vô nhiệt thiên (無熱 天, sa. atapa);
Thiện kiến thiên (善見天, sa. sudarśana);
Sắc cứu kính thiên (色究竟天, sa. akaniṣṭha);
Hoà âm thiên (和音天, sa. aghaniṣṭha);
Đại tự tại thiên (大自在天, sa. mahāmaheśvara).
Có sách xếp Vô tưởng thiên, Vô phiền thiên, Vô nhiệt thiên, Thiện kiến thiên, Sắc cứu kính thiên, Hoà âm thiên dưới tên Tịnh phạm thiên (淨梵天), không thuộc về Tứ thiền thiên.

3. Vô sắc giới (無色界, sa. arūpaloka, arūpadhātu, bo. gzugs med khams གཟུགས་མེད་ཁམས་, gzugs med kyi khams གཟུགས་མེད་ཀྱི་ཁམས་): thế giới này được tạo dựng thuần tuý bằng tâm thức và gồm Bốn xứ (sa. arūpasamādhi). Vô sắc giới gồm:

Không vô biên xứ (zh. 空無邊處, sa. ākāśanantyāyatana);
Thức vô biên xứ (zh. 識無邊處, sa. vijñānanantyāyatana);
Vô sở hữu xứ (zh. 無所有處, sa. ākiṃcanyāyatana);
Phi tưởng phi phi tưởng xứ (zh. 非想非非想處, sa. naivasaṃjñā-nāsaṃjñāyatana)
Được cảm ơn bởi: hey, lasen
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

Hỏi: Mục đích của người tu Phật lấy quả vị Niết Bàn làm chỗ cứu cánh. Vậy Niết Bàn là gì ?

-Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng), Vô sanh (không còn sanh diệt) và Giải thoát v.v... những nghĩa này nhằm chỉ cho người đạt đạo sống trong trạng thái tâm thể hoàn toàn vắng lặng, dứt hết vọng tưởng vô minh.

Do trình độ giác ngộ khác nhau nên trong kinh chia ra bốn thứ Niết Bàn:

1. Niết Bàn Hữu Dư Y: Niết Bàn đã dứt sạch phiền não vọng hoặc trong ba cõi, nhưng còn thân của nghiệp báo dư thừa.

2. Niết Bàn Vô Dư Y: Niết Bàn đã dứt sạch phiền não hữu lậu và không còn mang thân của nghiệp báo (dứt hết uẩn thân).

3. Niết Bàn Tự Tánh: Niết Bàn tự tánh sẵn có của chúng sanh, nó vốn sẵn có tánh Niết Bàn không phải tu tập mới có. Như mặt gương tánh vốn sạch không phải đợi lau chùi mới hiện.

4. Niết Bàn Vô Trụ Xứ: Niết Bàn không chỗ nơi. Các vị Bồ Tát khi giác ngộ, lao mình trong lục đạo giáo hóa chúng sanh, lấy sự sanh tử của chúng sanh làm cảnh giới. Tuy ra vào sanh tử nhưng lúc nào cũng tự tại vô ngại.

Hai thứ Niết Bàn trên là của hàng Nhị thừa, hai thứ Niết Bàn dưới chỉ riêng hàng Đại thừa mới có.

Hỏi:

- Làm sao thể nghiệm để biết có Niết Bàn ?


- Như trên chúng ta đã hiểu, căn cứ Tự Tánh Niết Bàn thì mỗi người chúng ta đều sẵn có thể tánh thanh tịnh sáng suốt tròn đầy, nhưng vì phiền não ngăn che mà không hiển lộ. Muốn tánh Niết Bàn hiển lộ là phải diệt trừ phiền não. Phiền não ở đây chính là sự mê lầm “chấp ngã”. Mê lầm chấp ngã hết, tức là Niết Bàn. Vậy thì hỏi khi nào có Niết Bàn? Chúng ta phải đáp: Khi nào tâm “chấp ngã” hết, hoặc tham, sân, si sạch chính khi ấy tức Niết Bàn, khỏi phải hỏi đâu xa.

Chúng ta hãy đọc một đoạn văn trích trong Tạng Kinh Pali của tác giả “Cái Ta Nguy Hiểm” Buddhahasa sau đây:

Trong câu Phật ngôn: “Nếu chư Tỳ Kheo hành theo Chánh hạnh thì cõi thế gian không vắng bóng các bậc A La Hán”. Chữ Chánh hạnh có ý nghĩa sâu xa quan trọng. Sống chánh hạnh ngụ ý sự vắng mặt của ý tưởng Ta và của Ta.

Chúng ta sống hết ngày này qua ngày khác, nhưng sống một cách không chân chánh, cho nên cái tà kiến “Ta” và “của Ta” mới sanh, và mỗi ngày nó vọt lên nhiều lần, khiến cho cái Niết Bàn viên mãn bị đứt đoạn, không có dịp tốt để xuất hiện, và vì thế chúng ta không thành bậc Vô sanh (A La Hán). Sống chánh hạnh là sinh hoạt đúng với Bát Chánh Đạo. Vậy điều cần yếu là ta phải dùng tri kiến chân chánh và hành động chân chánh sao cho “Cái ý niệm Ta” và “của Ta” không thể nổi dậy, ngõ hầu không có sự sanh. Khi không có sự sanh nào cả thì không có khổ nào cả và đó là chân hạnh phúc như lời đức Phật đã thuyết.

Đọc qua đoạn văn ngắn này, chúng ta thấy Phật dạy điều kiện muốn được Niết Bàn phải có Chánh hạnh (sinh hoạt đúng với Bát Chánh Đạo). Khi nào có Chánh hạnh thì khi ấy có Niết Bàn. Khi nào không có Chánh hạnh thì không có Niết Bàn. Vậy muốn đạt được Niết Bàn phải có Chánh hạnh, tức là không còn khởi dậy cái ý niệm “Ta” và “của Ta”. Một giây phút nào cái “Ta” và “của Ta” không khởi dậy trong tâm thức thì phút giây đó ta có Niết Bàn (Niết Bàn trong thời gian ngắn là Niết Bàn nhân, sống với Niết Bàn vĩnh viễn là viên mãn Niết Bàn). Vậy muốn kéo thời gian Niết Bàn của ta dài hay ngắn đều từ tâm thức có khởi vọng tưởng chấp ngã hay không chấp ngã mà thôi. Nếu sống được một phút không vọng tưởng là một phút Niết Bàn, sống được hai phút là hai phút Niết Bàn, sống một giờ, một ngày là được một giờ, một ngày Niết Bàn cho đến nếu sống trọn vẹn là được Niết Bàn viên mãn.

Trong Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn chép:

Có người hỏi:

- Làm sao được Đại Niết Bàn ?

Thiền Sư Huệ Hải đáp:

- Chẳng tạo nghiệp sanh tử.

Khi nào chẳng tạo nghiệp sanh tử tức là Niết Bàn, chứ không phải tìm Niết Bàn nơi nào khác và cũng không phải đợi thời gian nào mới đạt Niết Bàn. Vì vậy, đạt Niết Bàn sớm hay muộn, thời gian có Niết Bàn lâu hay mau đều tùy chúng ta cả.

Có một Cư sĩ đến hỏi Phật:

- Bạch đức Thế Tôn! Như Phật nói Niết Bàn hiện tại đến để mà thấy có thời gian chăng ?

Phật bảo:

- Như người ý vừa nghĩ “tham”, miệng nói lời tham, thân làm việc tham thì ngay đó ưu bi khổ não liền khởi.

- Như người ý vừa nghĩ “sân”, miệng nói lời sân, thân làm việc sân thì ưu bi khổ não ngay đó liền khởi.

- Như người ý vừa nghĩ “si”, miệng nói lời si, thân làm việc si thì ưu bi khổ não ngay đó liền khởi. Người nào nếu thân miệng ý dứt được tham, sân, si thì ưu bi khổ não không có. Chính ngay lúc đó là Niết Bàn hiện tại (Tương Ưng Bộ Kinh).

Hỏi:

- Khi đạt Niết Bàn rồi, còn có hay không còn có ?


- Vấn đề còn có hay không còn có đặt ra ở đây đã sai rồi. Để trả lời câu hỏi này, tôi xin dẫn lời hỏi của một vị Bà La Môn đến hỏi Phật (Tạp A Hàm): "Thưa Thế Tôn! Thế giới hữu biên, vô biên? Thế giới hữu thường, vô thường? Niết Bàn còn có hay không còn có?" ( Cả ba câu hỏi đức Phật đều im lặng không đáp. Tại sao Phật không đáp? Bởi người đời phần nhiều hễ nói không thì họ chấp hoàn toàn không, khi nói có thì chấp hoàn toàn có (chấp một chiều), vì vậy mà Phật không đáp. Nghĩa là nếu nói không thì họ chấp là không ngơ (ngoan không) như lông rùa, sừng thỏ; nói có thì chấp thường còn mãi mãi (vĩnh viễn không thay đổi), mà nghĩa có không ở đây “không cố định” không hẳn là có, không phải hoàn toàn không. Hơn nữa nghĩa Niết Bàn, nó ly khai nghĩa có và không. Tại sao? Vì nếu có thì phải có hình tướng chỗ nơi có thể chỉ được, nhưng Niết Bàn đâu có hình tướng và chỗ nơi. Nếu nói không, ai biết có chứng đắc Niết Bàn? Vì vậy không thể nói có hay không. Lấy một việc gần gũi làm thí dụ. Như khi ngồi thiền, tâm ta buông xả tất cả vọng niệm không còn một chút dấy động, tâm lặng lẽ thênh thang trùm khắp. Lúc bấy giờ, còn có gì hay không còn có gì? Nếu nói còn có gì tại sao không thấy tướng mạo? Nếu nói không còn gì thì cái gì tỉnh sáng biết là không? Vì nó không phải thật có và thật không nên nếu trả lời là “Có” là “Không” đều không đúng lẽ thật. Thế giới hữu thường vô thường, hữu biên vô biên cũng vậy, nó không phải thật có, thật không mà tùy duyên biến đổi. Vì thế nên Phật không trả lời.

Khi Phật còn tại thế có một vị Tỳ Kheo chứng A La Hán tịch, các Thầy Tỳ Kheo đến hỏi Phật: Thầy Tỳ Kheo tịch sanh về đâu ? ( Phật trả lời: “Như củi hết lửa tắt”. Nghĩa là còn duyên thì hiện, hết duyên thì ẩn, chớ không về đâu!

Nhân ngày kỵ Mã Tổ, Nam Tuyền hỏi chúng:

- Cúng trai Mã Tổ, vậy Mã Tổ có đến hay chăng ?

Cả chúng không đáp được. Động Sơn Lương Giới ra đáp: “Đợi có bạn liền đến”. Tức là đủ duyên liền đến.

Qua hai câu chuyện trên chúng ta hiểu nghĩa tùy duyên là như vậy.

Hỏi:

- Người đã trở về sống với Tự tánh Niết Bàn hằng ở trong thể tịch tịnh bất động hay còn gì nữa khác ?

- Thể của Tự tánh Niết Bàn tuy tịch mà thường chiếu, hằng vắng lặng mà vẫn chiếu soi. Vì thế chư Phật và các vị Bồ Tát khi thành đạo các Ngài có Tam thân (Pháp thân, Báo thân, Hóa thân), Tứ trí (Thành sở tác trí, Diệu quan sát trí, Bình đẳng tánh trí, Đại viên cảnh trí), Ngũ nhãn (Nhục nhãn, Thiên nhãn, Huệ nhãn, Pháp nhãn, Phật nhãn). Lục thông (Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông, Túc mạng thông, Thần túc thông, Lậu tận thông). Vô số diệu dụng thần biến v.v... giáo hóa muôn loài. Tuy hiện muôn loài nhưng tánh thể bất động.

Thế nên cảnh giới Hoa Nghiêm đã diễn tả nào là mây ánh sáng, tàn lọng ánh sáng, cho đến đồ ăn, đồ mặc, núi sông v.v... hết thảy đều trở thành ánh sáng cả. Chúng ta lấy làm lạ không biết ý kinh muốn nói gì không thể hiểu nổi, chẳng ngờ chính là để nói diệu dụng bất tư nghì của đức Phật sau khi đã đạt Niết Bàn. Nghĩa là sau khi đạt đến Niết Bàn thì đâu đâu cũng là cảnh giới bất tư nghì, chớ không phải đạt đến đó rồi không còn gì hết. Đó là điều chúng ta chớ lầm lẫn.
Được cảm ơn bởi: hey, lasen
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

Phật nói Kinh bần cùng Lão Công

Dịch giả: Thích Thiện Trì

(Bản chữ Hán của Sa môn Thích Huệ Giản)

Như thật tôi nghe, một thuở nọ Phật cùng 1.250 vị Tỳ Kheo vân tập ở vườn cây của Trưởng giả Cấp-Cô-Độc và Thái tử Kỳ-Đà (*) tại nước Xá Vệ. Bấy giờ có 10.000 vị Bồ Tát và Trời, Rồng, Quỷ, Thần, vô số Thính chúng đều cung kính tựu hội vòng quanh Phật, nghe Phật thuyết pháp, tất cả đều vui vẻ. Trong khi đó, có một Ông già bần cùng mà thọ đến hai trăm tuổi, lông mày dài đẹp, hai lỗ tai rộng lớn, răng trắng và đều đặn, hai tay dài quá gối, xem qua dung mạo tựa như người có phước tướng nhưng chịu phải cảnh nghèo khổ, quần áo không đủ để che thân, rách nát lõa lồ, lại thường bị cảnh đói khát, kéo lê từng bước, vừa đi vừa thở một cách mỏi mệt. Đã trải qua mười năm, ông nghe có Phật tại thế, trong lòng rất vui mừng, ngày đêm luôn luôn phát nguyện được gặp Phật. Ông chống gậy lần hồi tìm đến, cầu mong được yết kiến Ngài. Chẳng may vừa đến ngõ Tịnh Xá, ông lại gặp phải các vị Phạm Thiên, Đế Thích chận lại không cho vào. Uất ức, ông già mới kêu than:

“Tôi sanh ra đời bất hạnh! Chịu cảnh nghèo khổ khốn cùng, đói khát, lạnh lẽo. Cầu chết mà không chết được, sống mà không biết nhờ cậy ai! Tôi nghe Thế Tôn là một bậc nhân từ, thương yêu che chở khắp tất cả. Muôn loài đều được đượm nhuần ân đức của Ngài, bởi thế lòng tôi rất đỗi vui mừng. Đã mười năm qua, ngày đêm phát nguyện, cầu mong được gặp Phật. Nay mới được biết quả thật có Phật. Vì vậy, không sờn lòng, kéo lê chiếc thân già yếu từ xa xôi đến, tôi xin một điều duy nhất là được yết kiến Phật, cầu Ngài ban ân từ, cứu cho tôi được thoát khỏi cảnh thống khổ. Nhưng Quý Vị lại ngăn cấm không cho tôi vào. Thế là quý vị đã làm trái với bản ý của Phật. Đâu nên làm như vậy!”

Ở trong, Phật đã biết việc gì đang xảy ra giữa ông già và Phạm Thiên Đế Thích ở ngoài ngõ tịnh xá, Phật mới quay sang hỏi A-nan:

“Ông đã thấy ông già nào có phước tướng, kỳ lão trường thọ mà bị nhiều tội lỗi hay không?”

A-Nan quỳ thẳng, chấp tay bạch Phật:

“Làm sao có người kỳ lão trường thọ, có phước tướng, lại có nhiều tội lỗi? - Người có nhiều tội lỗi làm sao lại có phước tướng? Đời con chưa từng thấy người như thế. Người ấy hiện giờ ở đâu?”

Phật đáp: Ta thấy có một ông già như thế hiện ở ngoài ngõ, bị Phạm Thiên, Đế Thích ngăn chận không cho vào. Ông hãy ra bảo ông ấy vào.

Bấy giờ ông già lòm còm đi vào, vừa trông thấy Phật, ông rưng rưng hai hàng nước mắt, vừa mừng vừa khóc, cúi đầu sụp lạy đức Phật, rồi quỳ thẳng, chấp tay sụt sùi kính bạch: “Con sanh ra đời bất hạnh, chịu cảnh bần cùng khốn khổ, đói khát lạnh lẽo. Cầu chết mà chết không được, sống thì không biết nhờ cậy ai. Con nghe Thế Tôn là một bậc nhân từ yêu thương che chở khắp tất cả. Muôn vật đều được đượm nhuần ân đức của Thế Tôn. Tâm con vui sướng, đêm ngày phát nguyện, mong được một phen chiêm ngưỡng Tôn nhan từ mười năm qua, nay mới được kết quả như nguyện, nhưng vừa rồi con đến ở ngoài ngõ hồi lâu, không vào được. Muốn đi trở lui, nhưng khí lực đã yếu không kham nổi, tấn thối lưỡng nan không biết tính đường nào. Con chỉ sợ rằng bỏ mạng nơi đó, làm ô uế cửa Phật, càng thêm tội lỗi. May thay được đấng Thiên Tôn thương xót tiếp dẫn, nên con mới được vào đây. Được may mắn như thế nầy, dù bây giờ có chết con cũng không còn ân hận gì nữa. Con chỉ mong muốn mau dứt trừ hết tội lỗi, đời sau không còn phải chịu cảnh thống khổ. Nguyện Phật giũ lòng từ, ban cho con Phật huệ!”

Phật dạy: “Phàm làm người thọ sanh ra cõi đời, sanh tử đều do nhơn duyên. Do nhiều nhơn duyên tạo ra gốc rễ tội lỗi. Ta sẽ nói cho ông rõ nguồn gốc của tội lỗi mà ngày nay ông đã gánh chịu: Đời trước ông sanh vào nhà Minh Huệ Vương, là một ông Vua cai trị một đại cường quốc. Khi đó ông là Thái tử Kiêu Quí. Trên được Phụ Vương và Mẫu Hậu quí trọng, dưới được thần dân kính phụng. Vì thế nên ông hết sức kiêu căng, tự cao, tự đại, tâm ý buông lung, khinh ngạo mọi người, xem thường tất cả. Giàu có cự phú, tài sản muôn ức, đều là chiếm đoạt của dân. Trăm họ nghèo cùng bởi vì thuế khóa thu hết. Ông chỉ biết gom góp, chứ không biết bố thí. Bấy giờ có một vị Sa môn tên là Tịnh Chí từ xứ xa đi đến. Vì thiếu một cái pháp y, nên tìm đến ông, mong ông bố thí một cái mà thôi, chứ không mong cầu gì nhiều. Nhưng ông tuyệt nhiên không cho, lại còn đối xử một cách quá tệ ác, đã không cho pháp y, lại cũng không cho ăn. Ông bắt vị Sa môn vô tội ngồi mãi trước nhà, muốn đi ông vẫn không cho. Qua bảy ngày đêm không thí cho một hớp nước. Thân thể đã ngất xỉu, hơi thở thoi thóp, tánh mạng sắp nguy kịch. Coi đó như một trò vui, cho tập trung nhiều người đến xem, ông lấy làm vui thích lắm! Lúc ấy có vị cận thần khuyên can ông rằng: “Thái tử chớ nên làm như vậy. Đây là một Sa môn hiền từ, khiêm tốn, bên trong mang cả tinh thần đạo đức. Sự lạnh lẽo bên ngoài, đối với con người ấy không có gì đáng gọi là lạnh lẽo, và sự đói khát cũng không đáng là đói khát. Sở dĩ đến đây xin là muốn gây phước đức cho kẻ khác thế thôi. Thái tử đã không bố thí cho thì thôi, đừng nên gây cùng bức cho người ta. Tốt hơn là Thái tử trả tự do cho vị Sa môn này đi. Đừng nên gây thêm điều gì tội lỗi!”

Thái tử đáp rằng: “Đây là người gì mà giả xưng là đạo đức. Ta cho chịu khốn khổ thử chơi, chứ ai để cho chết làm gì? Khanh đừng lo. Thôi khanh thả cho ông đi.” Đoạn thả vị Sa môn đi ra khỏi thành. Vị Sa môn đi cách thành khoảng mười dặm, lại gặp phải bọn giặc cướp bị đói lâu ngày muốn bắt vị Sa môn giết ăn thịt. Vị Sa môn nói rằng: “Tôi là Sa môn nghèo khổ lạnh lẽo, thân thể ốm yếu, chỉ còn da bọc xương, thịt lại hôi tanh, ăn chẳng được nào. Các ông có giết tôi cũng chỉ thêm khổ công chớ không dùng được.”

Bọn giặc đối đáp rằng: “Bọn tui đã bị đói lâu ngày, chỉ ăn cây đất. Ông tuy ốm nhưng vẫn là thịt. Không thể nào thả ông đi được. Chỉ có cách là ông phải hy sinh.” Hai bên nói tới nói lui, phân vân hồi lâu. Tình cờ có Thái tử đi đến, thấy sự kiện như thế, tự nhủ rằng: “Ta đã không cho cơm áo vị Sa môn ấy thì thôi, chớ đâu lại nỡ để cho bọn giặc đói giết hại! Ta phải cứu người.”

Bọn giặc đói thấy Thái tử can thiệp, nên cả bọn đều sụp lạy xin tha tội và thả vị Sa môn đi.

Vị Sa môn lúc đó nay là Bồ Tát Di Lặc đây, Thái tử Kiêu Quí lúc đó, nay là ông đây. Sở dĩ nay ông chịu phải tội bần cùng khốn khổ là do đời trước tham lam bỏn xẻn. Lý do nay ông được trường thọ là bởi cứu mạng sống vị Sa môn. Tội phước báo ứng như bóng theo hình, như vang ứng tiếng!

Ông già bạch Phật: “Việc quá khứ đã rõ ràng như vậy. Con xin nguyện được giũ sạch từ đây mà nguyện đem mạng sống thừa này được làm Sa môn, về sau đời đời thường được hầu bên Phật.”

Phật dạy: “Hay thay! Hay thay!”

Liền khi đó, râu tóc ông già rụng hết, pháp y tự nhiên được đắp lên thân. Thân thể, trí lực trở nên mạnh mẽ tráng kiện, tai mắt thông sáng, ông liền được trí tuệ cao thượng, nhập pháp môn chánh định.

Bấy giờ Thế Tôn nói lại kệ rằng:

Ngươi xưa là Thái tử

Kiêu Quí tự buông lung,

Không biết điều nhân nghĩa.

Ỷ con đại quốc vương

Tự bảo không tội phước

Tưởng được thế mãi mãi

Không hiểu lẽ sanh tử

Ngày nay chịu họa này

Tạo tội lại may phước

Nên được gặp lại Như Lai

Thoát khỏi những tội xưa

Nương thân vào pháp môn

Xa lìa tâm xan tham

Thường được căn trí tuệ

Đời đời hầu bên Phật

Sống lâu muôn vạn kiếp.

Ông già đó đã trở thành một vị Tỳ kheo, nghe Kinh và hoan hỷ lạy Phật
Được cảm ơn bởi: lasen
Đầu trang

ngockhanhbg
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1118
Tham gia: 11:46, 06/02/10
Đến từ: Việt Nam

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi ngockhanhbg »

Đánh dấu để tiện theo dõi, đọc và suy ngẫm
Đầu trang

Trả lời bài viết